- c. Chỉ pháp thân chơn Phật bình đẳng bản tế phá nghi lìa lỗi. Có bảy:
- (a) Đại Huệ thưa thỉnh về sáu chỗ nghi:
Bồ tát Đại Huệ lại bạch Phật: Thế Tôn! Thế Tôn thọ ký cho A la hán được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cùng chư Bồ tát đồng không sai biệt? Tất cả pháp chúng sanh không đến Niết Bàn, ai đến Phật đạo? Từ khi mới được thành Phật cho đến vào Niết Bàn, ở trong khoảng giữa ấy không nói một chữ, cũng không có đối đáp? Vì Như Lai thường định, cũng không suy nghĩ, không xét nét, do Hóa Phật hóa làm Phật sự? Cớ sao nói tướng thức sát na lần lượt hoại? Kim cang lực sĩ thường theo hộ vệ, tại sao chẳng chỉ thẳng bản tế, mà hiện ma, ma nghiệp, quả báo ác nghiệp, Chiên Giá Ma Nạp, cô gái Tôn Đà Lợi, không bát mà về, ác nghiệp chướng hiện? Tại sao Như Lai được Nhất thiết chủng trí, mà chẳng lìa các lỗi ấy?
Ý hỏi có sáu nghi vấn. Quyển kinh này cùng các kinh khác nói Pháp thân Phật nói cùng Hóa thân nói dường như có khác nhau, nên muốn phát minh. Nghi thứ nhất là, Nhị thừa tự mình Niết bàn không thể thành Phật, cớ sao Như Lai vì Nhị thừa thọ ký cùng Bồ tát không khác? Nghi thứ hai, chúng sanh bởi do vọng tưởng nên chẳng giác Tự tâm hiện ra, tại sao Như Lai lại nói tất cả chúng sanh đã Niết Bàn rồi không lại Niết Bàn, đã thành Phật rồi thì ai đến Phật đạo? Nghi thứ ba, Như Lai phân bộ Tam thừa, cớ sao lại nói đêm ấy thành Phật, đêm ấy vào Niết Bàn, ở trong khoảng giữa ấy không nói không dạy? Nghi thứ tư, Như Lai nếu thường ở trong định không suy nghĩ không xét nét, thì các Hóa Phật làm những việc gì? Nghi thứ năm, tất cả chúng sanh đã thành Phật rồi, cớ sao lại nói thất thức chẳng lưu chuyển, chẳng phải nhân Niết bàn sát na lần lượt hoại? Nghi thứ sáu, Như Lai dựng lập tự thông an trụ bản tế không có chướng ngại, lìa các lỗi lầm, cớ sao lại nói kim cang hộ vệ sao chẳng chỉ thẳng bản tế mà hiện ma, ma nghiệp, quả báo, các thứ lỗi lầm? Ma là Phật ngồi đạo tràng ma quân đến quấy nhiễu. Ma nghiệp là Phật thị hiện trong vương cung mười năm thọ dục. Chiên Giá Ma Nạp là con gái Bà la môn dùng chậu gỗ úp trên bụng cột lại để vu báng Phật tư thông với y. Tôn Đà Lợi giết con gái đem chôn trong đất già lam để vu báng Phật phạm dâm sát. Ở trong thôn Bà Lợi Na, Phật khất thực ôm bát về không và ăn lúa ngựa, đầu lưng đều đau, cây đâm ở chân, hầm lửa, cơm độc, các thứ báo hiện.
- (b) Trừ nghi vấn thọ ký A la hán:
Phật bảo Đại Huệ: Lắng nghe, lắng nghe! Khéo suy nghĩ đó, sẽ vì ông nói. Đại Huệ bạch Phật: Lành thay, Thế Tôn! Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Huệ: Vì Vô dư Niết bàn nói dẫn dụ tiến lên hành hạnh Bồ tát. Thế giới này và các thế giới khác những người tu Bồ tát hạnh ưa Niết bàn của Thanh văn thừa, vì khiến lìa Thanh văn thừa tiến đến Đại thừa, nên Hóa Phật thọ ký cho Thanh văn, chẳng phải Pháp Phật. Đại Huệ! Nhân đó nên thọ ký các Thanh văn cùng Bồ tát không khác. Đại Huệ! Chẳng khác ấy, Thanh văn, Duyên giác chư Phật Như Lai phiền não chướng dứt, một vị giải thoát, chẳng phải trí chướng dứt. Đại Huệ! Trí chướng là thấy pháp vô ngã, thù thắng thanh tịnh. Phiền não chướng là trước tập thấy nhân vô ngã dứt, thất thức diệt, pháp chướng giải thoát, thức tàng tập khí cứu kính thanh tịnh.
Đây là đáp nghi vấn thứ nhất về thọ ký cho A la hán. Thọ ký cho A la hán có ba nghĩa: một, sách tiến Nhị thừa được Vô dư Niết bàn, hai dẫn dụ Nhị thừa phát tâm Bồ tát, ba chỉ Bồ tát cõi này và các cõi khác chẳng rơi vào thiền lạc của Nhị thừa. Đây là Hóa Phật quyền dẫn chẳng phải Pháp Phật nói. Lại phân biệt Nhị thừa, Bồ tát khác cùng chẳng khác, để rõ thật giáo Nhị thừa đoạn phiền não chướng đạt được giải thoát cùng Bồ tát không khác; vì trí chướng chưa đoạn nên cùng Bồ tát khác. Nhị thừa không thấy pháp vô ngã, nên trí chướng chẳng đoạn; mà tập khí đã khởi kiến phần của thức thứ bảy chấp ngã, ở trong tam giới tánh nhiếp thủ đã lìa, nên phiền não chướng đoạn; mà chỗ nương của thất thức là tập khí nội ngã vẫn chưa trừ diệt. Ngã này một phen diệt thức tàng tập khí thân chuyển liền được cứu kính thanh tịnh. Cho nên biết, tam muội lạc trụ của Thanh văn sẽ được thân tối thắng Như Lai.
- (c) Trừ nghi chẳng nói một chữ:
Vì bởi pháp bản trụ trước sau phi tánh.
Đây là đáp cái nghi thứ ba không nói một chữ. Bản trụ là Bản tánh thường trụ, có Phật hay không Phật pháp nhĩ như thế, không có xưa nay, không có nói dạy, nên nói "trước sau phi tánh". Chữ tánh tức là pháp. Nghĩa là trước sau chỉ một bản trụ, không có một pháp có thể được.
- (d) Trừ nghi không suy xét không xét nét:
Vì bản nguyện vô tận Như Lai không nghĩ không xét, mà diễn nói pháp, vì chánh trí sở hóa, vì niệm chẳng vọng, nên không nghĩ không xét. Vì tứ trụ địa và vô minh trụ địa tập khí đã đoạn, hai thứ phiền não đoạn, lìa hai thứ tử, giác nhân pháp vô ngã và đoạn hai chướng.
Đây đáp nghi thứ tư không nghĩ không xét. Như Lai không nghĩ không xét mà diễn nói pháp, do chánh trí hóa, chẳng phải vọng niệm hóa. Cho nên tuy Hóa Phật làm ra mà đều lìa nghĩ xét, nên nói "Phật dùng một âm diễn nói pháp, chúng sanh tùy loại mỗi loài được hiểu. Song Như Lai thật không có tâm tùy loài, ấy do các loài có duyên mà mỗi loài thấy khác". Ngũ trụ, hai tử, hai phiền não, hai ngã, hai chướng, năm thứ tập này, Như Lai đoạn đã lâu, nên được thường định không nghĩ. Chỉ do bản nguyện thị hiện có hóa tác tùy chỗ cảm hiện như trăng trong nước.
- (e) Trừ nghi chúng sanh thành phật, thức sát na loại:
Đại Huệ! Tâm ý ý thức nhãn thức v.v... có bảy là nhân tập khí sát na, lìa phẩm thiện vô lậu, chẳng lại luân chuyển. Đại Huệ! Như Lai tàng là luân chuyển, là nhân khổ vui Niết bàn, kẻ tuệ không, loạn ý và phàm phu ngu si không thể giác được.
Đây là tổng đáp nghi thứ hai chúng sanh thành Phật và nghi thứ năm thức sát na hoại. Tâm ý, ý thức, nhãn thức v.v... sở dĩ nói sát na, vì lấy vô minh tập khí làm nhân, trái với vô lậu giác, vọng chấp là ngã thể. Thể này chẳng thật sát na biến diệt, chẳng theo lưu chuyển. Thế nên tất cả chúng sanh tuy ở trong sanh tử mà không có sanh tử khá được. Nếu đứng về Như Lai tàng mà nói, tuy hiện lưu chuyển mà có nhân khổ vui Niết bàn. Phàm phu vọng tưởng chấp trước bị khổ vui che đậy, chẳng biết hay thọ khổ vui cùng hay chứng Niết Bàn tánh nó không hai. Nhị thừa là đối trị phàm phu diệt cái thọ khổ vui, lại bị cái không làm loạn, bỏ nhân khổ vui riêng thủ Niết bàn, mà chẳng biết Tự tánh Niết bàn, đồng gọi là bất giác. Giác thì liền đó chứng biết, lại không riêng có, thất thức sát na, chúng sanh thành Phật vốn chẳng ngại nhau. Bản dịch này nói tâm ý ý thức nhãn thức v.v... bảy, còn bản dịch đời Đường thì nói ý và ý thức nhãn thức v.v... bảy, đều nói bảy thức không lưu chuyển. Song bản dịch này kèm nói tâm là riêng để hiển bày Như Lai tàng chẳng hoại chân tướng, nên nói: "chỉ tâm tướng diệt, chẳng phải Tâm thể diệt, vì chỉ si diệt tâm tướng theo đó mà diệt", cũng chẳng phải không có ý chỉ. Tóm lại, thức thứ bảy vốn góp kiến phần của thức thứ tám làm thể, nên nói bảy thức sát na thì tâm tướng của tám thức sát na không nói có thể biết. Nói Như Lai tàng phi sát na mà bảo nhân khổ vui. Phàm thọ khổ vui hẳn do phân biệt. Thế thì sáu thức sát na cũng tức có nghĩa phi sát na. Mới biết mê thì chỉ vọng giác làm sát na, nên nói "thất thức chẳng luân chuyển". Ngộ thì chỉ chân tướng phi sát na, nên nói "Như Lai tàng là nhân khổ vui Niết bàn". Mà thật, thất thức tức là bát thức, bát thức tức là ngũ thức, lục thức. Đây hoại và chẳng hoại chung nhau làm nhân, thảy do mê ngộ chẳng phải thật có nhiều thể.
- (f) Trừ nghi Kim Cang hộ vệ và tất cả nghiệp báo:
Đại Huệ! Kim cang lực sĩ theo hộ vệ ấy, là Hóa Phật, chẳng phải chân Như Lai. Đại Huệ! Chân Như Lai lìa tất cả căn lượng, tất cả căn lượng phàm phu, Thanh văn, Duyên giác và ngoại đạo thảy đều diệt, được hiện pháp lạc, vì trụ vô gián pháp trí nhẫn, nên chẳng phải Kim cang lực sĩ hộ vệ. Tất cả Hóa Phật chẳng từ nghiệp sanh. Hóa Phật là, chẳng phải Phật chẳng lìa Phật. Nhân thợ gốm, bánh xe v.v... chúng sanh tạo ra hình tướng mà nói pháp, chẳng phải chỗ tự thông, nói cảnh giới tự giác.
Đoạn này và đoạn sau đều đáp nghi thứ sáu Kim cang hộ vệ và tất cả nghiệp báo bệnh chung. Chân Phật dựng lập tự thông, chỉ thẳng cảnh giới tự giác cho chúng sanh, lìa tất cả căn lượng phàm phu Nhị thừa, được hiện pháp lạc trụ, trí nhẫn vô gián, chẳng phải chỗ Kim cang hộ vệ. Kim cang theo hộ vệ là chỉ Hóa Phật. Hóa Phật duy nương bi nguyện đối hiện Sắc thân, như trăng trong nước chẳng phải một chẳng phải khác, chẳng phải từ nghiệp sanh nên không lỗi của nghiệp, tất cả thị hiện thảy vì chúng sanh. Thợ gốm dùng bánh xe, đất nước tạo các món đồ, mỗi món thích hợp với chỗ dùng, để dụ tùy cơ ứng hiện, chẳng phải có tâm tạo.
- Lại nữa, Đại Huệ! Kẻ ngu y thất thức thân diệt rồi khởi đoạn kiến, vì chẳng giác thức tàng khởi thường kiến, vì tự vọng tưởng nên chẳng biết bản tế, Tự vọng tưởng tuệ diệt nên được giải thoát. Vì tứ trụ địa, vô minh trụ địa tập khí đoạn hết nên tất cả lỗi đoạn.
Đây cũng đáp về cái nghi thứ sáu, đặc biệt rõ bản tế không có lỗi lầm, vì phàm ngu chẳng giác vọng thấy sai biệt mà thôi. Thất thức thân nếu diệt liền hay liễu đạt bản tế, chẳng khởi đoạn kiến. Đây nói thất thức diệt chính là quán sát lưu chú niệm niệm chẳng dừng, chẳng giác Tự tâm nên khởi đoạn kiến. Bản dịch đời Ngụy đời Đường đều nói “lục thức” cũng đồng ý này. Nhân mê Như Lai tàng mà có Tàng thức, nếu lìa thức tìm tâm liền thuộc Nhị thừa thiên chân, nếu tức nơi thức cho là tâm lại rơi vào ngoại đạo chấp tác giả. Đây là do chẳng rõ thức tàng lầm là chân thật, tự vọng tưởng thấy, chẳng biết bản tế. Vọng tưởng nếu diệt thì ngũ trụ tập khí một lúc liền đoạn, tức là tất cả lỗi dứt, đâu còn có các thứ nghiệp báo. Cho nên biết mê Như Lai tàng mà làm thức tàng liền tùy thuận vọng tưởng là bản tế sanh tử, chẳng giác chẳng biết. Nếu rõ thức tàng tức Như Lai tàng thì tùy thuận chánh trí là bản tế Niết bàn, không nhiễm không nhơ. Đã có thị hiện đều vì chúng sanh chẳng phải dựng lập tự thông, cảnh giới tự giác.
- Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:
Tam thừa cũng phi thừa
Như Lai chẳng diệt mất
Tất cả Phật đã ghi
Nói lìa các lỗi ác.
Vì các trí vô gián
Và Vô dư Niết bàn
Dẫn dụ các hạ liệt
Thế nên nói ẩn khuất.
Trí chư Phật đã khởi
Tức phân biệt nói đạo
Các thừa chẳng phải thừa
Kia ắt phi Niết bàn.
Dục sắc hữu và kiến
Nói là tứ trụ địa
Chỗ khởi của ý thức
Nhà thức chỗ ý trụ.
Ý và nhãn thức thảy
Đoạn diệt nói vô thường
Hoặc khởi chấp Niết bàn
Mà vì nói thường trụ.
Tam thừa cũng phi thừa, Như Lai chẳng diệt mất, chính hai câu này đã đáp hết sáu cái nghi. Nghĩa là Như Lai tự giác không có tướng thừa, chẳng vào Niết bàn. vốn tự thanh tịnh không có các cấu ác. Nếu hay liễu đạt lại không có nói gì khác. Chúng sanh hạ liệt không tin được chỗ này, nên Như Lai nói có chánh trí, nói có Niết bàn, trước vì dẫn dụ họ tiến lên, về sau mới chỉ mật ý này. Nghĩa là Như Lai đã được Nhất thiết chủng trí phân bộ diễn nói, lại không có ý chỉ riêng. Chỉ nói chẳng phải thừa và chẳng phải Niết bàn khiến họ tự tin tự chứng mà thôi. Nếu chỉ đoạn diệt tứ trụ nói là Niết bàn thì đây không phải thường trụ. Như Lai nói chẳng phải thừa chẳng phải Niết bàn, Bản tánh thanh tịnh thường tự tịch diệt, nên nói thường trụ. Ý thứ bảy y thức thứ tám mà khởi, tức do thức thứ tám mà trụ, chẳng lấy thức thể chuyển biến làm cứu kính, mà lấy ý, ý thức và năm căn thức tạm thấy dừng diệt, khởi tưởng Niết bàn, đồng với đoạn diệt, chỉ tăng trưởng tà kiến.