KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Để giữ gìn sự trang nghiêm, thuần túy tạo nguồn tư liệu; nơi đây chỉ đăng Kinh Văn mà không thảo luận.

Điều hành viên: thử nghiệm global, Thanh Tịnh Lưu Ly

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHỈ RA CHỦNG TÁNH VONG TƯỞNG TRÍ, NHƯ SAI BIỆT

CHÁNH KINH
Lại nữa Đại Huệ ! có năm vô gián chủng tánh. Thế nào là năm ? Là :
- Thanh văn thừa vô gián chủng tánh
- Duyên giác thừa vô gián chủng tánh
- Như Lai thừa vô gián chủng tánh
- Bất định chủng tánh
- Các biệt chủng tánh

GIẢNG
Dựng lập chủng tánh để làm rõ chỗ sai biệt của thánh trí, đều có thể chuyển làm cứu cánh. Vô gián là pháp tánh không gián đoạn, mà chủng tử và hiện hạnh mỗi loại có khác. Do chủng tử từ vô thủy huân tập cùng hiện hạnh mà tạo thành chủng tử. Chủng tử là chủng loại, có đồng, có biệt. Tánh là tánh y nơi chủng mà trụ, nên nói “Tập dữ tánh thành”. Năm chủng tuy khác mà đồng một pháp tánh. Kinh Niết Bàn nói “Xiền đề đều có Phật tánh, nếu hay phát lòng tin thì không gọi xiển đề”.

CHÁNH KINH
Thế nào là Thanh văn thừa vô gián chủng tánh ?
Nếu khi nghe nói được ấm, giới, nhập tự tướng, cộng tướng đoạn liền biết, toàn thân lông dựng lên, an ổn vui mừng và ưa tu tướng trí, chẳng tu tướng duyên khởi phát ngộ, ấy gọi là Thanh văn thừa vô gián chủng tánh.
Thanh văn vô gian thấy đệ bát địa , khởi phiền não đã dứt, còn tập phiền não chưa dứt, không qua khỏi được bất tư nghì biến dịch tử, đã qua phần đoạn tử. Khi ấy như sư tử rống, nói “Ta sanh đã hết, phạm hạnh đã xong, chẳng thọ thân sau, biết như thật, tu tập nhơn vô ngã, cho đến được giác, nhập Niết Bàn”.

GIẢNG
- Đoạn liền biết , là đoạn ấm- giới- nhập, tự tướng, cộng tướng liền được chứng biết.
- Ưa tu tập tướng trí là nơi tướng thế gian tu trí giải thoát, nơi tướng xuất thế gian tu trí thiền định .
- Duyên khởi phát ngộ là quán duyên khởi vô sanh mà ngộ.
- Vô gián Thanh văn thấy đệ bát địa : Kinh Hoa Nghiêm nói “Bát địa chứng ngã không chơn như chẳng khởi diệt định, mười phương Như Lai đồng âm khuyến phát, bảo : Tam muội của ông nhị thừa cũng được “. Cho nên vô gián Thanh Văn thấy chỗ chứng của mình đồng với bát địa vậy.
- Khởi phiền não là hiện hạnh. Tập phiền não là chủng tử. Nhị thừa đoạn hiện hạnh mà chẳng đoạn chủng tử. Qua phần đoạn tử mà chưa qua biến dịch tử.
- Nhơn vô ngã là nhơn tướng của nhị thừa, nhập Niết bàn là quả tướng của nhị thừa.

(41)
Sửa lần cuối bởi binh vào ngày 04/09/16 14:49 với 1 lần sửa.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
Đại Huệ ! các biệt vô gián là : ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng trưởng dưỡng sĩ phu. Các chúng sanh kia khởi giác như thế, cầu vào Niết Bàn. Lại có ngoại đạo khác nói thay do tác giả, thấy tất cả tánh rồi, nói đây là vào Niết Bàn. Khởi giác như thế, đối với pháp vô ngã, họ vô phần, họ không có giải thoát.
Đại Huệ ! Đây là chư Thanh văn thừa vô gián ngoại đạo chủng tánh, chẳng xuất mà tưởng là xuất. Vì chuyển ác kiến cho những người này nên phải tu học.

GIẢNG
- Các biệt này, ở sau nói là Nhất xiển đề. Hiểu biết ngã, nhơn, thọ mạng v.v…là nhận tướng ngã trong năm uẩn.
- Tác giả: Riêng có tác giả làm sanh nhơn, tức là dị nhơn.
Ngoại đạo này chẳng biết duy tâm, vọng cho có cảnh bị biết. Phàm ngoài tâm mà thấy có Niết Bàn thì cùng chánh pháp xa nhau, đều gọi là xiển đề, đối với pháp vô ngã họ không có phần.
- Thế nên biết Thanh văn và ngoại đạo đều chẳng phải giải thoát, mà khởi tưởng giải thoát. Cho nên nói chẳng xuất mà tưởng là xuất. Cần chuyển tà kiến kia, nên tu học.

CHÁNH KINH
Đại Huệ ! Duyên giác thừa vô gián chủng tánh, nếu nghe nói mỗi cái duyên khác vô gián, toàn thân lông dựng lên, rơi lệ dầm dề, duyên chẳng gần nhau, có chỗ chẳng chấp các thứ tự thân , các thứ thần thông, hoặc ly hoặc hiệp, các thứ biến hóa. Khi nghe nói lời ấy, tâm họ tùy nhập. Nếu biết họ là Duyên giác thừa vô gian chủng tánh rồi, tùy thuận vì họ nói duyên giác thừa. Ấy gọi là tướng Duyên giác thừa vô gián chủng tánh.

GIẢNG
Duyên giác quán 12 nhơn duyên mà được đạo. Mười hai nhân duyên ba đời xoay quanh, nên nói vô gián.
Duyên chẳng gần nhau, có chỗ chẳng chấp, đây là nói họ tin chắc rất thâm thiết. Duyên giác độ sanh phần nhiều dùng sức thần thông, chẳng dùng lời nói. Đây là đối trị cảnh giới chúng sinh, mà chẳng phải chính là cảnh giới chúng sinh, lấy làm cảnh giới bất tư nghì, đó là lý do cùng đại thừa sai biệt.

(42)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
Đại Huệ ! Như Lai thừa vô gián chủng tánh kia có bốn thứ :
1) Tự tánh pháp vô gián chủng tánh
2) Ly tự tánh pháp vô gián chủng tánh
3) Đắc tự giác tánh vô gián chủng tánh
4) Ngoại sát thù thắng vô gián chủng tánh
Đại Huệ ! Nếu người nghe bốn việc này, khi nói mỗi thứ, và khi nói tự tâm hiện thân tài kiến lập cảnh giới bất tư nghì, tâm không kinh sợ, ấy gọi là tướng Như Lai thừa vô gián chủng tánh.

GIẢNG
- Tự tánh pháp là pháp thân Như Lai
- Ly tự tánh pháp là giải thoát Như Lai
- Tự giác tánh là Bát nhã trí Như Lai
- Ngoại sát thù thắng là hóa thân Như Lai. Có đại hóa và tùy loại hóa, mỗi thứ có hiện cõi nước .
Như Lai tự giác thánh trí chứng được, thấy tự tâm hiện ra tất cả chúng sanh, thế giới, lìa ngôn ngữ và suy nghĩ, bất khả tư nghì. Nghe lời này mà chẳng kinh sợ thì biết người ấy là pháp khí đại thừa.

CHÁNH KINH
Đại Huệ ! bất định chủng tánh là khi nói ba chủng tánh kia , tùy nghe nói mà vào, tùy kia mà thành.
Đại Huệ ! Đây là sơ trụ địa, là chủng tánh kiến lập, vì tiến lên vào vô sở hữu địa, tạo ra kiến lập ấy. Kia tự giác tàng, tự phiền não tập sạch, thấy pháp vô ngã, được trụ tam muội ưa trụ Thanh văn, sẽ được thân tối thắng Như Lai

GIẢNG
Bất định là trước kia không có chủng tập các thừa, cho nên hay tùy nói mà vào. Nói chủng tánh sai biệt vốn vì người mới vào Bồ tát địa, khuyên họ tiến lên cứu cánh, chẳng để họ rơi vào quyền tiểu, mà lại khuyến dụ quyền tiểu phát tâm đại thừa. Chẳng phải bảo chủng tánh quyết không thể dời đổi vậy.
Tàng tức là tàng thức, nghĩa là hay chứng biết thức thứ tám là Như Lai tàng thì khi phiền não tập kia được sạch, tự nhiên thấy được pháp vô ngã, tuy ưa trụ tam muội của Thanh văn, đều có thể được thân tối thắng của Như Lai.

(43)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
Khi ấy Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này, nói kệ :

Quả Tu đà bàn na Vãng lai và bất hoàn
Đến được A La Hán Ấy thảy tâm hoặc loạn

GIẢNG
- Tu đà bàn na dịch là nhập lưu, là sơ quả mới vào dòng thánh.
- Vãng lai là nhị quả, tư hoặc chưa hết, lại phải một phen qua cõi trời, một lần trở lại nhơn gian mới vào Niết Bàn.
- Bất hoàn là tam quả, chín phẩm tư hoặc đã hết, chẳng trở lại dục giới.
- A La Hán dịch là vô học, là quả thứ tư, bốn trí đã tròn không còn pháp gì phải học.
Những vị này đều sợ sanh tử khổ mà cầu Niết Bàn, ái tập chưa hết nên nói là hoặc loạn.

CHÁNH KINH
Tam thừa và nhất thừa Phi thừa ta đã nói
Ngu phu ít trí huệ Chư Thánh xa lìa tịch

GIẢNG
Tam thừa là Thanh văn, Duyên giác, bất định. Nhất thừa là Như Lai thừa. Phi thừa là các biệt, thảy vì ngu phu ít trí. Chư Thánh lìa tịch, muốn kia chóng xả sai biệt vậy.

CHÁNH KINH
Pháp môn đệ nhất nghĩa Xa lìa nơi nhị giáo
Trụ nơi vô sở hữu Sao dựng lập ba thừa.

GIẢNG
Pháp Đệ nhất nghĩa, duy một chơn thật, không có hai và ba. Tức nơi tự tánh không sự, nên nói trụ nơi vô sở hữu.

CHÁNH KINH
Chư thiền, vô lượng thảy Vô sắc, tam ma đề
Thọ, tưởng đều tịch diệt Cũng không có tâm lượng

GIẢNG
- Chư thiền là tứ thiền.
- Vô lượng là tứ vô lượng tâm
- Vô sắc là vô sắc định
- Tam ma đề là đẳng trì tam muội
- Diệt thọ tưởng là vô tưởng cùng diệt tận định.
Đây riêng bày duy tâm, nên nói tất cả đều không.

(43)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

E – CHỈ VỌNG TƯỞNG, TRÍ, NHƯ BÌNH ĐẲNG ĐỂ HIỂN BÀY XIỂN ĐỀ PHẬT TÁNH CHẲNG ĐOẠN.

CHÁNH KINH
Đại Huệ ! Nhất xiển đề kia, phi nhất xiển đề, thế gian giải thoát ai chuyển ? Đại Huệ ! Nhất xiển đề có hai thứ :
1) Bỏ tất cả thiện căn và nơi vô thủy chúng sinh phát nguyện.
Thế nào là bỏ tất cả thiện căn ? Nghĩa là chê bai Bồ Tát Tạng, và nói lời ác “Đây không phải nói theo kinh điển”, vì bỏ tất cả thiện căn nên không được vào Niết Bàn.

GIẢNG
- Xiển đề này tức là các biệt chủng tánh ở trước. Nói xiển đề mà kèm nói nói Bồ tát phương tiện, là khiến biết Bồ tát thương xót chúng sanh tùy loại mà hiện để nhiếp hóa người đồng sự
- Thế gian giải thoát ai chuyển là không có Niết bàn. Đây là chỉ chung cho hai thứ, căn cứ theo duy tâm mà nói, nên đều có thể nói “phi nhất xiển đề”. Nếu phân biệt hai thứ thỉ bỏ tất cả thiện căn, là không tin tự tâm.
- Chê bai Bồ Tát Tạng là trái với thành Niết bàn.
- Thương xót chúng sanh phát nguyện chẳng nhập là vì thâm đạt tự tâm chớ không phải không tánh Niết bàn. Chẳng khá nói lẫn lộn.

CHÁNH KINH
2) Bồ tát vì tự nguyện phương tiện xưa chẳng phải vào Niết Bàn, vì tất cả chúng sinh mà vào Niết bàn.
Đại Huệ ! Kia vào Niết bàn, ấy gọi là chẳng vào pháp tướng Niết bàn. Đây cũng là đến cõi nhất xiển đề.

GIẢNG
Đấy là thương xót chúng sinh chẳng vào Niết bàn, vì tự nguyện phương tiện. Chẳng phải chẳng vào Niết bàn là thấy chúng sinh đã vào Niết bàn, vì không giác biết luống chịu luân chuyển. Vì thương xót họ mà chẳng khởi chứng, ấy cũng đến cõi nhất xiển đề.

( có 2 loại nhất xiển đề:
Một là vì đoạn tất cả thiện căn, chê bai đại thừa, nói rằng không phải kinh điển Phật dạy.
Hai là vì thương xót chúng sinh, chẳng chịu khởi chứng để vào Niết bàn. Vì nguyện xưa “Tất cả chúng sinh vào Niết bàn, mới vào Niết bàn”.)
(44)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
Đại Huệ bạch Phật :
Thế Tôn ! trong đây vì sao cứu cánh chẳng vào Niết Bàn ?
Phật bảo Đại Huệ :
Bồ tát nhất xiển đề biết tất cả pháp xưa nay đã vào Niết bàn, cứu cánh chẳng vào Niết bàn, mà chẳng phải như nhất xiển đề bỏ tất cả thiện căn.
Đại Huệ ! nhất xiển đề bỏ tất cả thiện căn, lại nhờ thần lực Như Lai có khi sanh thiện căn. Vì cớ sao ? Vì Như Lai chẳng bỏ tất cả chúng sanh. Vì lẽ đó, Bồ tát nhất xiển đề chẳng vào Niết bàn.

GIẢNG
- Tất cả pháp xưa nay đã Niết bàn, cứu cánh chẳng vào Niết bàn là : Các pháp như như, không có tướng mình, tướng người, không có tướng ngôn thuyết.
- Chứng tự giác thánh thú là : thấy tự tâm hiện ra thân tài kiến lập, thảy là cảnh giới bất khả tư nghì. Nhưng cảnh giới này mỗi người đầy đủ. Chỉ do bất giác không thể chứng biết, bèn thành thế đế lưu bố . Cho nên nhất xiển đề bỏ tất cả thiện căn, nhưng do thần lực của Như Lai, có khi thiện căn sanh. Đây tuy là bản nguyện của Như Lai, cũng do Phật tánh chẳng dứt, trong ngoài huân phát, thực có nhơn duyên. Bồ tát xiển đề do đó chẳng vào Niết bàn, ở lại để độ chúng sanh.

CHÁNH KINH
Nói về ba tự tánh
Lại nữa Đại Huệ ! Đại Bồ tát phải rành về ba tự tánh.
Thế nào là ba tự tánh ?
Là vọng tưởng tự tánh, duyên khởi tự tánh, viên thành tự tánh.

GIẢNG
Tự tánh cũng gọi là thể tánh. Khéo biết ba thứ thể tánh, liền hay từ duyên khởi đạt được biến kế, trở về viên thành chỉ một sát na.

(45)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
Đại Huệ ! vọng tưởng tự tánh từ tướng sanh
Đại Huệ bạch Phật :
Thế Tôn ! tại sao vọng tưởng tự tánh từ tướng sanh ?
Phật bảo Đại Huệ :
Tướng duyên khởi tự tánh sự tướng, tướng hành hiển hiện sự tướng, chấp trước có hai thứ vọng tưởng tự tánh. Như Lai ứng cúng đẳng chánh giác kiến lập: Danh tướng chấp trước tướng, sự tướng chấp trước tướng.
- Danh tướng chấp trước tướng là nói chấp trước các pháp trong ngoài.
- Sự tướng chấp trước tướng là, kia chấp trước tự tướng cộng tướng, trong ngoài như thế.
Ấy gọi là hai thứ tướng vọng tưởng tự tánh. Hoặc y, hoặc duyên sanh, ấy là duyên khởi.

GIẢNG
Vọng tưởng tự tánh từ tướng sanh. Tướng này là hai thứ tướng duyên khởi, tức là danh tướng của năm pháp. Tự tánh sự là danh, hành hiển sự là tướng. Như nhơn bình được tên “bình”, nhơn trong bình trống chứa nước được tướng cái bình. Do đây khởi chấp trước tên bình, tướng bình, là hai thứ vọng tưởng. Ấy gọi là hai thứ vọng tưởng tự tánh tướng.
Pháp trong ngoài tức là trong uẩn và ngoài uẩn tất cả các căn trần, nên nói chấp danh.
Pháp tự tướng cộng tướng trong ngoài, gọi là chấp tướng. Đâu biết chấp trước chưa sanh, danh tướng do ai lập ?
Suy ra, hai tướng duyên khởi không nhơn , ngộ tự tánh vọng tưởng là do chấp, thì đạt được như như. Thành tựu trí viên thành nào đợi gì khác.

(do duyên khởi, chấp trước
- tự tánh sự là danh
- hành hiển sự là tướng
là hai thứ vọng tưởng)

CHÁNH KINH
Thế nào là thành tự tánh ?
Nghĩa là lìa vọng tưởng, danh tướng, và sự tướng, thánh trí đã được và tự giác thánh trí thú cảnh giới sở hành. Ấy gọi là thành tự tánh Như Lai tàng tâm.

GIẢNG
Đây nói về thành tự tánh, cũng chẳng vượt ngoài đạt được danh tướng là như như, rõ vọng tưởng là chánh trí. Tự giác thánh trí thú cảnh giới sở hành là như như.
Nghĩa là lìa danh tướng vọng tưởng, do trí nhập như, bản giác, thủy giác hiệp một, ấy gọi là thành tự tánh Như Lai tàng tâm.
(45)
Sửa lần cuối bởi binh vào ngày 10/09/16 18:13 với 1 lần sửa.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
Khi ấy Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này, nói kệ rằng :
Danh tướng giác tưởng Tự tánh hai tướng
Chánh trí như như Ấy là thành tướng
Đại huệ ! Ấy gọi là quán sát ngũ pháp tự tánh tướng kinh, tự giác thánh trí đến cảnh giới sở hành. Các ông, những đại Bồ tát phải nên tu học.

GIẢNG
Nhơn quan sát năm pháp mà được cảnh giới thật tướng của ba tự tánh. Đây là phi tự giác thánh trí, không thể chứng biết, viên thành hạnh kia. Đây là chỗ thánh lạc hạnh, Bồ tát phải nên tu học.


NHƠN VÔ NGÃ
CHÍNH KINH
Lại nữa, Đại Huệ ! Đại Bồ tát phải khéo quán hai thứ tướng vô ngã. Thế nào là hai thứ tướng vô ngã ? là nhơn vô ngã và pháp vô ngã.
Thế nào là nhơn vô ngã ? Là lìa ngã và ngã sở, ấm giới nhập hợp, vô minh nghiệp ái sanh. Nhãn sắc v.v… nhiếp thọ chấp trước sanh thức, tất cả các căn tự tâm hiện. Thế giới chúng sanh là tướng tự vọng tưởng của tàng thức thành lập, hiển bày. Như dòng sông, như chủng tử, như đèn, như gió, như mây, sát na lần lượt hoại. Thô động như khỉ vượn, ưa chỗ bất tịnh như ruồi,lằn, không nhàm chán như gió thổi lửa. Nhơn tập khí hư ngụy từ vô thỉ như bánh xe đạp nước. Sanh tử lăn lộn trong các cõi, thọ các thứ thân sắc. Như huyễn thuật, thần chú, máy động hình đi. Khéo biết tướng kia gọi là nhơn vô ngã.

GIẢNG
Đây là đáp câu hỏi về nhơn vô ngã. Bởi chấp ấm-giới-nhập họp thật có ngã sở, thành tướng nhơn ngã. Nếu lìa ngã và ngã sở thì ấm - giới - nhập liền đó không nhơn (gốc).
Vô minh nghiệp ái sanh, đây là nói chỗ sanh khởi ban đầu của ấm-giới-nhập. Bèn có nhãn, nhĩ …,các thức nhiếp thọ tất cả sắc, thanh …, Song tất cả chúng sanh, thế giới đều do tự tâm hiện, do tàng thức hư vọng lập bày, chẳng có thật thể.
Dòng sông, chủng tử, ngọn đèn, gió,mây biến đổi trong từng sát na.
Ba thí dụ sau để nói mê lầm, cuồng vọng của tự ngã.
Do cái hư ngụy từ vô thỉ này mà luân chuyển sanh tử như bánh xe nước, xoay vần chẳng dừng.
Thân sắc máy động cũng như huyễn thuật, như bùa chú, như máy móc ở trong điều khiển, thật không có chủ tể.
Nhị thừa tuy biết lìa ngã, ngã sở, chứng chơn vô ngã, mà chẳng biết do tàng thức lập bày, đều là tự tâm hiện, nên không thể ngay đây mà phát minh cảnh giới bất tư nghì. Nhơn vô ngã này chính là đệ nhất nghĩa.

(47)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

NÓI VỀ PHÁP VÔ NGÃ

CHÁNH KINH
Thế nào là pháp vô ngã trí ?
Nghĩa là giác ấm- giới- nhập tướng vọng tưởng tự tánh. Như ấm-giới-nhập lìa ngã và ngã sở. Ấm-giới-nhập chứa nhóm, nhơn nghiệp ái ràng buộc, lần lượt duyên nhau sanh, không diêu động, các pháp cũng vậy. Lìa tướng vọng tưởng , sức vọng tưởng tự tướng, cộng tướng chẳng thật. Đây là phàm phu sanh, chẳng phải thánh hiền. Vì tâm, ý, ý thức ba tự tánh lìa. Đại Huệ ! Đại Bồ tát phải khéo phân biệt tất cả pháp vô ngã.

GIẢNG
Pháp ấm-giới-nhập không tự tánh, do tướng vọng tưởng mà làm tự tánh. Chính nơi đây giác biết liền lìa ngã sở. Đã có vô minh phát nghiệp, ái thủ tiếp nối, lần lượt duyên sanh mà lý bản trụ (chơn tánh) vẫn không diêu động. Mới biết tất cả pháp tự tướng, cộng tướng đều lìa. Bởi vọng tưởng hư ngụy vọng thấy có tướng làm tăng trưởng sức vọng. Phàm phu mê chấp chẳng đạt được cội nguồn pháp. Chơn như không tánh, tâm pháp đồng nguồn, bờ cõi vọng phân không thể gạn cùng. Nếu đạt vọng tưởng do nơi bất giác, mới rõ muôn pháp cứu cánh như như .Tâm, ý, ý thức bất giác như không hoa, đâu cần dẹp trừ. Năm pháp, ba tánh như như, thể lặng lẽ nào nhọc chuyển biến. Phàm phu vọng có, nhị thừa phân tích thành không, đều thành pháp chướng. Đây vẫn chẳng nói không ấm-giới-nhập, mà nói như ấm-giới-nhập. Về tự tâm hiện lượng, không thể dùng trí mà biết.

CHÁNH KINH
Khéo rành pháp vô ngã, Đại Bồ tát chẳng bao lâu sẽ được sơ địa. Bồ tát vô sở hữu quán tướng địa, quán sát khai giác hoan hỷ thứ lớp tiến lên, vượt đến tướng cửu địa, được Pháp vân địa . Nơi kia dựng lập vô lượng bảo trang nghiêm, hoa sen báu lớn, voi chúa, cung điện báu lớn, cảnh giới huyễn tự tánh do tu tập sanh. Ngồi nơi kia đồng một loại với các vị tối thẳng tử, quyến thuộc vây quanh. Từ tất cả cõi Phật đến, Phật lấy tay làm phép quán đảnh, như thái tử con vua chuyển luân làm phép quán đảnh. Vượt địa vị Phật tử, đến tự giác thánh trí pháp thú, sẽ được pháp thân tự tại Như Lai, vì thấy pháp vô ngã. Ấy gọi là tướng pháp vô ngã, Đại Bồ tát các ông phải nên tu học.

GIẢNG
Vô sở hữu cùng hoan hỷ đều là tướng sơ địa. Pháp vân là thập địa. Từ địa này hiện ra cõi nước đều là cảnh giới tự tánh huyễn, do vì tu sanh. Đến vượt Phật tử địa mới đến tự giác thánh thú. Nếu đạt tự tâm hiện, thấy thân tài dựng lập đều là cảnh giới bất tư nghì. Chóng vào tự giác thánh thú liền vượt lên các địa, trong sát na chứng biết chẳng do thứ lớp, mới biết pháp chơn vô ngã.

(47)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHỈ THIỆN PHÁP VÔ NGÃ CÓ HAI :

CHÁNH KINH
1) lìa dựng lập phỉ báng
Khi ấy Đại Huệ Bồ tát lại bạch Phật :
Thế Tôn ! tướng dựng lập phỉ báng, cúi mong Thế Tôn nói, khiến con và chư đại Bồ tát lìa ác kiến hai bên dựng lập và phỉ báng, chóng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Giác rồi lìa kiến chấp thường (là kiến lập), đoạn (là phỉ báng), để không chê bai chánh pháp.

GIẢNG
Dựng lập và phỉ báng là hai kiến chấp có và không. Duy chánh pháp mới hay lìa nó.
Nhị thừa thấy ngoài tâm có pháp vẫn phải phá trừ. Ngoài uẩn biết chơn, còn chẳng khỏi xu hướng, huống là ngoại đạo.
Do đó , tự giác thánh trí xa lìa hai bên, dạy bảo Bồ tát. Đây là nhơn chơn thật của Bồ Đề.

CHÁNH KINH
Thế Tôn nhận lời Bồ tát Đại Huệ thỉnh rồi, vì nói kệ :
Dựng lập và phỉ báng Không có tâm lượng kia
Thân thọ dụng dựng lập Và tâm không thể biết
Ngu si không trí tuệ Dựng lập và phỉ báng

GIẢNG
- Hai kiến chấp có - không là ngoài tâm vọng chấp.
- Không có tâm lượng kia là có - không chẳng phải chỗ tột, cấu thành tâm lượng
Muôn pháp như mộng, một phen mê sanh ra. Trong mộng, chúng sanh và thế giới chẳng phải chỗ biết của tâm. Muốn đem sai biệt của việc mộng, toan nói thật về giác tâm thì khác nào vẽ hình dáng hư không, chỉ thêm ngu si.

CHÁNH KINH
Thế Tôn nói nghĩa của kệ này, muốn lập lại cho rõ ràng, bảo Đại Huệ ! Có bốn thứ chẳng phải có, mà có dựng lập. Thế nào là bốn ? Nghĩa là
- chẳng có tướng dựng lập
- chẳng có kiến dựng lập
- chẳng có nhơn dựng lập
- chẳng có tánh dựng lập.
Ấy gọi là bốn thứ dựng lâp. Lại phỉ báng là đối với sở lập kia không có chỗ được, quán sát không nhận được bèn khởi phỉ báng. Ấy gọi là tướng dựng lập phỉ báng.

GIẢNG
Tự tâm hiện lượng vốn không tướng mà dựng lập tướng, vốn không kiến mà dựng lập kiến, vốn không nhơn mà dựng lập nhơn, vốn không tánh mà dựng lập tánh. Đây đều do không biết tự tâm hiện lượng, cho nên chỗ dựng lập đều không có nghĩa thật. Bởi không có nghĩa thật bèn sanh phỉ báng thì không khác với dựng lập. Hai lối chấp này đối với tự tâm hiện lượng cách nhau quá xa.

Các pháp đều do tự tâm khởi vọng, hiện ra. Do đó chúng không có tự tánh, không có tướng riêng, không có nhơn, không tự thấy.
Nhưng nếu lại chấp rằng chúng là không có thật (tức chấp không) thì lại rơi vào đoạn kiến. Cả hai thứ chấp có, chấp không đều cách xa tự tâm hiện lượng.
(48)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
Lại nữa, Đại Huệ ! Thế nào là chẳng có tướng dựng lập tướng ?
Nghĩa là ấm-giới-nhập chẳng có tự tướng, cộng tướng mà khởi chấp trước, đây như thế, đây chẳng khác. Ấy gọi là chẳng có tướng dựng lập tướng. Chẳng có tướng mà dựng lập, đây là do lỗi vọng tưởng hư ngụy từ vô thỉ, các thứ tập khí chấp trước mà sanh.

GIẢNG
Từ đây về sau bày rõ vốn không tướng v.v… mà khởi chấp trước tướng v.v… Ấm-giới-nhập vốn không tự tướng, cộng tướng mà khởi chấp trước tự tướng, cộng tướng. Nên bảo “pháp ngã chấp cứng không buông”, do đó chánh văn nói “đây như thế, đây chẳng khác”. Song đều do mê Như Lai Tàng mà có nghiệp tướng, chuyển tướng, các thứ hư ngụy. Lại chạy theo căn thức dẫn khởi các thứ tập khí. Đây là suy nguyên bởi do chấp trước mà sanh.

CHÁNH KINH
Đại Huệ ! chẳng có kiến dựng lập tướng là ấm-giới-nhập kia như thế, chấp ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng, trưởng dưỡng sĩ phu dựng lập. Ấy gọi là chẳng phải có kiến dựng lập tướng.
Đại Huệ ! chẳng có nhơn dựng lập tướng là thức ban đầu không nhơn sanh, sau chẳng thật như huyễn vốn, chẳng sanh nhãn, sắc, minh, giới, niệm trước sanh, sanh rồi, thật có rồi trở lại hoại. Ấy gọi là chẳng có nhơn tướng dựng lập.

GIẢNG
Kiến tức là ngã kiến nơi ấm-giới-nhập, nên gọi là nhơn ngã.
Thức ban đầu không nhơn sanh là mê tàng làm thức, do đó có nghiệp tướng, chuyển tướng , đều là việc trong mê, in tuồng sanh mà chẳng có nhơn sanh.
Đã in tuồng tức chẳng thật, như huyễn, vốn là chẳng sanh. Do nhãn thức, sắc, minh in tuồng sanh tiếp nối, nối rồi lại dứt. Nói tóm lại, chẳng có nhơn, vọng chấp làm nhơn, mà khởi ra dựng lập.

CHÁNH KINH
Đại Huệ ! chẳng có tánh dựng lập tướng là hư không, diệt tận, Bát Niết bàn, chẳng phải làm ra, chấp trước tánh dựng lập. Những thứ này lìa tánh phi tánh. Tất cả pháp như sừng thỏ, ngựa v.v… như thấy tóc rũ, lìa có và chẳng phải có. Ấy gọi là chẳng có tánh dựng lập tướng. Dựng lập và phỉ báng là ngu phu vọng tưởng, chẳng khéo quan sát tự tâm hiện lượng, không phải thánh hiền. Thế nên lìa ác kiến dựng lập phỉ báng, nên phải tu học.

GIẢNG
- Hư không, diệt tận, niết bàn chẳng phải tánh làm ra, vọng chấp tánh làm ra, ấy là chẳng có tánh dựng lập.
- Lìa tánh phi tánh là lìa có và không. Đã chẳng phải tánh làm ra tức là lìa có. Không do đối đãi với có nên lìa có tức là lìa chẳng phải có (không)
Xét kỹ mà nói thì tất cả pháp đều lìa có và không, như sừng thỏ, ngựa… như tóc rũ. Cho nên biết dựng lập và phỉ báng đều là vọng chấp của ngu phu, chẳng phải người khéo quan sát tự tâm hiện lượng, không thể thâm đạt được thật tướng, cần phải tu học.

(49)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

2) Tiến đến cứu cánh độ thoát
CHÁNH KINH
Lại nữa, Đại Huệ ! Đại Bồ tát khéo biết tướng tâm, ý, ý thức năm pháp, ba tự tánh, hai vô ngã, tiến đến cứu cánh. Vì an chúng sinh nên hiện các thứ hình loại, như chỗ vọng tưởng tự tánh, y nơi duyên khởi. Thí như các sắc hiện trong bảo châu như ý, Bồ tát hiện ở tất cả cõi nước chư Phật, tất cả Như Lai có đại chúng nhóm họp, thảy đều ở trong ấy nghe nhận Phật pháp. Nên nói tất cả pháp như huyễn, như mộng, bóng trong nắng, trăng đáy nước, nơi tất cả pháp lìa sanh – diệt, đoạn – thường và lìa pháp Thanh văn, Duyên giác, được trăm ngàn tam muội cho đến trăm ngàn ức na do tha tam muội. Được tam muội rồi, dạo đi đến cõi nước chư Phật, cúng dàng chư Phật, sanh trong các thiên cung để tuyên dương tam bảo. Thị hiện thân Phật có Thanh văn, Bồ tát vây quanh, dùng tự tâm hiện lượng độ thoát chúng sanh, phân biệt diễn nói ngoại tánh là không tánh, thảy khiến xa lìa kiến chấp có, không v.v…

GIẢNG
Đây là tổng kết Bồ tát phải khéo biết tướng tâm-ý-ý thức năm pháp, ba tự tánh, hai vô ngã. Vì khéo biết tướng này nên hay trụ tự tâm hiện lượng, tiến đến chỗ cứu cánh. Nghĩa là cứu cánh hiện lượng chẳng bị kiến chấp phàm thánh làm hạn lượng, mới có thể tùy thời xuất hiện tự tại vô ngại. Nhiên hậu vì an chúng sanh, thị hiện các thứ hình loại như huyễn, hiện các thứ cõi nước như huyễn, được các thứ tam muội như huyễn, sanh trên các cung trời như huyễn, hiện các thứ thân Phật như huyễn, họp các thứ Bồ tát, Thanh văn như huyễn, nói các thứ pháp như huyễn, độ các thứ chúng sanh như huyễn, đều do tự tâm hiện lượng, xa lìa kiến chấp có-không v.v… tiến đến cứu cánh. Tự tâm hiện lượng này ở trong vị mê, y nơi duyên khởi mà khởi các vọng tưởng, cũng mỗi thứ như huyễn như mộng, như bóng trong nắng, như trăng đáy nước, lìa các thứ có-không, cũng lìa pháp Thanh văn, Duyên giác v.v… chỉ do bất giác không thể chứng biết. Người giác được tự tâm hiện lượng hay tạo ra, hiện ra. Chính ở trên nói “Như chỗ vọng tưởng tự tánh, y nơi duyên khởi” là cứu cánh hiện lượng vậy.

CHÁNH KINH
Khi ấy Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này , nói kệ rằng :

Tâm lượng thế gian …………………… Phật tử quán sát
Các thân chủng loại……………………. Lìa hành sở tác
Được sức thần thông…………………... Thành tựu tự tại

GIẢNG
Kệ nói tâm lượng thế gian và các chủng loại thân tướng đều lìa tánh tạo tác. Bồ tát quán nơi đây liền hay ở bên trong phát lực thông thành tựu tự tại. Đây vẫn là đạt tự tánh vọng tưởng, y nơi duyên khởi, trong khoảng sát na, thức, trí chuyển biến, thể đồng mà dụng khác.
(50)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.8 khách