Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận - Bồ Tát Di Lặc

Để giữ gìn sự trang nghiêm, thuần túy tạo nguồn tư liệu; nơi đây chỉ đăng Kinh Văn mà không thảo luận.

Điều hành viên: thử nghiệm global, Thanh Tịnh Lưu Ly

Hình đại diện của người dùng
ThegianVothuong
Bài viết: 403
Ngày: 08/05/12 02:13
Giới tính: Nam
Đến từ: Vô minh

Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận - Bồ Tát Di Lặc

Bài viết chưa xem gửi bởi ThegianVothuong »

Hình ảnh
Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận
Mahàyànasùtralamkàra

13 quyển
Do Vô Trước (Asanga) viết
Do Ba la Pha Mật Đa La (Prabhakaramitra) dịch
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1604
Nguồn: Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh http://daitangvietnam.com/daitangkinh.htm



Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận(Mahàyànasùtralamkàra) đã đã được truyền dạy cho ngài Vô Trước bởi Bồ tát Di-Lặc, và được coi là nền tảng trong bộ "Di-Lặc Ngũ luận"(Five Treatises of Maitreya).

Luận này bao gồm những câu kệ của Di Lặc (Maitreya) và những lời chú giải của Vô Trước. Nội dung trình bày những giáo nghĩa Đại Thừa vừa là giáo lý thượng đẳng vừa là thích hợp nhất để cứu độ chúng sanh. Trên quan điểm đó, luận này mô tả chi tiết về những đường lối tu hành của các vị Bồ Tát.

Bản dịch Hán văn nói rằng kinh này do Vô Trước viết, nhưng sự thật có thể những lời chú giải cho những câu kệ của Di Lặc là do Thế Thân (Vasubandhu) viết căn cứ vào những lời giảng bằng miệng của Vô Trước – là anh của Thế Thân
.
........................................................................................
Phẩm 1 : Duyên khởi
Kệ nói:
Nghia trí tạo các nghĩa,
Ngôn cú đều vô cấu.
Cứu tế chúng sinh khổ,
Vì từ bi là tính,
Khéo nói pháp phương tiện,
Đó là tối thượng thừa.
Vì người phát đại tâm,
Lược bày tỏ năm nghĩa.
Giải thích:

Nói Luận trang nghiêm kinh điển Đại Thừa thì ai có thể trang nghiêm ? Ðáp: nghĩa trí có thê trang nghiêm. Hỏi : Nghĩa trí làm sao trang nghiêm? Đáp : Khai mở các nghĩa. Hỏi : Lấy gì khai mở ? Đáp : Dùng ngôn và cú, tức lời và câu. Hỏi : Dùng những lời như thể nào và những câu như thể nào ? Đáp : Dùng những lời không sản bẩn, Câu không cáu bẩn. Lời không cáu bần, là lời nói có thê dẫn dắt đến thành Niết-bàn. Câu không cảu bẩn, là chữ và câu phù hợp. Nếu lìa bỏ lời nói câu Văn không cáu bẩn thì không thể khai hiểu Các nghĩa. Hỏi: Dùng nghĩa gì gọi là trang nghiêm ? Ðáp : Cứu tế chúng sinh. Hỏi : Chúng Sinh tự khổ, nhân gì mà cứu tế ? Đáp : Vì thể của Bồ-tát là đại bi phát sinh lòng yêu thương. Hỏi : Nếu cứu khổ chúng sinh thì trang nghiêm pháp gì ? Ðáp : Trang nghiêm Pháp Như Lai khéo nói phương tiện. Hỏi : Những gì là pháp phương tiện ? Ðáp : Ðó là tối thượng thừa. Hỏi : Vì ai mà trang nghiêm ? Ðáp : Vi người phát tâm Ðại thừa. Hỏi : Dùng bao nhiều nghĩa trang nghiêm ? Đáp : Lược dùng 5 nghĩa trình bày. Hỏi : Năm nghĩa đó là gì?

Kệ nói:
Như vàng làm đồ dùng,
Như hoa nở đúng độ,
Như thức ăn mĩ vị,
Như hiểu rõ chữ nghia,
Như mở hộp châu báu,
Thì đều được hoan hỷ.
Pháp 5 nghĩa trang nghiêm,
Hoan hỷ cũng như vậy.
Giải thích:

Năm thí dụ trong đây ví cho 5 nghĩa trang nghiêm. Theo tuần tự đó có thể khiển người phát tâm Đại thừa tin tưởng hướng về, dạy dỗ, tư duy, tu tập và chúng đắc. Hỏi : Nghĩa ấy như thể nào ? Đáp : Thí dụ vàng làm thành đồ vật. là khiến tin tưởng mà Chuyển hướng tâm kia. Thí dụ hoa nở, là khiển tiếp nhận sự dạy dỗ khai thị. Thí dụ thức ăn mỹ vị, là khiển tư duy được pháp vị. Thí dụ hiểu rõ Văn tự, là khiến tu tập không Suy nghĩ gì khác. Thí dụ mờ nắp hộp Châu báu, là khiến chứng đắc Pháp báo Bồ-đề phần, tự giác chứng đắc. Do 5 nghĩa này phân biệt Ðại thừa. có thể khiển người ấy được Sinh vui mừng yêu thích. Hỏi : Nếu tự tính Pháp ấy đầy đủ Công đức thì còn cần nghĩa gì trang nghiêm nữa?

Ðể đáp câu hòi này,

Kệ nói:
Như trang điểm sắc đẹp,
Soi gương sinh vui mừng.
Diệu pháp trang nghiêm mình,
Được vui mừng hơn hết.
Giải thích :

Ví dụ như người gia Công trang điểm trước gương Sinh vui mừng. Bời vì Sao ? Vì có sự Sung Sướng. Bồ-tát cũng vậy. nghĩa của trang nghiêm diệu pháp nhập vào tự tâm thì Sinh vui mừng khôn xiết. Bới vì sao ? Vì có câu hỏi hỏi pháp ấy' có công đức gì phải trang nghiêm bắt ngừời ta Cung kính tín thụ ư?

Kệ nói:
Ví như uống thuốc đắng,
Bệnh lành thì liền vui.
Ở nơi văn giải nghĩa,
Khổ vui cũng như vậy.
Ví như thờ vua khó,
Thờ vua được uy lực.
Cung vậy nghĩa khó giải,
Nhờ giải, được pháp tài.
Ví như thấy vật báu,
Không biết thì không thích,
Nghe diệu pháp cũng vậy,
Không hiểu không vui mừng.
Giải thích:

Ba kệ này tuần lự hiển thị 3 Công đức của diệu pháp : 1. Hiển thị công đức đoạn chướng nhân. 2. Hiển thị công đức tự tại nhân. 3. Hiển thị công đức diệu hỷ nhân.

Hòi nghĩa này như thể nào ? Ðáp : Như uống thuốc đắng, lúc đầu đắng vì khó uống. Sau vui vì bệnh lành. Pháp này cũng vậy. Trụ trước nơi Văn thì khố vì khó đạt được lý, khi rõ nghĩa thì vui vì phá được bệnh Chướng. Như việc thờ vua, ban đầu khố vì khó được ý vua. Sau vui vì được cho quyền lưc. Pháp này cũng vậy. khi tư duy thì khó vì sâu xa khó hiểu, tư duy đạt được thì vui. Vì được Thánh tài dài lâu. Như thấy vật bắu chưa chế luyện, khi chưa biết thì không ưa thích cho là vô dụng, khi biết rồi thì rất quý trọng vì biết là hữu dụng. Pháp này cũng vậy, khi tu hành thì không Vui, cho là trống trơn vô dụng, khi tu đạt được thì rất vui mừng vì biết có Công dụng lớn.


Xong phẩm Duyên Khởi.


Om Amitabha Hrih
Om Mani Padme Hum
Hình đại diện của người dùng
ThegianVothuong
Bài viết: 403
Ngày: 08/05/12 02:13
Giới tính: Nam
Đến từ: Vô minh

Re: Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận - Bồ Tát Di Lặc

Bài viết chưa xem gửi bởi ThegianVothuong »

Phẩm 2:Thành Tông
Giải thích :

Có người nghi Đại thừa không phải Phật nói, làm sao có được công đức này? Nay tôi quyết phá lưới nghi kia.Thành lập Ðại thừa chính là Phật nói.

Kệ nói:
Không ký cũng đồng hành,
Không hành cũng thành tựu.
Thể, phi thể, năng trị,
Văn khác, 8 nhân thành.
Giải thích :

Thành lập Đại thừa, Sơ lược có 8 nhân 1. Không ký. 2. Đồng hành. 3. Không hành. 4. Thành tựu. 5. Thể. 6. Chẳng phải thể. 7. Năng trị. 8. Văn khác.

1. Không ký(tiên đoán), nghĩa là giáo pháp đã diệt tận chính là lúc Phật Sau ra đời. Nếu Đại thừa không phải chính pháp, thì vì sao ban đầu Thể Tôn không ký? Ví như vị lai có Thể Tôn khác sẽ được ký liền. Ðây không ký cho nên biết là Phật nói.

2. Đồng hành, nghĩa là Thanh Văn thừa với Ðại thừa chẳng phải trước,chẳng phải sau mà đồng hành cũng lúc. Ông làm Sao biết được riêng Đại thừa này chằng phải Phật nói ?

3. Không hành, nghĩa là Đại thừa sâu rộng, chằng phải suy nghĩ ước đạc Con người có thể tin được, huống chỉ là có thể làm ra bởi các luận (của) ngoại đạo. Thứ đó là không thể có được, nên nói là không làm. Do chúng không làm nên là Phật nói.

4. Thành tựu, nghĩa là nếu ông nói những người khác chứng đắc Bồ-đề nói có Ðại thừa,chứ không phải đức Phật hiện nay nói Đại thừa. Nếu chấp như vậy tức trở lại thành nghĩa của tôi. Những người kia chứng Bồ-để nói, tức như vậy là Phật nói.

5.Thể, nghĩa là nếu ông nói các đức Phật khác có cái thể của Đại thừa ; Phật này không có thể của Ðại thừa. Nếu Chấp như vậy thì cũng trở lại thành nghĩa của tôi, vì Đại thừa không có Cái thể nào khác mà chỉ có một.

6. Chẳng phải thể, nghĩa là nếu ông nói Phật này không có thể của Ðại thừa, thì Thanh Văn thừa cũng không có thể. Nếu ông nói Thanh Văn thừa là Phật nói nên có thể, Ðại thừa không phải Phật nói nên không có thể. Nếu Chấp như thể là có lỗi lớn. Nếu không Phật thừa mà có Phật xuất thể nói Thanh Văn thừa, thế là không đúng lý.

7. Năng trị, nghĩa là do y vào Pháp này tu hành được trí vô phân biệt. Do trí vô phân biệt có thể phả Các phiền não, do nhân này nên không được nói là không Đại thừa.

8. Văn khác, nghĩa là Ðại thừa rất sâu không như Văn nghĩa hình thường, không nên một mực hoàn toàn theo Văn lấy nghĩa mà nói là không phải lời Phật nói. Lại nữa, nếu ông nói ban đầu không ký, là do tâm vô Công dụng Phật xả bỏ. Chấp như thể là không đúng nghĩa.

Kệ nói :
Chư Phật 3 nhân duyên,
Hiện thấy, cũng hộ pháp.
Trí Như Lai vô ngại,
Xả bỏ là không đúng.
Giải thích :

Nếu nói Ðại thừa chẳng phải Phật nói, đó là chướng lớn. Chư Phật có 3 nhân duyên vì sao không ký ?

1. Trí vô Công dụng hằng khởi là mắt hằng thấy.
2. Hằng tác chính Cân thủ hộ chính pháp.
3. Trí lực Như Lai không chướng ngại.

Do 3 nhân này mà ông nói xá bỏ không ký, là không đúng đạo lý. Lại nữa, nếu ông nói Thanh Văn thừa là có thể, tin Thanh Văn thừa là thể của Đại thừa. Bới vì sao ? Tức vì dùng thừa này được Ðại Bồ-đề. Nếu Chấp như vậy là không đúng nghĩa.

Kệ nói :
Chẳng toàn, chẳng không trái,
Chẳng hành, chẳng dạy dỗ.
Cho nên Thanh Van thừa,
Tức chẳng phải Đại thừa.
Giải thích :

Có 4 nhân duyên không lấy Thanh Văn thừa làm thể của Đại thừa vì chẳng toàn, chẳng không trái. Chẳng hành, chẳng giáo thụ.

1.Chẳng toàn, là Thanh Văn thừa không có dạy dỗ lợi tha. Chỉ vì tự chán lìa dục giải thoát mà dạy dỗ.

2.Chẳng không trái, nghĩa là nói Thanh Văn thừa dùng phương tiện chính mình mà dạy dỗ người khác. tức là dạy dỗ lợi tha là không đúng nghĩa. Bởi vì sao ? Tuy dùng tư lợi lãn] an ổn khác. nhưng kia cũng tự cầu Niết-bàn mà cần hành phương tiện, nên không thể lấy đó đắc Đại Bồ-đề.

3.Chẳng hành, nghĩa là nếu ông nói nếu thực hành lâu hạnh Thanh Văn thừa sẽ được quả Đại Bồ-đề thì không phải nghĩa như vậy. Vì chẳng phải phương tiện. Thanh Văn thừa chẳng phải Ðại Bồ-đề. Phương tiện không thể thực hành lâu, chằng phải phương tiện mới có thể được quả Đại thừa. Ví như vắt sừng lấy sữa là không thể có được.

4.Chẳng dạy dỗ, nghĩa là như Ðại thừa thì dạy dỗ, Thanh Văn thừa thì không. Cho nên Thanh Văn thừa không được tức là Đại thừa. Lại nữa,làm rõ thêm nghĩa mâu thuẫn cho ông thấy.

Kệ nói :
Phát tâm và dạy dỗ,
Phương tiện và trụ giữ .
Thời tiết hạ thượng thừa,
Nam việc khác tất cả.
Giải thích : Thanh Văn thừa và Ðại thừa có 5 thứ khác nhau : 1. Phát tâm kháç. 2. Dạy dỗ khác. 3. Phương tiện khác. 4. Trụ trì khác. 5. Thời tiêt khác.
Thanh Văn thừa phát tâm dạy dỗ, hoặc Siêng năng làm phương tiện đều Vì tự mình được Niết-bàn nên trụ trì cũng ít, tích tụ phúc đức cũng nhỏ, thời tiết cũng ít, cho đến 3 đời được giải thoát.

Đại thùa không như vậy, phát tâm dạy dỗ, cần hành phương tiện đều vì lợi tha nên trụ trì cũng nhiều, tích tụ phúc đức cũng lớn, thời tiêt cũng nhiều. Vì trải qua 3 Ðại kiêp A-tăng-kì.

Ðó là tất cả chỗ khác nhau. Cho nên không nên lấy việc thực hành Tiêu thừa mà được quả Đại thừa.

Lại nửa, nếu ông nói lời Phật nói có 3 tướng :1. Nhập Tu-đa-la. 2. Hiển thị Tì-ni. 3. Không trái pháp không. Ông lây tất cả là không tự tính mà dạy dỗ, như vậy trái với 3 tướng này nên không phải Phật nói. Nếu chấp như vậy là không đúng nghĩa.

Kệ nói :
Nhập tự Đại thừa kinh,
Hiện tự phiền não diệt.
Nghia rộng lớn rất sâu,
Không trái tự pháp không.
Giải thích :

Nay Ðại thừa này cũng không trái 3 tướng vì nhập tự Ðại thừa hiện tự phiền não Tì-ni đo Bồ-tát lấy phân biệt làm phiền não, nên rộng lớn rất sâu, tức là pháp không của Bồ tát không trái với không này nên được Ðại Bồ-đề. Cho nên thừa này không trái với 3 tướng. Lại nũa trước nói không hành, nay tôi lại hiển thị nghĩa này cho ông tin nhân.

Kệ nói :
Có y và bất định,
Duyên tục cũng không khắp.
Người thoái khuất suy xét,
Đâu hiểu nghĩa Đại thừa.
Giải thích :

Do có 5 nhân, người suy xét kia không thể nhập cảnh giới Ðại thừa vì trí của họ có chỗ dựa, vì bất định, vì duyên tục, vì không phố biến, vì thoái khuất.

1.Nói kia có chỗ dựa, là trí dựa vào giáo sinh, không phải là trí chứng.
2.Nói bất định, là có lúc có trí khác sinh.
3.Nói duyên tục, là suy xét thể để không tới được đệ nhất nghĩa để.
4.Nói không phổ biến, là tuy duyên thể để chỉ hiểu được ít, không hiếu tất cả.
5.Nói thoái khuất là tranh luận biện luận cùng đường thì lặng thinh. Người Ðại thừa thì không chỗ dựa cho đến cuối cùng không thoái khuất. Không thoái khuất là trong vô lượng kinh có trăm ngàn kệ nói pháp Ðại thùa, do được pháp này mà tài biện luận vô tận, cho nên Ðại thừa không phải là cảnh giới suy tư lượng đạc của người bình thường.

Hòi : Ông nói Thanh Văn thừa không phải phương tiện Bồ-đề của Phật, nếu vậy là ai ?

Kệ nói :
Rộng lớn và rất sâu,
Thành thục không phân biệt.
Nói 2 phương tiện này,
Tức là vô thượng thừa.
Giải thích :

Rộng lớn, nghĩa là Các thần thông do hết sức cần hành phương tiện khiển người khác tin hiểu. Rất Sâu, nghĩa là trí vô phân biệt do khó thực hành nên theo tuần tự :

1. Vì thành thục Chúng Sinh.
2. Vì thành thục Phật pháp. Tức nói 2 pháp này là phương tiện vô thượng Bồ-đề. Hai phương tiện này tức là thể của vô thượng thừa.

Hỏi : Nếu vậy có người trong đó sợ hãi thì tội lỗi như thể nào ?

Kệ nói :
Không đáng sợ mà sợ,
Do sợ bị thiêu đốt.
Sợ đưa đến không phúc,
Tội lỗi khởi dài lâu.
Giải thích :

Nếu người ở chỗ không phải sợ hãi vọng sinh sợ hãi, người này liền đọa vào ác đạo Cực nóng bị thiêu đốt. Bởi Vì Sao ? Do sự sợ hãi này dẫn đến sinh nhiều điều không phúc to lớn. Do tội này có thể khiến người trải vô lượng kiếp chịu đại nhiệt não.

Hỏi : Người kia do nhân gì sinh sợ hãi ?

Kệ nói:
Phi tính, phi pháp bạn,
Ít tuệ, ít sức nhân,
Sợ pháp thâm diệu này,
Thoái mất Đại Bồ-đề.
Giải thích :

Nếu người sinh sự hãi là do 4 nhân duyên :

1. Phi Chúng tính, vì lìa Bồ-tát tính.
2. Phi pháp bạn, vì lìa thiện tri thức.
3. Ít tuệ lực. vì chưa hiểu Đại thừa pháp không.
4. Ít sức nhân, vì đời trước không trồng các tư tính thiện Căn Ba-la-mật.

Do nhân duyên này đổi với pháp thậm thâm vi diệu sinh tưởng sợ hãi.Do tưởng sợ hãi này nên đối với 2 nhóm phúc trí Ðại Bồ-đề phải được thì không được. Đó gọi là thoái. Nay ông nên biết, tội lỗi thoái thất này hết sức Sâu nặng.

Đã nói xong tội lỗi của sợ và nhân của sợ. Tiếp đến nói về không nên nhân sợ hãi.

Kệ nói :
Không khác, tức đều không,
Có khác, tức nơi hiểm.
Không ví, nói nhiều thứ,
Liên tục nói nhiều môn.
Không phải như văn nghĩa,
Thể chư Phật rất sâu.
Người thông tuệ, chính quán,
Phải biết không nên sợ.
Giải thích :

1.Không khác, tức đều không, nghĩa là nếu ông nói Thanh Văn thừa tức Đại thừa, không khác thể Đại thừa, nều như vậy thì Thanh Văn,Bích-Chi-phật thừa là không có thể. Bới vì sao ? Do đắc Phật, nên như vậy tắt cả đểu là Phật thừa, thì Vì cớ gì sự hãi ?

2.Có khác, tức nơi hiểm, nghĩa là nếu ông chấp nhận có khác với thể của Ðại thừa, thể này tức đạo nhất thiết trí, là nơi hiểm bậc nhất. Do khó vượt qua nên phải tin, thì vì cớ gì sợ hãi ?

3.Không ví, nghĩa là trong một lúc không có 2 Ðại thừa cùng xuất hiện có thể đem sánh ví, vậy cớ gì sợ một không sợ hai ?

4.Nói nhiều thứ, nghĩa là nay Ðại thừa này không phải chỉ nói không. cũng nói đại phúc tụ. nên phải hiểu ý này, vậy cớ gì chỉ sợ không ?

5.Liên tục nói, nghĩa là trong tất cả mọi lúc quyết định liên tục nói không, không phải ông mới nghe, vậy cớ gì sợ ?

6.Nói nhiều môn, nghĩa là trong các kinh có nhiều môn nhiều thuyết khác nhau đại khái làm rõ cái dụng. Phá các phân biệt được trí vô phân biệt. Nếu nói khác đây không có đại dụng, nghĩa là Như Lai chi nên nói không, không nói như pháp tính, thật tế V.v... Đã nói có nhiều môn, vậy cớ gì chỉ sợ không ?

7.Chẳng phải như Văn nghĩa, nghĩa là Đại thừa rất sâu, không phải như văn nghĩa, vậy cớ gì theo văn lấy nghĩa mà sợ không ?

8.Thể Chư Phật rắt sâu, nghĩa là Phật tính rất sâu, cuối cùng khó biết nên cầu hiểu rõ, vậy cớ gì sợ ?

Do Các nhân duyên như vậy, người thông tuệ chính quán không nên sợ hãi đối với Đại thừa.

Đã nói xong lý do không nên sợ hãi. Tiếp đến nói khả năng thực hành pháp trí này.

Kệ nói :
Tuần tự văn tư tu,
Đắc pháp và đắc tuệ.
Trí này hành pháp này,
Chưa đắc chớ hủy bỏ.
Giải thích :

Nếu người ban đầu dựa vào thiện tri thức có thể khởi chính văn. Tiếp đến đối với nghĩa đúng có thể khởi nghĩ nhớ đúng. Tiếp đến được sinh chính trí nơi cảnh giới chân thật. Tiếp đến từ đó được chứng quả pháp. Tiếp đến từ đó sau khởi trí Giải thoát. Trí này người này tùy sự thâm nhập sâu xa có thể thực hành pháp này. Nếu ông không có trí này, không nên nói một cách quả quyết rằng không phải lời Phật nói.

Đã nói xong về trí có thể thực hành pháp này. Tiếp đến pháp cú này ngăn chận sự sợ hãi.

Kệ nói :
Không hiểu, hiểu không sâu,
Sâu chẳng do suy lường.
Hiểu sâu được giải thoát,
Các sợ hãi không nên.
Giải thích :

1.Không hiểu, nghĩa là nếu ông nói pháp sâu như vậy chằng phải pháp ta có thể hiểu, do đó sinh sợ hãi, thể là không đúng.

2.Hiểu không sâu nghĩa là nếu ông nói Phật hiểu cũng không sâu, nếu hiểu sâu vì sao nói sâu, đo đó sinh sợ hãi , thể là không đúng.

3.Sâu chằng phải do suy lường hiểu, nghĩa là nếu ông nói vì sao đây là sâu, chẳng phải cảnh giới của suy lường, do đó sinh sợ hãi, thể là không đúng.

4.Hiểu sâu được giải thoát, nghĩa là nếu ông nói vì sao chỉ riêng hiểu nghĩa sâu có thể được giải thoát, do đó sinh sợ hãi là không đúng lý.

Như vậy là đã ngăn chặn pháp cú sợ hãi này.Tiếp đến lấy sự không tin thành lập Đại thừa.

Kệ nói :
Do tiểu tín, giới, bạn,
Không hiểu sâu Đại pháp.
Vì do ông không hiểu,
Thành ngã vô thượng thừa.
Giải thích :

Tiểu tín, nghĩa là sự tin hiểu hẹp hòi yếu kém.
Tiểu giới, nghĩa là các tiểu chủng từ huân tập trong thức A-lê-da(Alaya).
Tiều bạn, nghĩa là tương tự tín, giới làm quyền thuộc.
Ba cái này nếu nhỏ thì không tin có Ðại thừa. Do không tin này mà thành pháp vô thượng ta lập.

Đã nói xong sự thành lập Đại thừa, tiếp đến ngăn chặn sự hủy báng Ðại thừa.

Kệ nói :
Tùy theo nghe được giác,
Chưa nghe chớ nên chê.
Vô lượng điều chưa nghe,
Chê bai thành si nghiệp.
Giải thích:

Ông theo ít nghe được giác ngộ, không nên theo nghe lại sinh hủy báng. Ông chưa nghe không tin còn được. Bới vì sao ? Không tích thiện nên chưa nghe thì nhiều. Cẩn thận chớ nên hủy báng. Ông không phân biệt mà sinh hủy báng lại tăng thêm nghiệp Si làm hư hoại những gì đã được nghe trước.

Đã ngăn chặn sự hủy báng, tiếp đến ngăn chận sự suy nghĩ tà vạy.

Kệ nói :
Khi theo văn lấy nghĩa,
Sư tâm thoái chân tuệ.
Báng thuyết và khinh pháp,
Duyên đây tội lớn sinh.
Giải thích :

1.Sư tâm, nghĩa là kiến thủ của mình, chẳng phải trí, vì tìm kiếm nghĩa một bên.

2.Thoái Chân tuệ, nghĩa là hiều đúng như thật chưa được thì thoái mất.

3.Báng thuyết, nghĩa là hủy báng thiện thuyết.

4.Khinh pháp, nghĩa là ghét những gì mình nghe, do đây chằng có phúc báo, thân sau thụ đại khố báo. Ðó gọi là sinh khởi tội lớn.

Đã ngăn chặn tà tư duy, tiếp đến ngăn chận ác ý.

Kệ nói :
Ác ý tự tính ác,
Bất thiện không nên khởi,
Huống dời nơi thiện xứ,
Vì nên bỏ tội lớn.
Giải thích :

1.Ác ý, nghĩa là tâm ghen ghét.

2.Tự tính ác, nghĩa là tâm này là tội tự tính còn không thể khởi trong pháp tội lỗi huống chi là khởi trong pháp chắng phải tội lỗi. Cho nên phải gấp rút xả bỏ tội lỗi lớn.

Xong phẩm Thành tông.
Sửa lần cuối bởi ThegianVothuong vào ngày 10/08/12 07:25 với 4 lần sửa.


Om Amitabha Hrih
Om Mani Padme Hum
Hình đại diện của người dùng
ThegianVothuong
Bài viết: 403
Ngày: 08/05/12 02:13
Giới tính: Nam
Đến từ: Vô minh

Re: Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận - Bồ Tát Di Lặc

Bài viết chưa xem gửi bởi ThegianVothuong »

Phẩm 3 : Quy y

Giải thích :

Như thế đã thành lập Đại thừa, tiếp đến dựa vào Đại thừa giữ lấy thắng quy y.

Kệ nói:
Nếu người quy Tam Bảo,
Đại thừa quy đệ nhất.
Tất cả khắp dũng mãnh,
Vì đắc quả bất cập.
Giải thích :

Tất cả trong quy y Tam Bảo, nên biết rằng quy y Đại thừa là nhất tất cả. Bởi vì sao ? Vì do 4 thứ nghĩa lớn tự tính thắng. Những gì là 4 nghĩa ?

1. Nghĩa biến khắp tất cả.

2. Nghĩa dũng mãnh.

3. Nghĩa đắc quả.

4. Nghĩa bất cập.

Những nghĩa này sẽ nói sau. Do 4 nghĩa này có nhiều lưu nan. Những người quy y có người có khả năng có người không khả năng. Người có khả năng là thắng. Đã nói quy y thắng, tiếp đến khuyên thắng quy y.

Kệ nói:
Khó khởi cũng khó thành,
Phải có ý chí lớn.
Vì thành tự tha lợi,
Thì phải thắng quy y.
Giải thích :

Khó khởi, là thắng nguyện do thệ nguyện rộng lớn. Khó thành, là thắng hạnh do trải qua vô lượng kiếp. Do khó như vậy nên phải phát ý chí lớn. Bời vì sao ? Vì muốn thành tựu lợi tha và tự lợi. Lợi tha, là nguyện hạnh, vì nguyện hạnh là nhân của danh văn. Tự lợi, là nghĩa lớn, vì nghĩa lớn là quá của tự thể.

Trước đã nói 4 nghĩa, nay sẽ nói nghĩa khắp tất cả.

Kệ nói:
Chúng sinh khắp, thừa khắp,
Trí khắp, tịch diệt khắp.
Gọi là người trí tuệ,
Bốn thứ khắp tất cả
.

Giải thích
: Quy y Đại thừa có 4 thứ thứ phổ biến tất cả:

1. Chúng sịnh phổ biến tất cả, vì muốn độ tất cả chúng sinh.

2. Thừa phổ biến tất cả, vì hiểu rõ 3 thừa.

3. Trí phổ biến tất cả, vì thông đạt 2 vô ngã.

4. Tịch diệt phổ biến tất cả, vì thể của sinh tử Niết-bàn là một vị, tội ác công đức là vô phân biệt.

Đã nói nghĩa phổ biến tất cả, tiếp đến nói nghĩa dũng mãnh.

Kệ nói:
Hy vọng Phật Bồ-đề,
Làm khó làm không thoái.
Chư Phật bình đẳng giác,
Dũng mãnh thắng có 3.
Giải thích : Quy y Đại thừa có 3 thứ thắng dũng mãnh :

1. Nguyện thắng dũng mãnh, vì khi quy Phật cấu Đại Bồ-đề sinh nhiều hoan hỷ biết thắng công đức.

2. Hành thắng dũng mãnh, vì khi khởi tu hành làm những việc khó làm không thoái lui không khuất phục.

3. Quả thắng dũng mãnh, vì khi đến thành Phật giác ngộ bình đẳng với tất cả chư Phật. Lại nữa do dũng mãnh này, các Phật tử ấy hằng được sinh trường tốt.

Kệ nói:
Phát tâm và trí độ,
Gồm đủ cùng đại từ.
Hạt giong và mẹ sinh,
Bào thai, sữa mẹ tốt.
Giải thích : Bồ-tát sinh trưởng tốt có 4 nghĩa :

1. Hạt giống tốt, vì lấy tâm Bồ-đề làm hạt giống.

2. Mẹ sinh tốt, vì lấy Bát- nhã Ba-la-mật làm mẹ sinh.

3. Bào thai tốt, vì lấy 2 phúc trí họp lại duy trì làm bào thai.

4. Sữa mẹ tốt, vì lấy đại bi làm sữa mẹ nuôi lớn. Lại nữa sinh ra và lớn lên tốt là do dũng mãnh nên hằng được thân tốt đẹp.

Kệ nói:
Tướng tốt, sức sinh thành,
Vui lớn, phương tiện lớn.
Bốn thành tựu như trên,
Đó gọi là thân tốt.
Giải thích : Bồ-tát có 4 thứ thân tốt:

1. sắc thân tốt, được diệu tướng nghiêm thân, hơn cả tướng của Chuyển luân vương.

2. Sức lực tốt, vì được sức tự tại thành thục chúng sinh.

3. Niềm vui tốt, vì được niềm vui vô biên của thượng phẩm Phật địa tịch diệt.

4. Trí tuệ tốt, vì được phương tiện khéo léo cứu tất cả chúng sinh. Bốn thứ này thành tựu gọi là Phật tử sinh trưởng tốt. Đó là sắc thành tựu, lực thành tựu, lạc thành tựu, trí thành tựu. Lại nữa, do dũng mãnh này được tương tự như vương tử.

Kệ nói:
Quang thụ, pháp tự tại,
Khéo nói khéo nhiếp trị.
Vì do 4 nhân đây,
Giống Phật không đoạn dứt.
Giải thích : Có 4 nhân duyên dòng vua không đoạn dứt:

1. Lên ngôi thụ chức.

2. Tăng thượng không mâu thuẫn.

3. Khéo phán quyết.

4. Thưởng phạt phân minh. Phật tử sinh trưởng tốt cũng vậy :

- Được quang thụ, nghĩa là được nhận đại quang minh của tất cả chư Phật.

- Pháp tự tại, nghĩa là trí tuệ tự tại trong tất cả các pháp, không có gì mâu thuẫn.

- Khéo nói, nghĩa là khéo nói pháp trong chúng Phật tử.

- Khéo trị phạt, nghĩa là đối với người học giới có khả năng trị tội lỗi, có khả năng giữ gìn công đức. Lại nữa do dũng mãnh này được tương tự như đại thần.

Kệ nói:
Nhập độ thấy giác phần,
Trì mật lợi chúng sinh.
Vì do 4 nhân đây,
Được tương tự đại thần.
Giải thích : Có 4 thứ nhân là công đức của một đại thần :

1. Vào cấm cung của vua.

2. Xem báu vật của vua.

3. Dùng bí mật ngữ của vua.

4. Ban thưởng tự tại. Bồ-tát dũng mãnh cũng vậy :

- Thường được khéo nhập các Ba-la-mật.

- Thường thấy pháp bảo Đại Bồ-đề phần trong các kinh, do không quên pháp.

- Thường hành trì Như Lai thân mật khẩu mật ý mật.

- Thường có thể lợi ích vô biên chúng sinh.

Đã nói xong dũng mãnh nghĩa, tiếp nói về đắc quả nghĩa.

Kệ nói:
Phúc đức và tôn trọng,
Có lạc, cũng khổ diệt.
Chứng lạc chứng pháp ấm,
Tập hết có diệt xả.
Giải thích : Quy y Đại thừa được 8 quả này :

1. Khi tin hiểu được đại phúc đức tụ.

2. Khi phát tâm được 3 cõi tôn trọng.

3. Khi cố ý thụ sinh được an lạc trong 3 cõi.

4. Khi hiểu tự tha bình đẳng, diệt được đại khổ tụ, cũng có sức diệt được khổ tất cả chúng sinh.

5. Khi nhập vô sinh nhẫn, giác chímg niềm vui tối thượng.

6. Khi đắc Bồ-đề chứng đại pháp ấm. Pháp ấm tức pháp thân. Như vậy pháp thân gọi là đại, gọi là thắng, gọi là thường, gọi là thiện tụ. Vì là pháp tạng của vô biên Tu-đa-la nên gọi là đại, là cao tột trong tất cả pháp nên gọi là thắng, vĩnh viễn không bao giờ hết nên gọi là thường, là sức không sợ hãi tích tụ thiện pháp nên gọi là thiện tụ.

7. Được vĩnh viễn diệt hết các huân tập không sót.

8. Được hữu diệt xả. Hữu xả là không trụ sinh tử. Diệt xả là không trụ Niết-bàn.

Đã nói nghĩa của đắc quả, tiếp nói nghĩa của bất cập.

Kệ nói:
Đại thể và đại nghĩa,
Vô biên và vô tận.
Do thiện thế xuất thế,
Vì thành thục thần thông.
Giải thích : Quy y Đại thừa có các thiện căn là do 4 nhân mà tất cả Thanh Văn Bích-chi-phật không bì kịp :

1. Đại thể.
2. Đại nghĩa.
3. Vô biên.
4. Vô tận.

Hỏi: Thể là thế nào ?

Đáp : Đại thể, nghĩa là thiện căn thế gian đã được vượt quá 2 thừa. Đại nghĩa, nghĩa là thiện căn xuất thế, xuất thế của 2 thừa chỉ tự lợi. Vô biên, nghĩa là thành thục thiện căn, vì có thể thành thục vô biên chúng sinh. Vô tận, nghĩa là thiện căn thần thông cho đến Niết-bàn vô dư cũng không hết.

Đã nói thắng nghĩa của quy y, tiếp đến nói sai biệt của quy y.

Kệ nói:
Hy vọng và đại bi,
Chủng trí cũng bất thoái.
Ba xuất và 2 đắc,
Sai biệt có 6 thứ.
Giải thích : Sai biệt của quy y có 6 thứ :

1. Tự tính.
2. Nhân.
3. Quả.
4. Nghiệp.
5. Tương ưng.
6. Phẩm loại.

Hy vọng là tự tính, vì chí tâm cầu Phật thể. Đại bi là nhân, vì tất cả chúng sinh. Chủng trí là quả, vì được vô thượng Bồ-đề. Bất thoái là nghiệp, vì làm việc lợi tha, làm việc khó làm không thoái lui không khuất phục. Ba xuất làm tương ưng, vì đầy đủ hạnh 3 thừa xuất ly. Hai đắc làm phẩm loại, vì thế tục đắc và pháp tính đắc thô tế khác nhau.

Đã nói về công đức sai biệt, tiếp nói về hạnh sai biệt.

Kệ nói:
Quy y có nghĩa lớn,
Công đức tụ tăng trưởng.
Tâm bi khắp thế gian,
Rộng truyền Đại thánh pháp.
Giải thích :

1.Nghĩa lớn là hành tự tha lợi.

2.Hành tự lợi nghĩa là công đức tăng trưởng lại có nhiều thứ, như tư duy lượng đạc, như thường thường, như thòi tiết, đều không có lượng vì không thể tư duy lượng đạc, vì không thể đếm biết, rốt ráo hằng hành vì không phân chia thời tiết.

3.Hành lợi tha nghĩa là tác ý và tâm bi biến khắp tất cả chúng sinh, rộng rãi siêng năng dùng phương tiện lưu bố pháp của Đại thánh.

4.Pháp của Đại thánh là nói pháp Đại thừa.

Xong Phẩm quy y.
Sửa lần cuối bởi ThegianVothuong vào ngày 30/07/12 20:19 với 1 lần sửa.


Om Amitabha Hrih
Om Mani Padme Hum
Hình đại diện của người dùng
ThegianVothuong
Bài viết: 403
Ngày: 08/05/12 02:13
Giới tính: Nam
Đến từ: Vô minh

Re: Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận - Bồ Tát Di Lặc

Bài viết chưa xem gửi bởi ThegianVothuong »

Phẩm 4 : Chủng tính

Giải thích : Đã nói nghĩa quy y, tiếp đến nói sai biệt của chủng tính.

Kệ nói:
Hữu, thắng, tính, tướng, loại,
Tội ác và công đức,
Ví vàng cùng ví báu,
Chín thứ đều 4 thứ.
Giải thích :

Chủng tính có 9 thứ sai biệt : 1. Hữu thể. 2. Tối thắng. 3.Tự tính. 4. Tướng mạo. 5. Phẩm loại. 6. Tội ác. 7. Công đức. 8. Ví dụ vàng. 9. Ví dụ báu vật. Như vậy 9 nghĩa, mỗi mỗi đều có 4 thứ sai biệt. Kệ này nêu chung, các kệ khác giải thích riêng. Trong đây trước tiên phân biệt hữu thể.

Kệ nói :
Do giới và do tín,
Do hành và do quả.
Do 4 sai biệt này,
Nên biết có thể tính.
Giải thích : Chủng tính có thể tính là do 4 thứ sai biệt: 1. Do giới sai biệt. 2. Do tín sai biệt. 3. Do hành sai biệt. 4. Do quả sai biệt.

1.Do giới sai biệt, nghĩa là chúng sinh có vô lượng thế giới khác nhau. Như nhiều kinh nói, do thế giới khác nhau nên biết chủng tính 3 thừa có khác nhau.

2.Do tín sai biệt, nghĩa là chúng sinh có nhiều thứ tin khác nhau, hoặc do sức nhân khởi, hoặc do sức duyên khởi, nên có thể trong 3 thừa tùy tin một thừa không phải tin tất cả. Nếu không có tính sai biệt thì cùng không có tín sai biệt.

3.Do hành sai biệt, nghĩa là các hành của chúng sinh hoặc có khả năng tiến, hoặc không có khá năng tiến. Nếu không có tính sai biệt thì cũng không có hành sai biệt.

4.Do quả sai biệt, nghĩa là chúng sinh Bồ-đề có bậc hạ trung thượng, quà cùng tương tự như vậy. Nếu không có tính sai biệt thì cũng không có quả sai biệt. Do 4 sai biệt này cho nên phải biết chủng tính là hữu thể.

Đã nói hữu thể của chủng tính, tiếp đến nói về tối thắng của chủng tính.

Kệ nói :
Minh tịnh và bao gồm,
Đại nghĩa cũng vô tận.
Do thiện có 4 thắng,
Chủng tính được đệ nhất.
Giải thích : Chủng tính Bồ-tát do 4 thứ nhân duyên được tối thắng : 1. Do thiện căn sáng suốt thanh tịnh. 2. Do thiện căn bao gồm tất cả. 3. Do thiện căn nghĩa lớn. 4. Do thiện căn vô tận.

Bởi vì sao ? Vì không phải thiện căn các Thanh Văn v.v... sáng suốt thanh tịnh như vậy. không phải thiện căn tất cá mọi người bao gồm sức vô úy v.v..., vì thiện căn những người khác không lợi tha, vì thiện căn nhừng người khác khi Niết-bàn là hết, còn thiện căn của Bồ-tát không như vậy. Do đó làm nhân mà chủng tính Bồ-tát vượt trội hơn cả.

Đã nói về chủng tính tối thắng, tiếp đến nói về tự tính của Chủng tính.

Kệ nói :
Tính chúng và tập chủng,
Sở y và năng y.
Phải biết hữu phi hữu,
Vì công đức độ nghĩa.
Giải thích : Chủng tính Bồ-tát có 4 thứ tự tính : 1. Tính chủng tự tính. 2. Tập chủng tự tính. 3. Sớ y tự tính. 4. Năng y tự tính. Tự tính ấy theo thứ tự như vậy. Lại nữa kia nói hữu là vì nhân thể hữu, nói phi hữu vì quả thể phi hữu.

Hỏi: Nếu vậy sao gọi là tính ?

Đáp : Vì công đức độ nghĩa. Nói độ, là nghĩa xuất sinh công đức. Do đạo lý này nên gọi là tính.

Đã nói tự tính của chủng tính, tiếp nói tướng mạo của chủng tính.

Kệ nói :
Đại bi và đại tín,
Đại nhân và đại hạnh.
Nếu có tướng như thể,
Gọi là tính Bồ-tát.
Giải thích :

Chủng tính Bồ-tát có 4 thứ tướng mạo :

1. Đại bi là tướng, vì thương xót tất cả chúng sinh khô.

2. Đại tín là tướng, vì yêu thích tất cả pháp Đại thừa.

3. Đại nhẫn là tướng, vì chịu đựng làm tất cà hạnh khó làm.

4. Đại hành là tướng, vì thực hành khắp cả các tự tính thiện căn Ba-la-mật.

Đã nói tướng mạo của chủng tính, tiếp nói phẩm loại của chủng tính.

Kệ nói:
Quyết định và bắt định,
Không thoái và thoái đọa.
Gặp duyên như thứ lớp,
Có 4 thứ phẩm loại.
Giải thích :

Phẩm loại chủng tính của Bồ-tát lược nói có 4 thứ : 1. Quyết định. 2. Bất định. 3. Không thoái. 4. Thoái đọa. Như thứ tự thì quyết định là gặp duyên không thoái, bất định thì gặp duyên sẽ thoái đọa.

Đã nói xong phẩm loại của chủng tính, tiếp nói tội lỗi của chủng tính.

Kệ nói :
Nên biết tính Bồ-tát,
Lược nói có 4 lỗi.
Tập hoặc cùng bạn xấu,
Vì bần cùng, thuộc người.

Giải thích
: Tội lỗi chủng tính của Bồ-tát lược nói có 4 thứ :

1.Tập hoặc, vì không hành công đức hành nhiều phiền não.

2.Bạn xấu, vì gần gũi người xấu, xa lìa thiện tri thức.

3. Bần cùng, vì mọi thứ cần thiết đều thiếu thốn.

4. Thuộc người khác, vì lệ thuộc người khác không tự tại.

Đã nói tội lỗi của chủng tính, tiếp nói công đức của chủng tính.

Kệ nói :
Công đức cũng 4 thứ,
Tuy đọa nơi ác đạo,
Vào chậm lại ra mau,
Khổ mỏng và bi sâu.
Giải thích : Chủng tính Bồ-tát tuy có tội lỗi như trước, nếu đọa ác đạo nên biết trong đó lại có 4 thứ công đức :

1. Vào chậm, vì không thường xuyên đọa.

2. Ra mau, vì không ờ lâu.

3. Khổ mỏng, vì sự bức não nhẹ.

4. Bi sâu, vì cùng thành tựu tâm thương xót chúng sinh.

Đã nói công đức của chủng tính, tiếp nói chủng tính ví dụ vàng.

Kệ nói :
Ví như tính vàng tốt,
Xuất sinh có 4 thứ.
Các thiện và các trí,
Các tịnh và các thông.
Giải thích : Tính vàng tốt có 4 nghĩa : 1. Cực đa. 2. Quang minh. 3. Vô cấu. 4. Điều nhu. Chủng tính Bồ-tát cũng vậy :

1. Là y chỉ của vô lượng thiện căn.

2. Là y chỉ của vô lượng trí tuệ.

3. Là y chỉ cho tất cá phiền não chướng trí chướng được thanh tịnh.

4. Là y chỉ cho tất cà thần thông biến hóa.

Đã nói về chủng tính ví như tính vàng, tiếp nói chủng tính ví như các báu.

Kệ nói :
Ví như tính các báu,
Bốn thứ thành tựu nhân.
Đại quả và đại trí,
Đại định và đại nghĩa.
Giải thích : Tính các báu là thành tựu 4 thứ y chỉ:

1. Chân thật thành tựu y chỉ.

2. sắc thành tựu y chỉ.

3. Hình thành tựu y chỉ.

4. Lượng thành tựu y chỉ.

Chủng tính Bồ-tát cũng vậy :

1. Là nhân Đại Bồ-đề.

2. Là nhân đại trí.

3. Là nhân đại định, vì định do tâm trụ.

4. Là nhân đại nghĩa, vì thành tựu vô biên chúng sinh.

Đã rộng phân biệt tính vị, tiếp phân biệt vô tính vị.

Kệ nói :
Một bề hành ác hạnh,
Dứt hết các bạch pháp.
Không có phần giải thoát,
Thiện ít, nhân cũng không.
Giải thích :

Vô Bát-niết-bàn pháp là vô tính vị. Đây lược có 2 thử : 1. Thời biên Bát-niết-bàn pháp. 2. Tất cánh vô Niết- bàn pháp.

Thời biên Bát-niết-bàn pháp có 4 loại người :

1. Cứ một bề làm ác.

2. Dứt hết các thiện pháp.

3. Không có thiện căn giải thoát phần.

4. Thiện căn không đầy đủ. Người hoàn toàn không có pháp Niết-bàn là vì không có nhân, người ấy không có tính Bát-niết-bàn.

Đây gọi là người chi cầu sinh tử không ưa thích Niết-bàn.

Đã nói về vô tính, tiếp nói khiến nhập vào.

Kệ nói :
Giảng sâu rộng đại pháp,
Khiến tin khiến cực nhẫn.
Cứu cánh Đại Bồ-đề,
Hai biết, 2 thắng tính.
Giải thích :

Giảng diễn sâu rộng pháp Đại thừa là vì lợi tha. Nghĩa là người vô trí khiến được tin Đại thừa, đã tin Đại thừa khiến thành tựu cực nhẫn có thể tu hành không thoái lui. Người đã cực nhẫn khiến cứu cánh thành tựu vô thượng Bồ-đề. Hai hạng người biết là phàm phu và Thanh Văn. Nếu được như vậy thì 2 hạng người kia biết tự tính, tính của tính đức viên mãn rất là thù thắng.

Hỏi: Thù thắng thế nào ?

Kệ nói :
Cây Bồ-đề tăng trưởng,
Sinh lạc và diệt khổ.
Tự tha lợi là quả,
Thù thắng là gốc tốt.
Giải thích :

Chủng tính như vậy có thể tăng trường công đức cực rộng cây Đại Bồ-đề, có thể được vui lớn, có thể diệt khố lớn, có thể được tự tha lợi lạc, lấy làm đại quả. Cho nên tính này là trên hết. Ví như gốc cây cát tường, tính Bồ-tát cùng vậy.

Xong Phẩm chủng tính.
LUẬN ĐẠI THỪA TRANG NGHIÊM KỈNH ( Hết quyển 1 )


Om Amitabha Hrih
Om Mani Padme Hum
Hình đại diện của người dùng
ThegianVothuong
Bài viết: 403
Ngày: 08/05/12 02:13
Giới tính: Nam
Đến từ: Vô minh

Re: Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận - Bồ Tát Di Lặc

Bài viết chưa xem gửi bởi ThegianVothuong »

LUẬN ĐẠI THỪA TRANG NGHIÊM KỈNH (Quyển 2)
Phẩm 5 : Phát tâm
Giải thích : Như nói đã phân biệt chủng tính Bồ-tát, tiếp phân biệt tướng phát tâm Bồ-đề của Bồ-tát.

Kệ nói:
Dũng mãnh và phương tiện,
Lợi ích và xuất ly.
Bốn lớn, 3 công đức,
Hai nghĩa nên tâm khởi.
Giải thích : Bồ-tát phát tâm có 4 thứ lớn :

1. Dũng mãnh lớn. Nghĩa là trường thời gian tinh tiến thệ nguyện rộng lớn làm những việc khó làm.

2. Phương tiện lớn. Nghĩa là mặc áo giáo hoằng thệ luôn luôn dùng phương tiện siêng năng tinh tiến.

3. Lợi ích lớn. Nghĩa là tất cả mọi lúc làm lợi mình lợi người.

4. Xuất ly lớn. Nghĩa là vì cầu vô thượng Bồ-đề. Lại nữa 4 thứ lớn này được thể hiện trong 3 thứ công đức.

Cái lớn thứ nhất và thứ hai hiển thị công đức sở tác của trượng phu. Cái lớn thứ ba hiển thị làm công đức đại nghĩa. Cái lớn thứ tư hiển thị công đức thụ quả. Ba công đức này lấy 2 nghĩa làm duyên. Hai nghĩa đó là vô thượng Bồ-đề và tất cả chúng sinh. Do tư duy như vậy nên phát tâm Bồ-đề.

Đã nói về tướng phát tâm, tiếp nói các phát tâm sai biệt.

Kệ nói:
Tín hành cùng tín ỵ,
Báo đắc và vô chướng.
Phát tâm y các địa,
Sai biệt có 4 thứ.
Giải thích : Bồ-tát phát tâm, dựa vào các địa có 4 thứ khác nhau :

1. Tín hành phát tâm, đó là tín hành địa.

2. Tịnh y phát tâm, đó là 7 địa trước.

3. Báo đắc phát tâm, đó là 3 địa sau.

4. Vô chướng phát tâm, đó là Như Lai địa. Đã nói sự sai biệt, tiếp phải giải thích rộng.

Hỏi : Phát tâm như thế lấy gì làm căn bản, sở y vào đâu, tin vào pháp gì, duyên vào cái gì, thuộc thừa nào, trụ ở đâu, có những chướng nạn gì, được các công đức gì, có những tự tính gì, xuất ly những nơi nào, noi nào là cứu cánh ?

Kệ nói:
Đại bi cùng lợi vật,
Đại pháp với chủng trí,
Thắng dục và đại hộ,
Thụ chướng và tăng thiện,
Phúc trí với tu độ,
Cùng với mối địa đủ.
Ban đầu đến rốt sau,
Theo thứ tự nên biết.
Giải thích :

Bồ-tát phát tâm lấy đại bi làm căn bàn, lấy lợi vật làm y chỉ, lấy pháp Đại thừa làm nơi tin tưởng, lấy chủng trí làm sở duyên vì cầu đạt được, lấy thắng dục làm sở thừa vì muốn được vô thượng thừa, lấy đại hộ làm chỗ trụ vì trụ nơi giới Bồ-tát, lấy sự bị chướng ngại làm tai nạn vì khởi tâm với thừa khác, lấy tăng thiện làm công đức, lấy phúc trí làm tự tính, lấy tu tập các độ làm xuất ly, lấy đầy đủ các địa làm cứu cánh. Do mỗi địa mỗi địa siêng dùng phương tiện phù hợp với chúng.

Như vậy đã phân biệt rộng, tiếp nói về thụ thế tục phát tâm.

Kệ nói:
Sức bạn và sức nhân,
Sức căn và sức nghe.
Bốn sức chung 2 phát,
Không kiên và kiên cố.
Giải thích : Nếu từ người khác nói mà được giác ngộ rồi phát tâm gọi là thụ thế tục phát tâm. Sự phát tâm này do 4 sức :

1. Do sức của bạn bè mà phát tâm, hoặc được thiện tri thức tùy thuận.

2. Do sức nhân mà phát tâm, hoặc quá khứ đã từng phát tâm.

3. Do sức của căn mà phát tâm, hoặc quá khứ từng làm các thiện căn được viên mãn.

4. Do sức của nghe pháp mà phát tâm, hoặc nơi nơi khi thuyết pháp vô lượng chúng sinh phát tâm Bồ- đề.

Lại nữa tu tập thiện căn là hoặc hiện tại như pháp thường nghe, thụ trì v.v... Lại nữa 4 sức phát tâm kia nói chung có 2 thứ :

1. Phát tâm không kiên cố. Nghĩa là do sức của bạn bè.

2. Phát tâm kiên cố. Nghĩa là nhân v.v... 3 sức phát tâm.

Đã nói về thế tục phát tâm, tiếp nói đệ nhất nghĩa phát tâm.

Kệ nói:
Gần gũi Chính biến tri,
Khéo gôm tụ phúc trí.
Với pháp không phân biệt,
Chân trí tối thượng sinh.
Giải thích : Đệ nhất nghĩa phát tâm được hiển thị có 3 thứ vượt trội:

1. Giáo thụ vượt trội, vì thân cận bậc Chính biến tri.

2. Tùy thuận vượt trội, vì khéo gôm tụ phúc trí.

3. Đắc quả vượt trội, vì sinh trí vô phân biệt.

Phát tâm này gọi là bậc hoan hỷ địa, do hoan hỷ vượt trội.

Hỏi: Sự vượt trội này lấy gì làm nhân ?

Kệ nói:
Các pháp và chúng sinh,
Sở tác và Phật thể.
Nơi 4 bình đẳng này,
Nên được hoan hỷ thắng.
Giải thích : Bốn bình đẳng là :

1. Pháp bình đẳng, vì do thông đạt pháp vô ngã.

2. Chúng sinh bình đẳng, vì được tự tha bình đẳng.

3. Sở tác bình đẳng, vì khiến người hết khổ cũng như mình hết khổ.

4. Phật thể bình đẳng, vì pháp giới và ta không gì khác biệt, quyết định có thể thông suốt.

Đã nói thắng nhân, tiếp nói thắng sai biệt.

Kệ nói:
Sinh vị và nguyện vị,
Cũng mạnh cũng tịnh ỵ.
Các xảo và các xuất,
Sáu thắng là như vậy.
Giải thích :

Đệ nhất nghĩa phát tâm lại có 6 thứ vượt trội : 1. Sinh vị vượt trội. 2. Nguyện vị vượt trội. 3. Dũng mãnh vượt trội. 4. Tịnh y vượt trội. 5 Dư xảo vượt trội. 6. Dư xuất vượt trội.

Hỏi: Sáu thứ này vì sao là vượt trội ?

Kệ nói:
Sinh vượt trội: 4 nghĩa,
Nguyện lớn có 10 thứ.
Dũng mãnh thường không lui,
Tịnh y 2 lợi sinh.
Xảo tiện đến các địa,
Xuất lỵ khéo tư duy.
Do 6 đạo lý này,
Mà thành 6 vượt trội.
Giải thích : Bốn nghĩa của sinh vượt trội là :

1. Chủng tử vượt trội, vì tin pháp Đại thừa làm chủng tử.

2. Mẹ sinh vượt trội, vì Bát-nhã Ba-la-mật là mẹ sinh.

3. Bào thai vượt trội, vì niềm vui đại thiền định là thai tạng.

4. Sữa mẹ vượt trội, vì đại bi nuôi lớn là sữa mẹ.

Nguyện lớn có 10 thứ là 10 đại nguyện nói trong Kinh Thập Địa, vì phát nguyện này là thù thắng. Dũng mãnh thường không lui, nghĩa là có thể làm việc khó làm hằng không lùi bước. Tịnh y 2 lợi sinh là: 1. Biết mình gần Bồ-đề. 2. Biết phương tiện lợi tha nên khéo tiến lên các địa khác, vì được phương tiện lên thượng địa. Xuất ly khéo tư duy, nghĩa là tư duy trụ trong các địa mà kiến lập pháp.

Hỏi: Tư duy như thế nào ?

Đáp : Như kiến kiến lập biết bình đẳng, phân biệt, vì lấy cái phân biệt đó cũng biết không phân biệt.

Đã nói phát tâm, tiếp nói thí dụ để hiển thị phát tâm này.

Kệ nói:
Như địa, như vàng ròng,
Như trăng, như thêm lửa,
Như kho, như hộp báu,
Như biển, như kim cương,
Như núi, như dược vương,
Như bạn, như như ý,
Như nắng, như nhạc hay,
Như vua, như kho lẫm,
Như đường, như xe chở,
Như suối, như tiếng mừng,
Như chảy cũng như mây,
Phát tâm ví như vậy.
Giải thích :

Phát tâm như vậy vói các ví dụ này tương ưng với nghĩa gì ?

Đáp : Ví như lục địa lớn, phát tâm lúc mói đầu cũng như vậy, vì tất cả Phật pháp có thể phát sinh và duy trì.

Ví như vàng ròng, phát tâm tương ưng y cũng như vậy, vì lợi ích an lạc không thoái lui không hư hoại.

Ví như trăng non, phát tâm tương ưng cần cũng như vậy, vì tất cả thiện pháp dần dần tăng.

Ví như thêm lửa, phát tâm tương ưng cực y cũng như vậy, vì càng thêm củi lửa càng cháy mạnh.

Ví như kho tàng lớn, phát tâm tương ưng Đàn Ba-la-mật cũng như vậy, vì của cải chu cấp không hết.

Ví như hộp báu vật, phát tâm tương ưng Thi Ba-la- mật cũng như vậy, vì công đức pháp bảo từ đó sinh.

Ví như biển lớn, phát tâm tương ưng sằn-đề Ba-la-mật cũng như vậy, vì các tâm trái nghịch không động.

Ví như kim cương, phát tâm tương ưng Tì-lê-da Ba-la-mật cũng như vậy, vì dũng mãnh kiên cường không thể hư hoại.

Ví như dược vương, phát tâm tương ưng Bát- nhã Ba-la-mật cũng như vậy, vì đây có thể phá hoặc trí 2 bệnh, phát tâm tương ưng vô lượng cũng như vậy, vì tất cả mọi lúc không bò chúng sinh.

Ví như ngọc như ý, phát tâm tương ưng thần thông cũng như vậy, vì tùy chỗ muốn hiện có thể thành tựu.

Ví như trời nắng, phát tâm tương ưng nhiếp cũng như vậy, vì thành thục chúng sinh như trời nắng làm chín lúa thóc.

Ví như nhạc hay, phát tâm tương ưng biện cũng như vậy, vì thuyết pháp giáo hóa thâu nhiếp chúng sinh.

Ví như quốc vương, phát tâm tương ưng lượng cũng như vậy, vì có thể vì chính đạo không phá hoại nhân.

Ví như kho lẫm, phát tâm tương ưng tụ cũng như vậy, vì gôm chứa pháp tài phúc trí.

Ví như đường vua đi, phát tâm tương ưng giác phần cũng như vậy, vì Đại thánh đi trước tùy tùng theo sau.

Ví như xe chở, phát tâm tương ưng chi quán cũng như vậy, vì đủ 2 bánh yên ổn mà đi.

Ví như suối nước, phát tâm tương ưng tổng trì cũng như vậy, vì người nghe tuy nhiều nhưng pháp thì vô tận.

Ví như tiếng mừng vui, phát tâm tương ưng pháp ấn cũng như vậy, vì đó là tiếng người cầu giải thoát thích nghe.

Ví như con sông chảy, phát tâm tương ưng tự tính cũng như vậy, vì không tác ý mà đạo vô sinh nhẫn tự nhiên lưu xuất.

Ví như mây lớn có thể thành thế giới, phát tâm tương ưng phương tiện cũng như vậy, vì thị hiện 8 tướng thành đạo giáo hóa chúng sinh.

Như vậy 22 thí dụ ví cho phát tâm kia như Thánh giả nói rộng trong Kinh Vô Tận Tuệ.Đã nói thí dụ phát tâm, tiếp nói tội lỗi không phát tâm.

Kệ nói:
Tư lợi, được phương tiện,
Hiếu nghĩa và chứng chân.
Như vậy tứ thời vui,
Đen tịch thì liền xả.
Giải thích : Bồ-tát có 4 cái vui:

1. Tư lợi: vui, tức khi tư duy lợi ích tha nhân.

2. Được phương tiện : vui, tức khi được phương tiện khéo léo.

3. Hiểu nghĩa : vui, tức khi hiểu rõ ý Đại thừa.

4. Chứng thật: vui, tức khi chứng nhân pháp vô ngã.

Nếu người xả bỏ chúng sinh tìm đến tịch diệt, phải biết người ấy không được 4 cái vui của Bồ-tát.Đã trách không phát tâm thì nên khen ngợi người phát tâm.

Kệ nói:
Tối sơ phát đại tâm,
Khéo hộ vô biên ác,
Thiện tăng vì bi tăng,
Vui mừng, khổ cũng vui.
Giải thích :

Nếu Bồ-tát mới phát tâm Đại Bồ-đề, bấy giờ y vào vô biên chúng sinh liền được khéo giữ gìn không làm các ác. Vì thế người này xa lìa, sợ thoái đọa ác đạo. Lại nữa do có điều thiện và tăng trưởng điều thiện cho nên đối với cái vui thường hoan hỷ, do có tâm bi và tăng trưởng tâm bi nên đối vói cái khổ thường hoan hỷ. Vì thế người này xa lìa, sợ thoái mất thiện đạo. Đã khen ngợi phát tâm, tiếp nói nhân phát tâm này được bất tác hộ.

Kệ nói:
Yêu người hơn yêu mình,
Quên mình lợi chúng sinh.
Không vì mình ghét người,
Sao làm nghiệp bất thiện.
Giải thích :

Nếu sơ lược trình bày nghĩa kia, Bồ-tát yêu người hơn yêu mình, do đó quên thân mạng mình vì lợi ích người khác. Không vì lợi mình mà tổn hại người, do đó có thể tuyệt dứt các ác nghiệp đối với chúng sinh.

Đã nói được bất tác hộ, tiếp nói được bất thoái tâm.

Kệ nói:
Quán pháp biết như huyễn,
Quán sinh như vào vườn,
Dầu thành dẫu bất thành,
Hoặc khổ đều không sợ.
Giải thích :

Bồ-tát quán các pháp biết tựa như huyễn, dẫu khi thành tựu, đối vói phiền não không sinh sợ hãi. Bồ-tát quán nơi mình sinh như vào vườn hoa, dẫu khi không thành tựu, đối với khổ não cũng không sinh sợ hãi. Nếu như vậy thì còn ý gì mà thoái tâm Bồ-đề ư ?

Lại có kệ nói:
Tự trang nghiêm, tự ăn,
Vườn hoa và vui chơi,
Như vậy có 4 việc,
Tâm bi không thừa khác.
Giải thích :

Bồ-tát lấy công đức mình mà tự trang nghiêm, lấy sự hoan hỷ lợi tha làm cái ăn của mình, lấy tác ý nơi sinh làm vườn hoa, lấy thần thông biến hóa làm vui chơi. Bốn việc như vậy chỉ Bồ-tát mới có, nhị thừa không có. Bồ-tát đã có 4 việc này làm sao thoái tâm Bồ-đề ?

Đã nói tâm không thoái lui, tiếp ngăn chận tâm sợ khổ.

Kệ nói:
Rất siêng lợi chúng sinh,
Vì đại bi là tính.
Vô gián như chỗ vui,
Đâu còn sợ các khổ.
Giải thích : Bồ-tát lấy đại bi làm thể cho nên rất siêng năng lợi tha, tuy vào địa ngục A-tì như vào chốn vui chơi. Bồ-tát như vậy ở trong các khổ đâu sinh sợ hãi mà vì sợ thoái tâm ư?

Kệ nói:
Đại bi hằng trong tâm,
Người khổ là mình khổ.
Tự nhiên làm nên làm,
Đợi khuyên rất xấu hổ.
Giải thích :

Các Bồ-tát đại bi chính hạnh thường ở trong tâm. Nếu thấy chúng sinh chịu khổ tức mình sinh khổ. Do đạo lý này việc nên làm tự nhiên làm. Nếu đợi thiện hữu khuyên bảo thì sinh rất xấu hổ.

Kệ nói:
Gánh vác thay chúng sinh,
Biếng nhác xấu không tốt.
Để cởi trói mình người,
Phải tinh tiến gấp trăm.
Giải thích :

Bồ-tát phát tâm gánh vác gánh nặng cho chúng sinh, nếu trì hoãn là việc xấu không phải là chúng sinh đoan chính nhất. Bồ-tát phải suy nghĩ. Hoặc mình hoặc người có các thứ trói buộc, nghĩa là sinh hoặc nghiệp, thì phải tinh tiến gấp trăm lần để cời mở trói buộc này, hơn cả việc phải làm của Thanh Văn.

Xong Phẩm phát tâm.


Om Amitabha Hrih
Om Mani Padme Hum
Hình đại diện của người dùng
ThegianVothuong
Bài viết: 403
Ngày: 08/05/12 02:13
Giới tính: Nam
Đến từ: Vô minh

Re: Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận - Bồ Tát Di Lặc

Bài viết chưa xem gửi bởi ThegianVothuong »

Phẩm 6 : Hai lợi
Giải thích : Đã nói về phát tâm, tiếp nói theo phát tâm này tùy thuận tu hành tự lợi lợi tha.

Kệ nói:
Đại y và đại hạnh,
Đại quả thứ lớp nói.
Đại thủ và đại nhẫn,
Đại nghĩa 3 việc thành.
Giải thích :

Đại y, nghĩa là y chỉ Đại Bồ-đề mà phát tâm. Đại hạnh, là vì tự lợi lợi tha mà phát hạnh nguyện lớn. Đại quả, là khiến được vô thượng Bồ-đề như thứ lớp. Đại thủ, là khi phát tâm gồm thâu tất cả chúng sinh. Đại nhẫn, là khi phát tâm tu hành thì nhẫn chịu tất cả cái khổ lớn. Đại nghĩa, là khi đắc quả nghiệp thành tựu rộng lợi ích tất cả chúng sinh.

Đã nói xong thứ lớp, tiếp nói tự tha không sai biệt.

Kệ nói:
Tự tha tâm bình đẳng,
Ái thì thắng hơn kia.
Như vậy có thắng tướng,
Hai lợi nào sai biệt.
Giải thích :

Bồ-tát được tâm tự tha bình đẳng, hoặc do tin mà được, nghĩa là khi thế tục phát tâm, hoặc do trí mà được, nghĩa là khi đệ nhất nghĩa phát tâm. Bồ-tát tuy có tâm này nhưng yêu thân người thì hơn thân mình. Đối với người đã có tưởng thắng hơn như vậy thì không còn phân biệt cái gì là tự lợi, cái gì là lợi tha, vì đều không phân biệt.

Đã nói xong vô sai biệt, tiếp nói lợi tha hơn.

Kệ nói:
Ở đời không nghiệp oán,
Lợi kia hằng tự khổ.
Bi tâm tự nhiên khởi,
Cho nên lợi tha hơn.
Giải thích :

Bồ-tát trong các thế gian nghiệp oán dứt đã lâu. Cho nên hằng vì lợi tha, tự thân chịu các cần khổ là do đại bi làm thể tự nhiên phát khởi. Do đạo lý này thì lợi tha là hơn.

Hỏi: Lợi tha như thế sao nói là tùy thuận ?

Kệ nói:
Khéo nói, khiến quy hướng,
Khiến nhập cũng khiến điều.
Khiển thành cũng khiển trụ,
Khiến giác, khiển giải thoát.
Tập đức và sinh gia,
Được ký và thụ chức.
Đến thành trí Như Lai,
Lấy đó lợi quần sinh.
Giải thích :

Ba loại chúng sinh, nghĩa là trụ ở tính bậc hạ trung thượng. Bồ-tát đúng như chỗ sở trụ mà nhiếp thủ chúng, dùng 13 thứ tùy thuận lợi ích :

1. Khéo nói, do tùy giáo và ký tâm.

2. Khiến quy hướng, do sức thần thông.

3. Khiến nhập, do đã quy hướng rồi có thể khiến tin thụ chính giáo.

4. Khiến điều, do đã nhập vào, đoạn các nghi.

5. Khiến thành, do thành thục thiện căn.

6. Khiến trụ, do dạy dỗ khiến tâm an trụ.

7. Khiến giác, do được trí tuệ.

8. Khiến giải thoát, do được thần thông v.v... các thắng công đức.

9. Tập đức, do gồm khắp phúc trí.

10. Sinh gia, do sinh vào Phật gia.

11. Được ký, do địa thứ 8 thụ ký.

12. Thụ chức, do thụ chức địa thứ 10.

13. Được trí Như Lai, do nhập Phật địa.

Hỏi: Sự tùy thuận này thành lập như thế nào ?

Kệ nói:
Không đảo và không cao,
Không nhiễm và thông đạt,
Năng nhẫn và điều thuận,
Đi xa và vô tận.
Nên biết 8 nghĩa này,
Thành tựu 13 kia.
Giải thích :

Không đảo, là như người đã trụ nơi tính, Bồ-tát tùy cơ thuyết pháp không nói bừa bãi. Không cao, là khi được quy hướng không ỷ thần thông mà tự cao. Không nhiễm, là khi vào chính pháp không nhiễm trước chúng sinh. Thông đạt, là vì đoạn dứt lưới nghi. Năng nhẫn, là vì khéo thành thục. Điều thuận, là tùy thuận dạy dỗ, không dạy dỗ không điều hòa. Đi xa, là tùy thuận sinh gia v.v... không nơi xa nào không đi khiến kia làm được. Vô tận, là Bồ-tát lợi ích chúng sinh tất cả mọi lúc đều không hết hạnh nguyện. Đó gọi là thành tựu.

Hỏi: Tùy thuận này thắng sai biệt như thế nào ?

Kệ nói:
Tập dục rất đáng sợ,
Hữu ái, động mà đảo.
Lạc diệt, đoạn phiền não,
Đại bi, cầu Phật pháp.
Giải thích :

Tập dục, là nói người cõi Dục. Rất dáng sợ, là thân tâm nhiều khổ và hướng đến ác thú. Hữu ái, là nói người cõi Sắc và Vô sắc. Động mà đảo, là chúng yêu thích vô thường nên động, hành khổ nên điên đáo. Lạc diệt, là chi người tự lợi. Đoạn phiền não, là do phiền não nắm giữ nên khổ mãi không dứt. Vì để lìa khổ nên đoạn phiền não mà cầu tịch diệt. Đại bi, là nói người lợi tha. Cầu Phật pháp, là nói người này thường cầu tất cả pháp Phật vì muốn lợi ích tất cả chúng sinh.

Kệ nói:
Thế gian cầu mình vui,
Không vui hằng cực khổ.
Bồ-tát làm người vui,
Hai lợi vui hơn cả.
Giải thích :

Thế gian ngu si thường tìm vui cho mình mà không được vui trờ lại bị cực khổ. Bồ-tát không như vậy, thường siêng năng làm điều vui cho người mà thành tựu 2 lợi, lại được cái vui đệ nhất Đại Niết-bàn. Đây là thắng tùy thuận sai biệt của Bồ-tát.

Đã nói tùy thuận lợi tha, tiếp lấy đây làm hồi hướng chúng sinh.

Kệ nói:
Dị căn nơi dị xứ,
Dị tác có dị hành,
Tất cả việc làm đó,
Hồi hướng lợi chúng sinh.


Giải thích :

Bồ-tát hồi hướng tùy nhãn v.v... các căn, làm nhiều nơi, làm nhiều oai nghi, làm các nghiệp lợi ích chúng sinh. Tất cả các việc làm đó, nếu phù hợp và tương tự đều hồi hướng tất cả chúng sinh, như được nói rộng trong Kinh Hành Thanh Tịnh.

Đã nói về tâm hồi hướng, tiếp ngăn chận tâm bất nhẫn.

Kệ nói:
Chúng sinh không tự tại,
Thường tạo các ác nghiệp.
Nhẫn kia thêm tâm bi,
Không não cũng không trái.
Giải thích :

Chúng sinh bị phiền não làm não loạn tâm không tự tại, cho nên làm các ác nghiệp. Trí tuệ Bồ-tát thường khởi đại nhẫn tăng trưởng đại bi, cho nên đối với chúng sinh không khởi tâm làm não hại, cũng không muốn làm việc gì không tùy thuận.

Đã ngăn chận tâm bất nhẫn, tiếp hiển thị tùy thuận đại.

Kệ nói:
Thắng xuất cùng tịch tĩnh,
Công đức và lợi vật.
Thứ tự y 4 nghĩa,
Nói đại có 4 thứ.
Giải thích :

Chư Bồ-tát có 4 thứ tùy thuận đại :

1. Thắng xuất đại, là vượt trội thoát ra khỏi tam hữu ngũ thú. Như Kinh Bát-nhã Ba-la-mật nói: “ Tu-bồ-đề ! Nếu sắc là hữu pháp không phải vô pháp thì Ma-ha-diễn không thể vượt trội thoát khỏi tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la.”

2. Tịch tĩnh đại, vì tùy hướng vô trụ xứ Niết-bàn.

3. Công đức đại, vì phúc đức trí tuệ 2 nhóm tăng trưởng.

4. Lợi vật đại, vì thường y vào đại bi không bỏ chúng sinh.

Xong Phẩm nhị lợi.


Om Amitabha Hrih
Om Mani Padme Hum
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.1 khách