KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Để giữ gìn sự trang nghiêm, thuần túy tạo nguồn tư liệu; nơi đây chỉ đăng Kinh Văn mà không thảo luận.

Điều hành viên: thử nghiệm global, Thanh Tịnh Lưu Ly

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

KINH VĂN

Đại Huệ ! Hiện thức và phân biệt sự thức, hai thức này tướng hoại và chẳng hoại lần lượt làm nhơn cho nhau. Đại Huệ bất tư nghị huân và bất tư nghị biến làm nhơn của Hiện thức.

GIẢNG
Tướng hoại của Hiện thức là các pháp đều hư vọng, không thực.
Tướng hoại của Phân biệt sự thức là các căn.
Ta biết rằng Chơn như không tánh, niệm niệm bất giác, huân tập thành vô minh. Do đây tam tế tạo thành Hiện thức và phân biệt sự thức.
Nếu cho rằng Hiện thức (Alaya) chẳng hoại nhận lầm nó là nhơn chơn thực, chẳng biết nó là thức lưu trú, liền vọng sanh chấp ngã (mạt na). Thức mạt na này xem các bóng dáng tiền trần trong alaya làm của nó, gọi là ý thức.

Hiện thức do niệm niệm bất giác, huân tập tạo thành, tuy là toàn vọng, nhưng xét mỗi niệm cũng đều là không, thì ta biết : ngay đó nó vẫn là chơn. Do đó trong chỗ sai biệt vốn có chơn tướng không sai biệt.
Khi mê thì hết thảy là toàn vọng. Khi ngộ thì hết thảy là toàn chơn.

KINH VĂN
Đại Huệ! Do nhận lấy các trần cảnh và vọng tưởng huân tập từ vô thỉ là nhơn của phân biệt sự thức.

GIẢNG
Phân biệt sự thức cũng là chơn thức, do sáu trần bên ngoài hợp với kiến phần bên trong, mà cho 7 thức là thật ngã, tạo thành Nhơn tướng (hình người) của phân biệt sự thức. Chẳng biết là do mê chơn tâm mà vọng tưởng, biến nội thức thành dường như hiện tiền. Lại chấp nhận cái hiện tiền ấy mà phát huy hư vọng. Nên kinh Lăng Nghiêm nói “Tự tâm thủ tự tâm, phi huyễn thành pháp huyễn”. Tức là do thủ chấp mà chơn tâm, biến thành các pháp hiện tại (pháp huyễn).
(14)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

KHI NGỘ, CHƠN CHẲNG DIỆT.
CHÁNH KINH
Đại Huệ ! Nếu trở lại chơn thức thì các thứ chẳng thật, các thứ hư vọng ấy diệt, tức là tất cả căn thức diệt, thế thì danh tướng diệt.

GIẢNG
Tự mê chơn thức làm hiện thức, chơn như Phật tánh bởi bất giác mà khởi ra kiến phần, tướng phần là các thứ hư vọng, chẳng thật. Do vậy căn thức lưu chuyển , không thể tự giác. Bỗng nhiên biết trở về thì những thứ hư vọng như nước sôi chế trên băng . Căn - trần, tâm - thức đồng thời tiêu sạch. Đến đây chỉ còn lại chơn thức, không còn thức nào khác.
Các thứ hư vọng chẳng thật là chỉ cái tướng của 8 thức.
Căn thức là thức tướng của 7 thức trước.
Khi sanh thì thức lưu trú sanh trước. Khi diệt thì các tướng diệt trước.
Khi trở về chơn, liền đó được tròn khắp (viên mãn), không có thứ lớp. Song việc đốn ngộ và việc trừ các căn và dục không phải là một., nên cũng còn phải tiệm tu (hành bố)

CHÁNH KINH
Đại Huệ ! Thức tương tục diệt, bởi nhơn tương tục diệt thì thức tương tục mới diệt. Do chỗ theo diệt ( chỗ theo tức bất giác) và duyên diệt nên thức tương tục diệt.
Đại Huệ ! bởi tại sao ? Vì là chỗ nương theo của nó diệt. Chỗ nương theo của nó là do vọng tưởng từ vô thỉ huân tập. Duyên là kiến phần, tướng phần v.v…thức cảnh vọng tưởng của tự tâm.

GIẢNG
Tương tục tức là lưu trú. Lưu trú là do các tướng hư vọng chẳng thật làm nhơn. Đây là vọng tưởng từ vô thỉ huân tập. Lấy tướng tất cả căn thức làm kiến phần, thức cảnh vọng tưởng của tâm làm tướng phần, là duyên. Nhơn diệt thì lưu trú tự diệt. Nhơn của chỗ theo diệt nên duyên cũng diệt. Nhơn duyên thảy đều diệt nên lưu trú tự diệt.
Tóm lại mê thì chơn biến thành lưu trú. Bởi vì Như Lai tàng chẳng giữ tự tánh, nên không thể tự trở lại được. Tánh lưu trú này động liền sanh kiến phần, tướng phần gọi là hư vọng. Lại lấy cái hư vọng làm chỗ nương.
Thức tánh mênh mang, không chỗ nương tựa, bèn lấy kiến, tướng vọng động của mình làm chỗ nương nhờ (gọi là nhơn nương) . Vì nương theo hư vọng này nên biến ra in tuồng có căn thức, lại lấy căn thức làm duyên. Thức tánh mênh mang không chỗ dẫn phát, bèn lấy căn thức của mình biến hiện làm chỗ dạo chơi. Nên gọi là duyên hiện.
Mới biết hai tướng nhơn-duyên nuôi lớn thức lưu trú. Hai tướng có thể hoại mà chơn tướng của thức lưu trú chẳng hoại, chỉ tại trong mê không thể tự giữ. Vì thế chỉ gọi là lưu trú, chẳng gọi là chơn. (chỉ khác ở chỗ trở lại và không trở lại). Cho nên ngộ thì lưu trú liền chơn, bỗng nhiên biết đường trở về, chóng quên chỗ nương tựa.
Do đó Bồ Tát có ra đời, chẳng nhờ duyên mà hiện. Vì thế nên nói tướng diệt, thì thức lưu trú đến đây mới cứu cánh diệt. Mê thì hai tướng hoại và chẳng hoại làm nhơn. Ngộ thì lưu trú và tướng cùng nhau giải thoát. Song cốt tại chỗ mê – ngộ vọng phân chứ chơn tánh không khác. (Chỗ này là lý do người trí đương nhiên tự hợp).

(15)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

KINH VĂN
Này Đại Huệ ! ví như khối đất với vi trần, chẳng phải khác, chẳng phải không khác, vàng và các món trang sức cũng lại như vậy.
Đại Huệ ! Nếu khối đất và vi trần khác thì khối đất không phải do vi trần làm thành, vì thế nên chẳng phải khác. Nếu chẳng khác thì khối đất và vi trần không sai khác.

GIẢNG
Đây là dụ cho chơn tướng của Tàng thức và chuyển thức chẳng phải một, chẳng phải khác, để rõ chuyển thức diệt mà tàng thức chẳng diệt. Ngoại đạo chấp đoạn kiến (cho rằng chết là hết, chuyển thức và Tàng thức cùng diệt) chỉ vì không biết nhơn sanh của thức lưu trú. Cho nên giữ chơn thì cũng giữ vọng, bỏ vọng thì gồm chơn cùng bỏ. Khi mê ngộ chưa phân, lúc ấy một hay khác khó nói vậy.

KINH VĂN
Như thế Đại Huệ ! Chuyển thức và chơn tướng của Tàng thức, nếu khác thì Tàng thức không phải là nhơn. Nếu chẳng khác thì Chuyển thức diệt, Tàng thức cũng phải diệt, mà chơn tướng của nó thật chẳng diệt.
Thế nên, Đại Huệ ! Chẳng phải tự chơn tướng diệt, chỉ nghiệp tướng diệt mà thôi.
Nếu Chơn tướng diệt thì chẳng khác ngoại đạo chấp đoạn kiến.

GIẢNG
Hiện thức tức tàng thức, còn Phân biệt sự thức tức chuyển thức, cả hai nương nhau sanh khởi, nên chẳng phải khác. Song khi chuyển thức diệt thì chơn tướng của Tàng thức chẳng diệt, nên cũng chẳng phải một. Khi mê thì chơn biến làm tàng, chơn tướng hằng ở trong nghiệp tướng của Tàng thức. Khi ngộ thì nghiệp tướng tiêu dung, Tàng vốn Chơn.
Cho nên nghiệp nhơn mê mà có, Tàng do ngộ mà dẹp trừ. Nói Tàng thức diệt chỉ là nghiệp tướng diệt, chẳng phải chơn tướng diệt.
(16)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

BÁC TÀ, ĐOẠN VỌNG CÓ – KHÔNG
CHÁNH KINH
Lại nữa Đại Huệ ! Vọng tưởng ba cõi khổ diệt được thì vô minh, ái, nghiệp, duyên liền diệt. Lúc đó cảnh huyễn do tự tâm hiện ra theo đó mà thấy.

GIẢNG
Ba cõi là dục giới, sắc giới và vô sắc giới đều là cõi khổ, đều là huyễn hoặc, do vô minh, tham ái cùng các duyên khác tạo ra. Vô minh và tham ái tạo nghiệp trói buộc trong sinh tử. Ba thứ hoặc (vô minh), nghiệp, khổ đều duy tâm hiện ra. Người đời không biết, chấp cho là thật, vọng sanh phân biệt. Hoặc lại khởi hoặc, khổ càng thêm khổ, mắc sâu vào trong hư vọng, không thể tạm bỏ.

CHÁNH KINH
Đại Huệ ! Kia hoặc chấp tương tục, hoặc sự, hoặc sanh, hoặc hữu, hoặc Niết Bàn, hoặc đạo, hoặc nghiệp, hoặc quả, hoặc đế đều là luận phá hoại, đoạn diệt. Vì cớ sao ? vì lời chấp này hiện tiền không thể được, và sẽ vô phần đối với chỗ thấy cứu cánh.
Đại Huệ ! ví như cái bình bể không làm được việc của cái bình, cũng như hạt giống bị cháy không thể làm được việc nảy mầm.

GIẢNG
Chấp tương tục tức chấp các thức lưu trú, chấp sự tức sự tướng, chấp sanh tức chấp nhơn duyên sanh diệt, chấp hữu tức chấp có.
Đây là chấp các pháp thế gian.
Từ Niết Bàn đến Đế (Đệ Nhất Nghĩa) là các pháp xuất thế gian.
Các pháp thế gian và xuất thế gian đều do tự tâm hiện ra, huyễn vọng không thật. Nếu chấp nó là nhơn hay là quả , chấp là có hay là không đều sai. Đều đi vào mê lầm, nên nói “Không thể được”.
Nếu chấp như trên đều không thể thấy được cứu cánh, chơn tướng của các pháp, nên nói giống như cái bình bể, như hạt giống bị cháy.

(17)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH

Như thế Đại Huệ ! Nếu tánh ấm, giới, nhập đã diệt, hiện diệt, sẽ diệt thì tự tâm vọng tưởng thấy vô nhơn kia không thứ lớp sanh.

GIẢNG
Vì ngoại đạo không biết rằng lấy lưu trú làm nhơn, sanh thức tương tục, Cái tương tục này do mê tánh chơn mà khởi, căn trần theo đó mà hiện. Căn trần tuy diệt mà tương tục chẳng diệt. Tương tục tuy diệt mà thể tương tục chẳng diệt. Nghĩa là chỉ có nghiệp tướng diệt, mà chơn tướng chẳng diệt.
Ngoại đạo vì chấp các thức lưu trú là thực, chấp sự tướng là thật có. Cho rằng khi các căn sanh thì ấm, giới nhập cũng sanh, các căn diệt thì ấm, giới nhập cũng diệt.
Cho là thật sanh thì không biết rằng do mê chơn như mà khởi.
Cho là thật diệt thì chẳng rõ cái thể tự tánh vô sanh.

CHÁNH KINH
Đại Huệ ! nếu lại nói vô chủng, hữu chủng, thức do ba duyên hợp lại mà sanh thì rùa cũng sanh lông, cát ép ra dầu.
Thuyết hữu chủng, vô chủng sai lầm như thế, nếu có tạo ra cái gì, thẩy đều là không, vô nghĩa

GIẢNG
Tất cả căn, trần đều do nội thức biến dường như hiện tiền, như do duyên hợp, chẳng phải là không. Nhưng do mê khởi chẳng phải là có. Vốn là lý vô sanh, mà lầm chấp là nhơn tướng (chơn như vốn vô sanh, nhưng mê lầm mà chấp là chơn như sanh muôn pháp). Cũng như rùa vốn không có gốc lông mà sanh lông, cát không có gốc dầu mà sanh dầu. Chuyện vô lý.

GHI CHÚ
Chấp pháp giới tự nhiên mà có , không có sanh nhơn (nguồn gốc), gọi là hữu chủng
Chấp pháp giới do vô minh sinh ra, xưa nay không có, gọi là vô chủng.

(17)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

E – CHỈ BÀY LÌA VỌNG ĐƯỢC CHỨNG

CHÁNH KINH
Đại Huệ ! Nếu Sa môn và bà la môn (người tu tại gia) lìa chấp tự tánh, như mây nổi, như vòng lửa, thành càn thát bà, không sanh, huyễn, sóng nắng, trăng đáy nước, và như mộng, trong ngoài đều do tâm hiện. Vọng tưởng hư ngụy từ vô thỉ chẳng lìa tự tâm. Nhơn duyên vọng tưởng diệt hết thì lìa vọng tưởng năng thuyết - sở thuyết, năng quán – sở quán, thọ dụng, kiến lập thân đều là tàng thức. Nơi cảnh giới thức thì năng nhiếp thọ và sở nhiếp thọ dều chẳng tương ưng. Cảnh giới không thực có, lìa sanh, trụ, diệt tự tâm sinh khởi vào chỗ phân biệt.
Đại Huệ ! Bồ Tát kia chẳng bao lâu sẽ được xem thấy sanh tử và Niết Bàn là bình đẳng, được Đại Bi xảo phương tiện và vô khai phát phương tiện. Đại Huệ ! Kia đối với tất cả chúng sanh giới đều xem như mộng chẳng cần nhơn duyên, xa lìa cảnh giới trong ngoài, ngoài tâm không còn thấy gì khác, thứ lớp tùy vào chỗ vô tướng, thứ lớp tùy vào từ địa này đến địa kia, cảnh giới tam muội.

GIẢNG
Chẳng biết rằng do mê khởi, nên vọng thấy pháp sanh. Nếu hiểu được các pháp là vọng, là hư dối thì xem đồng với huyễn hóa. Nếu cái thấy sai biệt bỗng nhiên không thì trí, bi thuận tánh vô ngại.
Nếu người ta đổi mê thành ngộ thì thấy tất cả pháp đều không tự tánh, như mây nổi, như vòng lửa v.v… không có sanh diệt. Ta thấy có tâm, có tướng trong ngoài chỉ bởi bất giác hư vọng từ vô thỉ, chẳng biết rằng toàn thể đều là tâm, không có phân biệt.
Nếu khởi quán như thế thì tất cả tâm, cảnh phân biệt liền dứt.
Quán căn thân, thế giới hiện tiền đều là tàng tức biến hiện. Liền cùng với năng thủ, sở thủ đều không tương ưng, không còn tất cả cảnh giới sinh diệt. Về sau mới từ tự tâm hiện lượng mà khởi tất cả các cảnh phân biệt. Do đó Bồ Tát này chẳng bao lâu sẽ được sanh tử, Niết Bàn cả hai đều bình đẳng, nếu có lập ra phương tiện đều là vô công dụng sự (không khởi nghiệp)
Quán chúng sanh giới duyên khởi là vô sanh , xa lìa tâm cảnh trong ngoài, không thấy có pháp gì ngoài tâm. Vào được sơ địa, vô phân biệt trí. Từ đây sẽ dần dần chứng nhập các địa.
(18)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
Hiểu tam giới như huyễn , phân biệt quán sát sẽ được “Như huyễn tam muội“. Qua tự tâm hiện không chỗ có, được trụ Bát nhã ba la mật. Xả bỏ sanh kia tạo ra phương tiện vào “Kim Cang tụ tam ma đề” (chánh định), tùy vào thân Như Lai, tùy vào như như có biến hóa, thần thông tự tại, từ bi phương tiện đầy đủ trang nghiêm. Bình đẳng vào tất cả cõi Phật, vào chỗ ngoại đạo, lìa tâm, ý, thức. Bồ Tát này thứ lớp chuyển thân liền được thân Như Lai.

GIẢNG
Đây là tướng từ Bát địa đến Thập địa. Bát địa đoạn câu sanh, ngã chấp hết, chứng vô công dụng đạo, việc làm đều dứt. Mười phươmg chư Phật đồng thanh khuyến phát , mới dùng như huyễn quán mà quán tam giới như huyễn, được như huyễn tam muội.
Qua được tự tâm không hiện chỗ có tức là vô công dụng đạo, chính là hành tướng của Bát địa. Đến Cửu địa mới hay thuyết pháp lợi sanh, đến Thập địa mới hay phân thân mười phương, kính thờ chư Phật. Nói là được vô ngại Bát nhã ba la mật.
“Sanh” kia là chỉ cho sanh tướng vô minh. Từ Thập địa về sau dùng ‘Kim Cang tụ định” mà đoạn “sanh tướng vô minh”, chứng pháp thân Như Lai thường trụ , tự nhiên có bất tư nghì nghiệp dụng , đầy đủ phương tiện, đầy đủ trang nghiêm, vào khắp tất cả cõi Phật và vào chỗ ngoại đạo. Nên nói “Trên , cùng mười phương chư Phật đồng một từ lực, dưới, cùng lục đạo chúng sanh đồng một bi ngưỡng”. Đến đây mới gọi là lìa tâm, ý, thức được quả phương tiện nhị chuyển y. Bồ tát này chóng ngộ được tự lý, trừ sạch nghiệp lưu. Cả hai đều thù thắng, cho nên nói”thứ lớp được”.

CHÁNH KINH
Đại Huệ ! Thế nên muốn được thân tùy nhập của Như Lai, phải xa lìa ấm, giới, nhập, tâm nhân duyên tạo ra phương tiện, sanh trụ diệt vọng tưởng, hư dối. Chỉ có tâm thẳng tiến , quán sát lỗi hư ngụy từ vô thỉ, nhơn tập khí vọng tưởng. Suy nghĩ ba cõi không thật có, được Phật địa vô sanh, đến tự giác thánh trí, tự tâm tự tại, đến vô khai phát hạnh, như hạt châu ma ni tùy theo các sắc. Tùy nhập tâm vi tế của chúng sanh dùng hóa thân tùy tâm vô lượng mà độ. Các địa thứ lớp lớp dựng lập. Thế nên Đại Huệ ! Tứ tất đàn là thiện, phải nên tu học.

GIẢNG
Thân Như Lai tùy nhập vào tất cả hữu tình thế giới và vô tình thế giới. Muốn được thân Như Lai phải xa lìa : 5 ấm, 18 giới, 6 nhập, tâm nhơn duyên là thức tâm vọng tưởng câu chấp 2 bên, khởi ra hết thảy phương tiện. xa lìa sanh, trụ, diệt là các thứ vọng tưởng, hư dối. Cứ thế mà thẳng tiến, không lối rẽ. Tức là dùng tâm này quán sát lỗi vô minh phát nghiệp , cùng phân biệt nhơn - pháp, tất cả tập khí khởi ra nhơn tướng. Suy xét tam giới như huyễn, đạt đến Phật địa vô sanh, đến tự giác thánh trí, được tâm tự tại, vô công dụng hạnh. Như hạt châu ma ni tùy các sắc, tùy nhập tâm chúng sanh, dùng hóa thân tùy chỗ thọ lượng của tâm chúng sanh mà vì họ hóa độ. Từ đó, các địa Bồ Tát thứ lớp dựng lập.
Đó là 4 tất đàn trong pháp thí, phải nên tu học.
Tóm lại, tu hành thì trước phải phát minh nhị biên (có-không, sanh-diệt v.v…) đều do bất giác từ vô thỉ, đều là hư dối. Trụ nơi duy tâm liền trừ được tập khí đã khởi và 2 cái chướng nhơn-pháp, mới biết ba cõi vốn không, liền đó được vô sanh, chẳng do dụng công.
(19)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

ĐẠI HUỆ THƯA HỎI

CHÁNH KINH
Khi ấy Bồ Tát Đại Huệ lại hỏi Phật :”Thế Tôn nói tướng tâm, ý, thức năm pháp, ba tự tánh, việc sở hành của tất cả chư Phật, Bồ Tát, cảnh giới sở duyên chẳng hòa hợp do tự tâm hiện v.v..hiển bày tất cả, thuyết thành tướng chân thật” tất cả Phật nói Tâm. Vì các Đại Bồ Tát ở trên núi Ma La Đa nằm trong biển thuộc nước Lăng Già nói “Như Lai khen ngợi biển sóng tàng tức cảnh giới pháp thân”.

GIẢNG
5 pháp là : danh, tướng, vọng tưởng, chánh trí, như như .
3 tự tánh là : biến kế chấp, y tha khởi, viên thành (còn gọi là : vọng tưởng, duyên khởi, viên thành)
5 pháp, 3 tự tánh ở trong tâm, ý, thức , y theo mê – ngộ mà chuyển biến.

Khi mê thì chánh trí trở thành vọng tưởng,
như như chuyển làm danh, tướng,
viên thành lầm làm biến kế chấp và y tha khởi

Ngộ thì danh tướng tức là như như
Vọng tưởng thành chánh trí
Biến kế và y tha chuyển hiện viên thành

Trong khoảng sát na chân, vọng lẫn lộn, danh khác mà thể đồng.
Một tâm chuyển biến thành tướng khác (mê) và chẳng khác(ngộ), thành tựu biển sóng tàng thức cảnh giới pháp thân.
Biển sóng tàng thức cảnh giói pháp thân là hiện tượng của tự tâm, toàn vọng, toàn chơn, chẳng phải chỗ suy lường mà biết được.

Câu "tất cả Phật nói tâm" tức là tất cả chư Phật đều dạy về tâm.
(20)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

PHÂN BIỆT NHÂN DUYÊN BẤT GIÁC CỦA TÂM THỨC

CHÁNH KINH
Khi ấy Thế Tôn bảo Bồ Tát Đại Huệ :
Vì có bốn nhân duyên nên nhãn thức chuyển. Thế nào là bốn ? Nghĩa là :
1) Tự tâm bất giác hiện nhiếp thọ
2) Lỗi hư ngụy từ vô thỉ do tập khí chấp trước sắc
3) Thức tánh tự tánh
4) Muốn thấy các thứ sắc tướng.
Này Đại Huệ ! đó gọi là bốn thứ nhơn duyên dòng nước tàng thức và sóng chuyển thức sanh.

GIẢNG
1) Như Lai tàng bởi bất giác nên hiện nhiếp thọ. Nhiếp thọ có kiến phần và tướng phần. Kiến phần là năng nhiếp, Tướng phần là sở nhiếp. Nếu chẳng phải bất giác thì tâm có lỗi sanh ra thức.
2) Hư ngụy từ vô thỉ tức là cái sở hiện của bất giác. Do bất giác hiện nên biến giống như trần cảnh, bèn thành cái tập khí sắc, thanh v.v…
3) Thức có công năng liễu biệt sự vật, sẵn có tánh phân biệt nên gọi là thức tánh.
4) Muốn thấy tức là tác ý

Bốn thứ nhơn duyên chung cho 8 thức sanh khởi, Nhơn thứ nhất chỉ bất giác làm nhơn cho tàng thức để rõ thức chẳng rời tâm. Nước dụ cho tâm, tàng thức dụ cho dòng nước, chuyển thức dụ cho sóng mòi.

CHÁNH KINH
Này Đại Huệ ! như nhãn thức sanh các căn, vi trần, lỗ chân lông đồng thời sanh. Theo thứ lớp, cảnh giới sanh cũng lại như thế. Ví như gương sáng hiện hình các sắc. Đại Huệ ! ví như gió lớn thổi nước biển cả.

GIẢNG
Nhãn thức sanh nhãn căn và sắc, nhĩ thức sanh nhĩ căn và thanh, v.v.. thân thức sanh lỗ chân lông và vi trần. Giống như gương sáng hiện hình các sắc, là đồng thời hiện. Chỉ trừ ý thức là thứ lớp sanh (pháp và ý căn).
Trong thí dụ dưới, gương và biển dụ cho tâm, sắc và gió dụ cho căn - trần. Sắc và gió vốn không tự biết, gương và biển y nhiên trong sáng. Cũng thế, căn – trần vốn không tự biết, tâm tánh vẫn y nhiên. Chỉ vì bất giác bèn thấy sai biệt. 5 thức trước và thức thứ 8 đồng công năng, tuy giao tiếp căn-trần mà không có phân biệt, chia chẻ. Chỉ tại khi mê, trong khoảng sát na liền trôi vào ý thức, liền không còn vô phân biệt.
(21)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
Gió cảnh giới bên ngoài thổi dạt biển tâm, sóng thức không ngừng. Nhơn và tướng sở tác có khác, chẳng khác. Hiệp với nghiệp sanh tướng vào sâu trong chấp trước, không thể rõ biết tự tánh sắc v.v… nên năm thức thân theo đó mà chuyển. Này Đại Huệ ! liền đó ý thức cùng năm thức thân chung khởi. Do biết tướng phần đoạn sai biệt , chính là nhơn của ý thức.

GIẢNG
Đây nói 8 thức làm nhơn cho nhau, chẳng phải một, chẳng phải khác.
Biển tâm là tàng thức. Gió cảnh giới bên ngoài chỉ cho 6 trần. Sóng là 7 thức.
Do gió cảnh 6 trần thổi dạt biển tâm khiến sóng mòi 7 thức không dừng. Tuy nhơn và tướng sở tác chẳng phải khác, chẳng phải chẳng khác.
Nhơn chỉ cho chơn thức, tướng sở tác chỉ tàng thức và chuyển thức. Nghĩa là đồng một chơn tánh nên chẳng phải khác. Nhưng mỗi thức có riêng cảnh của nó nên chẳng phải chẳng khác. Song đều do bất giác phát nghiệp, một lúc các thức hiệp với phát nghiệp sanh các tướng này, vào sâu trong chấp trước, không rõ biết tự tánh sắc, thanh v.v… nên năm thức của thân chuyển. Tự tánh sắc (thanh v.v..) là do nội thức biến hiện làm tánh sắc (thanh v.v…) dường như có hiện tiền, mà thật không có vậy. Ý thức cùng 5 thức thân chung khởi. Nhơn phần đoạn sai biệt nên sanh phân biệt. Ý thức này lại lấy 5 thức làm nhơn.
Mới biết do bất giác, Như Lai tàng vọng động thành nghiệp mà khởi ra kiến phần, tướng phần. Kiến và tướng phần ấy là sanh tướng của nghiệp. Nhơn kiến nên hiện tướng mà thành căn và cảnh. Lại do căn - cảnh sanh thức mà khởi ra phân chia. Biển và sóng vốn đồng, gió cảnh nào khác. Chỉ rõ được bất giác thì nghiệp tướng tự dừng, trọn không còn gì chỉ bày vậy.

CHÁNH KINH
Thân kia chuyển, kia chẳng khởi nghĩ là ta lần lượt làm nhơn cho nhau. Tự tâm hiện vọng tưởng chấp trước chuyển , mà mỗi mỗi hoại tướng kia đều chuyển. Phân biệt cảnh giới phần đoạn sai biệt, gọi kia là chuyển.

GIẢNG
Thân kia là nói chung 8 thức. 8 thức này lần lượt làm nhơn cho nhau mà chẳng khởi nghĩ. Tức là nó vốn không tự tánh. Các thức này đều do tâm vọng tưởng ra. Nhưng nó không tự tánh nên tâm không không biết đến cảnh của thức hiện ra, bèn chấp là thực.
Do tâm vọng tưởng chuyển nên cảnh của các thức đều chuyển. (cảnh của các thức gọi là hoại tướng)
Chỉ vì phân biệt cảnh giới các thức nên thấy có chuyển. Chẳng biết rằng 8 thức liền đó vô sanh (do từ chơn thức khởi ra), bất biến mà tùy duyên, tùy duyên mà bất biến.
(22)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

E – TỘT TÀNG THỨC LÀ BỜ MÉ CỨU CÁNH

CHÁNH KINH
Như người tu hành nhập thiền tam muội, tập khí vi tế chuyển mà không hiểu biết, lại khởi nghĩ rằng : Thức diệt, nhiên hậu nhập chánh định. Song thật chẳng phải thức diệt mà nhập chánh định, vì chủng tử tập khí chẳng diệt nên thức chẳng diệt, mà bởi cảnh giới chuyển nhiếp thọ chẳng đủ nên diệt.
Đại Huệ ! như thế là tàng thức vi tế, đến bờ mé cứu cánh . Trừ chư Phật và hàng Bồ Tát trụ địa, các bậc thanh văn, duyên giác và ngoại đạo tu hành được sức trí tuệ tam muội , còn tất cả không thể lường tính rành rõ.

GIẢNG
Lưu trú sanh diệt của tâm thức, không phải hàng diệt thọ định mà hay rành rõ.
Cảnh giới vốn là rỗng thì nhiếp thọ cũng dối. Định cùng với loạn , động cùng với lặng đều thuộc về phân biệt, còn là bờ mé của thức. cho nên “ Nếu chẳng biết sanh nhơn của thức lưu trú, bỏ sanh tìm diệt thảy đều trong mê”.
(22)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

HIỂN HIỆN LƯỢNG CỦA TỰ TÂM LÌA VỌNG CHƠN THỰC

CHÁNH KINH
Tướng các địa trí tuệ thiện xảo phương tiện phân biệt quyết đoán cú nghĩa, thiện căn tối thắng vô biên đã thành thục, lìa vọng tưởng hư ngụy của tự tâm hiện, ngồi yên nơi rừng núi tu bậc hạ, trung, thượng hay thấy vọng tưởng lưu trú của tự tâm. Ở trong vô lượng cõi nước của chư Phật được quán đảnh, được sức tự tại thần thông tam muội, các Thiện tri thức Phật tử làm quyến thuộc. Những vị ấy tâm, ý, thức, tự tánh cảnh giới tưởng hư vọng do tâm tự hiện ra, biển hữu sinh tử nghiệp ái và vô tri, những nhơn như thế đều đã vượt qua. Thế nên Đại Huệ ! Những người tu hành phải nên gần gũi hàng Tri thức tối thắng .

GIẢNG
Đây nói muốn cùng tột bờ mé của Tàng thức thì phải đạt được tự tâm. Dùng sức trí tuệ của tự tâm phương tiện biết rõ tất cả nghĩa cú. Cho nên hay lìa vọng tưởng hư ngụy của tự tâm hiện ra. Hay lìa vọng tưởng hư ngụy mới biết lưu trú của tự tâm đều do bất giác. Nếu thấu rõ được bất giác thì giác được tự tâm. Chẳng theo cảnh giới dời đổi của mê tình thì tự nhiên an trụ biển tâm. Lặng lẽ thầm thông được Phật nhiếp thọ đồng với Phật tử trụ (các Bồ Tát), lẽ ấy như thế.
Những vị ấy tâm, ý, thức tự tánh cảnh giới hư vọng do tự tâm hiện ra, (hư vọng do tâm hiện ra đều là tự tánh cảnh giới) , liễu đạt tự tánh thảy không sai biệt, thì tất cả nghiệp hoặc sinh tử khi mê dường như cảnh mộng hiện, khi giác đồng cảnh mộng mất, chẳng cần chuyển biến, bỗng nhiên siêu việt. Cho nên biết bậc đại Bồ Tát chẳng thấy có một pháp là thân hay là nghiệp và cùng chủ hay lìa, mà cũng có lìa. Chẳng đồng với nhị thừa thấy thật có hoặc nghiệp sinh tử là tướng nên lìa. Lại chẳng đồng ngoại đạo cho tất cả là không thực có mà chẳng cần lìa. Đây không phải hàng trí thức tối thắng thì không thể thấu suốt. Là yếu chỉ duy có chơn thức mà không có các thức khác, nên Phật dạy phải gần gũi.
GHI CHÚ
Chữ Biển hữu sinh tử nghĩa là nghiệp khổ sinh tử
Nghiệp ái và vô tri : chữ nghiệp là phát nghiệp tức căn bản vô minh. Chữ ái là ái dục tức chi nhuận vô minh, vô tri là vô minh.
(22)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.14 khách