XXII. ĐẠI TRƯỢNG PHU
Tâm từ bi của Bồ tát chỉ có một việc bức bách – việc lo lợi tha, chứ không có việc gì khác nữa. Và khổ vì lo lợi tha như vậy tức là từ bi thành tựu.
Từ bi thành tựu nên Bồ tát bỏ niết bàn như bỏ đau khổ, thọ thân thể như lấy giải thoát. Bởi vì, từ bi là gì? Là chỉ có mục đích duy nhất và hành động duy nhất: đem lợi lạc cho chúng sinh.
Biết Niết bàn là an lạc, biết sinh tử là tội ác, nhưng không bỏ diệu hạnh hữu vi, hành động như vậy đều là năng lực của đại từ bi. Bồ tát không chỗ nào không từ bỏ dục vọng, như thế kết quả là Niết bàn, vậy mà Bồ tát không tự lấy Niết bàn vi diệu, đó mới là đại dõng sĩ. Do đại từ bi nên qua lại một cách tự do trong vòng vây sinh tử. Biến quán vũ trụ biết đều hư hoại, biến quán chúng sinh biết đều đau khổ, nhưng Bồ tát, bực đại trượng phu, vẫn làm người cứu vớt, vẫn làm nơi nương tựa.
Tâm ôm lòng đại bi nên bỏ thân khổ đau cầu thân giác ngộ. Đại bi ở đâu diệu dụng ở đó. Như một người cha có mười đứa con, nhưng đứa nào nhân trí hơn thì lòng người cha đặc biệt mến trọng.
Phật đà cũng vậy, bình đẳng thương tất cả chúng sinh nhưng đặc biệt ái trọng người từ bi.
Hành động những điều lợi ích mà không có trí tuệ không có từ bi thì gọi là bực trượng phu mà thôi. Hành động mà có trí tuệ chỉ đạo, có từ bi chỉ dẫn, mới là bực đại trượng phu.
Chúng ta chỉ nên nói chuyện với các bực đại trượng phu bi trí ấy. Và chỉ nên kính lễ bực đại trượng phu bi trí
đủ tất cả đức tốt ấy.
XXIII. ĐẠI BI
Loài người loài trời loài súc vật, không một loài sinh vật nào không bình đẳng trước đau khổ. Đau khổ ấy chỉ có Bồ tát mới từ bi thương xót thấu xương thấu tủy. Từ bi đứng đầu trong tất cả điều thiện, cũng như chữ A đứng đầu trong tất cả các mẫu tự. Tất cả điều thiện đều nằm trong lòng từ bi, khác nào vũ trụ bao gồm hết thảy vật sắc. Từ bi trong sạch như hư không; Hư không không giới hạn, cũng như thế, từ bi không có giới hạn. Phật dạy: "Muốn thấy tôi như thấy hình ảnh ở trước mắt thì phải cung kính thực hành đại từ đại bi. Muốn thấy tôi thì phải xét ba cõi đều khổ, khổ não vô biên nên từ bi cũng vô biên. Đau khổ ở đâu từ bi ở đó".
Câu nói cuối cùng của Phật ý nghĩa là gì? Chỗ ở của từ bi ở đâu? Là ở với hết thảy chúng sinh đau khổ vì phiền não và vì sinh tử, làm thân thuộc với họ mà ở. Có tâm từ bi thì biết nỗi khổ của người. Người ấy ở chung với Phật-đà. Người ấy nuôi sống Pháp thân bằng ba thứ bố thí như người vú nuôi con.
Đại bi là mẹ nuôi của Bồ tát vậy.
XXIV. BỐ THÍ CỦA ĐẠI BI
Như Tuyết sơn là núi sản xuất tất cả các thứ cây thuốc, cũng vậy, núi đại bi xuất sinh ba thứ bố thí. Trừ đại bi, thì tất cả điều thiện không có thứ nào có năng lực hơn nó, đem lại an lạc cho chúng sinh. Bố thí phát sinh bởi từ bi chủ đạo thì có năng lực đem lại an lạc đầy đủ cho chúng sinh. Tất cả kết quả vĩ đại cũng do ba thứ bố thí mà thành.
Chúng sinh là mẹ đẻ của các đức Phật đà, chúng sinh là chỗ quy y tối thượng. Mà năng lực thực hành ba thứ bố thí lợi ích chúng sinh là đại từ bi.
Vô số năng lực của đại bi đều tiềm tàng trong tâm, nên Bồ tát chỉ có một việc mà không khi nào bỏ, không ham việc khác, là thường hành động lợi tha, không chán không mỏi.
Tất cả lợi lạc về thế gian, về xuất thế, về lợi tha, đều phát sinh từ đại bi. Thế nên tôi cung kính đại bi và cung kính người thực hành đại bi, một lòng thương có năng lực lợi ích chúng sinh. Tôi lại cung kính tất cả những việc của đại bi hành động. Những việc của đại bi hành động là hay lợi ích tất cả mọi người và tự trong sạch lòng thương của mình.
Đại bi có năng lực làm trong sạch sự bố thí. Thế nên tôi lại cung kính bố thí, vì bố thí thật hiện đầy đủ lòng từ bi; tôi cung kính người thực hành bố thí, sự bố thí do từ bi chủ đạo; và tôi cung kính những hành động của sự bố thí ấy, là hành động tịnh tâm và hành động tịnh nghiệp. Tịnh tâm là nguyên nhân đi đến đại giải thoát, tịnh nghiệp là nguyên nhân đi đến đại giác ngộ.
Từ bi có thể làm trong sạch hỷ xả, hỷ xả mà không từ bi thì thành ô nhiễm. Nghĩa là từ bi trong sạch bố thí, bố thí phát triển từ bi. Và như vậy là bực đoan chánh nhất trong đời.
Từ bi phát sinh chánh tín, chánh giải, chánh hành, chánh quả, như quả đất nảy sinh cây nhánh hoa trái tốt. Chúng sinh bị mặt trời phiền não làm nóng bức, nếu được nước lạnh từ bi thì có thể đem lại sự mát dịu, khác nào nhiệt độ mùa hè đương lên cao nhưng gió mát có thể hạ thấp xuống.
XXV. NĂNG LỰC CỦA ÁI VÀ BI
Có ái mới có thủ, không ái thì không thủ; cũng như vậy, có bi mới có xả, không bi thì không xả. Do thủ, ái tăng mạnh; do xả, bi tăng mạnh. Ân ái sinh ra ái, thương xót phát ra bi.
Ái mạnh thì lợi mình hại người, bi mạnh thì lợi người khổ mình. Ái mạnh mà hại người, điều ấy rất hèn hạ; bi mạnh mà hy sinh, điều ấy mới hiếm có.
Ái là người ngu hèn, bao giờ cũng nghèo và khổ; bi là bực trượng phu, bao giờ cũng rất giàu những điều lợi người.
Bi có năng lực trừ diệt ái. Sự chán nản lợi tha, trí tuệ có thể trừ diệt được; nhưng từ bi thì tuyệt không bao giờ chán nản, vì luôn luôn bố thí cho người.
Ái chiêu tập đau khổ thành bể khổ vô biên, bi sản xuất công đức thành núi đức đồ sộ.
Từ bi nếu không trừ hành vi nhơ bẩn thì Bồ tát không ham, từ bi nếu không cứu vớt chúng sinh thì Bồ tát không thích, từ bi nếu không đạt Trí-giác vô thượng thì Bồ tát không muốn.
Ái sản xuất tất cả đau khổ, bi phát sinh tất cả lợi lạc. Hành động phát khởi từ bi gọi là hành động thù thắng. Từ bi là năng lực đem lại an lạc vô tận cho muôn loài vậy.
XXVI. TRÍ TUỆ, TỪ BI, GIẢI THOÁT
Trí tuệ và từ bi, hai năng lực ấy thứ nào hơn? Trí tuệ có thể tự mình quy y chánh pháp, từ bi có thể khuyên người quy y chánh pháp.
Từ bi không có trí tuệ thì từ bi ấy người trí không ham, trí tuệ không có từ bi thì trí tuệ ấy người trí không thích.
Từ bi không hòa hợp với trí tuệ thì chướng ngại cho đại giải thoát, từ bi ấy Bồ tát cho là không phải từ bi. Trí tuệ không hòa hợp với từ bi thì chướng ngại cho đại giác ngộ, trí tuệ ấy Bồ tát cho là không phải trí tuệ. Trí tuệ không khi nào thích sinh tử, từ bi không bao giờ muốn giải thoát.
Giải thoát thiếu từ bi thì Bồ tát, những người của từ bi, thấy vô vị như đồ ăn ngon không có muối. Nếu đại giải thoát đi đôi với đại từ bi thì chúng ta ai cũng nên đảnh lễ.
Đại từ bi là mẹ đẻ của Phật đà, đại giải thoát giải thoát tất cả mê và khổ.
Đại từ bi như chú thuật chân chính, chú cho người chết sống lại.
Nếu nối tiếp thủ hữu là chấp thường, nếu nhập vào giải thoát là chấp đoạn. Viễn ly cả hai thì gọi là Phật đà, đấng cứu vớt tất cả.
Không đại giác ngộ không có đại giải thoát, không đại từ bi không có đại giác ngộ. Đại từ bi phát sinh đại giải thoát nên Bồ tát ham thích. Đại từ bi là một thể mà có hai dụng: có thể cứu vớt chúng sinh đau khổ, có thể phát sinh Trí giác Phật đà.
XXVII. LẬP CHÍ NGUYỆN
Bồ tát suy nghĩ: tất cả muôn loài đều có vô số đau khổ, ta phải phát tâm đại từ bi, thật hiện đại giác ngộ, để diệt đại khổ não cho chúng sinh.
Bồ tát mục kích chúng sinh trầm đắm trong bể khổ vô biên thì bấy giờ phát sinh tâm từ bi, bình đẳng thương xót cứu vớt, không như người vì mình tự cầu giải thoát, thấy vậy đành lòng bỏ rơi. Chính khổ não vĩ đại của chúng sinh kích động từ bi thù thắng của Bồ tát. Bồ tát suy nghĩ: tâm từ bi của ta thấy chúng sinh mê khổ, chưa được giác ngộ, ta phải làm sao cho họ được giác ngộ. Vậy chúng sinh nhiều, phước ta ít, làm sao cứu vớt đây? Lại nghĩ: ta là bạn thân nhất của muôn loài, mà muôn loài cứ bị khổ thế kia, ta thiệt là người sống thừa, sống xấu! Ta không diệt được đau khổ đem lại an lạc cho người, thì thân này làm gì?
Suy nghĩ như thế rồi Bồ tát lại nghĩ: ta là bạn thân của chúng sinh, ta phải nuôi dưỡng họ, phải làm đại lợi ích cho chính cả những người oán ghét ta. Chúng sinh làm cho ta thành tựu những hành động tốt đẹp, vậy ta phải làm sao không để một người nào còn tâm lý không tốt.
Lợi tha là gì – Bồ tát suy nghĩ – tha nghĩa là người khác, nhưng ta không tìm ra sự khác ấy, nên người là ta, mà lợi tha tức tự lợi vậy. Nếu được, ta muốn đem tất cả đau khổ của chúng sinh tập trung lại nơi ta, ta thường chịu để cho họ an vui, chứ không lấy làm khổ. Trú ở trong Trí-giác vô thượng, hết thảy đau khổ ta có thể chịu được hết, nếu ta không thể cứu vớt muôn loài chìm đắm trong bể khổ sinh tử.
Bồ tát suy nghĩ: vì si mê sâu dày và phiền não nặng nề, nên làm cho ta khó được Trí giác vô thượng, vậy trí tuệ và từ bi là bạn của ta, tâm ta không bao giờ rời bỏ.
Bồ tát nguyện:
- Đường đức Điều Ngự đã đi qua,
Giờ ta cũng đi theo đường ấy;
Ta nay vì tất cả muôn loài,
Đem từ bi thi hành bố thí.
Bồ tát nghĩ: "Ta phải làm sao như Phật".
Lại suy nghĩ: ta là chỗ nương tựa của chúng sinh, là thuyền cứu vớt của muôn loài, vậy ta phải lập trí nguyện vĩ đại, thực hành hai thứ đại trang nghiêm là đại trí tuệ và đại từ bi. Có chí nguyện ấy là mầm mống Trí Giác Phật-Đà đã sắp nảy nở.
Bồ tát lại tự nguyện: Ta muốn cứu khổ cho chúng sinh, ta muốn cho vui cho chúng sinh, vậy hành động gì ta cũng nguyện tuân theo sự chỉ đạo của đại bi. Khổ não sinh tử nghe còn khiếp sợ, nhưng đại bi có năng lực nhẫn nại khổ não ấy, hướng về cửa sinh tử mà đi. Khi Bồ tát chán khổ sinh tử, muốn tự giải thoát, thì đại bi liền khiển trách: chúng sinh khổ não chưa cứu vớt họ, sao lại bỏ mà đi. Bồ tát biết sinh tử khổ, giải thoát vui, nhưng vì đại bi nên vẫn luôn luôn say mê thực hành ba thứ bố thí. Bồ tát nghĩ: ta rất sợ các cõi sinh tử, nhưng vì đại bi cứu vớt chúng sinh, nên vui vẻ ở trong các cõi ấy. Đại bi luôn luôn an ủi Bồ tát: ta làm cho người ở được trong sinh tử, ta sẽ vĩnh viễn ở cạnh người, ta không bao giờ bỏ người, tại sao, vì ta muốn làm cho người báo ân Phật đà, báo ân chúng sinh.
Bồ tát suy nghĩ: Giải thoát lạc thú vô cùng, mà vì chúng sinh ta còn không muốn hưởng dụng – ta không hưởng dụng là vì đại bi bảo đừng – huống chi cái vui giả tạm của sinh tử. Cái vui đứng đầu trong tất cả an vui Phật nói là niết bàn, niết bàn an vui tuyệt đối như vậy nhưng đại trí tuệ ta không muốn đến – đại trí tuệ ta không muốn đến là vì hóa hợp với đại từ bi. Ta rất kính thượng Niết bàn – vì Niết bàn không còn đau khổ - vậy mà do đại từ bi lôi kéo, ta vì lợi lạc chúng sinh nên không tự đến giải thoát.
Cho nên, Bồ tát suy nghĩ, đại bi là mẹ đẻ của tất cả Phật đà, ta không chống lại đại bi bằng cách tự Niết bàn; Niết bàn đến ta còn không hưởng, huống chi bỏ chúng sinh mà đến Niết bàn.
Lại nghĩ: ta muốn đến Niết bàn; nhưng đại bi là Mẹ Phật, đến cho sữa cho ta, sao ta bỏ đi. Trí giác vô thượng mà nếu không lợi lạc chúng sinh, ta còn không cầu huống chi niết bàn. Cho nên, Bồ tát quả quyết, do tâm đại bi, ta quyết không tự Niết bàn, vì Niết bàn thì bỏ rơi chúng sinh không nơi nương tựa. Niết bàn là không thọ sinh nữa, không thọ sinh thì làm sao cứu vớt chúng sinh. Thọ sinh có hai thứ lợi lạc: một đại cứu khổ chúng sinh, hai thật hiện đại giả thoát; tại sao, Bồ tát nghĩ, ta bỏ hai thứ vui đổi lấy một.
Bồ tát xác nghĩ: hết thảy chúng sinh đều có khả năng của Nhất thế trí, Nhất thế trí chúng sinh rất dễ thật hiện, thế nên ta thương chúng sinh, không thích giải thoát. Lại nghĩ: ở đâu có chúng sinh đau khổ thì ở đó đại bi được phát sinh, được tăng trưởng, vì vậy, ta thích ở trong các cõi sinh tử. Bồ tát bảo đại bi: Người hãy làm cho ta được thanh tịnh, được tăng trưởng; hãy làm cho chúng sinh đều thanh tịnh, đều tăng trưởng. Lại bảo: chúng sinh ở trong lò khổ, bị trăm nghìn đau khổ bức áp, ta muốn làm sao cho họ được an lạc cả, người hãy giúp ta làm thành việc ấy. Chúng sinh bị ái ràng buộc, bị chết tóm bắt, thấy chúng sinh không nơi cậy nhờ, không ai cứu vớt như thế, ta tự nguyện làm người cứu vớt, vậy người hãy giúp ta chịu đủ khổ sở để cứu vớt họ.
Bồ tát phát nguyện: ta muốn làm bực đại trượng phu, nguyện bỏ tự niết bàn để cứu khổ chúng sinh. Vì lợi lạc chúng sinh, ta luôn luôn tự cố gắng, tự khuyến khích công việc ấy.
Bồ tát lại nghĩ: Ai cứu độ chúng sinh là đã được vô sinh nhẫn, đã được quyết định trí, được quyết định trí là được sự thọ ký, được sự thọ ký thì ta phải cung kính cúng dường. Phật đà hoàn thành trí biến tịnh, tôi xin chấp tay nguyện Ngài thọ ký cho tôi.
XXVIII. LẬP CHÍ NGUYỆN RỘNG VÀ CAO
Hết thảy công việc cứu tế chúng sinh của các đức Phật đà, tôi đã lập chí nguyện có thể làm hết. Chí nguyện giác ngộ ấy, tất cả các đấng Đại Bi Thế Tôn đều tán thán. Tôi nguyện đem bao nhiêu trí tuệ và từ bi của tôi làm cho chúng sinh cô độc được giải thoát thù thắng. Xin các đức Đại Bi Thế Tôn dìu dắt tôi, đừng để lạc vào tâm địa nhỏ hẹp của tiểu thừa, xin làm cho tôi đầy đủ mười thứ trí lực như Thế Tôn. Nếu chúng sinh bị lửa phiền não thiêu đốt thì tôi nguyện đem nước chánh pháp rưới tắt đi. Tôi nguyện đủ vô biên hùng lực phá dẹp ma oán, được đại giác ngộ, chuyển chánh pháp luân, trừ đại khổ não. Chúng sinh ở đâu tôi nguyện lăn bánh xe chánh pháp đến tận chỗ đó. Tất cả lợi ích tôi đã hành động đều nguyện làm việc ấy. Nguyện do việc ấy khiến tôi được Pháp thân thù thắng, phổ biến tất cả in như hư không, lại được Hóa thân vô cùng, tùy tâm chúng sinh giáo hóa tất cả. Rồi đem phước đó hòa hợp với Phật đà, làm cho chúng sinh cô đơn đều được giải thoát tuyệt đối. Phiền não làm nguyên nhân gây ra khổ não, năng lực trí tuệ của tôi nguyện diệt khổ não ấy, làm cho vô lượng chúng sinh trong không gian vô biên đều được một khí vị duy nhất, khí vị an lạc.
Nguyện do công đức của tôi, bao nhiêu giặc ngũ uẩn, giặc phiền não, những giặc cướp công đức của chúng sinh ấy đều phải khiếp sợ và tử vong. Nguyện do công đức của tôi, khiến tôi làm người che chở vĩ đại của muôn loài. Vũ trụ này tồn tại bao nhiêu công đức tôi trường thọ bấy nhiêu, để do công đức ấy, tất cả phàm phu, tất cả thánh giả đều hết khổ được vui, trong một thời gian mà lợi ích tất cả.
Bồ tát suy nghĩ: từ nay trở đi, tôi theo dõi người xin, tuân hành mệnh lệnh của họ, làm sao cho họ coi thân tôi chỉ thấy là vật của họ chứ không nghĩ là thân của tôi nữa, để họ muốn gì thì tôi nguyện tùy ý, cung cấp thỏa
mãn.
Bồ tát lại nghĩ: Nguyện từ nay cho đến đại giác ngộ, không một lần thọ thân nào mà không gặp Phật đà. Nếu, Bồ tát cầu nguyện, nếu trong giòng sinh tử lâu dài mà không gặp Phật-đà thì đừng phút nào rời bỏ đại-bi. Bồ tát lại nghĩ: dầu mau đại giác ngộ, thành Phật-đà đi nữa, nhưng nếu thấy chúng sinh đau khổ, thì tôi vẫn nguyện hiến mình chịu thay cho họ. Nguyện tôi bao giờ cũng như bao giờ, đầy đủ tâm đại từ bi thương người thấu xương thấu tủy, bao giờ cũng làm tay sai cho đại trí tuệ thực hiện đại giải thoát.
Lại nguyện: nguyện tâm đại bi của tôi rộng lớn như hư không: hết thảy vạn vật nương hư không mà còn, tất cả chúng sinh vào tâm đại bi tôi mà ở. Tôi nhờ tất cả chúng sinh mà gây dựng được đủ các việc thiện tốt đẹp vĩ đại, nguyện đem việc thiện ấy hiến cho chúng sinh để họ được đại giải thoát. Như vũ trụ là của chung, thì việc thiện của tôi cũng vậy, cũng thành của chung của tất cả chúng sinh. Nguyên tố vũ trụ (bốn đại chủng) là của chung, thì việc thiện của tôi cũng là của chung. Tôi do chúng sinh mà thành việc thiện tối thắng, nên nguyện đem việc ấy hồi hướng chúng sinh làm cho họ được Trí giác vô thượng.
Bồ tát thệ nguyện: nguyện do bao nhiêu việc thiện của tôi mà làm cho chúng sinh giải thoát ma giới, thể nhập Phật cảnh; nguyện tôi Trí Giác Phật Đà thường hằng hiện khởi, mười ba-la-mật đều thành tựu cả; nguyện tất cả chúng sinh thâm tâm bất động, đến bất động địa, bao nhiêu đau khổ đều cứu nhau vớt nhau. Phát nguyện rồi, Bồ tát bảo phước đức: chúng sinh bị vô minh mê mờ nên không biết mình khổ người khổ, vậy người hãy giải thích cho họ.
Khi Bồ tát thực hành bố thí là đưa ra nước ngọt bố thí, làm cho chúng sinh trừ hết khát ái, được từ bi vô thượng. Bồ tát tâm niệm: nguyện nhờ bố thí, chúng sinh thoát kiếp tôi mọi của ân ái, tôi mọi của nghèo nàn, được tự do chánh pháp, tài sản chánh pháp.
Nguyện đại trí tuệ của tôi như sông lớn, từ bi làm vị ngọt, tịnh giới làm lòng đáy, bố thí làm nước chảy, trừ hết đau khổ khao khát cho chúng sinh.
Nguyện đại từ bi của tôi như bể cả, tịnh giới làm sông, nhẫn nhục làm ngòi, trí tuệ làm động, phàm bao nhiêu sự bố thí của tôi đều thành bể đại từ bi ấy, trừ diệt khổ não nóng nhiệt của muôn loài.
XXIX. LẬP CHÍ NGUYỆN THÙ THẮNG
Khi đối với chúng sinh phát tâm từ bi muốn đem an lạc lại cho họ, thì nguyện tâm từ bi đó bền chắc mãi mãi để thật hiện mục đích duy nhất là trừ diệt đau khổ cho chúng sinh, hiến mình chịu khổ thay cho họ. Và như vậy gọi là bố thí vô úy. Bồ tát lại nguyện đem kết quả của sự bố thí vô úy đó làm cho chúng sinh ai cũng có tâm đại từ bi.
Bồ tát phát nguyện: nguyện bao nhiêu công đức từ bi của tôi, khi đến thời kỳ đao binh thì diệt hết sân hận của chúng sinh. Nguyện do công đức bố thí đồ ăn của tôi, khi đến thời kỳ cơ cẩn làm cho chúng sinh hết đói khát. Nguyện do công đức bố thí đồ uống của tôi, làm cho chúng sinh có tâm từ bi, trú ở trong tâm tánh. Nguyện do công đức bố thí đồ mặc của tôi làm cho chúng sinh ai cũng có tâm tàm quý. Nguyện do công đức bố thí đèn đuốc của tôi làm cho tôi cùng chúng sinh diệt hết tất cả si ám đối với Trí giác của Phật đà. Nguyện do công đức bố thí con mắt của tôi làm cho chúng sinh mau được mắt đại giác ngộ của Phật. Nguyện do công đức bố thí đầu cổ của tôi, làm cho chúng sinh đều hướng về tâm chí mong cầu Trí giác vô thượng. Nguyện do công đức bố thí thuốc thang của tôi làm cho chúng sinh hết cả sinh già đau chết. Nguyện do công đức bố thí bằng cách làm người sai sử, làm người cung phụng chúng sinh của tôi, làm cho chúng sinh được Thanh tịnh tuyệt đối, thành Trí giác vô thượng. Nguyện do công đức đem hoa cúng dường tháp của tôi làm cho chúng sinh được phước cao thắng. Nguyện do công đức đem phan cúng dường xá lỵ của tôi làm cho chúng sinh được ánh sáng vô cùng. Nguyện do công đức cúng dường âm nhạc của tôi làm cho chúng sinh được tiếng Phạn âm vi diệu. Nguyện do công đức cúng dường hương hoa làm cho chúng sinh tận trừ tất cả xú uế phiền não. Nguyện do công đức cúng dường Tam Bảo làm cho chúng sinh thường gặp Tam-Bảo, gặp mà không phí sự gặp gỡ ấy. Nguyện do công đức của tôi bảo vệ thương khách qua đường nguy hiểm, làm cho chúng sinh vượt khỏi đường sinh tử khủng khiếp. Nguyện do công đức của tôi dìu vớt người vượt qua bể sóng gió, làm cho chúng sinh vượt qua bể sinh tử nguy hiểm. Nguyện công đức đại dõng mãnh, đại thanh tịnh của tôi, làm cho chúng sinh diệt trừ ma quân, thành Chánh biến giác.
Tôi sẽ được đại giác ngộ – không, tôi nói thế là để an ủi khuyến khích chúng sinh, nhưng tôi nguyện đem công đức sẽ được đại giác ngộ ấy làm cho hết thảy chúng sinh đều được giác ngộ vô thượng. Giác ngộ của chúng sinh là của tôi, nhưng chúng sinh bị si mê chướng ngại, tôi nguyện đem công đức giác ngộ của tôi làm cho chúng sinh được đại giác ngộ, thành Phật đà trước, tôi nguyện thành sau hết. Tôi nguyện đem công đức qua lại trong sinh tử của tôi làm cho chúng sinh đều làm đấng Phật đà đại giác. Tôi nguyện đem công đức lập chí nguyện vĩ đại của tôi làm cho chúng sinh được Trí giác Phật đà. Tôi nguyện tất cả những ai đọc tụng thọ trì Chánh pháp đều thành nguyên nhân đi đến Trí giác vô thượng.
Nói tóm lại, tôi nguyện làm cho thỏa mãn tất cả nguyện vọng của chúng sinh, tuy đó là ý nguyện nên chưa thỏa mãn.
Tôi nguyện làm sao cho chúng sinh đương quằn quại rên xiết kia thành một đấng Phật đà vô thượng. Nếu tất cả hành động phước thiện của tôi không đi đến cái kết quả làm cho chúng sinh thành Phật đà, thì tôi không muốn nghe, nữa là thực hành! Nên Bồ tát phân trần với công đức: nếu người không bảo-vệ chúng sinh, làm người nương nhờ của chúng sinh, thì tôi không ưa thích người, cũng không ưa thích kết quả của người đem lại. Tại sao như thế? Bởi tôi vì chúng sinh mà thực hành người chứ không vì tôi.
Nếu chúng sinh cứu độ hết rồi thì công đức Bồ tát như hư không. Nên Bồ tát luôn bố thí an lạc cho chúng sinh bằng chí nguyện bồ đề.
Và đó là chí nguyện, là hành động của bực Đại trượng phu vậy.
ĐỀ BÀ LA BỒ TÁT
Bồ Tát Ca Na Đề Bà (Kanadeva)
Cuối thế kỷ thứ sáu sau khi Phật nhập Niết bàn. Ngài dòng Tỳ Xá Ly ở Nam Ấn. Thuở nhỏ Ngài bẩm tánh thông minh, biện tài vô ngại, Ban sơ Ngài học phong tục trong nước, ưa làm việc phước thiện. Khi Tổ Long Thọ đến nước nầy, Ngài tìm đến yết kiến. Tổ Long Thọ muốn thử Ngài, sai đồ đệ múc một thau nước đầy để ở trước lối vào. Ngài đi qua lấy cây kim bỏ vào, rồi thẳng đến yết kiến Tổ.
Thầy trò gặp nhau vui vẻ lãnh hội, khi Tổ Long Thọ thuyết pháp hiện tướng vầng trăng tròn, Ngài thầm ngộ yếu chỉ. Ngài theo Tổ xuất gia và được truyền tâm ấn.
Sau khi đắc pháp, Ngài vân du khắp nơi, lần lượt sang nước Ca Tỳ La để giáo hóa. Trong nước nầy có ông trưởng giả tên Tịnh Đức sanh được hai người con trai, người cả tên La Hầu La Điểm, người thứ tên La Hầu La Đa. Ông hằng ngày chỉ săn sóc vườn tược. Hôm nọ, một cây trong vườn nẩy sanh thứ nấm lạ, ông nhổ về ăn thử, thực ngon lành.
Song chỉ ông và người con thứ hằng ngày đều nhổ được nấm ăn, ngoài ra không ai nhổ được. ông bảo con thứ: "Nấm cây nầy chỉ ta và ngươi được ăn, ắt là việc phi thường. Ước gì có ai thông hiểu giải thích cho việc này".
La Hầu La Đa nói kệ:
- Thử mộc sanh kỳ nhĩ
Ngã thực bất khô khao
Trí giả giải thử nhơn
Ngã hồi hướng Phật đạo.
Dịch:
- Cây nầy sanh nấm lạ,
Con ăn rất ngon lành,
Người trí giải nhơn nầy,
Con xin theo Phật đạo.
Chợt gặp Bồ Tát Đề Bà đến nhà, cha con ông Tịnh Đức vui mừng đem việc nầy ra hỏi. Ngài dạy:
- Khi xưa lúc ông hai mươi tuổi thường mời một vị Tỳ kheo về nhà cúng dường. Vị Tỳ kheo ấy tuy có chút ít giới hạnh mà con mắt pháp chưa sáng, tâm không thấu lý, luống nhận sự cúng dường của ông. Song vị Tỳ kheo ấy có chút ít tu hành nên khỏi sa vào đường ác, vẫn phải làm cây sanh nấm nầy để trả nợ cho ông. Xưa khi vị Tỳ kheo ấy đến nhà ông, trong nhà chỉ có ông và người con thứ nầy thành kính cúng dường, còn bao nhiêu người đều không vui. Vì thế, nên nấm hiện nay chỉ hai cha con ông được hưởng. Ngài lại bảo: Ông nay được bao nhiêu tuổi? Trưởng giả thưa: Tôi được 79 tuổi.
Ngài nói kệ:
- Nhập đạo bất thông lý
Phục thân hoàn tín thí
Nhữ niên bát thập nhất
Thử mộc diệc vô nhĩ.
Dịch:
- Vào đạo không thông lý,
Hoàn thân đền tín thí,
Trưởng giả tuổi tám mốt,
Cây nầy không sanh nấm.
Ông trưởng giả nghe nói xong, biết rõ duyên trước càng thêm thán phục, Ông thưa:
- Tôi già yếu tuy muốn xuất gia e không kham theo thầy. Đứa con thứ của tôi hết lòng mộ đạo,tôi xin cho nó theo làm thị giả cho thầy, mong thầy dung nạp.
Ngài hoan hỷ chấp nhận La Hầu La Đa xuất gia và triệu tập các vị thánh tăng đến truyền giới.
Ngài du hóa đến nước Ba Liên Phất gặp lúc ngoại đạo hưng thịnh Phật pháp lu mờ. Ngài đem hết khả năng chuyển hóa ngoại đạo trở về quy y Tam Bảo, khiến xứ nầy Phật pháp hưng thịnh lại.
Khi già yếu, Ngài gọi La Hầu La Đa đến phó chúc pháp nhãn tạng và dặn dò đừng để đoạn diệt. Kế nói kệ:
- Bổn đối truyền pháp nhơn
Vị thuyết giải thoát lý
Ư pháp thật vô chứng
Vô chung diệc vô thủy.
Dịch:
- Xưa đối người truyền pháp,
Vì nói lý giải thoát,
Nơi pháp thật không chứng,
Không chung cũng không thủy.
Dặn dò xong, Ngài nhập định ngồi nghiêm chỉnh thị tịch. La Hầu La Đa và đồ chúng xây tháp cúng dường.
Ngài là Bồ Tát thứ ba làm nổi bật giáo lý Đại Thừa.
Những tác phẩm Ngài trước thuật:
1. Bách luận;
2. Bách tự luận;
3. Đại trượng phu luận;
4. Đề Bà Bồ Tát phá Lăng Già kinh trung ngoại đạo tiểu thừa tứ tông luận;
5. Đề Bà Bồ Tát thích Lăng Già kinh trung ngoại đạo tiểu thừa Niết bàn luận...
Những bộ luận trên nổi tiếng nhất là bộ Bách luận và Đại Trượng Phu luận.
Viet Nalanda Foundation (trước đây còn có tên là Viet Vajra Foundation) là một tổ chức bất vụ lợi 501(c)3 được thành lập vào năm 2006 tại Maryland, Hoa Kỳ để tạo nhịp cầu kết nối giữa những Phật tử người Việt có duyên với Kim Cương Thừa tại khắp nơi trên thế giới. Viet Nalanda Foundation cổ súy tinh thần bất bộ phái, và tôn trọng chư Đạo Sư cùng các Giáo Pháp đặc thù của tất cả bốn dòng truyền thừa của Phật Giáo Tây Tạng gồm có Nyingma, Sakya, Kagyu và Gelug.
Muốn biết thêm chi tiết về tổ chức Viet Nalanda Foundation cũng như tìm hiểu thêm về Kim Cương Thừa – Phật Giáo Tây Tạng, xin vào xem trang nhà
http://www.vietnalanda.org
hoặc tham gia diễn đàn Viet Nalanda Yahoogroups
http://groups.yahoo.com/group/Viet_Nalanda/
hoặc gửi điện thư đến
[email protected]
Địa chỉ liên lạc:
20743 Laplume Place,
Ashburn, VA 20147 USA
Đt: (703) 729-6379
112 Stanford Court,
Irvine, CA 92612 USA
Đt: (949) 390-7062
Tài liệu về Kim Cang Thừa Phật Giáo Tây Tạng cũng có thể được tìm thấy tại các trang nhà sau đây:
Thư Viện Nalanda
http://www.nalanda.batnha.org
Thư Viện Hoa Sen
http://www.thuvienhoasen.org
Trang Nhà Quảng Đức
http://www.quangduc.com