KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Để giữ gìn sự trang nghiêm, thuần túy tạo nguồn tư liệu; nơi đây chỉ đăng Kinh Văn mà không thảo luận.

Điều hành viên: thử nghiệm global, Thanh Tịnh Lưu Ly

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

TỤNG PHÂN BIỆT TÁM THỨC ĐỂ KHỞI TỰ NGỘ

CHÁNH KINH
Khi ấy Thế Tôn muốn trùng tuyên nghĩa này , nói kệ rằng :
Ví như sóng biển cả,………….. Đây do gió mạnh thổi
Sóng to vỗ biển rộng………….. Không có khi đoạn đứt
Biển Tàng thức thường trụ …… Gió cảnh giới nổi dậy
Lớp lớp các sóng thức ……….. Ào ạt mà chuyển mình.

GIẢNG
Đây là tụng chung nhơn duyên của tàng thức và chuyển thức.
Biển cả dụ cho Tàng thức
Gió mạnh dụ cho cảnh giới lục trần
Sóng mòi dụ cho chuyển thức
Tàng thức làm nhơn, trần cảnh làm duyên, mà bảy thức của thân chuyển.

CHÁNH KINH
Các thứ sắc xanh đỏ………….. Kha, sữa và đường phèn
Vị lạt các hoa quả …………… Nhật nguyệt cùng ánh sáng
Chẳng khác, không chẳng khác….Nước biển nổi sóng mòi
Bảy thức cũng như vậy……….. Tâm cùng hòa hợp sanh.

GIẢNG
Xanh , đỏ thuộc về sắc trần,
kha bối thuộc về thanh trần,
sữa, đường, muối, vị lạt thuộc về vị trần
Hoa thuộc hương trần
Quả thuộc xúc trần
Năm trần này đều do nội thức hiện ra, như nhật, nguyệt cùng ánh sáng chẳng khác, chẳng phải chẳng khác.
Cũng vậy Tàng thức và chuyển thức chẳng khác, chẳng phải chẳng khác, như nước biển và sóng mòi.
(23)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
Ví như nước biển đổi………….. Lớp lớp sóng mòi chuyển
Bảy thức cũng như vậy……….. Tâm cùng hòa hợp sanh
Là chỗ Tàng thức kia …………. Bao nhiêu các thức chuyển
Là do ý thức kia………………… Suy nghĩ nghĩa các tướng
Tướng chẳng hoại có tám…….. Vô tướng cũng vô tướng
Ví như biển sóng mòi………….. Thế là không sai biệt
Các thức tâm như thế…………. Khác cũng không thể được.

GIẢNG
Tàng thức ví như biển nước, chuyển thức ví như sóng mòi, từ tàng thức mà sanh, nên đồng một thể. Tàng thức và chuyển thức đều có 2 tướng: nghiệp tướng và chơn tướng. Nghiệp tướng có hoại, còn chơn tướng thì không hoại. Cho nên nói “Tướng chẳng hoại có 8”. Chỗ này mê thì thấy 8 thức có sai biệt, ngộ thì thấy toàn thể không sai biệt. Mê thì thấy nghiệp tướng của các thức, có thành có hoại, còn ngộ thì thấy chơn tướng của các thức chẳng hoại. Vì mê chơn nên sai biệt khởi, ví như con mắt nhìn lâu thấy hoa đốm, trong đó không có tướng năng, sở. (vì hoa đốm không phải từ cảnh ngoài mà hiện, hoa đốm từ con mắt tự thấy chứ không có thật, nó từ mắt nên không phải năng, không phải sở). Cho nên nói không tướng năng cũng không tướng sở.
Nước biển và sóng mòi đồng một tánh nước, các thức đồng một tánh chơn, không có sai biệt, cũng không có đồng và khác. Mê thì chạy theo tướng thức, ngộ thì thấu suốt thể vọng của các tướng.
(23)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
Tâm tên gom góp nghiệp ……… Ý tên rộng gom góp
Các thức, thức sở thức ………….. Cảnh hiện thấy nói năm

GIẢNG
Tàng thức, mà người ta vẫn lầm nó là tâm, thường huân tập, tích chứa các chủng tử, nên gọi là “gom góp nghiệp”.
Thức thứ bảy là ý căn, hằng xét nét, phân biệt nhơn ngã, chấp ngã, tạo nghiệp. Rộng tạo nghiệp nhơn, chẳng được thanh tịnh. Nên gọi là “rộng gom góp”.
Thức thứ sáu gọi là ý thức, phân biệt năm trần quá khứ, hiện tại, vị lai.
Năm thức sau, đối cảnh hiện tiền, làm rõ năm trần. Tùy theo căn gọi tên.

CHÁNH KINH
Bồ Tát Đại Huệ dùng kệ hỏi Phật
Xanh đỏ các sắc tượng……………….. Chúng sanh phát các thức
Các thứ pháp như sóng……………….. Thế nào cúi xin nói.

GIẢNG
Ngài Đại Huệ sợ rằng chúng sanh chẳng rõ trần cảnh hiện tiền là nội thức biến hiện, chẳng phải có. Bảy chuyển thức vì mê tàng thức mà sanh, chẳng phải không. Cho nên dùng sắc hiện có năng phát như xanh đỏ …., thức hiện có sở phát, như biển, sóng …..thì năng sở mỗi thứ khác, mà nói chẳng khác, chẳng phải chẳng khác, vô tướng, cũng vô tướng đó là sao ? Bởi ngài muốn Thế Tôn phát minh năng, sở đều duy thức hiện, không riêng có vậy.

Sắc, thanh v.v… do tàng thức hóa hiện nên gọi là năng phát, còn bảy thức sau xuất hiện để phân biệt : sắc, thanh v.v…, nên gọi là thức sở phát.
Tuy vậy Tàng thức và bảy thức sau như biển và sóng, cùng một thể.
(24)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
Thế Tôn dùng kệ đáp rằng :
Xanh, đỏ các tạp sắc…………… Sóng mòi đều không có
Gom góp nghiệp nói tâm………. Khai ngộ các phàm phu
Nghiệp kia thảy không có……… Tự tâm sở nhiếp ly
Sở nhiếp, không sở nhiếp ……. Cùng sóng mòi kia đồng
Thọ dụng kiến lập thân………… Là hiện thức chúng sanh
Nơi kia hiện các nghiệp……….. Thí như nước, sóng mòi.

GIẢNG
Đoạn này nói năng sở, tâm cảnh đều do thức hiện. Xanh, đỏ dụ cho tất cả sắc, thanh v.v…, sóng mòi dụ cho tất cả các thức, đều chẳng thật có. Hết thảy các nghiệp đều do tâm tạo, cho nên nói “gom góp nghiệp nói tâm” mà gom góp nghiệp là Tàng thức, hay Tàng thức chính là tâm.
Song nghiệp kia cũng không có. Tất cả chỉ là tự tâm bất giác nên vọng có cảnh sở nhiếp , giống như mắt bênh thấy hoa đốm trong hư không. Hoa đốm này không năng, không sở chẳng phải cảnh cũng chẳng phải là mắt, nó thực không có. Cảnh và Tàng thức cũng lại như thế, nên nói “tự tâm, sở nhiếp ly ”.
Nếu cảnh sở nhiếp đã không thì tâm năng nhiếp cũng chẳng có. Do đó nói “sở nhiếp không sở nhiếp, cùng sóng mòi kia đồng” giống như sóng và nước cùng một thể.
Trước mắt, căn thân và thế giới cũng như sóng và nước, không hai.
(24)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
Bồ Tát Đại Huệ nói kệ hỏi :
Tánh biển cả sóng mòi………….. Nổi dậy khá phân biệt
Tàng cùng nghiệp như thế……… Cớ sao chẳng hiểu biết ?

GIẢNG
Bài kệ này nói: Biển và sóng mòi thì phân biệt có thể thấy, mà Tàng thức và chuyển thức (Nghiệp) khó có thể biết.

CHÁNH KINH
Thế Tôn dùng kệ đáp
Phàm phu không trí huệ……….. Tàng thức như biển cả
Nghiệp tướng ví sóng mòi…….. Y thí kia do hiểu.

GIẢNG
Phàm phu vô trí không thể nói thẳng, nên dùng thí dụ cho Tàng và Chuyển, mong họ tự giác, vì không thể chỉ ra cái chơn thật.

(25)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
Bồ Tát Đại Huệ lại dùng kệ hỏi :
Mặt trời sáng đồng chiếu…….. Chúng sanh hạ, trung, thượng
Như Lai chiếu thế gian……….. Vì ngu nói chơn thật
Đã phân bộ các pháp………… Cớ sao chẳng nói thật.

GIẢNG
Hỏi là Như Lai vì muốn “khai thị ngộ nhập” cho chúng sanh mà xuất hiện ra đời sao chẳng chỉ thẳng chơn thật, mà còn phân bộ các pháp ? (phân bộ là phân thành 5 bộ, 12 bộ). Đâu biết rằng Như Lai nói 5 thừa, 3 thừa đều vì đệ nhất nghĩa đế. Chúng sanh vô trí, không thể chỉ thẳng, mà phải chỉ quanh co, không có ý chỉ gì khác. Cần đợi thời tiết vậy.

CHÁNH KINH
Thế Tôn dùng kệ đáp:
Nếu nói chơn thật đó ………….. Tâm kia không chơn thật
Thí như sóng biển mòi ………… Bóng trong gương và mộng
Tất cả đồng thời hiện…………… Tâm, cảnh giới cũng thế.
Vì cảnh giới chẳng đủ………….. Thứ lớp nghiệp chuyển sanh
Thức ấy thức, sở thức…………. Ý ấy, ý vị nhiên
Năm thức do hiển hiện…………. Không có định thứ lớp.
Thí như ông thợ vẽ……………… Và học trò thợ vẽ.
Vải, màu vẽ các hình…………… Ta nói cũng như thế.
Màu sắc vốn không nét………… Chẳng viết cũng chẳng lụa
Vì vui chúng sanh nên…………. Hòa lẫn vẽ các hình.

GIẢNG
Như Lai chẳng nói thật, vì tâm chúng sanh chẳng chơn thật. Vì có mà chẳng thấy cũng như không có.
Nếu muốn chỉ điểm hiện lượng trước mắt thì chẳng phải tâm, chẳng phải thức, như đem năm màu chỉ cho người mù.
Vì thế Như Lai :
Nơi phi tâm mà chỉ là tâm, dùng thí dụ biển và gương.
Nơi phi thức mà chỉ thức nên thí dụ sóng mòi của biển, hình bóng của gương, cũng như việc trong mộng.
Nghĩa là thức thứ tám chuyển sanh, các thức (biết cảnh) đồng thời hiện.
Bảy chuyển thức nương cảnh mới hiện. Cảnh giới chẳng đủ thì thứ lớp hiện.
Thức thứ 6 phân biệt, thức thứ 7 tác ý , năm thức trước đối với trần, thứ lớp hiện, không nhất định trước sau, như ông thợ vẽ dùng vải và màu mà vẽ thành hình vậy.
Ở đây, Như Lai vẫn không thể chỉ thẳng cái chơn thật, mà dùng lời nói dẫn đường cho chúng sanh. Đây là chỗ siêu hình, bặt ngôn ngữ, Bậc đại trí chẳng để tâm. Phàm phu thì ưa thấy chỗ mê, chỗ ngộ. Như Lai dựa vào chỗ ưa thấy của chúng sinh mà lập các pháp, cũng như thợ vẽ dùng lụa và màu mà vẽ nên hình.
(26)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
Nói năng riêng lập bày ……….. Chơn thật lìa danh tự
Phân biệt hợp nghiệp đầu……. Tu hành bày chơn thật
Chơn thật chỗ tự ngộ…………. Giác tưởng, sở giác lìa
Đây vì Phật tử nói.

GIẢNG
Nói năng vì chơn thật mà lập bày, Đến chỗ chơn thật chỉ có thầm hợp. như người uống nước, nóng lạnh tự biết. Không phải do danh, tướng mà trình bày ra được.
Chơn thật tự ngộ, hiện lượng mà được, ngoài năng giác, sở giác, chẳng phải cảnh giới ấy
Phật vì hàng Bồ Tát mà nói ra.

CHÁNH KINH
Người ngu rộng phân biệt…….. Các thứ đều như huyễn
Tuy hiện không chơn thật…….. Như thế nói các thứ.
Tùy sự riêng lập bày …………. Nói ra không phải hợp.
Nơi kia là chẳng nói…………… Cả thảy người bệnh kia
Thầy thuốc tùy dùng thuốc……. Như Lai vì chúng sanh
Tùy tâm hợp lượng nói ……….. Phi cảnh giới vọng tưởng.
Thanh văn chẳng có phần…….. Người ai mẫn nói ra
Cảnh giới của tự giác.

GIẢNG
Như Lai vì người ngu rộng nói phân biệt, Các pháp đều là huyễn.
Tuy hiện hữu, nhưng không thật. Tuy thế vẫn phải nói.
Tùy sự mà lập bày. Nhưng với chơn thật thì không hợp.
Vì nơi chơn thật kia chẳng thể nói.
Như thày thuốc dùng thuốc tùy theo người bệnh
Như Lai cũng lại như thế, Tùy theo tâm lượng hiểu biết của chúng sanh mà nói pháp. Chẳng phải cảnh giới vọng tưởng.
Người giàu lòng thương xót nói ra cảnh giới của tự giác, tự chứng.
(27)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHỈ THẲNG BA TƯỚNG TỰ GIÁC THÁNH TRÍ.

CHÁNH KINH
Lại nữa, Đại Huệ ! Nếu đại Bồ Tát muốn biết hiện lượng của tự tâm nhiếp thọ, và người nhiếp thọ cảnh giới vọng tưởng, phải lìa chỗ ồn náo, những tập tục ngủ say. Đầu hôm, giữa đêm và gần sáng thường phải giác ngộ. Phương tiện tu hành, phải lìa ác kiến, kinh luận, ngôn thuyết và hành tướng các thừa Thanh Văn, Duyên Giác, phải thông đạt tướng vọng tưởng tự tâm hiện.

GIẢNG
Tất cả cảnh giới vọng tưởng, năng thủ, sở thủ từ hiện lượng của tự tâm bất giác mà khởi. Tuy ở trong tất cả cảnh giới mà cái hiện lượng này chưa từng dời đổi. Chỉ tại trong mê không thể hiểu biết, cho nên nói “Muốn biết hiện lượng của tự tâm nhiếp thọ và người nhiếp thọ cảnh giới vọng tưởng, phải lìa chỗ ồn náo, ngủ say. Đầu hôm, giữa đêm và gần sáng phải tự giác ngộ”, tức là giác ngộ tự tâm vậy.
Hiện lượng của tự tâm ở chỗ vắng dễ giác. Ngoại đạo thì ác kiến, nhị thừa thì ngu pháp, tăng trưởng vọng tưởng, trái ngược với tự tâm, cả hai đều phải lìa. Mới biết tướng của vọng tưởng do tự tâm hiện ra, như thế mà khởi, như thế mà diệt. Phương tiện tu hành, đây là lối thẳng, tắt vậy.

CHÁNH KINH
Lại nữa, Đại Huệ ! Đại Bồ Tát dựng lập tướng trí huệ, trụ rồi ở trên ba tướng Thánh Trí phải siêng tu học.

GIẢNG
Trí huệ là do đối bất giác mà nói. Bất giác tự tâm ắt hàng ngày ở trong hiện lượng mà không thể trụ. Đã giác an trụ vẫn có ba tướng Thánh Trí, nương ngộ cùng tiêu, bi nguyện sẽ viên mãn.
(27)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
Những gì là ba tướng Thánh Trí phải siêng tu học ?
Nghĩa là :
- Tướng vô sở hữu
- Tướng tướng tất cả chỗ, chư Phật tự nguyện (tướng vô trụ chư Phật sở nguyện)
- Tướng tự giác Thánh Trí cứu cánh.
Tu hành được đây rồi hay xả tướng tâm : trí huệ lừa què, được địa thứ tám của bậc Tối thắng tử, ở trên ba tướng kia, do tu hành mà sanh.
Đại Huệ !
- Tướng vô sở hữu ấy là tướng của Thanh Văn, Duyên Giác và ngoại đạo kia, do tu tập mà sanh.
- Tướng tất cả chỗ tự nguyện ấy là chỗ chư Phật trước tự nguyện sanh.
- Tướng tự giác Thánh Trí cứu cánh ấy, là tất cả pháp tướng không có chỗ chấp trước, được thân Như huyễn tam muội, chỗ chư Phật địa tiến thú tu hành mà sanh.
Đại Huệ ! Đây gọi là ba tướng Thánh Trí. Nếu người thành tựu ba tướng Thánh Trí này, hay đến cảnh giới tự giác Thánh Trí cứu cánh. Thế nên Đại Huệ ! ba tướng Thánh Trí này phải nên tu học.

GIẢNG
Thất địa đoạn ngã chấp đã hết, tất cả tâm dứt không còn khởi lại, tương tự với nhị thừa, nên nói là trí lừa què. Vào Bát địa rồi sau mới xả.
- Tướng Vô sở hữu là quán không của nhị thừa. Bồ tát trụ tướng trí tuệ mà vẫn dùng thiền tịnh của nhị thừa để trừ sạch pháp chấp vi tế. Đây gọi là chẳng bỏ phương tiện mà chẳng chấp là thật pháp.
- Tướng Phật trước tự nguyện: Kinh Anh Lạc nói “Chưa qua khổ đế, khiến qua khổ đế. Chưa hiểu tập đế, khiến hiểu tập đế. Chưa an đạo đế, khiến an đạo đế. Chưa được diệt đế, khiến được diệt đế”. Đây là tứ hoằng thệ, y nơi giáo, biệt, viên đều duyên hai thứ “Tứ thánh đế “ hữu tác và vô tác. Đây là tướng Phật trước tự nguyện. Bồ Tát phát tâm không đồng với nhị thừa.
Bồ Tát tu tập tứ thánh đế như thế nào ?
- Đã kinh qua khổ đế, xem như chưa kinh qua, vì sao ? Vì người còn chẳng có (vô ngã) lấy ai kinh qua. Pháp (khổ đế) còn chẳng có, thì kinh qua cái gì.
- Đã hiểu tập đế, nhưng cũng hiểu rằng Nhơn không có, pháp không có thì tập cái gì ? Tập đế cũng chỉ là pháp chấp, xem qua rồi bỏ (qua sông bỏ bè)
- Được đạo, tâm an. xem như chẳng được. Vì sao ? Vì tâm vốn tự an, chưa hề lay động (bất động)
- Được tịch diệt, xem như chẳng được. Vì sao ? vì tâm vốn tịch diệt.
Cho nên Bồ Tát và Thanh văn cùng hành "Tứ Thánh Đế" nhưng cách hành có khác và kết quả cũng khác.
Một bên được quả A La Hán, một bên được Phật quả.
Vì sao vậy ?
Vì một bên căn cứ vào hữu, nên thấy có làm (hữu tác). Một bên làm mà không làm (vô tác) bởi vì biết mọi pháp đều hư dối.
- Tướng tự giác Thánh Trí cứu cánh là ở tất cả chỗ, chứng được cảnh giới tự tâm hiện lượng, đạt tất cả pháp không ngăn ngại, được thân như huyễn viên mãn Phật địa. Đây là sai biệt trí vậy. Chẳng nói sai biệt mà nói Thánh trí cứu cánh, là do sai biệt cứu cánh là căn bản. Trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài Đồng tử trải qua 110 thành học đạo Bồ Tát, rốt sau đi đến chỗ Di Lạc lại khiến trở lại yết kiến Văn Thù . Bảo “Ông trước được gặp các Thiện tri thức, nghe hạnh Bồ Tát, vào môn giải thoát, đầy đủ đại nguyện, đều là sức oai thần của Văn Thù. Văn Thù Sư Lợi ở tất cả chỗ đều cứu cánh”. Cho nên biết , trước trụ tướng trí tuệ, sau siêng tu ba tướng. Ba tướng thành tựu cũng chỉ nói : hay đến cảnh giới tự giác Thánh trí cứu cánh. Bởi vì căn bản trí sáng tột thì các sai biệt, cũng cứu cánh không khác vậy.
(28)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHỈ 5 PHÁP, TỰ TÁNH, VÔ NGÃ, GIẢN BIỆT NHỊ THỪA, NGOẠI ĐẠO ĐỂ RÕ NHƠN QUẢ CỦA CHÁNH PHÁP.

CHÁNH KINH
Đại Huệ hỏi :
Khi ấy Bồ Tát Đại Huệ biết chỗ tâm nghĩ của chúng đại Bồ Tát tên thánh trí sự phân biệt tự tánh kinh, nương oai thần của tất cả Phật, bạch Phật rằng :
Thế Tôn ! cúi xin vì nói thánh trí, sự phân biệt tự tánh kinh là chỗ nương của 108 câu. Như Lai Ứng cúng, Đẳng Chánh giác y đây phân biệt nói Đại Bồ Tát vào tự tướng cộng tướng, tự tánh vọng tưởng. Do phân biệt nói tự tánh vọng tưởng thì hay khéo biết , khắp quán sát nhơn-pháp vô ngã, trừ sạch vọng tưởng, soi sáng các địa, siêu việt tất cả Thanh văn, Duyên giác và những cái thiền định của ngoại đạo. Quán sát cảnh giới sở hành bất khả tư nghì của Như Lai, quả quyết lìa bỏ năm pháp tự tánh. Pháp thân trí tuệ của chư Phật Như Lai khéo tự trang nghiêm. Khởi cảnh giới huyễn, lên tất cả cõi Phật, thiên cung Đâu Suất , cho đến thiên cung sắc cứu cánh, liền được pháp thân thường trụ của Như Lai.

GIẢNG
Đây là hỏi tự tánh vọng tưởng, để hiển thánh trí. Thấy khác, chấp tà bởi do mê tự tánh mà thành vọng tưởng. Tức là ở chỗ không tự-tha, một lúc liền có tự tướng, cộng tướng hiện bày. Như nhãn thức, ban đầu thấy sắc liền được tự tướng nhãn thức, vừa phân biệt liền thành cộng tướng. Đây đều là cảnh giới bất giác vọng tưởng. Tất cả Bồ Tát vì đây mà thị hiện các thứ sai biệt đã có ở thế và xuất thế gian, để kiến lập thành 108 câu.
Bồ Tát vọng tưởng không khác tự tánh, đây là việc thánh trí, liền đạt cộng tướng vọng tưởng không thể được. (Vì vọng tưởng của Bồ Tát không khác tự tánh nên cộng tướng vọng tưởng không thể lập). Tất cả Bồ Tát cũng không bỏ các thứ sai biệt đã có ở thế và xuất thế gian mà được chỗ thầm bày của “phi 108 câu”. ( tức 108 câu không thành lập) . Đó là lý do Như Lai phân biệt nói “tự tánh vọng tưởng”. Vọng tưởng này không riêng có tự tánh. Thế mới biết “Tự tánh vốn tự không nhơn, tự tánh vốn tự không pháp. Không nhơn, không pháp nên hay trừ sạch vọng tưởng, chẳng cần dụng công. Soi sáng các địa mà không ngại viên dung, vượt khỏi cái vui thiền định của phàm phu ngoại đạo, vào chỗ sở hành của Như Lai. Danh tướng, vọng tưởng, y tha, biến kế liền đó chóng không. Chánh trí, như như, viên thành cũng không thật có. Pháp thân trí tuệ chư Phật Như Lai này từ tự tánh vọng tưởng mà phát minh tâm lượng. Có sự trang nghiêm đều là trang nghiêm tự tâm, liền chuyển cảnh giới tự tâm hiện ra. Hiện cõi nước như huyễn lên thiên cung như huyễn. Chẳng lìa tự tâm được pháp thân cứu cánh thường trụ của Như Lai.
(29)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

PHÁ NGOẠI ĐẠO VỌNG CHẤP CÓ – KHÔNG

CHÁNH KINH
Phật bảo Đại Huệ : Có một thứ ngoại đạo khởi vọng tưởng chấp trước có – không, nhơn giác tri hết, tưởng như thỏ không sừng. Như thỏ không sừng, tất cả pháp cũng lại như vậy. Đại Huệ ! Lại có ngoại đạo thấy chủng, cầu na, cực vi đà la phiếu, hình xứ, hoành pháp mỗi mỗi sai biệt. Thấy rồi chấp trước thỏ không sừng hoành pháp , khởi tưởng trâu có sừng. Đại Huệ ! Kia rơi vào hai kiến chấp, chẳng hiểu tâm lượng. Cảnh giới tự tâm vọng tưởng tăng trưởng. Thân thọ dụng kiến lập vọng tưởng căn lượng. Đại Huệ ! tất cả pháp tánh cũng lại như thế , lìa có – không, chẳng nên khởi tưởng. Đại Huệ ! Nếu lại lìa có-không mà khởi tưởng thỏ không sừng, ấy gọi là tưởng tà, vì kia quán nhơn đối đãi. Thỏ không sừng, chẳng nên khởi tưởng, cho đến vi trần, tánh phân biệt sự, thảy dều không thể được. Đại Huệ ! Cảnh giới Thánh ly, không nên khởi trâu có sừng.

GIẢNG
Đây là chỉ rõ không đạt được tự tánh vọng tưởng, nên có ngoại đạo tà chấp. Vọng tưởng từ bất giác tâm lượng mà khởi. Tâm không phải tướng động, do bất giác vọng sanh. Vọng sanh chẳng phải có, vọng diệt chẳng phải không. Có – không cả hai đều vọng, luống tăng thêm bất giác, chẳng phải cái gốc tâm lượng. Thế nên chẳng rõ tướng sanh mới kẹt nơi vô minh, lầm chấp căn thân, khí giới ắt rơi vào nhơn thường. Dù có quán nhơn hết lại trôi vào đoạn diệt. Đây là thỏ không sừng, cùng với trâu có sừng , bởi vì đối đãi mà tưởng sanh. Tuy ở trong chánh pháp vẫn chưa dễ gì liền đó chóng lìa. Bởi tâm lượng bản hữu chưa tròn thì mê tình bất giác khó hết. Biết rõ hiện tiền chẳng phải có, rỗng lặng chẳng phải không, mà đương niệm chưa tạm thấy, tưởng lặng lẽ vẫn thầm lớn. Nên nói lìa có-không mà lại khởi tưởng thỏ không sừng.

(do không hiểu “tự tánh vọng tưởng”, nên vọng tưởng từ vô minh mà khởi. Tâm (tức tạng thức) do vô minh vọng sanh. Do vọng sanh nên tâm chẳng phải có, do vọng thấy diệt nên tâm chẳng phải không. Có sanh, có diệt đều là vọng. Chấp có-không, sanh-diệt đều làm tăng thêm vô minh, chẳng phải nguồn gốc của tâm. Chấp có thân, có thế giới là chấp thường, Dùng quán để phá chấp có lại rơi vào đoạn diệt. Thế gọi là chấp thỏ không sừng, chấp trâu có sừng, do tưởng đối đãi. Tuy vẫn ở trong chơn tánh mà không lìa vọng tưởng. Bởi chưa biết nguồn tâm thì vô minh khó hết. Biết rõ cảnh hiện tiền chẳng phải có, thấy rỗng lặng biết chẳng phải không, mà không thấy niệm hiện tiền, thì vọng tưởng vẫn âm thầm lớn. Cho nên dù có lìa có hoặc không mà chưa thoát khỏi vọng tưởng).

Tóm lại quán không bởi vì kẹt hữu. Đã tin rõ là huyễn thì đâu cần phải làm cho không. Có chẳng thể được thì không từ đâu mà đối đãi ? Thế nên “Cảnh giới Thánh ly, cứu cánh không nên khởi tưởng trâu có sừng.
Đoạn văn :
(ngoại đạo thấy chủng, cầu na, cực vi đà la phiếu, hình xứ, hoành pháp mỗi mỗi sai biệt)
chữ chủng là tứ đại chủng.
Cầu na là y theo
Vi đà la phiếu là vi trần
Hoành pháp là các pháp bày ra.
Ngoại đao thấy tứ đại chủng y theo vi trần làm sanh nhơn, các pháp sắp bày mỗi mỗi sai biệt nên chấp thỏ không sừng (chấp có) mà lại khởi tưởng trâu có sừng (tưởng không).
(30)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
Bồ Tát Đại Huệ bạch Phật :
Thế Tôn ! người được không vọng tưởng, thấy tướng chẳng sanh, rồi tùy đó suy nghĩ, quán sát, chẳng sanh vọng tưởng nói là không sanh chăng ?

GIẢNG
Người thấy tướng chẳng sanh , nghĩa là thấy sừng trâu không có thật, chẳng sanh tướng có, do đây so sánh chẳng khởi vọng tưởng. Đây là tột nhơn chấp không của ngoại đạo.

CHÁNH KINH
Phật bảo Đại Huệ !
Chẳng phải quán sát, chẳng sanh vọng tưởng nói không. Vì cớ sao ? vì vọng tưởng nhơn đó mà sanh. Y sừng kia sanh vọng tưởng, do y sừng sanh vọng tưởng, thế nên nói là y nhơn. Vì lìa khác và chẳng khác, chẳng phải quán sát, chẳng sanh vọng tưởng nói là không sừng.

GIẢNG
Việc ngoài thánh trí thấy có, thấy không đều là nhơn vọng tưởng, nên phải lìa. Vọng tưởng y nơi sừng mà chấp có-không, đây là do phân biệt có-không làm nhơn, nó không phải là chánh nhơn, khác và chẳng khác đều là hý luận. Y nơi sừng khởi vọng tưởng có là chẳng khác, y nơi sừng khởi vọng tưởng không là khác, đều là nhơn vọng tưởng, cả hai đều không thật. Thế nên người được thánh trí ắt không quán sát chẳng sanh vọng tưởng, nói không sừng vậy.
(30)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.5 khách