KINH BI HOA

Để giữ gìn sự trang nghiêm, thuần túy tạo nguồn tư liệu; nơi đây chỉ đăng Kinh Văn mà không thảo luận.

Điều hành viên: thử nghiệm global, Thanh Tịnh Lưu Ly

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH BI HOA

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

“Cho nên, các vị Đại Bồ Tát vì muốn được đủ mọi sự trang nghiêm tốt đẹp bền chắc mà phát khởi đại nguyện không thể nghĩ bàn, lấy việc tăng trưởng tri kiến không thể nghĩ bàn để làm sự trang nghiêm tốt đẹp.

“Vì lấy ba mươi hai tướng tốt để trang nghiêm nên theo đó mà được tám mươi vẻ đẹp.

“Vì lấy âm thanh nhiệm mầu để trang nghiêm nên tùy theo chỗ thích nghe thuyết pháp của mỗi chúng sinh mà khiến cho tất cả người nghe pháp đều được đầy đủ tri kiến.

“Vì lấy tâm để trang nghiêm nên được các tam-muội, không sinh lòng thối chuyển.

“Vì lấy niệm để trang nghiêm nên không quên mất bất cứ môn đà-la-ni nào.

“Vì lấy tâm để trang nghiêm nên có thể phân biệt được các pháp.

“Vì lấy niệm để trang nghiêm nên hiểu rõ được hết thảy nghĩa lý nhiều như những hạt bụi nhỏ.

“Vì lấy tâm lành để trang nghiêm nên được thệ nguyện kiên cố, tinh tấn bền chắc, theo đúng như chỗ phát nguyện mà đạt đến sự giải thoát.

“Vì lấy tâm chuyên nhất để trang nghiêm nên lần lượt vượt lên các địa vị tu chứng.

“Vì lấy việc bố thí để trang nghiêm nên tất cả những thứ cần dùng của mình đều có thể buông xả.

“Vì lấy việc trì giới để trang nghiêm nên khiến cho tâm lành trong trắng, thanh tịnh không cấu nhiễm.

“Vì lấy đức nhẫn nhục để trang nghiêm nên đối với chúng sinh trong lòng không có sự chướng ngại.

“Vì lấy đức tinh tấn để trang nghiêm nên hết thảy các pháp phụ trợ đều được thành tựu.

“Vì lấy thiền định để trang nghiêm nên ở trong hết thảy các tam-muội đều được sức tự tại không ngăn ngại.

“Vì lấy trí huệ để trang nghiêm nên rõ biết mọi thói tật phiền não.

“Vì lấy lòng từ để trang nghiêm nên một lòng nhớ nghĩ đến hết thảy chúng sinh.

“Vì lấy lòng bi để trang nghiêm nên có thể trừ dẹp được tất cả những khổ đau của chúng sinh.

“Vì lấy lòng hỷ để trang nghiêm nên đối với hết thảy các pháp lòng không nghi hoặc.

“Vì lấy lòng xả để trang nghiêm nên lìa bỏ được tâm kiêu mạn, đối với tất cả luôn giữ lòng bình đẳng không phân cao thấp.

“Vì lấy các thần thông để trang nghiêm nên đối với hết thảy các pháp đều được tự tại không ngăn ngại.

“Vì lấy công đức để trang nghiêm nên được bàn tay quý, hóa hiện kho báu dùng không thể hết.

“Vì lấy trí huệ để trang nghiêm nên rõ biết được tâm niệm của tất cả chúng sinh.

“Vì lấy tâm ý để trang nghiêm nên dùng phương tiện giúp cho hết thảy chúng sinh được tỉnh ngộ.

“Vì lấy sự sáng suốt để trang nghiêm nên được mắt trí huệ sáng suốt.

“Vì lấy các sự biện nghị để trang nghiêm nên khiến cho chúng sinh được giáo pháp và ý nghĩa tương ứng với ngôn từ.

“Vì lấy sự không sợ sệt để trang nghiêm nên hết thảy các ma không thể làm ngăn ngại, khó khăn.

“Vì lấy công đức để trang nghiêm nên được những công đức của chư Phật Thế Tôn.

“Vì lấy pháp để trang nghiêm nên được biện tài vô ngại, thường vì chúng sinh giảng nói chánh pháp nhiệm mầu.

“Vì lấy sự sáng suốt để trang nghiêm nên được hết thảy mọi sự sáng suốt của Phật pháp.

“Vì lấy sự soi chiếu sáng suốt để trang nghiêm nên có thể soi sáng khắp các cõi Phật thế giới.

“Vì lấy tâm kẻ khác để trang nghiêm nên được trí huệ chân chánh không rối loạn.

“Vì lấy việc truyền dạy giới luật để trang nghiêm nên được sự giữ gìn và bảo vệ giới luật đúng như lời dạy.

“Vì lấy các phép thần túc để trang nghiêm nên được phép Như ý túc, đạt đến giải thoát.

“Vì lấy việc thọ trì hết thảy các đức Như Lai để trang nghiêm nên được thâm nhập kho pháp vô lượng của Như Lai.

“Vì lấy chánh pháp tôn quý để trang nghiêm nên được trí huệ chẳng tùy theo kẻ khác.

“Vì lấy việc làm theo hết thảy mọi việc lành để trang nghiêm nên được chỗ thực hành đúng như lời dạy, vì muốn cho những chúng sinh như thế đều được những lợi ích công đức như thế.

“Nếu có vô lượng vô biên a-tăng-kỳ các vị Đại Bồ Tát tu tập theo Đại thừa, khi nghe con thuyết pháp chỉ một câu liền được đầy đủ hết thảy những pháp lành trong sạch như vậy.

“Vì thế cho nên chỗ đạt được trí huệ của chư Đại Bồ Tát đối với các pháp không phải do được nghe từ người khác, vẫn được thành tựu chánh pháp lớn lao sáng suốt, thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.

“Bạch Thế Tôn! Nếu những chúng sinh ở thế giới phương khác tạo năm tội nghịch, cho đến phạm vào bốn trọng cấm, diệt mất pháp lành, nếu học theo Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Đại thừa, do nơi nguyện lực nên muốn sinh về thế giới của con. Khi được sinh về rồi, lại gồm thâu hết thảy các nghiệp bất thiện, thô thiển xấu ác, tâm nhiều mong cầu, ương ngạnh rắn rỏi rất khó điều phục, rơi hẳn vào bốn điên đảo, tham lam mê đắm, keo kiệt, bủn xỉn. Những chúng sinh như vậy có đến tám mươi bốn ngàn tâm tánh rối loạn khác nhau, con sẽ vì hết thảy những tâm tánh khác nhau ấy mà giảng thuyết rộng tám mươi bốn ngàn pháp môn khác nhau.

“Bạch Thế Tôn! Nếu chúng sinh nào học theo giáo pháp Đại thừa Vô thượng, con sẽ vì chúng sinh ấy rộng thuyết đầy đủ sáu pháp ba-la-mật, nghĩa là từ Bố thí ba-la-mật cho đến Trí huệ ba-la-mật.

“Nếu chúng sinh nào học theo giáo pháp Thanh văn thừa, chưa trồng các căn lành, cầu được chư Phật làm thầy, con sẽ khiến cho họ trụ yên nơi Tam quy y, sau đó mới khuyến khích trụ nơi sáu pháp ba-la-mật.

“Nếu chúng sinh nào ưa thích làm việc giết hại, con sẽ khiến cho được trụ yên trong chỗ không giết hại.

“Nếu chúng sinh nào chuyên làm những việc tham lam, ác độc, con sẽ khiến cho được trụ yên trong chỗ không trộm cắp.

“Nếu chúng sinh nào làm việc dâm dục không đúng pháp, con sẽ khiến cho được trụ yên trong chỗ không tà dâm.

“Nếu những chúng sinh nào cố ý nói ra những lời phỉ báng, dối trá lẫn nhau, con sẽ khiến cho được trụ yên trong chỗ không nói dối.

“Nếu chúng sinh nào ưa thích sự say cuồng, mê loạn, con sẽ khiến cho được trụ yên trong chỗ không uống rượu.

“Nếu chúng sinh nào phạm vào cả năm việc như trên, con sẽ khiến cho được thọ trì năm giới của hàng cư sĩ tại gia.

“Nếu chúng sinh nào đối với các pháp lành chẳng sinh lòng vui thích, con sẽ khiến cho thọ trì Tám trai giới trong một ngày một đêm.

“Nếu chúng sinh nào căn lành ít ỏi, đối với căn lành sinh lòng ưa thích, con sẽ khiến cho chúng sinh ấy trong đời vị lai được ở trong Phật pháp, xuất gia học đạo, trụ yên trong Phạm hạnh thanh tịnh và thọ trì Mười giới.

“Nếu chúng sinh nào hết lòng khao khát cầu được các pháp lành căn bản, con sẽ khiến cho được trụ yên trong các pháp lành căn bản, khiến cho được thành tựu Phạm hạnh, đầy đủ đại giới.
****


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH BI HOA

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

“Hết thảy những chúng sinh như vậy, dù tạo đủ năm tội nghịch, cho đến tham lam keo kiệt, con sẽ vì họ mà dùng đủ mọi phương cách, thị hiện các phép thần túc, thuyết giảng nghĩa lý các pháp, mở bày chỉ dạy các pháp về ấm, giới, nhập, khổ, không, vô thường, vô ngã, khiến cho được trụ yên trong cảnh giới Niết-bàn tịch diệt nhiệm mầu an ổn không sợ sệt, lại vì bốn chúng tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di như vậy mà thuyết pháp.

“Nếu chúng sinh nào mong cầu được nghe những sự luận nghị, con sẽ vì họ mà nói các luận thuyết chánh pháp. Cho đến những ai cầu phép luận giải thoát, con sẽ vì người ấy mà nói các luận thuyết về nghĩa không.

“Nếu chúng sinh nào đối với thiện pháp chân chánh trong lòng không ưa thích, con sẽ vì họ mà nói hết thảy các việc trợ giúp.

“Nếu chúng sinh nào đối với thiện pháp chân chánh trong lòng ưa thích, con sẽ vì họ mà nói pháp môn Tam-muội Không, là pháp giải thoát chân chánh.

“Bạch Thế Tôn! Con vì hết thảy mọi chúng sinh như vậy, sẽ vượt qua trăm ngàn do-tuần mà không dùng đến phép thần túc, để mở bày chỉ bảo vô lượng vô biên đủ mọi phương tiện, vì họ mà giảng rõ ý nghĩa, lại thị hiện các phép thần túc cho đến thị hiện Niết-bàn, lòng không chán nản.

“Bạch Thế Tôn! Con dùng sức tam-muội để xả bỏ năm phần thọ mạng có được của mình mà nhập Niết-bàn.

“Vào lúc ấy, con tự phân thân thành những phần nhỏ như nửa hạt đình lịch, vì thương xót chúng sinh mà cầu được nhập Niết-bàn. Sau khi nhập Niết-bàn rồi, chánh pháp của con ở đời được một ngàn năm. Tượng pháp ở đời đủ năm trăm năm.

“Sau khi con nhập Niết-bàn rồi, nếu chúng sinh nào dùng các thứ trân bảo, kỹ nhạc để cúng dường xá-lợi, thậm chí chỉ cần lễ bái, đi quanh về bên phải một vòng, chắp tay ngợi khen xưng tán, dùng một cành hoa để cúng dường, chúng sinh ấy nhờ nơi nhân duyên như vậy sẽ được tùy theo chí nguyện, ở trong Ba thừa thảy đều được địa vị không còn thối chuyển.

“Bạch Thế Tôn! Sau khi con nhập Niết-bàn rồi, nếu chúng sinh nào học theo giáo pháp của con, cho đến chỉ cần có thể giữ bền được một giới như con đã thuyết dạy, hoặc thậm chí chỉ cần đọc tụng một bài kệ bốn câu, vì người khác giảng nói, khiến cho người nghe được sinh lòng hoan hỷ, liền cúng dường người nói pháp ấy cho đến dù chỉ một cành hoa hay cúi lạy một lạy, nhờ nơi nhân duyên ấy liền được tùy theo chí nguyện của mình, ở trong Ba thừa thảy đều được địa vị không còn thối chuyển.

“Thậm chí cho đến khi đuốc pháp lụi tàn, cờ pháp ngã đổ, chánh pháp diệt mất rồi, xá-lợi của con sẽ vùi sâu trong đất đến tận nơi thấp nhất của thế giới. Cho đến khi thế giới Ta-bà không có trân bảo, xá-lợi của con sẽ hóa thành bảo châu lưu ly như ý, ánh sáng chói chang rực rỡ, từ nơi tận cùng của thế giới chiếu lên đến thế gian, lên đến tận cõi trời A-ca-ni-trá, làm mưa xuống đủ các thứ hoa, như hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la, hoa ba-lợi-chất-đa, hoa mạn-thù-sa, hoa ma-ha mạn-thù-sa, thảy đều có những vầng sáng bao quanh rực rỡ thanh tịnh, lớn như bánh xe, có trăm cánh, ngàn cánh hoặc trăm ngàn cánh, ánh sáng tỏa chiếu khắp nơi, lại có hương thơm vi diệu thường lan tỏa, người xem không thấy chán. Ánh sáng của hoa chói chang rực rỡ không sao tả xiết. Hương thơm vi diệu của hoa tỏa khắp đến vô lượng vô biên. Không trung mưa xuống vô số các loại hoa như vậy.

“Đang khi mưa hoa xuống như vậy, lại có đủ mọi âm thanh vi diệu vang lên, như âm thanh Phật, âm thanh pháp, âm thanh tỳ-kheo tăng, âm thanh của Tam quy y, âm thanh của giới ưu-bà-tắc, âm thanh của sự thành tựu tám giới, âm thanh của mười giới xuất gia, âm thanh của sự bố thí, âm thanh của sự trì giới, âm thanh của sự đầy đủ đại giới, Phạm hạnh thanh tịnh, âm thanh của sự trợ giúp pháp lành, âm thanh đọc kinh, âm thanh của tư duy thiền, âm thanh của quán bất tịnh, âm thanh của niệm tưởng hơi thở ra vào, âm thanh của phi tưởng phi phi tưởng, âm thanh của hữu tưởng vô tưởng, âm thanh của thức xứ, âm thanh của không xứ, âm thanh của tám thắng xứ, âm thanh của sự nhập vào mười nhất thiết xứ, âm thanh của định huệ, âm thanh của các pháp không, vô tướng, vô tác, âm thanh của mười hai nhân duyên, âm thanh đầy đủ giáo pháp Thanh văn, âm thanh học theo giáo pháp Duyên giác, âm thanh đầy đủ sáu ba-la-mật của Đại thừa.

“Trong các loại hoa ấy phát ra những âm thanh như vậy, chư thiên trong cõi Sắc giới thảy đều nghe thấy; nghe được những âm thanh ấy rồi, hết thảy những việc thiện đã làm trước đây đều tự nhớ lại; hết thảy những việc bất thiện đã làm trước đây liền tự hối trách, liền hiện xuống nơi thế giới Ta-bà, giáo hóa vô lượng chúng sinh trong thế gian, khiến cho đều được trụ yên trong Mười điều lành.

“Chư thiên trong cõi Dục giới cũng được nghe những âm thanh ấy; nghe rồi thì dứt hết mọi sự tham ái trói buộc, không còn say đắm năm món dục, hết thảy tâm pháp đều được lắng yên, tĩnh lặng; hết thảy những điều thiện đã làm trước đây đều tự nhớ lại; hết thảy những điều bất thiện đã làm trước đây liền tự hối trách; liền hiện ngay xuống thế giới Ta-bà, giáo hóa vô lượng chúng sinh trong thế gian, khiến cho đều được trụ yên trong Mười điều lành.

“Bạch Thế Tôn! Những loại hoa như vậy ở giữa không trung lại cũng biến hóa ra đủ mọi loại trân bảo, vàng bạc, ma ni chân châu, lưu ly, các loại ngọc quý, mã não, san hô, những thứ trang sức đẹp đẽ của cõi trời, tất cả đều rơi xuống như mưa, đầy khắp trong thế giới Ta-bà

“Lúc bấy giờ, tất cả nhân dân trong lòng đều được vui vẻ, không có những nạn đấu tranh, đói khổ, tật bệnh. Tất cả những nạn giặc cướp đến từ nơi khác, cho đến những lời nói ác độc cũng đều diệt mất, thảy đều được lắng yên, tĩnh lặng.

“Khi ấy thế giới có được những sự vui thích như vậy. Có những chúng sinh nhìn thấy các món trân bảo rồi, hoặc sờ mó, hoặc sử dụng, liền đối với giáo pháp Ba thừa không còn thối chuyển. Các món trân bảo này tạo ra lợi ích như vậy. Tạo ra lợi ích rồi lại trở về chìm sâu trong lòng đất, đến tận chỗ trước đây ở nơi sâu nhất của thế giới.

“Bạch Thế Tôn! Khi cõi thế giới Ta-bà có nạn đao binh nổi lên, xá-lợi của thân con lại sẽ hóa thành loại châu lưu ly màu xanh biếc, từ trong lòng đất phát ra, lên đến tận cõi trời A-ca-ni-trá, mưa xuống đủ các thứ hoa, như hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la, hoa ba-lợi-chất-đa... Lại cũng hóa hiện đủ các sự lợi ích như đã nói trên... cho đến khi quay trở về chìm sâu trong lòng đất, đến tận chỗ trước đây ở nơi sâu nhất của thế giới.
****
(136)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH BI HOA

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

“Bạch Thế Tôn! Cũng giống như khi có nạn đao binh, đến khi có những nạn đói, bệnh dịch nổi lên, xá-lợi của con lại cũng hóa hiện đầy đủ các sự việc như vậy.

“Bạch Thế Tôn! Trong đại kiếp Hiền, sau khi con nhập Niết-bàn rồi, những xá-lợi của con để lại sẽ làm các Phật sự như vậy, điều phục vô lượng vô biên chúng sinh, khiến cho ở trong giáo pháp Ba thừa được địa vị không còn thối chuyển. Cũng như vậy, con sẽ ở trong số đại kiếp nhiều như số vi trần của năm cõi Phật mà điều phục vô lượng vô biên chúng sinh, khiến cho ở trong giáo pháp Ba thừa được địa vị không còn thối chuyển.

“Bạch Thế Tôn! Nếu như trải qua đủ số a-tăng-kỳ kiếp nhiều như số cát của một ngàn con sông Hằng, trong vô lượng vô biên a-tăng-kỳ thế giới khác có bao nhiêu vị Phật ra đời, tất cả đều là những chúng sinh do con trong thời gian tu đạo A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề đã giáo hóa cho, từ khi mới phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề cho đến lúc được trụ yên trong sáu pháp ba-la-mật.

“Bạch Thế Tôn! Khi con thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề rồi, những chúng sinh mà con khuyến khích giáo hóa cho được phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, cho đến dừng trụ trong sáu pháp ba-la-mật, cùng với những chúng sinh mà sau khi con nhập Niết-bàn để lại xá-lợi biến hóa giáo hóa cho được phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, tất cả những chúng sinh ấy trải qua số a-tăng-kỳ kiếp nhiều như số cát của một ngàn con sông Hằng, sẽ ở nơi vô lượng vô biên a-tăng-kỳ thế giới khắp mười phương mà thành Phật, thảy đều xưng tán danh hiệu của con mà ngợi khen tán thán rằng: ‘Trong đời quá khứ lâu xa có một kiếp tên gọi là Hiền. Khi bắt đầu vào kiếp ấy, vị Thế Tôn thứ tư có danh hiệu như vậy. Vị Phật Thế Tôn ấy đã khuyến khích giáo hóa chúng ta, khiến cho bắt đầu phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vào lúc ấy tất cả chúng ta vốn đã diệt mất tâm lành, gồm đủ các việc bất thiện, phạm vào năm tội nghịch, cho đến chạy theo tà kiến. Khi đó vị Phật ấy đã khuyến khích giáo hóa chúng ta, khiến cho được trụ yên trong sáu pháp ba-la-mật, nhờ đó liền được thấu rõ hết thảy các môn đà-la-ni, chuyển bánh xe chánh pháp, lìa khỏi sự trói buộc của sinh tử, giúp cho vô lượng vô biên trăm ngàn chúng sinh được trụ yên nơi quả vị cao trổi, lại cũng khiến cho vô lượng trăm ngàn chúng sinh được dừng yên trong hai cõi trời người, cho đến đạt được các quả giải thoát.’

“Nếu có những chúng sinh cầu đạo Bồ-đề, nghe lời ngợi khen xưng tán con như vậy rồi, mỗi người liền thưa hỏi đức Phật của mình: ‘Bạch Thế Tôn! Vị Phật Thế Tôn kia thấy được những ý nghĩa lợi ích nào mà ở trong cõi đời xấu ác nặng nề có năm sự uế trược như vậy thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề?’

Các đức Thế Tôn liền vì những kẻ nam, người nữ có lòng lành cầu đạo Bồ-đề kia mà giảng nói về sự thành tựu hạnh đại bi của con trong quá khứ, từ khi mới phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, cho đến sự trang nghiêm thế giới cùng với nguyện lành mầu nhiệm và những nhân duyên phát khởi.

“Những người ấy nghe rồi đều lấy làm kinh ngạc, ngợi khen là chưa từng có, liền phát khởi nguyện lành mầu nhiệm, đối với chúng sinh khởi tâm đại bi cũng như con không khác. Tất cả đều phát nguyện rằng: ‘Nếu có cõi thế giới xấu ác nặng nề với năm sự uế trược như vậy, trong đó có những chúng sinh phạm năm tội nghịch, cho đến gồm đủ các việc bất thiện, ta sẽ ở trong thế giới ấy mà điều phục tất cả.’

Các vị Thế Tôn kia do nơi sự thành tựu tâm đại bi của những người ấy, đã phát khởi các nguyện lành đối với cõi đời xấu ác có năm sự uế trược, nên liền tùy theo chỗ mong cầu của mỗi người mà thọ ký cho tất cả.

“Bạch Thế Tôn! Các vị Phật Thế Tôn lại vì những người tu học Đại thừa mà giảng nói về nhân duyên phát khởi những sự biến hóa của xá-lợi do con lưu lại: Trong quá khứ lâu xa, có vị Phật Thế Tôn danh hiệu như thế, sau khi nhập Niết-bàn rồi, có những kiếp nạn như đao binh, dịch bệnh, đói khổ lần lượt nổi lên. Khi đó, chúng ta sống trong kiếp ấy chịu mọi sự khổ não. Lúc bấy giờ, xá-lợi mà đức Phật kia lưu lại liền vì chúng ta mà hiện ra đủ mọi phép thần thông tự tại để cứu khổ. Nhờ vậy nên chúng ta liền được phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, trồng các căn lành, tinh cần tu tập sáu pháp ba-la-mật như đã nói trên.”

Khi ấy, đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo Bồ Tát Tịch Ý: “Thiện nam tử! Lúc bấy giờ Phạm-chí Bảo Hải ở nơi đức Phật Bảo Tạng, đứng trước chư thiên, đại chúng, nhân, phi nhân, được thành tựu tâm đại bi rộng lớn vô biên, sau khi phát khởi năm trăm lời thệ nguyện liền bạch Phật rằng: ‘Bạch Thế Tôn! Nếu như sở nguyện của con không thành tựu, không được lợi ích bản thân, thì con sẽ không thể làm được các Phật sự như đã nói trên trong Hiền kiếp của đời vị lai, khi có những sự xấu ác nặng nề với năm sự uế trược, chúng sinh đấu tranh giành giật lẫn nhau, trong đời mạt thế mù tối ngu si không thầy dạy dỗ, không người răn dạy, chìm trong các tà kiến hết sức tối tăm u ám, phạm vào năm tội nghịch. Nếu vậy thì nay con ắt là sẽ xả bỏ tâm Bồ-đề, cũng không nguyện ở các cõi Phật phương khác mà trồng các căn lành.

“Bạch Thế Tôn! Nay con một lòng mong cầu như vậy, chẳng mong được nhờ nơi căn lành mà thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, cũng chẳng nguyện được quả vị Bích-chi Phật, cũng chẳng nguyện làm theo Thanh văn thừa, chẳng cầu được làm vua cõi trời, cõi người, chẳng ưa thích năm món dục mà sinh trong hai cõi trời, người, cũng chẳng cầu sinh trong các loài càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, dạ-xoa, la-sát, các vị long vương... Trồng các căn lành mà chẳng cầu được những nơi như thế.

“Bạch Thế Tôn! Nếu được giàu sang lớn ắt là do nhân lành bố thí, nếu được sinh lên cõi trời ắt là do nhân lành trì giới, nếu được trí huệ lớn ắt là do nhân lành học rộng, nếu được dứt trừ phiền não ắt là do nhân lành tư duy. Như Phật có dạy, những việc như thế đều là sự lợi ích cho bản thân do nhân lành công đức, thảy đều có thể tùy theo chỗ mong cầu mà được cả.

“Bạch Thế Tôn! Nếu như căn lành của con được thành tựu, được lợi ích bản thân, thì những việc làm của con như bố thí, trì giới, học rộng nghe nhiều, tư duy, thảy đều sẽ được thành tựu. Nguyện cho những quả báo tốt đẹp này sẽ dành cho hết thảy chúng sinh trong địa ngục.

“Nếu có chúng sinh nào đọa vào địa ngục A-tỳ, nhờ căn lành này sẽ được cứu thoát, sinh lên cõi người, nghe Phật thuyết pháp liền được rõ biết, thành tựu quả A-la-hán, mau chóng nhập Niết-bàn.

“Nếu như nghiệp báo của những chúng sinh này chưa dứt, con nguyện sẽ xả bỏ tuổi thọ của mình để vào địa ngục A-tỳ thay thế họ mà nhận chịu khổ não.

“Nguyện cho thân con biến hiện ra nhiều như số hạt bụi nhỏ trong một cõi Phật thế giới. Mỗi một thân ấy đều cao lớn như núi Tu-di, mỗi một thân ấy đều nhận biết được mọi điều vui khổ, cũng như thân con hiện nay nhận biết được mọi điều vui khổ. Mỗi một thân ấy sẽ nhận chịu đủ mọi quả báo khổ não của các tội ác nặng nề nhiều như số hạt bụi nhỏ trong một cõi Phật, cũng như số hạt bụi nhỏ trong cõi Phật hiện nay.

“Trong các cõi Phật ở khắp mười phương có những chúng sinh phạm vào năm tội nghịch ác, khởi các nghiệp bất thiện, cho đến sẽ đọa vào địa ngục A-tỳ; nếu về sau trải qua số đại kiếp nhiều như số hạt bụi nhỏ trong một cõi Phật, ở các cõi Phật khắp mười phương nhiều như số hạt bụi nhỏ, có bao nhiêu những chúng sinh phạm vào năm tội nghịch ác, khởi các nghiệp bất thiện, cho đến sẽ đọa vào địa ngục A-tỳ, con sẽ vì tất cả những chúng sinh như vậy mà ở nơi địa ngục A-tỳ thay thế nhận chịu mọi sự khổ não, khiến cho họ khỏi phải đọa vào địa ngục, liền được gặp ngay chư Phật, thưa hỏi pháp mầu, thoát khỏi sinh tử, trụ yên nơi cảnh giới Niết-bàn. Vào khi ấy, con nguyện trong nhiều đời thường thay thế những chúng sinh đó ở trong địa ngục A-tỳ.

“Lại có những chúng sinh ở các cõi thế giới mười phương nhiều như số hạt bụi nhỏ trong một cõi Phật, đã tạo các ác nghiệp, ắt sẽ phải chịu quả báo đọa vào địa ngục Hỏa chá, giống như địa ngục A-tỳ, hoặc địa ngục Chá, địa ngục Ma-ha-lô-khiết, địa ngục Bức bách, địa ngục Hắc thằng, địa ngục Tưởng, hoặc thọ sinh vào đủ mọi loài súc sinh, ngạ quỷ bần cùng, dạ-xoa, câu-bàn-trà, tỳ-xá-già, a-tu-la, ca-lâu-la... con cũng nguyện sẽ cứu vớt và thay thế chúng sinh chịu khổ như vậy.

“Bạch Thế Tôn! Nếu như có những chúng sinh trong các thế giới khắp mười phương nhiều như số hạt bụi nhỏ của một cõi Phật, đã tạo các ác nghiệp, ắt sẽ phải chịu quả báo sinh vào cõi người chịu tật nguyền đui, điếc, câm, ngọng, không chân, không tay, tâm ý rối loạn, đánh mất chánh niệm, ăn uống những thứ bất tịnh. Con nguyện cũng sẽ thay thế những chúng sinh ấy mà nhận lãnh các tội báo như vừa nói trên.

“Nếu lại có những chúng sinh đọa vào địa ngục A-tỳ chịu các khổ não, con nguyện cũng sẽ nhiều đời thay thế những chúng sinh ấy chịu mọi khổ não. Đối với những chúng sinh trong vòng sinh tử phải chịu đựng những nỗi khổ của các ấm, giới, nhập, hoặc sinh trong các loài súc sinh, ngạ quỷ, bần cùng, dạ-xoa, câu-biện-trà, tỳ-xá-già, a-tu-la, ca-lâu-la... con cũng đều vì họ mà thay thế nhận chịu mọi khổ não như vậy.

“Bạch Thế Tôn! Nếu như sở nguyện của con thành tựu, được lợi ích bản thân, sẽ thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề như đã phát nguyện, thì xin cho trong vô lượng vô biên a-tăng-kỳ thế giới ở khắp mười phương, mỗi nơi đều có chư Phật hiện tại đang vì chúng sinh thuyết pháp, tất cả các vị đều sẽ vì con mà chứng minh, cũng chính là chỗ thấy biết của chư Phật ấy.

“Bạch Thế Tôn! Nguyện nay đức Thế Tôn thọ ký cho con quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, vào đời Hiền kiếp, khi tuổi thọ của con người là một trăm hai mươi tuổi, con sẽ thành Phật với đủ Mười danh hiệu từ Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri cho đến Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn.

“Bạch Thế Tôn! Nếu như con sẽ thành tựu được những Phật sự như vậy, đúng như đã phát nguyện, xin nguyện cho khắp đại chúng đây cùng với chư thiên, rồng, a-tu-la... hoặc ở trên mặt đất, hoặc ở giữa hư không, chỉ trừ đức Như Lai, còn ngoài ra tất cả đều sẽ xúc động rơi lệ, đều đến trước mặt con cúi đầu lễ kính, ngợi khen rằng: ‘Lành thay, lành thay! Lòng đại bi của ngài đã thành tựu, không ai có thể sánh bằng. Ngài đã đạt được chỗ niệm tưởng rất sâu xa, vì tất cả chúng sinh mà phát khởi lòng đại bi sâu xa như vậy, nên phát ra lời thệ nguyện bền chắc. Việc làm của ngài hôm nay không phải do ai dạy bảo mà được, lấy lòng đại bi chuyên nhất mà che chở bảo vệ cho hết thảy, thâu nhiếp hết cả những kẻ bất thiện, những kẻ phạm vào năm tội nghịch. Nguyện lành của ngài, hôm nay chúng tôi đều được biết rõ. Khi ngài vừa mới phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề đã vì chúng sinh mà làm vị thuốc quý trị lành các bệnh; làm chỗ nương theo, làm chỗ trú ẩn, nương náu cho chúng sinh, vì muốn cho tất cả chúng sinh được giải thoát nên mới phát khởi thệ nguyện như vậy. Sở nguyện của ngài hôm nay được phần lợi ích, đức Như Lai sẽ vì ngài mà thọ ký quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.’
****
139


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH BI HOA

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

“Khi Phạm-chí Bảo Hải nói ra lời ấy rồi, Chuyển luân Thánh vương Vô Lượng Thanh Tịnh liền từ chỗ ngồi đứng dậy, xúc động rơi lệ, chắp tay cung kính hướng về Phạm-chí Bảo Hải, cúi đầu sát đất lễ kính rồi đọc kệ rằng:

Sở nguyện ngài hôm nay,

Thật sâu xa bền chắc.

Vì thương khắp chúng sinh,

Buông bỏ sự vui riêng,

Khởi lòng bi rộng lớn.

Vì đại chúng hôm nay,

Hiển bày pháp chân thật,

Tướng nhiệm mầu thù thắng!

Khi ấy, Bồ Tát Quán Thế Âm liền đọc kệ ngợi khen rằng:

Chúng sinh nhiều tham chấp,

Nay ngài không vướng mắc,

Với các căn cao, thấp,

Từ lâu đã tự tại,

Có thể tùy chúng sinh,

Giúp cho đủ căn, nguyện,

Đời vị lai sẽ được,

Kho trí huệ tổng trì.

Khi ấy, Bồ Tát Đắc Đại Thế liền đọc kệ ngợi khen rằng:

Vô lượng ức chúng sinh,

Vì điều lành hội họp.

Biết lòng bi của ngài,

Hết thảy đều xúc động.

Ngài tu tập khổ hạnh,

Xưa nay chưa từng có!

Khi ấy, Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi lại đọc kệ ngợi khen rằng:

Được tam-muội tinh tấn,

Thật bền chắc vô cùng.

Trí huệ lớn, nhiệm mầu,

Khéo biết phân biệt rõ.

Nếu dùng đủ hương hoa,

Dâng lên cúng dường ngài,

Đức độ ngài hôm nay,

Rất xứng đáng thọ nhận.

Khi ấy, Bồ Tát Hư Không Ấn cũng đọc kệ ngợi khen rằng:

Ngài vì khắp chúng sinh,

Thành tựu tâm đại bi,

Xả tài vật bố thí,

Đời xấu ác, uế trược,

Trang nghiêm giữ các tướng,

Mầu nhiệm hay đẹp nhất,

Vì khắp cõi trời, người,

Làm bậc thầy điều phục.

Khi ấy, Bồ Tát Kim Cang Trí Huệ Quang Minh cũng đọc kệ ngợi khen rằng:

Tâm đại bi của ngài,

Rộng lớn như hư không,

Vì thân thiết chúng sinh,

Nên hành đạo Bồ-đề.

Khi ấy, Bồ Tát Hư Không Nhật cũng đọc kệ ngợi khen rằng:

Những gì ngài thành tựu,

Như công đức đại bi,

Cùng trí huệ thắng diệu,

Khéo phân biệt tướng pháp,

Chỉ trừ Phật Thế Tôn,

Ngoài ra chẳng ai bằng!

Khi ấy, Bồ Tát Sư Tử Hương cũng đọc kệ ngợi khen rằng:

Ngài trong đời vị lai,

Sinh vào thời Hiền kiếp,

Trong cõi đời phiền não,

Sẽ được danh xưng lớn.

Lại khiến cho vô lượng,

Hết thảy mọi chúng sinh,

Được dứt trừ khổ não,

Được giải thoát nhiệm mầu.

Khi ấy, Bồ Tát Phổ Hiền cũng đọc kệ ngợi khen rằng:

Hết thảy mọi chúng sinh,

Dù chuyên cần tu tập,

Hay đói khổ, sinh tử;

Ngụp lặn trong tà kiến,

Xâu xé, ăn nuốt nhau,

Không một chút tâm lành.

Ngài mở lòng đại bi,

Nhiếp thủ được tất cả!

Khi ấy, Bồ Tát A-súc cũng đọc kệ ngợi khen rằng:

Diệt mất hết tâm lành,

Chuyên làm việc nghịch ác,

Chìm sâu trong vô minh,

Tối tăm và u ám,

Không cách nào ra khỏi,

Vũng bùn sâu phiền não.

Ngài mở lòng cứu lấy,

Những chúng sinh như vậy.

Khi ấy, Bồ Tát Hương Thủ cũng đọc kệ ngợi khen rằng:

Nay ngài xét thấy rõ,

Cõi thế đời vị lai,

Có nhiều sự khủng bố,

Như nhìn hình trong gương,

Chúng sinh trong cõi thế,

Hủy hoại cả chánh pháp,

Tất cả đều diệt mất,

Hết thảy mọi căn lành.

Khi ấy, Bồ Tát Bảo Tướng cũng đọc kệ ngợi khen rằng:

Nay ngài dùng các đức,

Trí huệ và trì giới,

Với từ bi, tam-muội,

Để trang nghiêm tâm mình,

Nên có thể nhiếp thủ,

Những chúng sinh ngu si:

Diệt mất mọi thiện pháp,

Phỉ báng bậc thánh nhân.
****
143


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH BI HOA

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Khi ấy, Bồ Tát Ly Khủng Bố Trang Nghiêm cũng đọc kệ ngợi khen rằng:

Chỗ tu tập của ngài,

Vô lượng môn khổ hạnh,

Thảy đều vì cứu vớt,

Chúng sinh đời vị lai:

Những kẻ mất thiện tâm,

Trôi lăn theo tà kiến.

Khi ấy, Bồ Tát Hoa Thủ cũng đọc kệ ngợi khen rằng:

Lòng đại bi của ngài,

Cùng trí huệ tinh tấn,

Trong khắp đại chúng này,

Không ai có thể sánh!

Nên đủ sức cứu vớt,

Những chúng sinh tà kiến,

Đang bị già, bệnh, chết,

Bức bách không đường thoát.

Khi ấy, Bồ Tát Trí Xưng cũng đọc kệ ngợi khen rằng:

Vô số các chúng sinh,

Phải chịu nhiều bệnh khổ,

Thường bị những phiền não,

Gió độc không ngừng thổi.

Nay ngài thật đủ sức,

Dùng nước Đại trí huệ,

Diệt trừ hết các ma,

Phá tan thế lực ác.

Khi ấy, Bồ Tát Địa Ấn cũng đọc kệ ngợi khen rằng:

Nay ngài đã có được,

Sức tinh tấn, kiên cố.

Dứt hết mọi phiền não,

Đạt cảnh giới giải thoát.

Chúng tôi đều kém cỏi,

Không thể theo kịp được.

Khi ấy, Bồ Tát Nguyệt Hoa cũng đọc kệ ngợi khen rằng:

Ngài tu tập kiên cố,

Biết dụng ý tinh tấn,

Y theo sức công đức,

Lòng thương xót tất cả,

Cho nên đời vị lai,

Có thể vì chúng sinh,

Trừ dứt mọi trói buộc,

Trong ba cõi, ba đời.

Khi ấy, Bồ Tát Vô Cấu Nguyệt cũng đọc kệ ngợi khen rằng:

Trong đạo của Bồ Tát,

Đại bi là trên hết.

Dạy người khởi lòng bi,

Nên chúng tôi kính lễ.

Khi ấy, Bồ Tát Trì Lực cũng đọc kệ ngợi khen rằng:

Đời xấu ác, uế trược,

Nhiều phiền não, tật bệnh,

Ngài nương đạo Bồ-đề,

Phát thệ nguyện kiên cố,

Vì tất cả chúng sinh,

Dứt trừ gốc phiền não.

Khi ấy, Bồ Tát Hỏa Man cũng đọc kệ ngợi khen rằng:

Trí huệ lớn của ngài,

Như kho tàng trân bảo.

Thệ nguyện ngài phát khởi,

Thanh tịnh không bợn nhơ,

Ngài chuyên tâm tu hành,

Đạo Vô thượng Bồ-đề,

Là muốn vì chúng sinh,

Trị dứt mọi bệnh khổ.

Khi ấy, Bồ Tát Hiện Lực xúc động rơi lệ, đến trước Phạm-chí Bảo Hải cúi đầu sát đất lễ bái, rồi chắp tay cung kính đọc kệ ngợi khen rằng:

Nay ngài khéo giương cao,

Ngọn đuốc Đại trí huệ,

Vì hết thảy chúng sinh,

Dứt trừ bệnh phiền não,

Lại cũng vì chúng sinh,

Nghèo khó và thiếu thốn,

Nên diệt trừ hết thảy,

Vô số các khổ não.

“Thiện nam tử! Lúc bấy giờ, hết thảy đại chúng, chư thiên, rồng, quỷ thần, càn-thát-bà, người và phi nhân, thảy đều đến trước Phạm-chí Bảo Hải, cúi đầu sát đất lễ bái. Lễ bái rồi đứng dậy chắp tay cung kính, dùng đủ mọi nghi thức để ngợi khen, xưng tán.”


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH BI HOA

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Phật Thích-ca Mâu-ni bảo Tịch Ý Bồ Tát: “Thiện nam tử! Khi ấy, Phạm-chí Bảo Hải đến trước đức Như Lai, quỳ gối phải sát đất. Bấy giờ, mặt đất liền chấn động đủ sáu cách. Hết thảy các cõi Phật trong mười phương nhiều như số hạt bụi nhỏ của một cõi Phật cũng đều chấn động đủ sáu cách, có ánh sáng rực rỡ chiếu khắp thế gian, không trung mưa xuống đủ mọi loại hoa, như hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la, hoa ba-lợi-chất-đa, hoa mạn-thù-sa, hoa ma-ha mạn-thù-sa, cho đến có vô số ánh sáng chói chang chiếu khắp các cõi thế giới mười phương nhiều như số hạt bụi nhỏ trong một cõi Phật; trong các cõi thế giới hoặc thanh tịnh, hoặc không thanh tịnh, mỗi nơi đều có chư Phật hiện tại đang vì chúng sinh giảng thuyết chánh pháp.

“Ở nơi những đức Phật ấy đều có các vị Bồ Tát ngồi nghe thuyết pháp. Các vị Bồ Tát này nhìn thấy các hiện tượng như cõi đất chấn động đủ sáu cách, có ánh hào quang rực rỡ chiếu soi, trời mưa xuống đủ mọi loại hoa... Nhìn thấy như vậy rồi, các vị liền bạch trước Phật rằng: ‘Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà cõi đất này chấn động đủ sáu cách, lại có ánh hào quang rực rỡ chiếu soi, trời mưa xuống đủ mọi loại hoa?’

“Bấy giờ, về phương đông cách đây số thế giới nhiều như số cát của một con sông Hằng, có một cõi Phật tên là Tuyển Trạch Trân Bảo, nơi ấy có Phật hiệu là Bảo Nguyệt Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn, hiện đang thuyết giảng giáo pháp Đại thừa với vô lượng vô biên a-tăng-kỳ các vị Đại Bồ Tát cung kính vây quanh. Trong số ấy có hai vị Bồ Tát, một vị hiệu là Bảo Tướng, một vị hiệu là Nguyệt Tướng. Cả hai vị cùng hướng về đức Phật Bảo Nguyệt, chắp tay cung kính bạch Phật rằng: ‘Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà cõi đất chấn động sáu cách, lại có ánh hào quang rực rỡ chiếu soi, trời mưa xuống đủ mọi loại hoa?’

“Khi ấy, Phật Bảo Nguyệt bảo hai vị Bồ Tát ấy rằng: ‘Các thiện nam tử! Về phương tây cách đây số thế giới nhiều như số cát sông Hằng, có cõi thế giới kia tên là San-đề-lam, có đức Phật Thế Tôn hiệu là Bảo Tạng Như Lai, có đủ mười hiệu, hiện đang vì vô lượng vô biên các vị Bồ Tát mà thọ ký quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, giảng nói về các cõi thế giới, mở bày chỉ bảo về sự trang nghiêm của các cõi Phật, về cảnh giới tam-muội của các nguyện lành, các môn đà-la-ni và những kinh điển như vậy. Trong chúng hội ấy có vị Đại Bồ Tát Đại Bi phát khởi thệ nguyện rằng: Nay ta sẽ lấy lòng đại bi hun đúc trong tâm, nhận sự thọ ký thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, vì các vị Đại Bồ Tát mà thị hiện phát khởi nguyện lành.

“Vì phát nguyện như thế nên trước hết vị ấy đã làm cho vô lượng vô biên các Bồ Tát đều phát thệ nguyện lớn lao, nhận lấy các cõi thế giới có đủ mọi sự trang nghiêm và điều phục chúng sinh. Chỗ thành tựu đại bi của vị Bồ Tát ấy, trong toàn đại chúng không ai sánh kịp. Vị ấy ở trong cõi đời có năm sự uế trược mà điều phục những chúng sinh xấu ác nhiều phiền não, cứu vớt hết thảy những kẻ phạm vào năm tội nghịch cho đến những kẻ gồm đủ các điều bất thiện, diệt mất tâm lành.

“Đại chúng ở nơi ấy cùng với chư thiên, loài rồng, quỷ thần, người và phi nhân, lúc này không cúng dường Phật mà tất cả cùng nhau cúng dường vị Bồ Tát đã thành tựu hạnh đại bi rốt ráo này. Họ cúi đầu sát đất lễ bái Bồ Tát ấy, rồi đứng dậy chắp tay cung kính đọc kệ ngợi khen xưng tán.

“Lúc bấy giờ, Bồ Tát Đại Bi ở ngay trước Phật mà quỳ gối phải sát đất để nghe Phật thọ ký. Đức Phật Thế Tôn liền mỉm miệng cười. Do nhân duyên ấy mà khiến cho ở khắp các thế giới mười phương nhiều như số hạt bụi nhỏ trong một cõi Phật đều có hiện tượng cõi đất chấn động sáu cách, phát ra hào quang rực rỡ chiếu soi, trời mưa xuống đủ mọi loại hoa. Đó là vì muốn khai ngộ cho hết thảy các vị Bồ Tát, cùng là thị hiện cho thấy chỗ hành đạo của các vị Bồ Tát.

“Đức Phật Bảo Tạng kia sẽ khiến cho hết thảy các vị Bồ Tát trong khắp mười phương nhiều như số hạt bụi nhỏ trong một cõi Phật đều tụ hội về, lại vì những vị Đại Bồ Tát ấy mà thuyết dạy các môn đà-la-ni, tam-muội, pháp môn không sợ sệt. Vì thế nên đức Bảo Tạng Như Lai mới thị hiện đủ mọi phép biến hóa như vậy.’

“Thiện nam tử! Khi ấy hai vị Bồ Tát nghe được những điều như vậy rồi liền bạch Phật: ‘Bạch Thế Tôn! Vị Bồ Tát Đại Bi ấy từ khi phát tâm đến nay đã được bao lâu rồi? Vị ấy tu hành đạo Bồ Tát đã được bao lâu? Đến khi nào thì vị ấy sẽ ở trong cõi đời xấu ác có năm sự uế trược mà điều phục, thâu nhiếp tất cả những chúng sinh nặng nề phiền não, luôn đấu tranh giành giật lẫn nhau, phần nhiều lại phạm vào năm tội nghịch, thường làm hết thảy những điều bất thiện, diệt mất thiện tâm?”

“Khi ấy, đức Phật Bảo Nguyệt nói với hai vị Bồ Tát: ‘Các thiện nam tử! Vị Bồ Tát Đại Bi này đến hôm nay mới vừa phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Các thiện nam tử! Nay các ông có thể đến đó để gặp đức Phật Bảo Tạng, lễ bái cúng dường, đi quanh cung kính, nghe đức Phật ấy thuyết dạy các môn đà-la-ni, tam-muội, pháp môn không sợ sệt, những kinh điển như vậy... và cũng là để gặp được vị Đại Bồ Tát Đại Bi ấy.

“Các ông hãy chuyển lời của ta đến Bồ Tát Đại Bi, hãy nói như thế này: ‘Đức Như Lai Bảo Nguyệt gửi lời thăm hỏi ông, dùng hoa nguyệt quang thanh tịnh này gửi theo để làm tin và có lời ngợi khen rằng: Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Ông vừa mới phát tâm đã có thể thành tựu được lòng đại bi như thế! Nay ông đã có danh xưng lớn lao vô lượng, lan truyền ra khắp các thế giới mười phương nhiều như số hạt bụi nhỏ trong một cõi Phật thế giới, ai ai cũng gọi ông là Bồ Tát Đại Bi! Ông vừa mới phát tâm mà đã có thể thành tựu được lòng đại bi như thế! Cho nên ta có lời ngợi khen xưng tán ông rằng: Lành thay, lành thay!

“Lại nữa, thiện nam tử! Ông vì giúp cho các vị Bồ Tát trong đời vị lai thành tựu tâm đại bi nên mới phát lời nguyện lành đại bi không dứt đoạn, dựng lên đạo tràng chánh pháp. Cho nên ta lại có lời ngợi khen lần nữa: Thật lành thay, lành thay!

“Lại nữa, thiện nam tử! Danh xưng của ông sẽ còn mãi trong đời vị lai, cho đến trải qua số a-tăng-kỳ kiếp nhiều như số hạt bụi nhỏ trong một cõi Phật, dạy bảo cho trăm ngàn ức vô lượng vô biên a-tăng-kỳ chúng sinh, khiến cho được trụ yên trong đạo A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, mãi cho đến khi gặp Phật, được địa vị không còn thối chuyển. Hoặc có người phát khởi nguyện lành, hoặc nhận lấy cõi thế giới thanh tịnh, thâu nhiếp tất cả chúng sinh, tùy theo căn tánh mà điều phục, cũng đều khiến cho trong đời vị lai được thọ ký quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Tất cả những chúng sinh như vậy, trong đời vị lai, trải qua số kiếp nhiều như số hạt bụi nhỏ trong một cõi Phật, sẽ ở nơi các cõi Phật mười phương nhiều như số hạt bụi nhỏ trong một cõi Phật mà thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, chuyển bánh xe chánh pháp, lại cũng sẽ hết lời ngợi khen xưng tán Bồ Tát Đại Bi. Vì thế nên ta dùng phép khen ngợi ba lần để ngợi khen xưng tán ông rằng: Lành thay, lành thay!’

“Thiện nam tử! Lúc bấy giờ, ở cõi thế giới Tuyển Trạch Trân Bảo có chín mươi hai ức vị Đại Bồ Tát đồng thanh bạch Phật rằng: ‘Bạch Thế Tôn! Chúng con đều muốn đến cõi thế giới San-đề-lam để gặp Phật Bảo Tạng, lễ bái cúng dường đi quanh cung kính, lắng nghe đức Phật ấy thuyết dạy các môn đà-la-ni, tam-muội, pháp môn không sợ sệt, những kinh điển như vậy, và cũng muốn được gặp Bồ Tát Đại Bi.’

“Khi ấy, đức Phật Bảo Nguyệt trao phép khen ngợi ba lần cùng với hoa nguyệt quang thanh tịnh cho hai vị Bồ Tát Bảo Tướng và Nguyệt Tướng, bảo rằng: ‘Đã đến lúc các ông nên đi.”

“Bấy giờ, Bồ Tát Bảo Tướng và Bồ Tát Nguyệt Tướng từ nơi chỗ đức Phật Bảo Nguyệt nhận lấy hoa nguyệt quang thanh tịnh rồi cùng chín mươi hai ức vị Đại Bồ Tát rời khỏi thế giới Tuyển Trạch Trân Bảo nhanh như ánh điện chớp, vừa mất dạng ở thế giới ấy liền tức thời đến ngay thế giới San-đề-lam, trong rừng Diêm-phù, nơi đức Phật Bảo Tạng đang thuyết pháp. Đến chỗ Phật rồi, các vị liền cúi đầu sát đất lễ kính dưới chân Phật, dùng đủ mọi phép thần thông tự tại mà hàng Bồ Tát đã đạt được để cúng dường Phật. Sau đó liền nhìn thấy Phạm-chí Bảo Hải đang được tất cả đại chúng cùng nhau cung kính, chắp tay ngợi khen xưng tán.

“Các vị Bồ Tát ấy nhìn thấy như vậy rồi liền suy nghĩ rằng: ‘Vị đại sĩ này chắc có lẽ chính là Bồ Tát Đại Bi, nên mới có thể khiến cho đức Như Lai Bảo Nguyệt gửi tặng loại hoa quý này.’

Hai vị Bồ Tát ấy liền từ chỗ đứng trước Phật Bảo Tạng cùng quay sang hướng về Phạm-chí Bảo Hải, dùng hoa quý trao ra và nói rằng: ‘Đức Như Lai Bảo Nguyệt dùng hoa quý này trao ngài để làm tin, và chuyển đến ngài phép khen ngợi ba lần.’ Các vị liền lặp lại những lời ngợi khen ba lần của đức Như Lai Bảo Nguyệt như đã nói trên.

“Cũng như vậy, chư Phật trong vô lượng vô biên a-tăng-kỳ thế giới về phương đông cũng đều sai khiến vô số các vị Đại Bồ Tát đến thế giới San-đề-lam, đều chuyển đến hoa nguyệt quang thanh tịnh cùng với phép khen ngợi ba lần như đã nói trên.

“Thiện nam tử! Lúc bấy giờ, về phương nam cách đây bảy vạn bảy ngàn trăm ngàn ức cõi Phật thế giới, có một cõi Phật tên là Bảo Lâu Sư Tử Hống, có đức Phật hiệu là Sư Tử Tướng Tôn Vương Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn, hiện đang vì các vị Bồ Tát mà thuyết giảng giáo pháp Đại thừa. Trong số ấy có hai vị Đại Bồ Tát là Kim Cang Trí Tướng và Sư Tử Kim Cang Tướng.

“Hai vị Bồ Tát này bạch Phật rằng: ‘Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà cõi đất chấn động sáu cách, lại có ánh hào quang rực rỡ chiếu soi, trời mưa xuống đủ mọi loại hoa?’

“Đức Phật Sư Tử Tướng Tôn Vương lại cũng trả lời và dạy bảo các vị Bồ Tát giống như Phật Bảo Nguyệt ở phương đông.

“Lại nữa, vô lượng vô biên chư Phật về phương nam cũng đều sai khiến vô số các vị Bồ Tát đến cõi thế giới San-đề-lam, đều chuyển đến hoa nguyệt quang thanh tịnh cùng với phép khen ngợi ba lần như đã nói trên.

“Bấy giờ, về phương tây cách đây tám vạn chín ngàn trăm ngàn ức thế giới, có một thế giới tên là An Lạc, có đức Phật hiệu là Nhiếp Chư Căn Tịnh Mục Như Lai, hiện đang vì bốn bộ chúng mà thuyết giảng giáo pháp Ba thừa. Trong đại chúng ấy có hai vị Bồ Tát, một vị tên là Hiền Nhật Quang Minh, một vị tên là Sư Tử Hống Thân.

“Hai vị Bồ Tát ấy bạch Phật rằng: ‘Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà cõi đất chấn động sáu cách, lại có ánh hào quang rực rỡ chiếu soi, trời mưa xuống đủ mọi loại hoa?’

“Đức Phật Nhiếp Chư Căn Tịnh Mục lại cũng trả lời và dạy bảo các vị Bồ Tát giống như Phật Bảo Nguyệt ở phương đông.

“Vô lượng vô biên chư Phật về phương tây cũng đều sai khiến vô số các vị Bồ Tát đến cõi thế giới San-đề-lam, đều chuyển đến hoa nguyệt quang thanh tịnh cùng với phép khen ngợi ba lần như đã nói trên.

“Bấy giờ, về phương bắc cách đây chín vạn trăm ngàn ức thế giới, có một thế giới tên là Thắng Chân Bảo, có đức Phật hiệu là Thế Gian Tôn Vương Như Lai, hiện đang vì các vị Bồ Tát mà thuyết giảng giáo pháp Đại thừa. Trong đại chúng ấy có hai vị Bồ Tát, một vị tên là Bất Động Trụ, một vị tên là Đắc Trí Huệ Thế Gian Tôn Vương.

“Hai vị Bồ Tát ấy bạch Phật rằng: ‘Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà cõi đất chấn động sáu cách, lại có ánh hào quang rực rỡ chiếu soi, trời mưa xuống đủ mọi loại hoa?’

“Đức Phật Thế Gian Tôn Vương lại cũng trả lời và dạy bảo các vị Bồ Tát giống như Phật Bảo Nguyệt ở phương đông.

“Vô lượng vô biên chư Phật về phương bắc cũng đều sai khiến vô số các vị Bồ Tát đến thế giới San-đề-lam, đều chuyển đến hoa nguyệt quang thanh tịnh cùng với phép khen ngợi ba lần như đã nói trên.

“Bấy giờ, về phương dưới cách đây chín vạn tám ngàn trăm ngàn ức na-do-tha thế giới, có một thế giới tên là Ly Ám Vụ, có đức Phật hiệu là Ly Khủng Bố Vi Nhiễu Âm, hiện đang vì bốn bộ chúng mà thuyết giảng giáo pháp Ba thừa. Trong đại chúng ấy có hai vị Bồ Tát, một vị tên là Nhật Tôn, một vị tên là Hư Không Nhật.

“Hai vị Bồ Tát ấy bạch Phật rằng: ‘Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà cõi đất chấn động sáu cách, lại có ánh hào quang rực rỡ chiếu soi, trời mưa xuống đủ mọi loại hoa?’

“Đức Phật Ly Khủng Bố Vi Nhiễu Âm lại cũng trả lời và dạy bảo các vị Bồ Tát giống như Phật Bảo Nguyệt ở phương đông.

“Vô lượng vô biên chư Phật về phương dưới cũng đều sai khiến vô số các vị Bồ Tát đến cõi thế giới San-đề-lam, đều chuyển đến hoa nguyệt quang thanh tịnh cùng với phép khen ngợi ba lần như đã nói trên.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH BI HOA

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Bấy giờ, về phương trên cách đây hai mươi vạn trăm ngàn thế giới, có một thế giới tên là Diệu Hoa, ở đó có đức Phật hiệu là Hoa Phu Nhật Vương Như Lai, hiện đang vì bốn bộ chúng mà thuyết giảng giáo pháp Ba thừa. Trong đại chúng ấy có hai vị Bồ Tát, một vị tên là Tuyển Trạch Tự Pháp Nhiếp Thủ Quốc Độ, một vị tên là Đà-la-ni Diệu Âm.

“Hai vị Bồ Tát ấy bạch Phật rằng: ‘Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà cõi đất chấn động sáu cách, lại có ánh hào quang rực rỡ chiếu soi, trời mưa xuống đủ mọi loại hoa?’

“Khi ấy, Phật Hoa Phu Nhật Vương bảo hai vị Bồ Tát ấy rằng: ‘Các thiện nam tử! Về phương tây cách đây hai mươi vạn trăm ngàn thế giới, có cõi thế giới tên là San-đề-lam, có đức Phật Thế Tôn hiệu là Bảo Tạng Như Lai, có đủ mười hiệu, hiện đang vì vô lượng vô biên các vị Bồ Tát mà thọ ký quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, giảng nói về các cõi thế giới, mở bày chỉ bảo về sự trang nghiêm của các cõi Phật, cảnh giới tam-muội của các nguyện lành, các môn đà-la-ni và những kinh điển như vậy. Trong chúng hội ấy có vị Đại Bồ Tát Đại Bi phát khởi thệ nguyện rằng: Nay ta sẽ lấy lòng đại bi hun đúc trong tâm, nhận sự thọ ký thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, vì các vị Đại Bồ Tát mà thị hiện phát khởi nguyện lành.

“Vì phát nguyện như thế nên trước hết vị ấy đã làm cho vô lượng vô biên các vị Bồ Tát đều phát thệ nguyện lớn lao, nhận lấy các cõi thế giới có đủ mọi sự trang nghiêm và điều phục chúng sinh. Chỗ thành tựu đại bi của Bồ Tát ấy, trong toàn đại chúng không ai sánh kịp. Vị ấy ở trong cõi đời có năm sự uế trược mà điều phục những chúng sinh xấu ác nhiều phiền não, cứu vớt hết thảy những kẻ phạm vào năm tội nghịch cho đến những kẻ gồm đủ các điều bất thiện, diệt mất tâm lành.

“Đại chúng ở nơi ấy cùng với chư thiên, loài rồng, quỷ thần, người và phi nhân, lúc này không cúng dường Phật mà tất cả cùng nhau cúng dường vị Bồ Tát đã thành tựu hạnh đại bi rốt ráo này. Họ cúi đầu sát đất lễ bái Bồ Tát ấy, rồi đứng dậy chắp tay cung kính đọc kệ ngợi khen xưng tán. Lúc bấy giờ, Bồ Tát Đại Bi ở ngay trước Phật mà quỳ gối phải sát đất để nghe Phật thọ ký. Đức Phật Thế Tôn liền mỉm miệng cười. Do nhân duyên ấy mà khiến cho ở khắp các thế giới mười phương nhiều như số hạt bụi nhỏ trong một cõi Phật đều có hiện tượng cõi đất chấn động sáu cách, phát ra hào quang rực rỡ chiếu soi, không trung mưa xuống đủ mọi loại hoa, vì muốn khai ngộ cho hết thảy các vị Bồ Tát, cùng là thị hiện cho thấy chỗ hành đạo của các vị Bồ Tát.

“Đức Phật Bảo Tạng kia sẽ khiến cho hết thảy các vị Bồ Tát trong khắp mười phương nhiều như số hạt bụi nhỏ trong một cõi Phật đều tụ hội về, lại vì những vị Đại Bồ Tát ấy mà thuyết dạy các môn đà-la-ni, tam-muội, pháp môn không sợ sệt. Vì thế nên đức Bảo Tạng Như Lai mới thị hiện đủ mọi phép biến hóa như vậy.’

“Thiện nam tử! Khi ấy hai vị Bồ Tát nghe được những điều như vậy rồi liền bạch Phật: ‘Bạch Thế Tôn! Vị Bồ Tát Đại Bi ấy từ khi phát tâm đến nay đã được bao lâu rồi? Vị ấy tu hành đạo Bồ Tát đã được bao lâu? Đến khi nào thì vị ấy sẽ ở trong cõi đời xấu ác có năm sự uế trược mà điều phục, thâu nhiếp tất cả những chúng sinh nặng nề phiền não, luôn đấu tranh giành giật lẫn nhau, phần nhiều lại phạm vào năm tội nghịch, thường làm hết thảy những điều bất thiện, diệt mất thiện tâm?”

“Khi ấy, đức Phật Hoa Phu Nhật Vương nói với hai vị Bồ Tát: ‘Các thiện nam tử! Vị Bồ Tát Đại Bi này đến hôm nay mới vừa phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Các thiện nam tử! Nay các ông có thể đến đó để gặp đức Phật Bảo Tạng, lễ bái cúng dường, đi quanh cung kính, nghe đức Phật ấy thuyết dạy các môn đà-la-ni tam-muội, pháp môn không sợ sệt, những kinh điển như vậy... và cũng là để gặp Đại Bồ Tát Đại Bi.

“Các ông hãy chuyển lời ta đến Bồ Tát Đại Bi, hãy nói như thế này: ‘Đức Phật Hoa Phu Nhật Vương gửi lời thăm hỏi ông, dùng hoa nguyệt quang thanh tịnh này gửi theo để làm tin và có lời ngợi khen rằng: Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Ông vừa mới phát tâm đã có thể thành tựu được lòng đại bi như thế! Nay ông đã có danh xưng lớn lao vô lượng, lan truyền ra khắp các thế giới mười phương nhiều như số hạt bụi nhỏ trong một cõi Phật, ai ai cũng gọi ông là Bồ Tát Đại Bi! Ông vừa mới phát tâm mà đã có thể thành tựu được lòng đại bi như thế! Cho nên ta có lời ngợi khen xưng tán ông rằng: Lành thay, lành thay!

“Lại nữa, thiện nam tử! Ông vì giúp cho các vị Bồ Tát trong đời vị lai thành tựu tâm đại bi nên mới nói ra lời nguyện lành đại bi không đoạn dứt, dựng lên đạo tràng chánh pháp. Cho nên ta lại có lời ngợi khen lần nữa: Thật lành thay, lành thay!

“Lại nữa, thiện nam tử! Danh xưng của ông sẽ còn mãi trong đời vị lai, cho đến trải qua số a-tăng-kỳ kiếp nhiều như số hạt bụi nhỏ trong một cõi Phật, dạy bảo cho trăm ngàn ức vô lượng vô biên a-tăng-kỳ chúng sinh, khiến cho được trụ yên nơi A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, cho đến khi gặp Phật, được địa vị không còn thối chuyển. Hoặc có chúng sinh phát khởi nguyện lành, hoặc nhận lấy cõi thế giới thanh tịnh, thâu nhiếp tất cả chúng sinh, tùy theo căn tánh mà điều phục, cũng đều khiến cho trong đời vị lai sẽ được thọ ký quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Tất cả những chúng sinh như vậy, trong đời vị lai, trải qua số kiếp nhiều như số hạt bụi nhỏ trong một cõi Phật, sẽ ở nơi các cõi Phật mười phương nhiều như số hạt bụi nhỏ trong một cõi Phật mà thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, chuyển bánh xe chánh pháp, lại cũng sẽ hết lời ngợi khen xưng tán Bồ Tát Đại Bi. Vì thế nên ta dùng phép khen ngợi ba lần để ngợi khen xưng tán ông rằng: Lành thay, lành thay!’

“Thiện nam tử! Bấy giờ, cõi thế giới Diệu Hoa ấy có vô lượng ức Bồ Tát, tất cả đồng thanh bạch rằng: ‘Bạch Thế Tôn! Chúng con đều muốn đến cõi thế giới San-đề-lam để gặp đức Phật Bảo Tạng, lễ bái cúng dường, đi quanh cung kính, lắng nghe thuyết giảng các môn đà-la-ni tam-muội, pháp môn không sợ sệt... Và cũng là muốn được gặp Bồ Tát Đại Bi.’

“Lúc ấy, đức Phật Hoa Phu Nhật Vương trao phép khen ngợi ba lần cùng với hoa nguyệt quang thanh tịnh cho Bồ Tát Tuyển Trạch Tự Pháp Nhiếp Thủ Quốc Độ và Bồ Tát Đà-la-ni Diệu Âm rồi dạy rằng: ‘Đã đến lúc các ông nên đi.’

“Bấy giờ, hai vị Bồ Tát từ nơi chỗ đức Phật Hoa Phu Nhật Vương, mang theo hoa quý cùng với vô lượng ức chúng Bồ Tát, chỉ trong khoảng thời gian của một ý nghĩ đã mất dạng nơi thế giới kia, hốt nhiên hiện đến thế giới San-đề-lam, giữa rừng Diêm-phù, gặp đức Phật Bảo Tạng rồi liền cúi đầu sát đất kính lễ.

“Khi ấy, ở thế giới này, các vị Đại Bồ Tát tu tập Đại thừa cùng với những người phát tâm Duyên giác thừa, Thanh văn thừa, chư thiên, loài rồng, quỷ thần, ma-hầu-la-già, các loài như vậy số nhiều vô lượng, không thể tính đếm, giống như mía, trúc, sậy, lúa, như rừng cây rậm rạp, đầy khắp cõi nước này. Các vị Bồ Tát ở thế giới Diệu Hoa đến liền dùng đủ mọi phép thần thông tự tại của hàng Bồ Tát để cúng dường Phật. Cúng dường Phật rồi, nhìn thấy Phạm-chí Bảo Hải được tất cả đại chúng như vậy cùng nhau cung kính, chắp tay ngợi khen xưng tán.

“Các vị Bồ Tát ấy nhìn thấy như vậy rồi liền suy nghĩ rằng: ‘Vị đại sĩ này chắc có lẽ chính là Bồ Tát Đại Bi, nên mới có thể khiến cho đức Như Lai Hoa Phu Nhật Vương gửi tặng loại hoa quý này.’

“Hai vị Bồ Tát ấy liền từ chỗ đứng trước Phật Bảo Tạng cùng quay sang hướng về Phạm-chí Bảo Hải, dùng hoa quý trao ra mà nói rằng: ‘Đức Như Lai Hoa Phu Nhật Vương dùng hoa quý này trao ngài để làm tin, và chuyển đến ngài phép khen ngợi ba lần.’ Các vị liền lặp lại những lời ngợi khen ba lần của đức Như Lai Hoa Phu Nhật Vương như đã nói trên.

“Thiện nam tử! Khi ấy những loại hoa từ trên không trung mưa xuống lại hóa hiện đến những thế giới không có Phật ra đời, lại phát ra đủ mọi âm thanh mầu nhiệm tốt lành. Những âm thanh ấy vang ra khắp nơi, như là âm thanh Phật, âm thanh pháp, âm thanh tỳ-kheo tăng, âm thanh diệt tận, âm thanh vô sở hữu, âm thanh ba-la-mật, âm thanh sức không sợ sệt, âm thanh sáu thần thông, âm thanh vô sở tác, âm thanh không sinh diệt, âm thanh tịch tĩnh, âm thanh đại từ, âm thanh đại bi, âm thanh vô sinh nhẫn, âm thanh thọ ký, âm thanh thuyết pháp Đại thừa...

“Ở những thế giới không có Phật ra đời kia lại có các vị Bồ Tát, do bản nguyện nên được sức thần lớn lao, do tu tập giáo pháp sâu xa nên được sự tự tại, nhưng vì muốn cứu vớt chúng sinh nên mới ở nơi các thế giới ấy. Khi các vị được nghe những âm thanh như vậy rồi liền nương theo sức Phật, nương theo sức nguyện, nương theo sức tam-muội, từ nơi các thế giới ấy vận sức thần thông, trong khoảng thời gian như vị đại lực sĩ co duỗi cánh tay đã hiện đến thế giới San-đề-lam, giữa rừng Diêm-phù, nơi đức Phật Bảo Tạng. Các vị đến nơi rồi liền cúi đầu sát đất lễ kính dưới chân Phật, dùng đủ mọi phép thần thông tự tại của hàng Bồ Tát để cúng dường đức Phật và chư đại chúng, rồi lần lượt ngồi xuống lắng nghe Phật thuyết pháp.

“Thiện nam tử! Khi ấy, Phạm-chí Bảo Hải liền mang hoa quý nguyệt quang thanh tịnh cúng dường lên đức Như Lai Bảo Tạng, rồi bạch Phật: ‘Bạch Thế Tôn! Nguyện đức Như Lai vì con thọ ký quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.’
****
151


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH BI HOA

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

“Thiện nam tử! Bấy giờ đức Như Lai Bảo Tạng liền nhập Tam-muội Điện đăng. Do sức của tam-muội ấy nên khiến cho ở thế giới San-đề-lam tất cả những núi rừng, cây cối, đất đai đều biến thành bảy báu, khiến cho tất cả đại chúng đều được tự nhìn thấy, hết thảy đều ở trước Phật lắng nghe pháp mầu, rồi tùy chỗ tư duy của mỗi người mà tự thấy thân mình có màu xanh, màu vàng, màu trắng, màu tím, màu đỏ, màu đen...; hoặc thấy thân mình như gió, như lửa, như hư không, như hơi nắng nóng, hoặc như nước, như bọt nước; hoặc thấy thân mình giống như núi lớn, hoặc như thân Phạm thiên, hoặc như thân Đế-thích; hoặc thấy thân mình như hoa, hoặc như loài ca-lâu-la, hoặc như loài rồng, hoặc như loài sư tử, hoặc giống như mặt trời, mặt trăng, các vì sao, hoặc thấy thân mình giống như loài voi, hoặc loài chồn cáo. Tất cả đều ngồi trước Phật lắng nghe pháp mầu, nhưng tùy chỗ tư duy khác nhau mà mỗi người đều tự thấy thân mình có những tướng mạo như vậy.

“Thiện nam tử! Tất cả đại chúng đều tùy theo chỗ tư duy của mỗi người, lại tự thấy thân mình cũng đồng với thân Phật Bảo Tạng, không có khác biệt.

“Tất cả đại chúng ở trước Phật khi ấy liền nhìn thấy Phạm-chí Bảo Hải ngồi trên hoa sen ngàn cánh bằng bảy báu.

“Tất cả đại chúng, dù ở trên mặt đất hay giữa hư không, dù ngồi hay đứng, mỗi người đều tự thấy như đức Như Lai Bảo Tạng riêng ngồi trước mặt mình, riêng vì mình thuyết pháp, chỉ riêng mình được nhìn thấy.

“Thiện nam tử! Khi ấy đức Như Lai Bảo Tạng khen ngợi Phạm-chí Bảo Hải rằng: ‘Lành thay, lành thay! Hạnh đại bi thanh tịnh! Ông vì vô lượng vô biên chúng sinh mà phát khởi lòng đại bi như vậy, có thể làm lợi ích lớn lao, làm vầng sáng lớn soi chiếu giữa thế gian. Phạm-chí! Ví như lập thành vườn hoa có đủ mọi màu sắc, đủ mọi hương thơm, đủ mọi kiểu dáng, đủ mọi thứ lá, đủ mọi thứ thân, đủ mọi thứ rễ, đủ mọi công đức. Những thứ cây thuốc cần dùng thảy đều phải có đủ.

“Hoặc có loại hoa sen rộng khắp trăm ngàn do-tuần, tỏa ánh sáng và hương thơm mầu nhiệm cũng như các hoa khác. Hoặc có hoa rộng đến một trăm, hoặc rộng đến hai trăm, hoặc rộng đến ba trăm do-tuần, tỏa ánh sáng và hương thơm mầu nhiệm cũng vẫn như các hoa khác. Có loài hoa rộng lớn đến như một cõi thiên hạ, tỏa ánh sáng và hương thơm mầu nhiệm cũng như các hoa khác, không có gì sai biệt.

“Các loài chúng sinh khác nhau, hoặc có người đui mù, ngửi được hương hoa ấy liền thấy được hình sắc; hoặc có người điếc ngửi hương hoa ấy liền có thể nghe được; cho đến những ai không có đủ các căn, ngửi hương hoa ấy rồi liền được đầy đủ.

“Nếu có chúng sinh mang trong người đủ bốn trăm lẻ bốn thứ bệnh, khi bệnh phát khởi, ngửi hương hoa ấy rồi liền được khỏi bệnh.

“Nếu có chúng sinh cuồng điên buông thả, ngu si rối loạn, mê ngủ, loạn tâm, đánh mất chánh niệm, ngửi hương hoa ấy rồi liền đạt được tâm chuyên nhất.

“Trong vườn hoa ấy cũng có loài hoa phân-đà-lợi. Loài hoa này bền chắc như kim cang, thân hoa bằng lưu ly, đài hoa có trăm hạt, lá bằng vàng ròng, mầm non bằng mã não, tua hoa bằng loại chân châu đỏ. Hoa ấy cao tám mươi bốn ức do-tuần, phủ rộng chung quanh đến mười vạn do-tuần. Hình sắc và hương thơm của hoa ấy lan tỏa ra mười phương, khắp các cõi Phật nhiều như số hạt bụi nhỏ trong một cõi Phật. Trong những thế giới ấy, có những chúng sinh hoặc do bốn đại chẳng điều hòa, sinh ra tật bệnh khốn khổ, trầm trọng; hoặc các căn suy tổn, cuồng điên buông thả, ngu si rối loạn, mê ngủ, loạn tâm, đánh mất chánh niệm, khi nhìn thấy ánh sáng và ngửi được mùi hương của hoa ấy thì tất cả mọi sự bệnh khổ thảy đều dứt sạch, thảy đều đạt được tâm chuyên nhất.

“Nếu những chúng sinh vừa gặp lúc mạng chung, thân thể chưa hoại mất, khi có ánh sáng và hương thơm của hoa ấy chạm đến liền được sống lại, cùng với những người thân thuộc của mình đến chơi vườn hoa, cùng nhau thụ hưởng năm món dục. Nếu những chúng sinh đã chết hẳn rồi thì không phải sinh về cõi nào khác, chỉ sinh lên cõi Phạm thiên, sống lâu tại đó, tuổi thọ đến vô lượng.

“Bảo Hải! Vườn hoa sen kia là ví như đại chúng trong pháp hội này. Cũng như lúc mặt trời lên thì các đóa hoa đều nở rộ, đức Phật ra đời mang đến mọi sự lợi ích lớn lao, nuôi dưỡng thêm hương thơm, ánh sáng, vì tất cả chúng sinh trừ dứt mọi khổ não.

“Thiện nam tử! Nay ta ra đời như mặt trời xuất hiện giữa thế gian, khiến cho những đóa hoa thiện căn của chúng sinh đều nở rộ, tỏa hương thơm vi diệu, ánh sáng soi chiếu khắp nơi, có thể trừ dứt đủ mọi bệnh khổ của chúng sinh. Chính là đức Như Lai xuất hiện giữa thế gian này, dùng ánh sáng đại bi chiếu soi, che chở tất cả, khiến cho thiện căn của chúng sinh được khai mở, thêm phần lợi ích, trụ yên nơi ba điều phúc.

“Thiện nam tử! Ông đã giáo hóa vô lượng vô biên a-tăng-kỳ chúng sinh, khiến cho trụ yên trong đạo A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Những chúng sinh ấy đến chỗ ta, mỗi người đều tự phát khởi các nguyện lành khác nhau, nhận lấy những cõi Phật khác nhau, hoặc thanh tịnh, hoặc không thanh tịnh, ta đều tùy theo chỗ phát nguyện của họ mà thọ ký cho.

“Thiện nam tử! Nếu có Bồ Tát đối trước ta mà phát nguyện nhận lấy cõi thế giới thanh tịnh, dùng tâm thanh tịnh khéo tự điều phục, trồng các căn lành, thâu nhiếp chúng sinh, tuy gọi là Bồ Tát nhưng chẳng phải bậc đại trượng phu dũng mãnh, chẳng phải bậc Bồ Tát có lòng đại bi sâu xa, vì chúng sinh mà cầu đạo A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.

“Nếu Bồ Tát nhận lấy cõi Phật thanh tịnh, tức là xa lìa tâm đại bi; lại còn chẳng nguyện lìa bỏ hai thừa. Vị Bồ Tát như vậy là không có trí huệ phương tiện khéo léo, không có tâm bình đẳng.

“Nếu có Bồ Tát phát lời thệ nguyện rằng: Nguyện cho thế giới của ta xa lìa các thừa Thanh văn, Duyên giác, không có những chúng sinh đã diệt mất căn lành, không có nữ giới và ba đường ác; khi ta thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề rồi, chỉ thuần có các vị Đại Bồ Tát làm quyến thuộc lớn, chỉ thuần thuyết giảng giáo pháp Đại thừa Vô thượng, được thọ mạng vô lượng, trụ lâu ở cõi thế, trải qua vô số kiếp, chỉ thuần thuyết giảng pháp mầu cho những chúng sinh có tâm lành đã được điều phục, những chúng sinh trong sạch, sẵn có căn lành. Những người như vậy, tuy gọi là Bồ Tát nhưng thật chẳng phải bậc đại sĩ! Vì sao vậy? Vì không có được trí huệ bình đẳng và phương tiện khéo léo.’

“Thiện nam tử! Khi ấy đức Như Lai Bảo Tạng duỗi cánh tay màu vàng ròng, từ năm đầu ngón tay phóng ra ánh hào quang rực rỡ. Ánh hào quang rực rỡ ấy có đủ vô lượng trăm ngàn màu sắc, chiếu suốt về phương tây, vượt qua vô lượng vô biên a-tăng-kỳ thế giới, đến một thế giới tên gọi là Đại Chỉ.

“Ở thế giới ấy, nhân dân có tuổi thọ là ba mươi năm, mặt mũi xấu xí, hình dạng khó ưa, gồm đủ hết thảy những điều bất thiện, thân cao sáu thước. Thế giới ấy có đức Phật hiệu là Đại Quang Minh Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn, hiện đang vì bốn bộ chúng mà thuyết giảng giáo pháp Ba thừa.

“Thiện nam tử! Khi ấy tất cả đại chúng ở cõi San-đề-lam đều từ xa trông thấy được đức Phật Đại Quang Minh cùng với đại chúng nơi ấy.

“Đức Phật Bảo Tạng liền bảo với đại chúng: ‘Đức Phật Đại Quang Minh ấy, trong quá khứ vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp đã từng ở chỗ Phật Bảo Cái Quang Minh, lần đầu tiên phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vào thời ấy cũng khuyên dạy vô lượng vô biên ức na-do-tha chúng sinh, khiến cho đều trụ yên trong đạo Vô thượng, tùy chỗ sở nguyện của mỗi người đều nhận lấy đủ mọi cõi thế giới trang nghiêm, hoặc thanh tịnh, hoặc không thanh tịnh, hoặc nhận lấy cõi thế giới xấu ác có năm sự uế trược. Đức Phật Đại Quang Minh khi ấy cũng đã khuyên dạy ta phát tâm và trụ yên trong đạo A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vào lúc ấy, ta ở chỗ Phật Bảo Cái Quang Minh được khuyến khích phát nguyện trang nghiêm, sẽ ở nơi cõi thế giới xấu ác có năm sự uế trược này mà thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.

“Khi ấy, đức Phật Bảo Cái Quang Minh ngợi khen ta rằng: Lành thay, lành thay! Liền tức thời thọ ký cho ta quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.

“Ta vào lúc ấy được thiện tri thức khuyến khích phát tâm cầu đạo A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vị thiện tri thức ấy là bậc trượng phu cao trổi, nhận lấy cõi thế giới xấu ác nặng nề với đủ năm sự uế trược, có nhiều phiền não, cõi nước không thanh tịnh, hết thảy chúng sinh đều làm những việc nghịch ác, cho đến gồm đủ tất cả những điều bất thiện, diệt mất tâm lành, trôi lăn mãi mãi trong chốn bùn lầy sinh tử. Phát nguyện điều phục tất cả những chúng sinh như vậy quả là bậc đại trượng phu!

“Bấy giờ, khắp vô lượng vô biên cõi Phật trong mười phương, tất cả chư Phật đều sai người thay mặt đến chỗ bậc đại trượng phu ấy mà xưng dương tán thán, đặt cho danh hiệu là Đại Bi Nhật Nguyệt Quang Minh.

“Đại Bi Nhật Nguyệt Quang Minh chính là bậc thiện tri thức của ta. Vị ấy làm được nhiều điều lợi ích lớn lao, rồi sau mới ở nơi thế giới Đại Chỉ mà thành Phật đến nay chưa bao lâu, vì tất cả những chúng sinh ác độc có đời sống ngắn ngủi ở cõi ấy mà chuyển bánh xe chánh pháp.

“Đức Phật ấy khi mới thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề có vô lượng vô biên chư Phật trong mười phương đều sai người thay mặt đến chỗ Phật ấy cúng dường cung kính, tôn trọng tán thán. Hết thảy những đức Phật Thế Tôn này đều là xưa kia đã được Phật Đại Quang Minh khuyên dạy, khiến cho được trụ yên nơi Bố thí ba-la-mật, cho đến Trí huệ ba-la-mật. Các đức Thế Tôn này vì nhớ ơn xưa nên mới sai khiến chư Bồ Tát đến đó cúng dường.
****
154


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH BI HOA

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

“Bảo Hải! Nay ông có thấy chăng? Các đức Thế Tôn ấy mỗi vị đều trụ nơi thế giới thanh tịnh, thọ mạng vô lượng, chỉ thuần vì chúng sinh có tâm lành đã được điều phục, những chúng sinh trong sạch, sẵn có căn lành mà làm các Phật sự. Còn đức Phật Đại Quang Minh thì ở nơi cõi thế giới xấu ác, nhơ nhớp, bất tịnh, có đủ năm sự uế trược, thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Ở đó đa số chúng sinh đều phạm vào tội nghịch, cho đến gồm đủ hết thảy các điều bất thiện, tuổi thọ ngắn ngủi. Ngài có thể ở trong cõi thế giới ấy mà làm vô lượng Phật sự, những sự tăng ích, trưởng dưỡng, chẳng bỏ Thanh văn thừa, Bích-chi Phật thừa, vì tất cả chúng sinh mà thuyết giảng đủ giáo pháp Ba thừa.

“Bảo Hải! Ông là bậc đại trượng phu, hết thảy trong đại chúng nơi đây đều không theo kịp. Việc làm của ông thật nhiệm mầu, cao trổi, thật rất khó làm! Ông đã thệ nguyện nhận lấy cõi thế giới bất tịnh, xấu ác, có đủ năm sự uế trược, chúng sinh phần nhiều làm những việc ác nghịch, cho đến gồm đủ hết thảy những điều bất thiện, để điều phục nhiếp thủ hết thảy những chúng sinh như vậy!

“Thiện nam tử! Nếu có Bồ Tát nhận lấy cõi thế giới thanh tịnh, lìa khỏi ba đường ác, cho đến không có các thừa Thanh văn, Duyên giác, chỉ điều phục nhiếp thủ những chúng sinh có lòng lành trong sạch, đã thành tựu các căn lành. Vị Bồ Tát ấy ví như các loài hoa khác, chẳng thể xem đó là bậc Đại Bồ Tát ví như hoa phân-đà-lợi, dùng tâm lành điều phục chúng sinh, trồng các căn lành, làm các Phật sự.

“Bảo Hải! Nay ông hãy lắng nghe về bốn pháp giải đãi của hàng Bồ Tát.

“Những gì là bốn? Một là nguyện được thế giới thanh tịnh. Hai là nguyện làm Phật sự với những chúng sinh có tâm lành, trong sạch, đã điều phục. Ba là nguyện sau khi thành Phật không thuyết giảng giáo pháp Thanh văn thừa, Bích-chi Phật thừa. Bốn là nguyện sau khi thành Phật được thọ mạng vô lượng. Như vậy gọi là bốn pháp giải đãi của hàng Bồ Tát.

“Bồ Tát như vậy ví như các loài hoa khác, chẳng phải bậc Bồ Tát được ví như hoa phân-đà-lợi.

“Bảo Hải! Trong đại chúng nơi đây chỉ duy nhất có một người là Bà-do-tỳ-nữu đã phát nguyện nhận lấy thế giới không thanh tịnh, điều phục nhiếp hộ những chúng sinh nhiều phiền não.

“Bảo Hải! Vào thời Hiền kiếp, nếu có Bồ Tát nào nhận lấy cõi thế giới bất tịnh, nên biết đó là Bồ Tát có bốn pháp tinh tấn.

“Những gì là bốn? Một là phát nguyện nhận lấy cõi thế giới bất tịnh. Hai là phát nguyện làm Phật sự giữa những chúng sinh bất tịnh. Ba là sau khi thành Phật rồi sẽ thuyết giảng giáo pháp Ba thừa. Bốn là phát nguyện sau khi thành Phật có thọ mạng không dài, không ngắn. Như vậy gọi là bốn pháp tinh tấn của hàng Bồ Tát.

“Bồ Tát như vậy ví như hoa phân-đà-lợi, chẳng phải như các loại hoa khác. Như vậy gọi là Đại Bồ Tát!

“Bảo Hải! Nay ông ở giữa đại chúng vô lượng vô biên a-tăng-kỳ Bồ Tát ví như vườn hoa này, phát nguyện được thọ ký. Ông đối trước Phật đã sinh lòng đại bi như hoa phân-đà-lợi, nhiếp thủ những chúng sinh nhiều ác nghịch, gồm đủ hết thảy các điều bất thiện, trong cõi đời xấu ác có đủ năm sự uế trược mà tùy thuận điều phục tất cả. Ông dùng âm thanh đại bi mà có thể khiến cho chư Phật Thế Tôn nhiều như số hạt bụi nhỏ trong một cõi Phật đều sai khiến chư Bồ Tát đến ngợi khen xưng tán. Xưng tán rồi lại đặt hiệu cho ông là Đại Bi Thành Tựu, khiến cho cả đại chúng này đều cúng dường ông.

“Lại nữa, này ông Đại Bi! Trong đời vị lai, trải qua số a-tăng-kỳ kiếp nhiều như số cát sông Hằng, bước vào phần sau của số a-tăng-kỳ kiếp lần thứ hai cũng nhiều như số cát sông Hằng, thế giới Ta-bà ở vào Hiền kiếp, con người có tuổi thọ một trăm hai mươi năm, thường bị những nỗi khổ già, bệnh, chết trói buộc; cõi đời tối tăm u ám, không thầy dạy bảo, gồm đủ hết thảy các điều bất thiện, đi theo đường tà, chìm sâu trong dòng sông phiền não, chuyên tạo năm tội nghịch, hủy hoại chánh pháp, phỉ báng thánh nhân, phạm vào bốn trọng cấm, đủ mọi điều xấu ác như trên đã nói.

“Trong cõi đời phiền não rối loạn như vậy, ông sẽ thành một vị Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn, lìa khỏi vòng sinh tử, chuyển bánh xe chánh pháp, phá trừ hết bốn ma.

“Vào thời ấy danh xưng của ông sẽ vang dội mười phương, truyền ra khắp vô lượng vô biên cõi Phật. Ông có đại chúng Thanh văn đệ tử là một ngàn hai trăm năm mươi người, lần lượt trong khoảng bốn mươi lăm năm sẽ thành tựu đủ vô lượng Phật sự như thế, đúng như chỗ phát nguyện của ông đầy đủ không thiếu sót.

“Khi ông Vô Lượng Thanh Tịnh đây thành Phật sẽ có thọ mạng vô lượng, nhưng dù trải qua đến vô lượng vô biên kiếp cũng chỉ thành tựu được những Phật sự giống như ông, không có gì khác biệt.

“Sau khi ông nhập Niết-bàn rồi, chánh pháp trụ thế đủ một ngàn năm. Chánh pháp diệt rồi, những xá-lợi của ông, theo như chỗ phát nguyện của ông sẽ làm các Phật sự, ở lâu trong cõi thế để làm đủ các điều lợi ích cho chúng sinh như trên đã nói.”
****
156


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH BI HOA

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo Bồ Tát Tịch Ý: “Thiện nam tử! Bấy giờ trong chúng hội có một vị Phạm-chí tên là Tướng Cụ Túc phát nguyện rằng: ‘Bậc đại trượng phu! Nếu trong đời vị lai, trải qua vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp khi ông hành đạo Bồ Tát, dù ở bất cứ nơi nào tôi cũng nguyện vì ông thường làm người theo hầu hạ, chăm sóc, thường lấy tâm từ mà cung phụng cho ông đầy đủ những thứ cần dùng. Cho đến khi ông đản sinh thành Phật, vào kiếp ấy tôi sẽ làm cha của ông. Khi ông thành Phật rồi, tôi sẽ làm vị đại thí chủ. Rồi ông sẽ thọ ký quả Bồ-đề Vô thượng cho tôi.’

“Bấy giờ có vị thần biển tên là Điều Ý lại phát nguyện rằng: ‘Bậc đại trượng phu! Từ nay về sau, dù ông sinh ra ở bất cứ nơi đâu, cho đến khi đản sinh thành Phật, tôi nguyện sẽ thường vì ông mà làm mẹ. Khi ông thành Phật rồi cũng sẽ thọ ký quả Bồ-đề Vô thượng cho tôi.’

“Bấy giờ có vị thần nước lại phát nguyện rằng: ‘Từ nay về sau, dù ông sinh ra ở bất cứ nơi đâu, cho đến khi đản sinh thành Phật, tôi nguyện sẽ thường vì ông mà làm nhũ mẫu. Khi ông thành Phật rồi cũng sẽ thọ ký quả Bồ-đề Vô thượng cho tôi.’

“Lúc ấy có hai vị Đế thích, một vị tên là Thiện Niệm, một vị tên là Bảo Niệm, cùng phát nguyện rằng: ‘Bậc đại trượng phu! Khi ông thành Phật rồi, chúng tôi sẽ làm những đệ tử Thanh văn của ông có trí huệ thần túc.’

“Lại có vị Đế thích tên là Thiện Kiến Túc phát nguyện rằng: ‘Đại Bi! Từ nay về sau, dù ông sinh ra ở bất cứ nơi đâu, cho đến khi đản sinh thành Phật, tôi nguyện sẽ thường sinh ra làm con của ông.’

“Có vị thần núi Tu-di tên là Thiện Lạc Hoa lại phát nguyện rằng: ‘Đại Bi! Từ nay về sau, dù ông sinh ra ở bất cứ nơi đâu, cho đến khi đản sinh thành Phật, tôi nguyện sẽ thường sinh ra làm vợ của ông. Khi ông thành Phật rồi cũng sẽ thọ ký quả Bồ-đề Vô thượng cho tôi.’

“Lại có vị vua a-tu-la tên là Hung Ức Hạnh phát nguyện rằng: ‘Đại Bi! Trong vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, khi ông hành đạo Bồ Tát, mãi cho đến khi đản sinh thành Phật, tôi sẽ thường vì ông mà làm người hầu hạ, chăm sóc, phục vụ mọi điều cho được an ổn. Khi ông thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, chuyển bánh xe chánh pháp, tôi sẽ là người hiểu pháp trước tiên, đạt được quả vị chân thật, nếm vị cam-lộ của chánh pháp, cho đến đoạn trừ được hết thảy phiền não, thành bậc A-la-hán.’

“Khi ấy lại có chư thiên, loài rồng, quỷ thần, a-tu-la, ca-lâu-la, loài người, loài phi nhân, nhiều như số cát của một sông Hằng, cùng hướng về Bồ Tát Đại Bi phát lời thệ nguyện rằng: ‘Bậc đại trượng phu! Mong ông sẽ điều phục giáo hóa tất cả chúng tôi.’

“Bấy giờ, có một vị Phạm-chí tu theo phái lõa hình, tên là Loạn Tưởng Khả Uý, phát nguyện rằng: ‘Bậc đại trượng phu! Khi ông hành đạo Bồ Tát trong vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, tôi nguyện sẽ luôn theo ông cầu xin những thứ cần dùng, thường đến chỗ ông cầu xin những thứ như y phục, giường nằm, ghế ngồi, phòng ốc, nhà cửa, voi ngựa, xe cộ, thành quách, vợ con, đầu, mắt, tủy, não, da, thịt, chân, tay, tai, mũi, lưỡi, thân thể. Bậc đại trượng phu! Tôi sẽ vì ông mà tạo ra các nhân duyên hỗ trợ, khiến ông thành tựu đầy đủ pháp Bố thí ba-la-mật, cho đến pháp Trí huệ ba-la-mật.

“Đại Bi! Khi ông hành đạo Bồ Tát, tôi sẽ khuyến khích bằng cách như vậy, khiến cho ông được thành tựu đầy đủ sáu pháp ba-la-mật. Khi ông thành Phật rồi, tôi nguyện sẽ làm đệ tử theo ông nghe học tám vạn pháp môn tu tập. Nghe rồi liền có thể biện thuyết được hết thảy các tướng của pháp. Giảng thuyết được các tướng của pháp rồi, ông sẽ thọ ký đạo Bồ-đề Vô thượng cho tôi.’

“Thiện nam tử! Lúc bấy giờ, Phạm-chí Bảo Hải nghe lời nguyện như vậy, liền kính lễ dưới chân đức Phật Bảo Tạng rồi quay sang bảo Phạm-chí Loạn Tưởng Khả Uý rằng: ‘Lành thay, lành thay! Ông quả thật là người bạn lành trên đường cầu đạo Vô thượng. Trong vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ kiếp, ông sẽ thường tìm đến chỗ tôi, khẩn thiết cầu xin những thứ cần dùng, chẳng hạn như y phục, giường nằm, ghế ngồi... cho đến chân, tay, tai, mũi, lưỡi, thân thể. Vào lúc ấy, tôi sẽ lấy tâm thanh tịnh xả bỏ mọi vật sở hữu để bố thí cho ông. Lúc đó ông nhận lấy những thứ ấy mà quả thật không hề có tội lỗi gì cả.’

“Thiện nam tử! Khi Phạm-chí Loạn Tưởng Khả Uý phát lời thệ nguyện như trên, lại có tám mươi bốn ngàn vị thiên nhân cũng phát khởi thệ nguyện giống như vậy.

****


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH BI HOA

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

“Thiện nam tử! Khi ấy, Đại Bồ Tát Đại Bi lại phát nguyện rằng: ‘Bạch Thế Tôn! Khi con hành đạo Bồ Tát trong vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ kiếp, dù sinh ra ở bất cứ nơi đâu, nếu có những chúng sinh muốn cầu xin vật chi liền đến trước mặt con, hoặc cầu món ăn thức uống, hoặc dùng lời ngọt ngào êm ái, hoặc dùng lời nặng nề ác độc, hoặc dùng lời khinh miệt chê bai, hoặc dùng lời chân thật. Bạch Thế Tôn! Con vào lúc ấy chẳng hề sinh khởi dù chỉ là một ý tưởng ác. Nếu con sinh tâm nóng giận, dù chỉ là mảy may trong chốc lát, hoặc do nhân duyên bố thí mà có lòng mong cầu quả báo trong tương lai, như vậy tức là đã dối gạt vô lượng vô biên a-tăng-kỳ chư Phật hiện tại ở khắp mười phương, nên trong đời vị lai chắc chắn không thể thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.

“Bạch Thế Tôn! Vào lúc ấy con sẽ dùng tâm hoan hỷ mà bố thí cho những người đến cầu xin, nguyện cho những người nhận lãnh đó không bị tổn hại gì, đối với các căn lành cũng không hề bị ngăn trở chút nào. Nếu như con làm cho những người thọ nhận ấy bị mảy may tổn hại hay ngăn trở căn lành, như vậy ắt là đã dối gạt vô lượng vô biên a-tăng-kỳ chư Phật hiện tại ở khắp mười phương. Nếu dối gạt chư Phật, ắt phải đọa vào địa ngục A-tỳ, không thể hoan hỷ bố thí các thứ đồ ăn, thức uống, y phục...

“Nếu những người đến cầu xin con, hoặc dùng lời ngọt ngào êm ái, hoặc dùng lời nặng nề ác độc, hoặc dùng lời khinh miệt chê bai, hoặc dùng lời chân thật, khẩn thiết cầu xin những thứ như đầu, mắt, tủy, não... Bạch Thế Tôn! Nếu như vào lúc ấy tâm con không hoan hỷ, thậm chí chỉ cần sinh khởi một niệm sân hận, hoặc do nhân duyên bố thí ấy mà có lòng mong cầu được quả báo, đó tức là đã dối gạt vô lượng vô biên a-tăng-kỳ chư Phật hiện tại ở khắp mười phương. Do nhân duyên ấy, chắc chắn phải chịu đọa vào địa ngục A-tỳ.

“Cũng giống như khi con tu tập pháp Bố thí ba-la-mật, cho đến tu tập pháp Trí huệ ba-la-mật cũng đều giống như vậy.’

“Thiện nam tử! Khi ấy đức Như Lai Bảo Tạng liền ngợi khen Phạm-chí Bảo Hải: ‘Lành thay, lành thay! Ông thật khéo trụ yên nơi tâm đại bi nên mới có thể phát khởi được thệ nguyện như vậy!’

“Thiện nam tử! Bấy giờ, hết thảy đại chúng, chư thiên, loài rồng, quỷ thần, người và phi nhân thảy đều chắp tay ngợi khen rằng: ‘Lành thay, lành thay! Ông thật khéo trụ yên nơi tâm đại bi nên mới có thể phát khởi được thệ nguyện như vậy, được danh xưng lớn lao, kiên trì vững chắc thực hành theo sáu pháp hòa kính, làm lợi ích đầy đủ cho hết thảy chúng sinh.’

“Thiện nam tử! Lúc bấy giờ Đại Bồ Tát Đại Bi lại cùng với tám mươi bốn ngàn vị thiên nhân như vậy cùng phát thệ nguyện, tâm sinh hoan hỷ, chắp tay quay nhìn bốn phía đại chúng mà nói rằng: ‘Thật là chưa từng có! Trong đời vị lai, khi chánh pháp đã diệt, con sẽ ở trong cõi đời xấu ác đủ năm sự uế trược với nhiều phiền não mà phóng ra ánh hào quang rực sáng, làm bậc thầy điều ngự, giữa cõi đời tối tăm u ám thắp lên ngọn đèn chánh pháp, vì những chúng sinh không có người cứu giúp che chở, không có thế lực, không có Phật chỉ đường. Nay con vừa mới phát tâm Bồ-đề đã có được những người bạn cùng cầu đạo Vô thượng như thế này. Hết thảy những người này đều phát nguyện trong nhiều đời sẽ theo con mà nhận lãnh sự bố thí những món như đầu, mắt, tủy, não, da, thịt, xương, máu, chân, tay, tai, mũi, lưỡi, thân thể, cho đến y phục, món ăn, thức uống.’

“Thiện nam tử! Khi ấy, Phạm-chí Bảo Hải bạch Phật: ‘Thế Tôn! Nếu trong đời vị lai trải qua vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ kiếp, những chúng sinh này tìm đến chỗ con, được con bố thí cho các thứ như đầu, mắt, tủy, não, cho đến món ăn, thức uống, dù chỉ một phần rất nhỏ như mảy lông, thì khi con thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề rồi, nếu những chúng sinh ấy không được thoát khỏi sinh tử, không được thọ ký các quả vị trong Ba thừa, tức là con đã dối gạt vô lượng vô biên chư Phật hiện tại trong khắp mười phương, chắc chắn sẽ không thể thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.’

“Thiện nam tử! Khi ấy đức Như Lai Bảo Tạng lại ngợi khen Bồ Tát Đại Bi một lần nữa: ‘Lành thay, lành thay! Bậc đại trượng phu cao cả! Ông có thể hành đạo Bồ Tát như vậy, cũng giống như xưa kia từng có Bồ Tát Tu-di Sơn Bảo ở trước đức Phật Thế Gian Quang Minh lần đầu tiên phát tâm Bồ-đề như vậy, phát lời thệ nguyện như vậy, và cũng hành đạo Bồ Tát như vậy, trải qua số a-tăng-kỳ kiếp nhiều như số cát của một con sông Hằng.

“Về phương đông cách đây trăm ngàn ức cõi Phật, có một thế giới tên là Quang Minh Trí Sí, tuổi thọ của con người ở đó là một trăm tuổi. Bồ Tát Tu-di Sơn Bảo ở trong thế giới ấy thành Phật hiệu là Trí Hoa Vô Cấu Kiên Bồ-đề Tôn Vương Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật ấy ở đời thuyết pháp bốn mươi lăm năm, làm đủ các Phật sự.’

“Khi ấy, đức Phật Bảo Tạng bảo Bồ Tát Đại Bi: ‘Sau khi đức Phật Trí Hoa Vô Cấu Kiên Bồ-đề Tôn Vương nhập Niết-bàn rồi, chánh pháp trụ thế đủ một ngàn năm. Khi chánh pháp diệt rồi, tượng pháp trụ thế cũng đủ một ngàn năm. Này Đại Bi! Đức Phật Thế Tôn kia dù tại thế, dù đã nhập Niết-bàn, trong suốt khoảng thời gian chánh pháp và tượng pháp trụ thế, nếu có các vị tỳ-kheo và tỳ-kheo ni hủy phạm giới luật, không theo đúng chánh pháp, làm theo tà đạo, hoặc làm dứt mất pháp cúng dường, không biết hổ thẹn, hoặc làm dứt mất tài vật của chư tăng mười phương, dứt mất các thứ y phục, đồ ăn thức uống, giường ghế, thuốc men... của chư tăng hiện tiền, hoặc lấy những tài vật của chúng tăng mà làm của riêng mình, hoặc tự ý mang cho người khác, hoặc mang cho người thế tục. Thiện nam tử! Hết thảy những người như vậy, đức Phật Thế Tôn kia đều thọ ký cho các quả vị trong Ba thừa.

“Này Đại Bi! Nơi đạo trường của đức Như Lai ấy, nếu có người nào xuất gia mặc áo cà-sa, thảy đều được thọ ký cho không còn thối chuyển trong Ba thừa. Nếu có vị tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di nào phạm vào bốn trọng cấm, đức Phật kia đối với những người ấy liền khởi ý tưởng như đối với Thế Tôn, trồng các căn lành, lại cũng thọ ký cho được các quả vị không còn thối chuyển trong Ba thừa.’

“Thiện nam tử! Lúc bấy giờ Đại Bồ Tát Đại Bi bạch Phật rằng: ‘Bạch Thế Tôn! Nay con phát nguyện trong khi con hành đạo Bồ Tát, nếu như có chúng sinh nào cần phải khuyến khích giáo hóa, khiến cho được trụ yên nơi pháp Bố thí ba-la-mật, cho đến trụ yên nơi pháp Trí huệ ba-la-mật, cho đến khuyến khích giáo hóa khiến cho được trụ yên nơi chỉ một mảy may căn lành, mãi cho đến khi con thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, nếu con không thể giúp cho những chúng sinh ấy được trụ yên trong giáo pháp Ba thừa, khiến cho được địa vị không còn thối chuyển, cho dù chỉ là bỏ sót một trong số rất nhiều chúng sinh ấy, tức là con đã dối gạt vô lượng vô biên a-tăng-kỳ chư Phật hiện tại trong mười phương thế giới, như vậy chắc chắn không thể thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.

“Bạch Thế Tôn! Khi con thành Phật rồi, nếu có chúng sinh nào xuất gia mặc áo cà-sa theo giáo pháp của con, hoặc phạm vào các trọng giới, hoặc làm theo tà kiến; hoặc có những tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di khinh khi Tam bảo, chẳng có lòng tin, gồm đủ các tội nặng, nhưng nếu chỉ trong một niệm sinh tâm cung kính, tôn trọng đức Thế Tôn, hoặc tôn trọng chánh pháp, hoặc tôn trọng Tăng-già, nếu như những chúng sinh này không riêng được thọ ký các quả vị trong Ba thừa rồi sinh lòng thối chuyển, cho dù chỉ là một người, tức là con đã dối gạt vô lượng vô biên a-tăng-kỳ chư Phật hiện tại trong mười phương thế giới, như vậy chắc chắn không thể thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.

“Bạch Thế Tôn! Khi con thành Phật rồi, chư thiên, loài rồng, quỷ thần, người và phi nhân, nếu có thể đối với người mặc áo cà-sa sinh lòng cung kính cúng dường, tôn trọng tán thán, chúng sinh ấy dù được nhìn thấy chỉ một phần nhỏ của áo cà-sa cũng liền được địa vị không còn thối chuyển trong Ba thừa.

“Nếu chúng sinh nào đang bị đói khát khổ bức, hoặc các loài quỷ thần bần cùng, hoặc những người hèn hạ, kém cỏi, cho đến những chúng sinh trong loài ngạ quỷ, nếu có được chỉ một phần nhỏ của áo cà-sa, cho đến một mảnh chừng bốn tấc, chúng sinh ấy liền sẽ được đầy đủ tất cả các món ăn thức uống, lại tùy theo chỗ mong cầu điều gì cũng đều được nhanh chóng thành tựu.

“Nếu những chúng sinh nào thường đối nghịch, chống phá nhau, khởi lên tư tưởng oán thù, vần xoay trong vòng tranh đấu; hoặc có chư thiên, loài rồng, quỷ thần, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, câu-biện-đồ, tỳ-xá-già, người và phi nhân đang lúc cùng nhau tranh đấu, nếu nhớ nghĩ đến áo cà-sa liền sinh tâm bi mẫn, tâm nhu nhuyễn, tâm tịch diệt, tâm lành đã được điều phục, không còn lòng oán thù.

“Nếu có người đang ở trong vòng đao binh chiến đấu, kiện thưa tranh tụng, nếu mang theo một phần nhỏ của áo cà-sa đến những nơi ấy, rồi vì muốn được bảo vệ nên cúng dường cung kính, tôn trọng mảnh cà-sa ấy; người ấy sẽ không bị người khác xâm hại, quấy nhiễu, khinh thường, lại thường được hơn hẳn người khác mà vượt qua mọi sự hoạn nạn.

“Bạch Thế Tôn! Nếu như áo cà-sa trong giáo pháp của con không thành tựu được năm công đức nhiệm mầu tốt đẹp như trên, tức là con đã dối gạt vô lượng vô biên a-tăng-kỳ chư Phật hiện tại trong khắp các thế giới mười phương, trong đời vị lai ắt không thể thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, làm các Phật sự, đánh mất pháp lành, chắc chắn không thể phá trừ ngoại đạo.’

“Thiện nam tử! Lúc bấy giờ đức Như Lai Bảo Tạng duỗi cánh tay phải có màu vàng ròng, xoa đầu Bồ Tát Đại Bi ngợi khen rằng: ‘Lành thay, lành thay! Bậc đại trượng phu! Lời ông nói ra quả thật quý giá như trân bảo, quả thật vô cùng hiền thiện! Sau khi ông thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề rồi, áo cà-sa này sẽ có thể thành tựu đủ năm công đức nhiệm mầu tốt đẹp, mang lại lợi ích lớn lao cho chúng sinh.’

“Thiện nam tử! Khi ấy, Đại Bồ Tát Đại Bi được nghe đức Phật ngợi khen như vậy rồi liền sinh lòng hoan hỷ, phấn khích vô cùng.

“Khi đức Phật duỗi cánh tay phải màu vàng ròng với năm ngón dài mềm mại xoa lên đầu Bồ Tát Đại Bi, thân thể của Bồ Tát nhờ đó liền biến đổi hình trạng, trẻ trung như một chàng trai mới vừa hai mươi tuổi.

“Thiện nam tử! Tất cả đại chúng trong hội ấy, chư thiên, loài rồng, quỷ thần, càn-thát-bà, người và phi nhân, thảy đều chắp tay cung kính hướng về Bồ Tát Đại Bi, tung rải các loại hoa thơm để cúng dường, cho đến trỗi lên các loại âm nhạc, rồi lại hết lời ngợi khen xưng tán.

“Sau khi ngợi khen xưng tán rồi, tất cả đều đứng lặng yên tại chỗ.”
****


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH BI HOA

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

PHẨM THỨ NĂM
PHẦN I PHÁP BỐ THÍ
Thiện nam tử! Lúc bấy giờ Bồ Tát Đại Bi cúi đầu sát đất lễ kính đức Như Lai Bảo Tạng. Kính lễ dưới chân Phật rồi, liền đứng trước Phật bạch rằng: ‘Bạch Thế Tôn! Trong kinh Phật có dạy các phép tam-muội và các pháp môn thanh tịnh hỗ trợ Bồ-đề, vậy hết thảy có bao nhiêu phép tam-muội và các pháp môn thanh tịnh hỗ trợ Bồ-đề? Thế nào là Bồ Tát dùng sự không sợ sệt để trang nghiêm, đầy đủ pháp nhẫn?’

“Thiện nam tử! Khi ấy, đức Phật Bảo Tạng khen ngợi Bồ Tát Đại Bi rằng: “Lành thay, lành thay! Này Đại Bi! Câu hỏi của ông thật lạ kỳ thay! Thật đặc biệt thay! Quả thật quý giá như trân bảo, có thể làm lợi ích lớn lao cho vô lượng vô biên các vị Bồ Tát.

“Vì sao vậy? Này Đại Bi! Ông có thể thưa hỏi Như Lai một điều lớn lao như thế! Này Đại Bi! Ông hãy lắng nghe, lắng nghe!

“Nếu có kẻ nam, người nữ nào phát tâm lành tu hành theo Đại thừa, có phép Tam-muội Thủ lăng nghiêm. Khi nhập tam-muội này có thể nhập hết thảy các phép tam-muội.

“Có phép Tam-muội Bảo ấn, khi nhập tam-muội này có thể tương hợp với các phép tam-muội.

“Có phép Tam-muội Sư tử du hý, khi nhập tam-muội này, đối với các phép tam-muội có thể được tùy ý tự tại.

“Có phép Tam-muội Thiện nguyệt, khi nhập tam-muội này có thể chiếu soi các phép tam-muội.

“Có phép Tam-muội Nguyệt tràng tướng, khi nhập tam-muội này có thể nắm giữ nghi vệ, phép tắc của các phép tam-muội.

“Có phép Tam-muội Xuất nhất thiết pháp tánh, khi nhập tam-muội này có thể ra khỏi hết thảy các phép tam-muội.

“Có phép Tam-muội Quán ấn, khi nhập tam-muội này có thể quán xét chỗ cùng tột của hết thảy các phép tam-muội.

“Có phép Tam-muội Ly pháp giới, khi nhập tam-muội này có thể phân biệt được các phép tam-muội.

“Có phép Tam-muội Ly tràng tướng, khi nhập tam-muội này có thể nắm giữ nghi vệ, phép tắc của hết thảy các phép tam-muội.

“Có phép Tam-muội Kim cang, khi nhập tam-muội này có thể khiến cho hết thảy các phép tam-muội đều không thể bị phá hoại.

“Có phép Tam-muội Chư pháp ấn, khi nhập tam-muội này có thể tương hợp với hết thảy các pháp.

“Có phép Tam-muội Vương thiện trụ, khi nhập tam-muội này đối với các phép tam-muội có thể trụ yên như vua.

“Có phép Tam-muội Phóng quang, khi nhập tam-muội này có thể phóng hào quang rực rỡ chiếu soi các phép tam-muội.

“Có phép Tam-muội Lực tấn, khi nhập tam-muội này đối với các phép tam-muội có thể tùy ý tăng tiến.

“Có phép Tam-muội Chánh xuất, khi nhập tam-muội này có thể chân chánh ra khỏi các phép tam-muội.

“Có phép Tam-muội Biện từ, khi nhập tam-muội này có thể hiểu rõ được hết ý nghĩa của vô lượng âm thanh.

“Có phép Tam-muội Ngữ ngôn, khi nhập tam-muội này có thể hòa nhập hết thảy các ngôn ngữ.

“Có phép Tam-muội Quán phương, khi nhập tam-muội này có thể quán xét khắp mọi khía cạnh của các phép tam-muội.

“Có phép Tam-muội Nhất thiết pháp, khi nhập tam-muội này có thể trừ phá hết thảy các pháp.

“Có phép Tam-muội Trì ấn, khi nhập tam-muội này có thể nắm giữ mọi sự tương hợp với các phép tam-muội.

“Có phép Tam-muội Nhập nhất thiết pháp tịch tĩnh, khi nhập tam-muội này có thể khiến cho hết thảy các phép tam-muội đều đi vào cảnh giới tịch tĩnh.

“Có phép Tam-muội Bất thất, khi nhập tam-muội này có thể không quên mất hết thảy các phép tam-muội.

“Có phép Tam-muội Nhất thiết pháp bất động, khi nhập tam-muội này có thể khiến cho hết thảy các phép tam-muội đạt đến cảnh giới không động chuyển.

“Có phép Tam-muội Thân cận nhất thiết pháp hải ấn, khi nhập tam-muội này có thể thâu tóm, gần gũi hết thảy các phép tam-muội.

“Có phép Tam-muội Nhất thiết vô ngã, khi nhập tam-muội này có thể khiến cho các phép tam-muội đạt đến cảnh giới không còn sinh diệt.

“Có phép Tam-muội Biến phú hư không, khi nhập tam-muội này có thể bao trùm hết thảy các phép tam-muội.

“Có phép Tam-muội Bất đoạn nhất thiết pháp, khi nhập tam-muội này có thể nắm giữ các phép tam-muội, không để dứt mất.

“Có phép Tam-muội Kim cang tràng, khi nhập tam-muội này có thể nắm vững được hết thảy các đạo tràng tam-muội.

“Có phép Tam-muội Nhất thiết pháp nhất vị, khi nhập tam-muội này có thể nắm rõ được hết thảy các pháp cùng chung một vị.

“Có phép Tam-muội Ly nhạo ái, khi nhập tam-muội này có thể lìa khỏi hết thảy các phiền não cũng như trợ duyên phiền não.

“Có phép Tam-muội Nhất thiết pháp vô sanh, khi nhập tam-muội này có thể nhìn thấy hết thảy các phép tam-muội đều không sinh không diệt.

“Có phép Tam-muội Quang minh, khi nhập tam-muội này có thể soi chiếu hết thảy các phép tam-muội khiến cho rực sáng.

“Có phép Tam-muội Bất diệt nhất thiết pháp, khi nhập tam-muội này có thể không còn phân biệt hết thảy các phép tam-muội.

“Có phép Tam-muội Bất cầu, khi nhập tam-muội này có thể không mong cầu hết thảy các pháp.

“Có phép Tam-muội Bất trụ, khi nhập tam-muội này có thể đối với các pháp không trụ nơi cảnh giới của pháp.

“Có phép Tam-muội Hư không ức tưởng, khi nhập tam-muội này có thể khiến cho các phép tam-muội đều là hư không, thấy được sự chân thật.

“Có phép Tam-muội Vô tâm, khi nhập tam-muội này có thể ở trong hết thảy các phép tam-muội diệt được các pháp tâm và tâm sở.

“Có phép Tam-muội Sắc vô biên, khi nhập tam-muội này có thể ở trong hết thảy các phép tam-muội được hào quang chiếu khắp cảnh giới Sắc vô biên.

“Có phép Tam-muội Tịnh đăng, khi nhập tam-muội này có thể ở trong hết thảy các phép tam-muội thắp lên ngọn đèn chiếu sáng.

“Có phép Tam-muội Nhất thiết pháp vô biên, khi nhập tam-muội này đối với hết thảy các phép tam-muội đều có thể thị hiện trí huệ vô lượng.

“Có phép Tam-muội Điện vô biên, khi nhập tam-muội này đối với hết thảy các phép tam-muội đều có thể thị hiện trí huệ.

“Có phép Tam-muội Nhất thiết quang minh, khi nhập tam-muội này đối với các phép tam-muội có thể thị hiện hào quang tam-muội.

“Có phép Tam-muội Chư giới vô biên, khi nhập tam-muội này đối với các phép tam-muội có thể thị hiện trí huệ vô lượng vô biên.

“Có phép Tam-muội Bạch tịnh kiên cố, khi nhập tam-muội này có thể đối với các phép tam-muội đạt được cảnh giới Không định.

“Có phép Tam-muội Tu-di sơn không, khi nhập tam-muội này có thể đối với các phép tam-muội thị hiện được hư không.

“Có phép Tam-muội Vô cấu quang minh, khi nhập tam-muội này có thể đối với các phép tam-muội trừ được mọi sự dơ bẩn, cấu uế.

“Có phép Tam-muội Nhất thiết pháp trung vô uý, khi nhập tam-muội này có thể đối với các phép tam-muội thị hiện lòng không sợ sệt.

“Có phép Tam-muội Nhạo lạc, khi nhập tam-muội này đối với các phép tam-muội đều có thể đạt được sự vui thích.

“Có phép Tam-muội Nhất thiết pháp chánh du hý, khi nhập tam-muội này có thể đối với các phép tam-muội thị hiện không có hết thảy mọi sắc tướng.

“Có phép Tam-muội Phóng điện quang, khi nhập tam-muội này có thể đối với các phép tam-muội thị hiện phát ra ánh sáng.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.3 khách