KINH LĂNG NGHIÊM

Để giữ gìn sự trang nghiêm, thuần túy tạo nguồn tư liệu; nơi đây chỉ đăng Kinh Văn mà không thảo luận.

Điều hành viên: thử nghiệm global, Thanh Tịnh Lưu Ly

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

6 - TÁNH KIẾN ĐẠI VỐN VÔ SANH

- A Nan ! Bổn Kiến, Bổn Giác vốn chẳng có năng tri, sở tri, vì sắc và không mới lập năng sở. Như ngươi hôm nay ở vườn Kỳ Đà, ngày sáng đêm tối, nếu nửa đêm có trăng thì sáng, không trăng thì tối, do kiến tinh phân biệt nên có sáng và tối. Vậy kiến này với các tướng sáng, tối và hư không là một thể hay chẳng phải một thể ? hoặc đồng-chẳng đồng ? hoặc khác-chẳng khác ?
- A Nan ! Nếu cái kiến tinh này cùng với sáng-tối, hư không vốn là một thể, thì sáng tối hai tướng nghich nhau, khi sáng thì chẳng tối, khi tối thì chẳng sáng. Nếu cùng với tối đồng một thể, thì khi sáng cái kiến biến mất, hễ cùng với sáng đồng một thể thì khi tối, cái kiến ấy phải diệt. đã diệt lấy gì để thấy sáng-tối ? Nếu sáng-tối khác nhau, kiến chẳng sanh diệt thì đâu có thể nói là một thể được ?
- Nếu cái kiến này cùng với sáng-tối chẳng phải một thể, thì ngươi lìa sáng-tối và hư không phân tách cái kiến tinh xem là hình tướng gì ? Lìa sáng-tối và hư không thì kiến tinh đồng như lông rùa, sừng thỏ. Sáng-tối và hư không ba thứ đều khác biệt vậy từ đâu mà lập kiến tinh? Sáng-tối nghịch nhau, làm sao nói đồng được ? Lìa ba thứ, vốn chẳng có, làm sao nói khác được ? Hư không và kiến tinh vốn chẳng có ranh giới, làm sao nói chẳng đồng ? Thấy sáng, thấy tối, sở kiến thay đổi, làm sao nói chẳng khác ?
- Nguơi cần phải xem xét vi tế kỹ càng, xét tới cứu cánh triệt để. Sáng do mặt trời, tối do đêm không trăng, thông thuộc về hư không, nghẽn thuộc về đại địa. Kiến tinh có giác, hư không vô tri, chẳng hòa chẳng hợp, vậy kiến tinh từ đâu mà ra, chẳng lẽ khi không tự ra ?

- Nên biết KIẾN, VĂN, GIÁC, TRI thể tánh viên mãn cùng khắp mọi nơi, vốn chẳng động, cùng Địa, Thủy, Hỏa, Phong lay động , gọi là lục đại, thể tánh viên dung, đều là Như Lai Tạng, vốn chẳng sanh diệt.
- A Nan ! Nguơi đánh mất tự tánh, chẳng ngộ "kiến, văn, giác, tri" của ngươi vốn là Như Lai Tạng. Nguơi hãy xem cái "Kiến, văn, giác, tri" này là sanh hay diệt ? là đồng hay dị ? là chẳng sanh diệt, hay chẳng đồng dị ?
- Nguơi còn chẳng biết, trong Như Lai Tạng, tánh kiến giác minh, giác tinh minh kiên (cái bổn kiến là tự tánh vốn giác, vốn minh. Cái tinh của bốn giác là minh, là kiến), vốn tự nhiên thanh tịnh, cùng khắp pháp giới, tùy theo mức độ hiểu biết của tâm chúng sanh tạo thành nghiệp, và nuơng theo nghiệp ấy biến hiện các cảnh giới hiện hữu. Như một "kiến tinh" thấy cùng khắp pháp giới, cho đến tai nghe, mũi ngửi, miệng nếm, thân xúc, ý biết , sự diệu dụng rõ ràng, viên mãn, cùng khắp mười phuơng pháp giới, đâu có xứ sở, chỉ theo nghiệp thức chúng sanh mà biến hiện. Người thế gian chẳng biết lại mê lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên, ấy đều là do tâm thức phân biệt, suy lường.
Phàm là lời nói đều chẳng phải nghĩa thật.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

7 - TÁNH THỨC ĐẠI VỐN VÔ SANH

- A Nan ! Tánh của TÂM THỨC vốn chẳng có nguồn gốc, duyên theo sáu thứ căn trần hư vọng mà sanh. Nay nguơi hãy xem khắp Thánh chúng trong hội này , khi mới dùng con mắt lướt qua, chưa khởi phân biệt, thì chúng chỉ hình bóng trong guơng. Rồi tâm thức nguơi theo thứ tự phân biệt : Đây là Văn Thù, đây là Phú Lâu Na, rồi tới Mục Kiều Liên, Tu Bồ Đề, Xá Lợi Phất v.v... Vậy sự biết của tâm thức này từ kiến tinh ra, từ sắc tướng ra, từ hư không ra, hay khi không vô nhân mà ra ?
- A Nan ! Giả sử tâm thức nguơi từ kiến tinh ra. Nếu chẳng có sáng tối, sắc không, thì chẳng có kiến tinh. Kiến tinh còn chẳng có vậy tâm thức từ đâu mà ra ?
- Nếu tâm thức của nguơi từ sắc tướng ra, chẳng từ kiến tinh ra, thì chẳng thấy sáng, cũng chẳng thấy tối, sáng tối đã chẳng thấy tức là chẳng có sắc không. Sắc tướng kia còn chẳng có thì tâm thức do đâu mà ra ?
- Nếu từ hư không ra, chẳng phải sắc tướng cũng chẳng phải kiến tinh. Nếu chẳng phải kiến tinh thì chẳng thể phân biệt, không thể biết được các tướng sáng tối, sắc không. Nếu chẳng phải sắc tướng thì sở duyên diệt mất, vậy kiến văn giác tri chẳng có chỗ an lập. Giữa hai thứ chẳng phải kể trên, nếu "không" thì tâm thức đồng như chẳng có, nếu "có" thì tâm thức đồng như các vật, dẫu cho có, thì tâm thức của nguơi cũng thành vô dụng.

LƯỢC GIẢI
Hư không vô hình, vốn chẳng có Bản Thể, nếu tâm thức từ hư không ra thì cũng giống như hư không, chẳng có Bản Thể để nuơng tựa, tức là tâm thức chẳng phải sắc tướng, cũng chẳng phải kiến tinh. Giữa hai thứ chẳng phải kể trên, nếu cho là "không Bản Thể" thì tâm thức đồng như không có. Nếu cho là "có Bản Thể" thì tâm thức đồng như các vật, . Vật thì vô tri, chẳng có tánh phân biệt, vậy dẫu cho có thì tâm thức cũng thành vô dụng.


- Nếu khi không, vô nhân mà ra, thì sao chẳng cho là mặt trời, mặt trăng ?
Nguơi hay suy xét kỹ càng, cái thấy phải nhờ mắt nguơi, sắc tướng là cảnh của tiền trần. Những gì có tướng mới thành có, chẳng tướng ắt thành không, như vậy tâm thức từ đâu mà ra ?
- Tâm thức thì linh động, kiến tinh thì trong lặng, chẳng hòa chẳng hợp. Kiến văn giác tri đều như thế, chẳng lẽ tâm thức khi không tự ra?


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

- Nếu tâm thức này vốn chẳng từ chỗ nào ra, sự dụng của kiến, văn, giác , tri trạm nhiên viên mãn, tánh chẳng năng sở. Vậy Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Hư không và Bổn kiến, Bổn thức gọi là thất đại, thể tánh chơn thật viên dung, ấy đều là Như Lai Tạng, vốn chẳng sanh diệt.
- A Nan ! Tâm nguơi vọng chấp, chẳng ngộ kiến, văn, giác, tri vốn là Như Lai Tạng. Nguơi hãy xét sáu chỗ tâm thức này là đồng hay dị, là có hay không, là chẳng đồng chẳng dị hay chẳng có chẳng không ?
- Nguơi vốn chẳng biết, trong Như Lai Tạng, tánh thức minh tri, giác minh chơn thức (tánh của bổn thức rõ ràng chơn tri, không phải như sự hiểu biết của thế gian có đối đãi và phân biệt), diệu giác, trạm nhiên, như như chẳng động, chẳng thể nghĩ lường được, trùm đầy pháp giới, khắp mười phuơng hư không, đâu có xứ sở, tùy theo nghiệp của chúng sanh biến hiện các cảnh giới hiện hữu. Người thế gian chẳng biết lại mê lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên, ấy đều là do tâm thức phân biệt, suy lường.
Phàm là lời nói đều chẳng phải thực nghĩa.

Bấy giờ A Nan và đại chúng được sự khai thị vi diệu của Phật, thân tâm phẳng lặng, chẳng còn ngăn ngại, mỗi mỗi tự biết tâm thức cùng khắp mười phuơng, thấy mười phuơng hư không như xem các vật trong lòng bàn tay. Tất cả vật tượng trên thế gian đều vốn là tánh Bồ Đề sáng suốt của Diệu tâm. Tâm tánh tròn đầy , cùng khắp mười phuơng. Xem lại cái thân của cha mẹ sinh ra , như mảy bụi lửng lơ trong mười phuơng hư không , thoạt còn, thoạt mất. Như một bọt nước trôi trong biển cả, chẳng biết sanh diệt từ đâu. Rõ ràng tự biết được cái Bổn lai thường trụ chẳng diệt của Diệu tâm. Được pháp chưa từng có nên chắp tay lễ Phật và nói kệ tán thán Phật rằng :

Diệu trạm tổng trì bất động tôn
Thủ Lăng Nghiêm Vuơng thế hy hữu
Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng.
Bất lịch tăng kỳ hoạch pháp thân.
Nguyện kim đắc quả thành Bảo Vuơng
Hoàn độ như thị hằng sa chúng.
Tuơng thử thân tâm phụng trần sái
Thị tắc danh vi báo Phật ân.
Phục thỉnh Thế Tôn vị chứng minh
Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập
Như nhất chúng sanh vị thành Phật,
Chung bất ư thử thủ Nê Hoàn
Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi
Hy cánh thẩm trừ vi tế hoặc.
Linh ngã tảo đăng Vô Thượng Giác,
Ư thập phuơng giới tọa đạo tràng
Thuấn Nhã Đa tính khả tiêu vong
Thước Ca Ra tâm vô động chuyển.

Dịch nghĩa
Trong lặng, vạn năng, chẳng động tịnh (1)
Lăng Nghiêm Đại Định đời hy hữu (2)
Tiêu điên đảo tưởng từ vô thỉ
chẳng nhọc nhiều kiếp được Pháp thân.
Nguyện nay đắc quả thành Chánh Giác
Độ thoát chúng sanh như Hằng sa.
Hết lòng phụng sự vô số cõi,
Thế mới gọi là đền ơn Phật.
Cúi xin Thế Tôn chứng minh cho
Ngũ trược ác thế nguyện vào trước
Nếu một chúng sanh chưa thành Phật
Quyết chẳng tự mình chứng Niết Bàn
Đại hùng, Đại lực, Đại từ bi
Mong dứt trừ tập khí vi tế.
Khiến con mau đến Vô Thượng Giác
Mười phuơng thế giới tọa đạo tràng.
Dẫu cho hư không bị tiêu mất
Bổn tâm kiên cố chẳng lay động.

GHI CHÚ
(1) Tại sao "Diệu trạm tổng trì bất động tôn" dịch là "Trong lặng, vạn năng, chẳng động tịnh" ?
Vì chữ "Trạm" có nghĩa là trong lặng, chẳng động.
Nhưng trong lặng mà chẳng động, chẳng tịnh, cũng chẳng trụ nơi chẳng động chẳng tịnh mới gọi là "Diệu trạm".

Tổng hết thảy pháp, Trì hết thảy nghĩa . Tổng trì có nghĩa là giữ gìn hết thảy nghĩa của tất cả các pháp, nên gọi là "vạn năng"

(2) Tại sao "Thủ Lăng Nghiêm Vuơng" dịch là "Lăng Nghiêm Đại Định" ?
Lăng Nghiêm là tên kinh. Kinh đã phổ biến trên đời thì chẳng phải là hy hữu. Giữ gìn thân thâm theo kinh này chứng được Đại Định mới gọi là hy hữu.
Định có nhập, có xuất thì chưa phải là Đại Định. Trong tất cả thời, dù động dù tịnh mà vẫn Định mái được gọi là Đại Định, là vua trong các Định.
Như vậy mới gọi là Lăng Nghiêm là vua các Định, hy hữu trên đời.

Thuấn Nhã Đa : là thần hư không. Thân thể vốn là hư không.
Thước Ca Ra : kim cương.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

QUYỂN BỐN

Lúc bấy giờ Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử ở trong chúng liền từ chỗ ngồi đứng dạy, quỳ gối chân phải, chắp tay cung kính bạch Phật rằng :
- Thế Tôn có oai đức lớn, khéo vì chúng sanh hiển bày Đệ Nhất Nghĩa của Như Lai. Thế Tôn thường khen con là bậc nhất trong những người thuyết pháp, mà nay con nghe pháp âm nhiệm màu của Như Lai, cũng như người điếc,cách xa trăm bước mà nghe tiếng muỗi bay, vốn chẳng thể thấy, huống là được nghe! Phật dù chỉ rõ khiến con dứt trừ lỗi lầm, nhưng con còn chưa thấu suốt chỗ chẳng nghi hoặc của nghĩa này.
- Thế Tôn ! Hàng hữu lậu như A Nan, dù được khai ngộ, nhưng chưa dứt tập khí phiền não, còn chúng con là bậc vô lậu trong hội này, nay nghe pháp âm của Như Lai còn mắc phải những điều nghi ngờ.
- Thế Tôn ! Nếu tất cả các thứ căn, trần, ấm, xứ, giới v.v... của thế gian đều là Như Lai Tạng, Bản tánh vốn trong sạch, sao lại bỗng sanh các tướng hữu vi như núi sông, đất đai, thành rồi hoại, hoại rồi thành, thành hoại chẳng ngừng ?
- Lại Như Lai nói Địa Thủy, Hỏa, Phong bản tánh viên dung cùng khắp pháp giới, trạm nhiên, thường trụ. Thế Tôn ! Nếu tánh địa cùng khắp thì sao dung nạp được thủy ? Nếu tánh thủy cùng khắp thì hỏa chẳng thể sanh. Sao lại nói hai tánh thủy và hỏa đều cùng khắp hư không, chẳng đoạt mất nhau ?
- Thế Tôn ! Tánh Địa thì ngăn ngại, tánh Không thì trống rỗng, làm sao hai tánh ấy đều cùng khắp pháp giới ? Nay con chẳng biết nghĩa này thế nào, xin Phật từ bi, khai thị mở tâm mê muội của con và đại chúng. Nói xong, năm vóc gieo sát đất, kính mong lời dạy vô thượng của Như Lai.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Bấy giờ Thế Tôn bảo Phú Lâu Na và hàng A La Hán lậu tận, vô học trong chúng rằng
- Hôm nay Như Lai vì tất cả chúng trong hội này hiển bày tánh Chơn Thắng Nghĩa trong thắng nghĩa, khiến hàng định tánh Thanh văn và tất cả A La Hán chưa được nhị không (nhân ngã không và pháp ngã không), phát tâm hướng về thượng thừa, đều được chỗ tu hành chơn chánh, thiết thực, chẳng xao động của cảnh giới tịch diệt Nhất thừa. Các nguơi hãy chú ý nghe.

Phú Lâu Na và đại chúng kính vâng pháp âm của Phật, yên lặng ngồi nghe. Phật bảo :
- Phú Lâu Na ! Như lời nguơi nói, Bản tánh trong sạch, sao lại bỗng sanh núi sông, đất đai ? Nguơi chẳng thường nghe Như Lai dạy rằng : "Tánh giác diệu minh, Bản giác minh diệu" hay sao ?

LƯỢC GIẢI
Tức diệu thường minh mà chẳng lập sở minh, cũng chẳng phải bất minh, nên nói diệu minh.
Tức minh thường diệu, mà chẳng kẹt nơi minh, nên noí minh diệu.
Nếu chấp thật, cho là giác minh bèn lọt vào tình thức, thành ra lìa giác, chẳng minh, thì đâu thể gọi là diệu, nên kinh nói "do giác minh thành lỗi lầm" là vì vậy.


- Bạch Thế Tôn, vâng ạ, con thường nghe Phật khai thị nghĩa này.
Phật bảo :
- Nguơi nói giác minh, là do tánh minh được gọi là giác, hay cái giác bất minh, gọi là minh giác ?
Phú Lâu Na nói :
- Nếu cái bất minh này gọi là giác, thì chẳng có sở minh.
Phật bảo :
- Nếu chẳng có sở minh thì chẳng có minh giác, có sở chẳng phải là giác, không sở chẳng phải là minh. Chẳng minh lại chẳng phải tánh trạm nhiên sáng tỏ của Bản giác. Vì tánh giác ắt minh, vọng cho là minh giác. Bổn giác chẳng phải sở minh, do chấp sự minh nên lập sở minh, sở minh đã vọng lập, thì sanh cái năng minh hư vọng của nguơi.

Trong chẳng đồng dị, vọng chấp thành dị, khác với cái dị này. Do sự dị mà lập sự đồng. Tướng đồng dị đã sanh, từ đó lại lập ra cái chẳng đồng chẳng dị. Nhiễu loạn như thế, đối đãi nhau sanh ra mệt mỏi, mỏi lâu thành trần, tự hỗn tạp lẫn nhau,do đó sanh ra trần lao phiền não, khởi dạy thành thế giới, tịch lặng thành hư không. Hư không là đồng, thế giới là dị. Do đồng dị, lập ra chẳng đồng chẳng dị, ấy là pháp hữu vi . Cái vốn chẳng đồng dị của Bản giác mới thật là pháp vô vi.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Bản giác tánh không, chẳng minh chẳng vô minh, tùy theo nghiệp thức biến hiện, nên vô minh bắt đầu.
Một niệm vô minh bỗng khởi thì Bản giác lìa tánh không mà sanh vọng minh, tánh không cũng lìa Bản giác mà sanh ám muội. Bản giác sanh vọng minh thì phát ra thức.
Chỗ trong lặng chẳng lay động của thức tinh tức là THỦY
Tánh không sanh ám muội, kết tụ thành sắc tức là ĐỊA
ĐỊA và THỦY nhiễu loạn nhau thành PHONG
Vì tánh Không bị ám muội, cố chấp cái năng minh thành chướng ngại, nên vọng cho Bản giác là sở minh. năng-sở nhiễu loạn nên có tánh biến hóa của HỎA.

HỎA xông lên, nên có hơi nước khắp cả mười phương. HỎA bốc lên, THỦY chảy xuống, giao lộn vọng lập. THỦY ướt thành biển cả, đất khô thành lục địa. Do nghĩa này nên trong biển cả, HỎA thường phun lên, trong lục địa sông ngòi thường chảy.
Thế THỦY kém thế HỎA thì kết thành núi, nên khi đập đá núi thì có tia lửa.
Thế ĐỊA kém thế THỦY thì mọc thành có cây, nên đốt cỏ cây thì thành đất, vắt ra thì có nước.
Tứ đại giao lộn lẫn nhau vọng sanh ra nhân quả. Do nhân duyên này nên thế giới được tương tục.

LƯỢC GIẢI
Theo lý thuyết ngũ hành là sáng lập từ Trung Quốc, người Ấn Độ chẳng biết học thuyết này. Nên các kinh phật chỉ nói Tứ Đại, Ngũ Uẩn, Lục nhập, Thập Nhị Xứ, Thập Bát Giới, cho đến Thất Đại. Đoạn này từ tiếng Phạn dịch sang tiếng Hán, dịch giả mượn ngũ hành để làm sáng tỏ nghĩa kinh. Lý thuyết về ngũ hành, người xưa còn có thể hiểu được, đời nay thì ít người thấu suốt. Cho nên độc giả ngày nay cảm thấy khó hiểu, nếu không hiểu được thì mất tác dụng của lời kinh. Vì Phật thuyết pháp hay dùng những sự vật mà chúng sinh đã biết để chứng tỏ tri kiến của chúng sinh chẳng đúng. Do đó chúng tôi lược bỏ phần ngũ hành, chỉ dựa theo tứ đại mà dịch đoạn kinh này. Xin độc giả từ bi hoan hỷ cho.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

- Lại nữa Phú Lâu Na, Cái minh hư vọng này chẳng phải gì khác, do giác minh thành lỗi lầm. Sở minh đã vọng lập, thành lý minh có ngằn mé. Vì vậy nên nghe chẳng ngoài tiếng, thấy chẳng ngoài sắc. Sáu thứ :Sắc, thanh, huơng, vị, xúc, pháp đã vọng lập, do đó chia ra Kiến, Văn, Giác, Tri. Cộng nghiệp ràng buộc lẫn nhau mà có hợp, ly, thành, hóa. Do kiến chấp của sở minh nên sanh khởi sắc tướng, do năng minh của kiến chấp thì thành tư tưởng. Ý kiến khác với mình thì thành ghét, tư tưởng đồng với mình thì thành yêu. Gieo cái yêu thành hạt giống, thu nạp tư tưởng thành cái thai, giao cấu phát sanh, hấp dẫn cộng nghiệp, nên có nhân duyên sinh ra bào thai.
- Các loài thai sanh, noãn sanh, thấp sanh, hóa sanh, tùy theo sự cẩm ứng mà thành. Noãn do tưởng niệm mà sanh, thai do ái tình mà có, thấp sanh do hợp mà cảm ứng, hóa sanh do tách ly mà hiện. Tình, tưởng, hợp, ly thay đổi lẫn nhau, các loài thọ nghiệp theo đó mà thăng trầm. Do nhân duyên này nên chúng sanh tuơng tục.
- Phú Lâu Na ! Do tư tưởng thuơng yêu liên kết thành nghiệp, yêu mãi không rời thì thành những cha mẹ, con cháu trong thế gian sanh nhau chẳng ngừng. Ấy đều từ gốc Dục Tham sanh khởi.
- Lòng tham ái giứp nhau tăng trưởng, tham mãi không thôi thì các loại noãn, thai, thấp, hóa trong thế gian, tùy sức mạnh yếu ăn nuốt lẫn nhau. Ấy đều là từ gốc Sát Tham sanh khởi.
- Người ăn thịt dê, dê chết làm người, người chết làm dê. Như vậy cho đến mười loại chúng sanh, chết sống, sống chết, ăn nuốt lẫn nhau, ác nghiệp lan tràn cùng tột đời vị lai. Ấy đều từ gốc Đạo Tham (trộm cắp)sanh khởi.
- Nguơi nợ mạng ta, ta trả nợ nguơi, do nhân duyên này, trải qua trăm ngàn kiếp, thường ở trong dòng sanh tử. Nguơi yêu tâm ta, ta yêu sắc nguơi, do nhân duyên này trải qua trăm ngàn kiếp thường ở trong ràng buộc. Ấy đều từ gốc Sát, Đạo, Dâm sanh khởi. Do nhân duyên này nên nghiệp quả tuơng tục.
- Phú Lâu Na ! Ba thứ điên đảo kể trên tuơng tục như vậy, đều do lỗi lầm của giác minh, cho là có tánh liễu tri của năng minh rồi biến hiện sắc tướng. Từ vọng kiến đó sanh khởi các tướng hữu vi như đất dai, núi sông, theo thứ tự dời đổi. Vì hư vọng này nên xoay chuyển chẳng ngừng.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Phú Lâu Na nói :
- Thế Tôn ! Nếu Diệu giác này vốn nhiệm màu, sáng tỏ , cùng tâm Như Lai chẳng thêm, chẳng bớt, khi không bỗng sanh các tướng hữu vi như núi sông, đất đai. Nay Như Lai đã chứng Diệu giác, làm sao núi sông đất đai và các tập khí hữu lậu còn được sanh trở lại ?
Phật bảo Phú Lâu Na:
- Ví như người mê ở một xóm làng, nhận lầm phuơng nam thành phuơng bắc, vậy sự lầm lẫn này từ mê ra hay từ ngộ ra ?
Phú Lâu Na đáp :
- Người mê như vậy chẳng từ mê ra cũng chẳng từ ngộ ra. Tại sao ? Mê vốn chẳng có gốc, làm sao từ mê ra ? Ngộ chẳng sanh mê, sao nói từ ngộ ra ?
Phật bảo :
- Người mê kia đang trong lúc mê, bỗng có người ngộ chỉ cho ngộ, Phú Lâu Na ! Ý nguơi thế nào ? Người mê ấy, đối với xóm làng này còn mê lại chăng ?
- Bạch Thế Tôn không ạ !
- Phú Lâu Na ! Mười phuơng Như Lai cũng như vậy, sự mê này vốn chẳng có gốc, tánh tất cánh là không, xưa vốn chẳng mê, do vọng chấp nên tựa như có mê, có giác. Giác được cái mê thì mê liền diệt, giác chẳng sanh mê.
Cũng như người nhặm thấy hoa đốm trên không, nếu trừ được bệnh nhặm thì hoa đốm nơi không liền diệt. Bỗng có người , ở chỗ hoa đốm đã diệt kia, mong đợi hoa đốm sanh nữa, nguơi xét người này ngu hay trí ?
Phú Lâu Na đáp :
- Hư không vốn chẳng có hoa đốm, vọng thấy có sanh diệt. Thấy hoa đốm diệt đã là điên đảo rồi, lại còn muốn hoa đốm sanh nữa, thì thật là điên dại. Làm sao còn gọi người điên như vậy là ngu hay trí được!
Phật bảo :
- Theo như nguơi hiểu, sao lại còn hỏi Diệu giác của chư Phật sanh núi sông, đất đai nữa ! Cũng như quặng vàng, là đất cát lộn với vàng ròng, khi quặng đã luyện thành vàng ròng thì chẳng trở lại thành quặng nữa. Như cây đã đốt thành tro thì chẳng trở lại thành cây nữa. Bồ Đề Niết Bàn của Phật cũng như vậy.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

- Phú Lâu Na ! Nguơi còn hỏi về bản tánh viên dung cùng khắp pháp giới của ĐỊA, THỦY, HỎA, PHONG, nghi rằng tánh Thủy và tánh Hỏa sao chẳng đoạt mất nhau, và hỏi sao hư không và tánh Địa đều cùng khắp pháp giới, lẽ ra chẳng dung nạp nhau.
- Phú Lâu Na ! Ví như hư không chẳng phải các tướng, cũng chẳng ngăn ngại các tướng phát huy. Tại sao ? Phú Lâu Na, ở nơi hư không, mặt trời chiếu thì sáng, mây che thì tối, gió thổi thì động, trời tạnh thì trong, suơng mù thì đục, bụi nổi thì mờ, nước lặng thì lóng lánh. Ý nguơi thế nào ? Các tướng hữu vi khác nhau như vậy là tự sanh hay từ hư không ra ? Phú Lâu Na ! Nếu mỗi mỗi tự sanh, thì khi mặt trời chiếu sáng, mười phuơng hư không đã thành màu sắc của mặt trời, tại sao còn thấy mặt trời trên không ? Nếu hư không tự sáng thì hư không phải tự chiếu sáng, tại sao giữa đêm hay mây mù lại chẳng thấy sáng ? Nên biết cái sáng như vậy chẳng phải mặt trời, cũng chẳng phải hư không, cũng chẳng ngoài mặt trời và hư không. Xét các tướng ấy vốn là hư vọng, chẳng thể chỉ bày, cũng như muốn hoa đốm trên hư không kết thành quả ở hư không, làm sao còn hỏi cái nghĩa chẳng đoạt mất nhau ? Diệu Tâm sáng tỏ, vốn chẳng phải Thủy Hỏa, tại sao còn hỏi về nghĩa chẳng dung nạp nhau ?
- Tánh sáng tỏ của Diệu Tâm cũng như vậy, Nếu nguơi phát minh cái hư không, thì hư không hiện ra. Địa, Thủy, Hỏa, Phong mỗi mỗi phát minh thì mỗi mỗi hiện ra, nếu cùng phát minh thì cùng hiện ra.
- Thế nào là cùng hiện ? Phú Lâu Na ! Như trong một dòng nước, hiện ra bóng mặt trời, có hai người cùng xem bóng đó, rồi người đi phuơng Đông, người đi phuơng Tây, mỗi người đều thấy mặt trời đi theo mình, một cái đi về phuơng Đông, một cái đi về phuơng Tây, chẳng có nhất định. Không nên hỏi rằng : Mặt trời là một, sao lại mỗi cái đi theo mỗi người ? Bóng mặt trời trong nước đã thành hai, tại sao trên trời chỉ có một ? Sự hư vọng quanh lộn như thế chẳng có căn cứ.
- Phú Lâu Na ! Nguơi cho các tướng sắc-không đoạt mất lẫn nhau nơi Như Lai Tạng, thì Như Lai Tạng tùy theo sắc không cùng khắp pháp giới , nên ở trong đó, gió thổi thì động, hư không thì lặng, mặt trời thì sáng, mây mù thì tối. Chúng sinh mê muội trái giác tánh, hợp cảnh trần, phát khởi trần lao nên có tướng thế gian.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

- Ta dùng tánh chẳng sanh diệt của Diệu Tâm sáng tỏ hợp với Như Lai Tạng, thì Như Lai Tạng chỉ duy nhất có một Diệu Tâm sáng tỏ, tròn đầy, chiếu khắp pháp giới, nên ở trong đó, một là vô lượng, vô lượng là một, trong nhỏ hiện ra lớn, trong lớn hiện ra nhỏ, đạo tràng chẳng động mà ở khắp mười phương thế giới, thân thể bao hàm vô tận hư không, nơi đầu mẩy lông hiện ra một cõi Phật, ngồi trong vi trần chuyển đại pháp luân, nghịch cảnh trần, hợp tánh giác, nên hiện ra tánh chơn như sáng tỏ của Diệu Tâm.
- Cái Diệu Tâm sáng tỏ này phi tâm, phi không, phi địa, thủy, hỏa, phong. Phi nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý. Phi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Phi nhãn thức.... cho đến phi ý thức giới. Phi minh, phi vô minh, phi vô minh tận. Như thế cho đến phi lão tử, phi lão tử tận. Phi khổ, tập, diệt, đạo. phi trí, phi đắc, phi bố thí, trì giới, tinh tiến, nhẫn nhục, thiền định, trí huệ. phi đến bờ kia, cho đến phi Như Lai, phi ứng cúng, phi Chánh biến tri, phi Niết bàn, phi thường đức, lạc đức, ngã đức, tịnh đức (tứ đức của Niết Bàn), cho đến các pháp thế gian và xuất thế gian đều phi cả.
- Cái Diệu Tâm sáng tỏ này tức Không, tức Địa, Thủy, Hỏa, Phong. Tức nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý. Tức sắc,thanh, hương, vị, xúc, pháp. Tức nhãn thức giới, cho đến tức ý thức giới. Tức minh, tức vô minh, tức minh vô minh tận. Cho đến tức lão, tức tử, tức lão tử tận. Tức khổ, tập, diệt, đạo. Tức trí, tức đắc. Tức bố thí, trì giới, tinh tiến, nhẫn nhục, thiền định, trí huệ. Tức đến bờ kia, cho đến tức Như Lai, tức Ứng cúng, thức Chính biến tri. Tức Đại Niết Bàn, tức thường đức, tức lạc đức, tức ngã đức, tức tịnh đức. Cho đến các pháp thế gian và xuất thế gian đều tức như thế cả.
- Cái Diệu Tâm sáng tỏ này lìa TỨC lìa PHI, cũng TỨC, cũng PHI TỨC, tại sao chúng sanh tam giới của thế gian và các hàng Thanh Văn, Duyên Giác của xuất thế gian muốn dùng cái tâm sở tri để suy lường Vô Thượng Bồ Đề của Như Lai. Muốn dùng lời nói thế gian để nhập Tri kiến Phật, đâu có thể được !
- Ví như nhũng cây đàn : Cầm sắt, tỳ bà, dù có diệu âm, nếu chẳng có sự khéo léo của ngón tay thì diệu âm chẳng thể phát ra. Cũng vậy, cái Diệu Tâm chơn thật của ngươi và chúng sanh, mỗi mỗi vốn sẵn đầy đủ. Như nơi ta khi búng ngón tay thì Hải ấn phát ra ánh sáng, (Hải ấn là lâu đài trên mặt biển, dụ cho sức dụng vô biên của tự tánh tự hiện), còn nơi các ngươi, vừa móng tâm thì trần lao đã khởi. Ấy là do chẳng cầu Vô Thượng Bồ Đề, ham thích Tiểu thừa, được ít cho là đủ.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Phú Lâu Na nói :
- Diệu Tâm sáng tỏ của con và Như lai đều viên mãn không hai. Nơi con, vì xưa kia mắc phải vọng tưởng từ vô thỉ, chịu luân hồi đã lâu, nay dù chứng được Thánh quả, nhưng chưa đến chỗ rốt ráo. Thế Tôn thì tất cả vọng tưởng đều diệt, chỉ Diệu Tâm chơn thường hiện hành. Vậy xin hỏi Như Lai : Tất cả chúng sinh vì sao có vọng, tự che khuất Diệu Tâm, cam chịu chìm đắm ?
Phật bảo Phú Lâu Na :
- Nguơi dù trừ được lòng nghi, nhưng còn có mê hoặc chưa dứt sạch, nay ta đem những việc của thế gian hỏi nguơi : Nguơi chẳng nghe trong thành Thất La Phiệt, có ông Diễn Nhã Đa, buổi sáng lấy guơng soi mặt, nhìn thấy mặt mày, bỗng ưa cái đầu trong guơng, rồi tự trách đầu mình sao chẳng thấy mặt mũi, cho là yêu mị. Khi không phát điên, bỏ chạy. Ý nguơi thế nào ? Người ấy vì sao khi không bỏ chạy ?
Phú Lâu Na đáp :
- Người ấy tâm điên chứ chẳng do gì khác.
Phật nói :
- Diệu Tâm vốn tràn đầy sáng tỏ, đã gọi là vọng làm sao có nhân ? Nếu có cái nhân sao còn gọi là vọng ? Chỉ do các vọng tưởng xoay vần, tự làm nhân cho nhau, từ mê thêm mê, trải qua vô lượng kiếp dù được Phật phát minh đại nghĩa, còn chẳng chịu quay về. Cái nhân mê như vậy, do mê tự có, biết cái mê vô nhân thì vọng chẳng chỗ dựa. Sanh còn chẳng có, lấy gì để diệt ?
- Người đắc đạo Bồ Đề, như người tỉnh giấc nói việc trong chiêm bao. Tâm dù biết rõ ràng, làm sao lấy được những vật trong chiêm bao ra ? Huống là vô nhân, vốn chẳng có gì ! Như Diễn Nhã Đa, đâu có nhân duyên gì mà tự sợ đầu mình, bỏ chạy. Nếu bỗng nhiên hêt cái điên, đầu lại như cũ, đâu phải từ ngoài mà được. Dù chưa hết điên, đầu cũng chẳng mất. Phú Lâu Na ! Tánh vọng như thế, làm sao có nhân ?
- Nếu nguơi chẳng duyên theo thế gian , nghiệp quả, chúng sinh, ba thứ phân biệt này xoay chuyển liên tục, ba duyên đã diệt thì ba nhân chẳng sanh. Tánh điên của Diễn Nhã Đa trong tâm nguơi tự dứt , dứt tức là Bồ Đề. Vậy Diệu Tâm sáng tỏ vốn khắp pháp giới, chẳng từ ngừơi khác mà được, chẳng nhờ nhọc nhằn, tu chứng mà có.
- Ví như có người, nơi áo mình có hạt châu như ý, mà chẳng tự biết, nghèo nàn rách rưới, ăn xin nơi phuơng xa. Người ấy dù nghèo, hạt châu chưa từng mất, bỗng được người trí chỉ ra hạt châu, liền thành giàu sang tùy theo ý muốn, mới ngộ bảo châu chẳng từ bên ngoài mà có.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Tức thời A Nan ở trong chúng, đảnh lễ chân Phật, bạch Phật rằng :
- Nay Thế Tôn nói ba nghiệp SÁT, ĐẠO, DÂM diệt rồi thì ba nhân chẳng sanh, và tánh điên của Diễn Nhã Đạt Đa trong tâm tự dứt, dứt tức là Bồ Đề, chẳng từ người khác mà được. Thế thì rõ ràng là nhân duyên rồi, làm sao Thế Tôn bác bỏ nghĩa nhân duyên ? Chính con do nhân duyên mà tâm được khai ngộ.
- Thế Tôn ! nghĩa này chẳng những hàng Thanh văn hữu học trẻ tuổi như chúng con, cả Đại Mục Kiều Liên, Xá Lợi Phất, Tu Bồ Đề trong hội này đều từ nơi ông lão Phạm Chí, nghe cái thuyết nhân duyên của Phật, tâm được khai ngộ, thành quả vô lậu. Nay Phật nói Bồ Đề chẳng do nhân duyên, vậy thì cái thuyết tự nhiên của bọn ngoại đạo Câu Xá Ly thành Đệ Nhất Nghĩa sao ? Xin Phật đại bi, khai phá chỗ mê muội cho chúng con.

Phật bảo A Nan :
- Như Diễn Nhã Đạt Đa, nếu diệt trừ được cái nhân duyên phát điên, thì tánh điên chẳng tự nhiên hiện ra, lý cùng tột của nhân duyên và tự nhiên là như vậy.
- A Nan ! Nếu đầu của Diễn Nhã Đạt Đa vốn tự nhiên, đã là tự nhiên, thì tại sao sợ đầu bỏ chạy ? Ấy là do nhân duyên nào ?
- Nếu đầu tự nhiên do nhân duyên nên phát điên, sao chẳng tự nhiên do nhân duyên mà mất ? Đầu vốn chẳng mất, tại sao vẫn còn vọng sanh điên sợ ? Thế thì đâu phải nhờ nhân duyên ?
- Nếu bản tánh vốn tự nhiên có điên sợ, vậy khi chưa điên, cái điên núp ở chỗ nào ? Nếu tánh chẳng điên là tự nhiên, đầu vốn chẳng vọng, sao lại bỏ chạy ?
- Nếu ngộ được cái đầu vốn chẳng mất, tánh điên cuồng vốn vọng sanh, thì nhân duyên và tự nhiêu đều là hý luận.
- Cho nên ta nói ba duyên diệt rồi tức là tâm Bồ Đề. Tâm Bồ Đề sanh, thì tâm sanh diệt được diệt, ấy cũng là sanh diệt. Khi sanh và diệt đều sạch, mới gọi là vô công dụng đạo.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.31 khách