Ân Đức Tam Bảo

Để giữ gìn sự trang nghiêm, thuần túy tạo nguồn tư liệu; nơi đây chỉ đăng Kinh Văn mà không thảo luận.

Điều hành viên: thử nghiệm global, Thanh Tịnh Lưu Ly

Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Ân Đức Tam Bảo

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Ân Đức Tam Bảo
Ân Đức Tam Bảo
tambao0001.jpg (211.53 KiB) Đã xem 1330 lần
ÂN ĐỨC TAM BẢO
TIRATANA GUNA

Phật Bảo - Buddha Guna
Pháp Bảo - Dhamma Guna
Tăng Bảo - Sangha Guna

(Tái bản và Hiệu đính)

Soạn giả: Cư sĩ Huỳnh Thanh Long
Nāga Mahā Thera
(Đại Trưởng lão Bửu Chơn)
Phật lịch: 2556 - Dương lịch: 2013.

PHI LỘ
Bất cứ một Tôn giáo nào, hàng tín đồ thường tôn sùng vị Giáo chủ của mình để tỏ lòng hâm mộ và biết ơn.
  • - Có người biết ơn vị Giáo chủ của mình do nơi sự huyền bí, linh thiêng, mầu nhiệm.
    - Có người thì biết ơn bằng cách thoát khỏi tai nạn hoặc tật bệnh.
    - Có người biết ơn trên căn bản hợp lý, thật sự và trí tuệ.
    - Có người thì tin tưởng bằng cách xu hướng mơ hồ, mù quáng vì thấy nhiều người tin tưởng.
Những sự biết ơn và tin tưởng ấy cũng không ngoài phạm vi hiểu biết "ơn đức" của vị Giáo chủ mình.

Người Phật tử cũng vậy, tin tưởng, sùng mộ, tôn kính đức Thế Tôn cũng không ngoài sự hiểu biết ít nhiều Ân Đức cao siêu của đấng Phật Đà. Nhưng ít ai chịu nhọc công học hỏi, tìm hiểu cho chu đáo.

Đã nhiều lần cư sĩ Huỳnh Thanh Long có bàn tính với Bần Tăng về sự phiên dịch quyển "Ân Đức Phật".

Bần Tăng vì bận nhiều việc nên có khuyến khích ông phiên dịch rồi Bần Tăng sẽ xem và sửa chữa cho.

Sự ước mong ấy hôm nay đã thành tựu cũng do nhờ sự hy sinh, tận tụy, sưu tầm và phiên dịch của ông Huỳnh Thanh Long rất công phu.

Quyển "Ân Đức Phật" ra đời sẽ giúp cho người Phật tử biết được một cách chu đáo, rõ rệt những Ân Đức gì mà đấng Giáo chủ Thích Ca Mâu Ni đã có và làm cho hàng Phật tử càng tăng thêm một đức tin vững chắc, như thuyền bè để đưa con người lướt qua sông mê bể khổ.

Saigon, Ngày 25 Tháng 12 Năm 1962/2506

NĀGA MAHĀ THERA
Đại Trưởng Lão Bửu Chơn
Tăng Thống
Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam

LỜI TỰA
Phần đông đồng bào và ngay cả một số Phật tử có nhiều đức tin nhưng không chịu khó hoặc không đủ thời giờ xem kinh thỉnh pháp, lầm lạc tin tưởng rằng muốn chứng quả Phật, không cần phải công phu khổ nhọc gì cho lắm, thậm chí hễ nghe thấy hạng phàm nhân nào có phù phép đặc biệt hoặc giả bậc tu hành nào có cử chỉ lạ lùng xuất chúng, thì vội suy tôn là "Phật Bồ tát", "Phật Thầy", "Phật Bà", "Phật Cô", v.v...

Theo kinh điển Pāli, muốn thành vị Phật, không phải dễ dàng như thế được. Trước tiên, phải là bậc Bồ tát (Pāli gọi là Bodhisatta, Sanscrit gọi là Bodhisatva, dịch là Giác hữu tình), nghĩa là hạng chúng sanh giác ngộ hơn chúng sanh khác, có tâm cao thượng phát nguyện tế độ tha nhân và đang trong thời kỳ thực hành pháp Ba la mật quý trọng hầu đạt đến mức toàn thiện toàn giác trong buổi vị lai.

Muốn được sở nguyện, bậc Bồ tát cần phải có tròn đủ tám điều (Samodhānadhamma) sau đây:
  1. Manussattam: Là loài người chớ không phải là Trời hay thú.
  2. Linga sampatti: Là nam nhân.
  3. Hetu: Có đủ duyên lành có thể đắc A la hán được.
  4. Satthāra dasanam: Được gặp đức Phật Chánh giác thọ ký cho.
  5. Pabbajjā: Là bậc xuất gia.
  6. Guna sampatti: Có đức lành là đắc ngũ thông và bát thiền.
  7. Adhikāro: Có được làm phước thiện cao thượng, nhứt là năm pháp Đại thí (Thí sanh mạng, vợ con v.v...).
  8. Chandatā: Có nguyện vọng đầy đủ quyết thành một bậc Chánh giác.
Chư Bồ tát đã được Phật Chánh giác thọ ký cho rồi, hằng có bốn pháp căn cứ (Buddha bhūmi), sáu nết hạnh (Ajjhasaya) và bảy pháp xuất chúng cần thiết cho chư Bồ tát, từ khi gặp Phật thọ ký cho đến lúc hành viên mãn ba mươi pháp Ba la mật và thành đạo, lại chia ra làm ba hạng:
  1. Pannādhika Bodhisatta - Trí Tuệ Bồ tát: Chư Bồ tát thuộc về Huệ lực, là có nhiều Trí tuệ, phải tu bốn A tăng kỳ và một trăm ngàn đại kiếp của quả địa cầu (như đức Phật Thích Ca Bổn sư của chúng ta).

    (Một A tăng kỳ Asankheyya có số một (1) thêm vào một trăm bốn mươi số không (0); đây nói A tăng kỳ kiếp trái đất chứ không phải kiếp người hoặc năm).
  2. Saddhādhika Bodhisatta - Tín Đức Bồ tát: Chư Bồ tát thuộc về Tín lực, là có nhiều đức tin, phải tu trong tám A tăng kỳ và một trăm ngàn đại kiếp quả địa cầu.
  3. Viriyādhika Bodhisatta - Tinh Tấn Bồ tát: Chư Bồ tát thuộc về Tấn lực, là có nhiều tinh tấn, phải tu trong mười sáu A tăng kỳ, và một trăm ngàn đại kiếp quả địa cầu (như đức Phật vị lai là Phật Di Lặc (Sumettreya - Metteyya).
Như thế, ta nên suy nghiệm rằng muốn thành Phật không phải là sự dễ dàng, cần phải đào tạo và tập hợp Thiện duyên trong bao nhiêu A tăng kỳ kiếp quả địa cầu, hằng bố thí sanh mạng, vợ con, tiền của v.v..., hằng khổ tâm lao lực không thối chuyển trong nết hạnh diệt trừ Tham, Sân, Si, Ái dục và các Phiền não thùy miên.

Do những duyên cớ ấy, Ân đức của Phật thật vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn cho cùng tận. Trong kinh có nói: "Ân đức của Phật rộng lớn bao la, dầu có một vị Phật ra đời, từ ngày đắc đạo khởi đầu diễn giải luôn không ngừng nghĩ đến ngày nhập diệt, cũng không cùng tận Ân đức của một vị Phật khác được".

Chúng tôi chẳng nệ tài sơ đức bạc, cố công phiên dịch từ kinh sách Cao Miên và Anh văn, và suy tầm thêm trong các soạn phẩm bằng Việt ngữ của đại Trưởng lão Hộ Tông và đại Trưởng lão Bửu Chơn, soạn ra quyển "Ân Đức Phật" với mục đích diễn giải trong muôn một những Ân đức quý báu cao thượng của đức Thế Tôn là đấng Đại Từ, Đại Bi, Toàn mỹ, Toàn thiện và với hoài bảo thiết tha chư đạo hữu bốn phương cùng thấu đáo thêm ân đức sâu dầy của đức Từ Phụ chúng ta, hầu tăng trưởng đức tin nơi Tam Bảo, xu hướng noi theo tu hành tinh tấn sớm đến bờ giác ngộ.

Một lẽ nữa, với hàng Phật tử phát tâm trong sạch muốn thực hành pháp "Niệm Phật" là một pháp Thiền định quý trọng mà chúng tôi đã đề cập đến trong quyển "Tam Niệm", quyển sách nhỏ này sẽ giúp thêm tài liệu cần ích hầu cho các vị ấy tri tỏ thêm các Ân đức của Phật tùy theo danh hiệu mà mình đã chọn làm đề mục.

Hoài bảo to lớn như thế ấy, nhưng chúng tôi tự xét sức hiểu biết về Phật pháp quá thiển cận ít oi, nhứt là Phạn ngữ Pāli, nên không tránh khỏi có nhiều chỗ phiên dịch không đầy đủ ý nghĩa, mặc dù chúng tôi đã hết sức cố gắng, hỏi han thêm các bậc Cao tăng Đại Đức và giáo sư trường Đại Học Phạn Ngữ tại Phnom Penh.

Mặt khác, lời văn còn vụng về kém cỏi, không được hoa mỹ lưu loát vừa theo ý độc giả, nên chúng tôi thành thật cầu xin chư Đại Đức Cao Tăng và quý đạo hữu thượng trí rộng lượng xá cho và chỉ giáo những chỗ sai lầm, ân ấy thật là thậm trọng.

Chúng tôi kính dâng công đức biên soạn và ấn tống quyển "Ân Đức Phật" đến đại Trưởng lão Bửu Chơn, đại Trưởng lão Hộ Tông, đại Trưởng lão Thiện Luật, đại Trưởng lão Hộ Giác, đại Trưởng lão Giới Nghiêm v.v... và toàn thể Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam, bậc thì phiên dịch Tam Tạng, bậc thì thuyết kinh giảng pháp, đã và đang không công nhọc sức xướng minh chánh giáo, hoằng hóa Phật pháp phổ độ quần sanh. Phần công đức này, cũng xin dâng dến đại Trưởng lão Siêu Việt, hiện đang tu hành tại chùa Bodhiyāram (Chruichangwar, Phnom Penh) đã có công chỉ bảo về Phạn ngữ Pāli và hằng khuyến khích chúng tôi trong công việc phiên dịch và soạn sách.

Kế tiếp, cầu xin quả phước thanh cao này được thành tựu đến Ông Bà Cha Mẹ của chúng tôi đã quá vãng, được thoát khổ và siêu thăng nơi nhàn cảnh; riêng phần Thân phụ và Nhạc mẫu chúng tôi còn hiện tiền tại Phan Thiết, hằng được tăng long tuổi thọ, an vui lâu dài.

Cầu cho tất cả chúng sanh đều được hạnh phúc và mau đến bờ giải thoát.
Với tất cả tấm lòng Bác ái và mong mỏi,
HUỲNH THANH LONG
Sửa lần cuối bởi battinh vào ngày 04/05/14 04:58 với 1 lần sửa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Ân Đức Tam Bảo

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

NAMO TASA BHAGAVATO ARAHATO
SAMMĀSAMBUDDHO


CUNG KÍNH ĐỨC THẾ TÔN - ỨNG CÚNG - CHÁNH ĐẲNG GIÁC.

TẬP MỘT

BUDDHA GUNA - ÂN ĐỨC PHẬT BẢO

NAMATTHU RATANATTAYASSA
Con xin hết lòng thành kính làm lễ Tam Bảo một cách tóm tắt.

Tam Bảo:
  • - Phật bảo (Buddharatana).
    - Pháp bảo (Dhammaratana).
    - Tăng bảo (Sangharatana).
Là ba món báu quý trọng hơn tất cả bảo vật hữu tri (Savinnānakaratana) và vô tri (Avinnānakaratana) trong tam giới và hằng có năng lực đem sự an vui đến cho chúng sanh trong ba cõi.

Ân đức của Phật vô lượng vô biên, không thể nào kể cho xiết hoặc suy xét cho cùng tận, nhưng nói tóm lại, có ba Ân đức trọng đại là:
  1. Visuddhi Guna - Tịnh Đức: Ngài đã xa lìa tất cả phiền não thô sơ và vi tế, nên Thân, Lời và Ý của ngài đều được trọn lành. Trước mặt người hoặc nơi khuất lấp, ngài cũng không hề làm, nói và nghĩ tưởng điều tội lỗi.
  2. Karunā Guna - Bi Đức: Ngài thấy chúng sanh đang bị nóng nảy lăn lộn trong lửa ngũ dục, đang chìm đắm chơi vơi trong biển trần ai, chịu thống khổ vô cùng vô tận từ đời này qua kiếp khác, nên ngài phát tâm bi mẫn bao la đối với tất cả chúng sanh, chẳng khác nào người mẹ hiền thương xót với đàn con dại, mong mỏi cho con khỏi khổ, được an vui lâu dài. Từ khi còn tu hạnh Bồ tát, ngài đã từng hy sinh thân mạng, vợ con, của cải để tìm phương cứu vớt chúng sanh; đến lúc thành đạo rồi, ngài lại châu du phổ độ quần sanh không ngừng nghỉ trọn bốn mươi lăm năm trường đăng đẳng.
  3. Pannā Guna - Tuệ Đức: Ngài có Trí tuệ hoàn toàn sáng suốt, không có chi che án được, thông suốt ba giới, bốn loài, thấu triệt lý Tứ Đế là thấy rõ, biết rõ Ái dục phiền não, nguyên nhân sanh ra Ái dục phiền não, nơi tận diệt Ái dục phiền não và phương pháp diệt trừ Ái dục phiền não. Do nhờ Trí tuệ hoàn toàn sáng suốt ấy nên ngài tỏ tri nghiệp nào có sự lợi ích, nghiệp nào có sự nguy hại hầu tìm phương tiện giáo huấn chúng sanh xa lánh các điều ác, làm những việc lành để sớm đến bờ giác ngộ.
Do nhờ ba Ân đức này, đức Phật mới có thể tế độ chúng sanh, luôn cả chư Thiên và Nhân loại một cách dễ dàng được.

Vô lượng vô biên Ân đức khác của Phật đều bắt nguồn từ ba Ân đức trọng đại ấy, cũng như muôn loài thảo mộc chỉ do mặt địa cầu mà phát sanh ra vậy.

Nếu kể rộng hơn, những Ân đức cao cả của ngài có thể tóm tắt trong mười Hồng Danh sau đây:
  1. ARAHAM: ỨNG CÚNG.
  2. SAMMĀSAMBUDDHO: CHÁNH BIẾN TRI.
  3. VIJJĀCARANASAMPANNO: MINH HẠNH TÚC.
  4. SUGATO: THIỆN THỆ.
  5. LOKAVIDŪ: THẾ GIAN GIẢI.
  6. ANUTTARO: VÔ THƯỢNG SĨ.
  7. PURISADAMMASĀRATHI: ĐIỀU NGỰ TRƯỢNG PHU.
  8. SATTĀDEVAMANUSSĀNAM: THIÊN NHÂN SƯ.
  9. BUDDHO: PHẬT.
  10. BHAGAVĀ: THẾ TÔN.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Ân Đức Tam Bảo

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Xin lần lượt giải thích về mười Hồng Danh của Phật, kể từ danh hiệu Araham (Ứng Cúng) đến danh hiệu Bhagavā (Thế Tôn).
I. ARAHAM - ỨNG CÚNG
Tại sao đức Phật có danh hiệu Araham (Ứng Cúng)? Bởi ngài là:
  1. Bậc đã xa lìa (Araka).
  2. Bậc đã phá tan (Hata).
  3. Bậc xứng đáng (Araha).
  4. Bậc không nơi khuất lấp (Rahābhāva).
Giải thích rằng:

1. BẬC ĐÃ XA LÌA: Đức Phật đã xa lìa tất cả phiền não, là những điều làm cho tâm bị bợn nhơ và dắt dẫn chúng sanh luân hồi mãi trong vòng lục đạo.

Ba phiền não trọng đại đó là: Tham lam (Lobha) là pháp làm cho tâm dính mắc, Sân hận (Dosa) là pháp làm cho tâm nóng nảy ưu phiền, Si mê (Moha) là pháp làm cho tâm lầm lạc. Ba phiền não này là nguồn cội của tất cả phiền não khác, ví như một cây to có ba nhánh lớn đâm chồi nảy lá ra khắp tứ phía vậy. (Xin xem các "Phiền Não" có kể đại khái riêng biệt sau phần giải thích danh hiệu Araham)(1).

Tất cả điều chướng ngại là phiền não không còn mảy may trong tâm của đức Phật, vì ngài đã trau dồi thân tâm được hoàn toàn trong sạch thanh tịnh bằng Giới, Định, Tuệ và bằng Thánh đạo, Thánh quả và Niết bàn. Ví như người thợ làm tên, lấy một khúc cây trong rừng đem về lột vỏ, gọt đẽo cho xong rồi thoa dầu, hơ lửa, uốn nắn bằng nõ cho trở nên ngay thẳng, nhiên hậu mới được những cây tên rất tốt và ngay thẳng. Cũng như thế ấy, ngài đã lột vỏ cái tâm hằng bị xao động, cho tiêu hoại cả phiền não, nhờ sự ẩn tu nơi rừng vắng là tu hạnh Đầu Đà, rồi thoa dầu Đức Tin (Saddhā), đốt hơ bằng Tinh Tấn (Viriya), uốn bằng nõ là phép Thiền Chỉ (Samatha) và Thiền Minh Sát Vipassanā) làm cho tâm trở nên ngay thẳng, diệt trừ các nghiệp dữ. Kế tiếp, ngài suy nguyên thấy rõ căn bản của nghiệp thiện và nghiệp ác là những pháp hành (Sankhāra) đoạn tuyệt Vô minh (Avijjā), đắc được ba cái Giác (Vijjā) - (xin xem giải rộng trong danh hiệu Vijjācaranasampanno Minh Hạnh Túc), sáu cái Thông (Abhinā - (xin xem giải rộng trong danh hiệu Vijjācaranasampanno Minh Hạnh Túc) Tứ Tuệ Phân Tích (Patisambhidā) - Vô Ngại Giải, gồm có:
  • (1) Nghĩa Lý Vô Ngại Giải: Trí tuệ biết rõ cái quả hay cái lý (là thông suốt cả nghĩa lý của chú giải tóm tắt.
    (2) Pháp Lý Vô Ngại Giải: Trí tuệ rõ biết cái nhân hay thông suốt cả các pháp.
    (3) Từ Ngữ Vô Ngại Giải: Trí tuệ rõ biết ngữ căn hay thông suốt các thứ tiếng, các loại ngôn ngữ.
    (4) Ứng Biện Vô Ngại Giải: Trí tuệ phân tích rõ ràng và mau lẹ tất cả sự vật, sự việc.
Chín pháp Thánh (Lokuttaradhamma - Pháp Siêu Thế): gồm có chín pháp, đó là bốn Đạo, bốn Quả và Niết Bàn, và liễu chứng bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Lại nữa, chẳng những đã chiến thắng tất cả quân thù, là các phiền não trọng đại và vi tế mà thôi, ngài lại chặt đứt được các tiền khiên tật là những thói quen của Thân, Lời và Ý.

2. BẬC ĐÃ PHÁ TAN: Đức Phật đã phá tan, bẻ gãy bánh xe luân hồi và không còn tái sanh lại nữa.

Ta có thể ví dụ "bánh xe luân hồi" (Sankhāra cakka) gồm có Vô Minh (Avijjā) làm đùm, ba Pháp Hành (Sankhāra) gồm có Phúc hành (Punnābhi Sankhāra), Phi Phúc hành (Apunnābhi Sankhāra), và Bất động hành (Ānenjābhi Sankhāra) làm căm, hai mươi chín Tư tác ý (Cetanā gồm có mười hai Tư tác ý bất thiện, tám Tư tác ý thiện, năm Tư tác ý thiện Sắc giới và bốn Tư tác ý thiện Vô sắc giới) làm đầu cây căm tra vào đùm. Bánh xe ấy ráp vào thùng xe là Tam giới (Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới) làm thành bánh xe luân hồi.

Tam giới ví như cái thùng xe, vì Tam giới là nơi sanh và trú của chúng sanh. Bốn pháp Trầm luân (Āsava) gồm có Tứ lậu, đó là: Dục lậu là trầm luân trong Ngũ dục lạc, Hữu lậu là trầm luân trong các cõi Sắc giới và cõi Vô Sắc giới; Kiến lậu là trầm luân trong những kiến chấp sai lầm; Vô minh lậu là trầm luân trong sự si mê lầm lạc) ví như cái gọng xe, vì các pháp ấy là chủ động, hằng lôi kéo chúng sanh đến chỗ sanh và diệt. Vô minh ví như cái đùm xe, vì Vô minh là nơi quy hội của các nhân duyên. Sự già và sự chết ví như cái vành xe, vì hằng lăn tròn đi tới đưa chúng sanh từ cảnh này đến cảnh khác. Ba Pháp Hành ví như căm bánh xe, là vì sự sanh và sự chết bao chung quanh.

Đức Phật đứng vững vàng với hai chân là sự Tinh Tấn (Viriya), trên mặt đất bằng phẳng là Giới (Sīla), dùng hai tay là Đức Tin (Saddhā), cầm cây gươm bén là Trí Tuệ (Pannā), chặt rã, phá tan từng mảnh cái xe luân hồi ấy dưới cội Bồ đề, từ đây không còn chờ ngài quanh quẩn trong ba cõi, sáu đường sanh tử luân hồi.

Hoặc giả, nếu lấy pháp Thập Nhị Nhân Duyên làm tượng trưng cho "bánh xe luân hồi" thì Vô minh làm đùm, Lão Tử làm vành, còn mười duyên còn lại (Hành, Thức, Danh sắc, Lục căn, Xúc, Thọ Ái, Thủ, Hữu, Sanh) làm căm. Đức Phật thấy rõ, hiểu biết tường tận lý "Nhân Quả Liên Quan" (xin xem giảng rộng trong quyển kinh "Nhân Quả Liên Quan" của đại Trưởng lão Bửu Chơn), gồm có mười hai Chi (Anga), ba Thời kỳ (Addhā), hai mươi Thế (Ākāra), ba chỗ Nối liền (Sandhi), bốn chỗ Tóm tắt (Sankhepa), ba sự Luân chuyển (Vatta) và hai Gốc (Mūla). Trong khi nhập đại định trọn bảy ngày đêm dưới cội Bồ đề, ngài đã xem xét thật vi tế sự khởi sanh và sự diệt tắt của mỗi nhân duyên, xem thuận rồi xem nghịch, cho đến khi phát sanh trí tuệ thấy rõ các pháp hữu vi đều do nguyên nhân mà sanh ra. Khi nguyên nhân bị diệt thì các pháp ấy cũng diệt tắt theo. Khi thấy rõ như thế rồi, ngài chứng đắc đạo quả Niết bàn, được giải thoát các sự thống khổ, phá tan bánh xe sanh tử luân hồi.

3. BẬC XỨNG ĐÁNG:
  • (1) Đức Phật là đấng Toàn tri, Toàn thiện, rất xứng đáng cho chư Thiên và Nhân loại lễ bái, cúng dường. Ngài là phước điền quý báu cao thượng nhất của chúng sanh.

    Sự cúng dường ấy, chẳng luận vật cúng ít hay nhiều, hèn hạ hay cao quý, chẳng luận thí chủ là bậc Vua chúa oai quyền hoặc là hàng cùng đinh nghèo khổ, hằng được phước báu vô lượng nếu tín thí có đức tin vững chắc là tin lý Nhân quả và có tâm thiện đầy đủ tác ý trong sự cúng dường (có ba sự tác ý, đó là: Tư tiền Pubblacetanā là tác ý thanh tịnh khởi lên lần đầu tiên để dâng cúng. Tư hiện Muncanācetanā là tác ý thanh tịnh trong khi dâng cúng, Tư hậu Aparāparacetanā là tác ý thỏa thích sau khi dâng cúng).

    Trong kinh Dīpanī có câu: "Tiddhante nibbute cāpisanam cettam samebhale" có ý nghĩa là "khi Phật còn tại thế hay sau khi đã viên tịch Niết bàn rồi, nếu có thiện nhân nào có tâm trong sạch đồng nhau cúng dường đến Phật cũng được sự phước báu như lúc ngài còn tại thế vậy". Như thế, ta nên tin tưởng rằng dầu khi đức Thế Tôn còn tại thế, hay sau khi ngài viên tịch rồi cũng vậy, quả phước phát sanh do dự cúng dường đến ngài hoặc đến tháp thờ xá lỵ của ngài, cũng đồng nhau không kém, miễn là thí chủ có đức tin trong sạch và chú tâm làm trong sự phước thiện đồng nhau.

    Trong kinh có chép lại rất nhiều sự tích về sự lễ bái cúng dường đức Thế Tôn. Từ các hàng chư Thiên, như Phạm thiên Sahampati, cúng dường ngài một tràng hoa bằng ngọc to lớn như núi Tu Di (Sineru). Thiên chủ Đế Thích (Sakka), Tứ Đại Thiên vương (Catumahārājā) v.v... các bậc Hoàng đế đồng thời với ngài như là vua Tần Bà Sa (Bimbisāra - Bình Sa Vương), vua Ba Tư Nặc Pasenadi) v.v..., các bậc đại phú hộ như trưởng giả Cấp Cô Độc (Anāthapindika), bà Visākhā v.v... đến các hạng cùng đinh nghèo khổ như nàng Sumanā Mālā dâng bông lài, thầy Bà la môn Culekasātaka dâng khăn choàng v.v... Một thế kỷ sau khi đức Thế Tôn nhập diệt, Hoàng đế A Dục (Asoka) xuất của kho ra chín mươi sáu triệu đồng vàng cúng dường Tam Bảo, và cho xây cất tám mươi bốn ngàn Thánh tháp trong toàn nước Ấn Độ.

    Nên nói thêm rằng, chẳng những đức Phật là bậc siêu nhân cao thượng, xứng đáng cho chúng sanh lễ bái cúng dường mà thôi, các bậc thánh Thinh văn như A la hán, A na hàm v.v... khác đã diệt tận phiền não hay còn chút phiền não nơi tâm, hoặc các hạng phàm nhân có giới đức, tu hành chân chánh theo iaso pháp của đức Thế Tôn, cũng là những bậc đáng thọ lãnh vật cúng dường của tín thí vậy.

    (2) Một điều nữa, đức Phật là bậc xứng đáng giảng dạy Kinh, Luật, giáo hóa chúng sanh vì ngài đã diệt tận tất cả phiền não chướng ngại, nên Kinh Luật mà ngài đã chỉ giải, chế định quả thật là chân chánh, chân thật chỉ nhằm vào sự lợi ích của quần sanh, ngài không vì bốn điều Thiên vị (Agati) - đó là Thiên vị vì thương (Chandāgati). Thiên vị vì giận ghét (Dosāgati), Thiên vị vì si mê (Mohāgati), và Thiên vị vì sợ (Bhayāgati) mà giảng Kinh, định Luật, nói pháp độ đời.
4. BẬC KHÔNG NƠI KHUẤT LẤP:

Đức Phật là đấng trọn lành, đã diệt tận phiền não, nên Thân, Lời và Ý của ngài hoàn toàn trong sạch thanh tịnh, trước mặt người hay nơi khuất lấp, xa tai cách mặt người, ngài cũng không hề làm, nói và tưởng điều tội lỗi, dầu chỉ là nhỏ nhen chút ít. Không như những hạng thường nhân tự cho mình là Giáo chủ, là Bồ tát, là Thánh nhân v.v..., trước mặt người tỏ ra đạo mạo nghiêm trang như là bậc có giới hạnh chân chánh, hiền từ đạo đức, nhưng sau lưng người, xa tai cách mắt thiên hạ thì hằng làm nhiều điều tội lỗi xấu xa, không chút lòng hổ thẹn.

Do nhờ những Ân Đức cao quý vừa giải phía trên, nên ngài có danh hiệu là Bậc Ứng Cúng (Araham).

CHÚ THÍCH:

(1) Phần kể riêng các phiền não mà đức Phật đã xa lìa:
  1. Mūla Kilesa (Căn gốc phiền não): có ba, gọi là tam độc: Tham, sân, si.
  2. Āsava (Lậu hoặc - Pháp trầm luân): có bốn, đó là Dục lậu, Hữu lậu, Kiến lậu và Vô minh lậu.
  3. Vipallāsa (Điên đảo - Điều lầm lạc): có ba, đó là Tưởng điên đảo (Sannāvipallāsa), Tam điên đảo (Cittavipallāsa), và Kiến điên đảo (Ditthivipallāsa)
  4. Anusaya (Tùy miên - Pháp ngủ ngầm): có bảy, đó là Dục ái tùy miên, Hữu ái tùy miên, Sân hận tùy miên, Ngã mạn tuỳ miên, Tà kiến tùy miên, Hoài nghi tùy miên, Vô minh tùy miên.
  5. Agati (Thiên vị): có bốn, đó là Thiên vị vì thương, vì ghét, vì si và vì sợ hãi.
  6. Gantha (Thúc phược): có bốn, đó là Tham ác thân phược (buộc ràng vì tâm xan tham), Sân ác thân phược (buộc ràng vì tâm thù oán, mong hại người), Giới thủ thân phược (buộc ràng vì tập quán, chấp lệ cúng tế), Ngã kiến thân phược (buộc ràng vì thấy sai chấp lầm).
  7. Ogha (Bạo lưu): có bốn, đó là Dục bạo, Hữu bạo, Kiến bạo và Vô minh bạo.
  8. Upādāna (Chấp thủ): có bốn, đó là Dục thủ, Kiến thủ, Giới cấm thủ và Ngã cháp thủ.
  9. Macchariya (Bỏn xẻn): có năm, đó là bỏn xẻn chỗ ở, bỏn xẻn dòng giống, bỏn xẻn tài sản, nỏn xẻn kiến thức và bỏn xẻn Phật pháp.
  10. Lokiyadhamma (Pháp thế gian): có tàm, đó là Được khen - bị chê, được lợi - mất lợi, được danh - mất danh, hạnh phúc - khổ đau
  11. Mandila (Uế trược): có chín, đó là Sân hận, Vô ơn, Tật đố, Bỏn xẻn, Giả dối, Khoe khoang, Vọng ngữ, Tham ác, Tà kiến.
  12. Akusalakammapatha (Thập Bất thiện nghiệp): có mười, đó là Sát sanh, Trộm cắp, Tà dâm, Vọng ngữ, Lưỡng thiệt, Thô ác ngữ, Hồ ngôn loạn ngữ, Ý tham, Ý sân và Ý tà kiến.
  13. Samyojana (Kiết sử): có mười, đó là Thân kiến, Hoài nghi, Giới cấm thủ, Tham dục, Sân hận, Ái sắc, Ái Vô sắc, Ngã mạn, Phóng dật và Vô minh.
  14. Kilesa (Phiền não): có mười, đó là Tham, Sân, Si, Ngã mạn, Tà kiến, Hoài nghi, Hôm trầm, Thùy miên, Vô tàm và Vô quý.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Ân Đức Tam Bảo

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

II. SAMMĀSAMBUDDHO - CHÁNH BIẾN TRI
(CHÁNH ĐẲNG GIÁC)
Tại sao đức Phật có danh hiệu SAMMĀSAMBUDDHO (CHÁNH BIẾN TRI - TOÀN TRI DIỆU GIÁC)?

Bởi ngài là đã thành bậc Chánh Đẳng Giác, là bậc toàn giác ngộ (Buddho), thông suốt các pháp một cách chân chánh (Sammā), do ngài tự tỏ ngộ và không có thầy giáo hóa (Sānam).

Đức Phật đã tự mình phát giác, hiểu biết tường tận bốn Chân lý vi diệu quý báu là Tứ Thánh Đế (Caturāriyasacca). Bốn Chân lý đó là:
  1. Dukkhāriyasacca: Khổ Thánh Đế.
  2. Dukkha Samudaya Ariyasacca: Khổ Tập Thánh Đế.
  3. Dukkha Nirodha Ariyasacca: Khổ Diệt Thánh Đế.
  4. Dukkha Nirodha Gāminīpatipadā Ariyasacca: Khổ Diệt Đạo Thánh Đế
Thánh Đế (Ariyasacca) có ý nghĩa là:
  • (1) Pháp chắc thật của bậc Thánh nhân.
    (2) Pháp chắc thật dắt dẫn cho xa lìa pháp nghịch, không còn tồn tại ở trong thân tâm nữa.
    (3) Pháp chắc thật làm cho quả Thánh phát sanh tròn đủ, vì khi đã chứng đắc pháp Tứ Thánh Đế thì trí tuệ khởi sanh lên thấy rõ "đây là Khổ, đây là nguyên nhân phát sanh sự Khổ, đây là sự diệt tắt của sự Khổ, đây là con đường đi đến nơi sự diệt tắt sự Khổ". Có thể chứng đắc đạo quả Thánh nhân một cách dễ dàng.
    (4) Pháp chắc thật đáng tôn quý. Tôn quý vì tánh cách hiển nhiên, chân thật của Tứ Đế: Khổ là quả thật có khổ ở trên thế gian này, Nguyên nhân phát sanh sự Khổ là quả thật có nguyên nhân ấy thật, Diệt tắt Khổ là quả thật có sự diệt tắt sự khổ trên thế gian này, Con đường đi đến nơi diệt tắt của sự khổ là quả thật có thật.
1. KHỔ THÁNH ĐẾ (Dukkhāriyasacca): Là những điều thống khổ hiển nhiên mà chúng sanh ở trên thế gian không một ai tránh thoát khỏi được. Sự Khổ có mười hai, đó là:
  • (1) Jātidukkha: Khổ vì sanh.
    (2) Jarādukkha: Khổ vì già.
    (3) Byādhidukkha: Khổ vì bệnh.
    (4) Maranadukkha: Khổ vì chết.
    (5) Sokadukkha: Khổ vì ưu não, buồn rầu, thương tiếc.
    (6) Paridevadukkha: Khổ vì khóc than, kể lể.
    (7) Dukkhadukkha: Khổ vì quá nhiều khổ đau.
    (8) Domanassadukkha: Khổ vì phiền muộn.
    (9) Upāyāsadukkha: Khổ vì khó chịu, bực tức.
    (10) Appīyehi sampayoga dukkha: Oán tắng hội khổ, là không ưa thích mà phải gần.
    (11) Pīyehi vippayoga dukkha: Ái biệt ly khổ, là thương mến mà phải xa lìa.
    (12) Yampiccham na labhati tampi dukkha: Cầu bất đắc khổ, là mong cầu mà không được như ý (thất vọng).
Từ ngữ "Khổ" (Dukkha) nếu giải thích một cách tóm tắt là chỉ cho cái khổ về ngũ uẩn. Vì cố chấp cho rằng, trong xác thân ngũ uẩn này có Ta, cho Sắc thân này là Ta, là của Ta v.v.. và chấp Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn, Thức uẩn cũng như thế ấy, cho nên các sự khổ não mới phát sanh lên được.

Một lẽ nữa, ngũ uẩn là nguồn cội, là nơi chất chứa các sự thống khổ, vì có thân ngũ uẩn này mới có khổ sanh, khổ già, khổ bệnh, khổ chết v.v...

2. KHỔ TẬP THÁNH ĐẾ (Dukkha Samudaya Ariyasacca): Là nguyên nhân sanh ra sự khổ não, là Ái dục (Tanhā). Ái dục có mãnh lực ngấm ngầm trong tâm của tất cả phàm nhân, khiến cho chúng sanh ước ao, tìm kiếm và cố giữ lấy những vật vừa lòng duyệt ý, say mê quyến luyến theo ngũ trần không ngừng nghỉ. Chính Ái dục dắt dẫn chúng sanh trầm luân từ kiếp này sang kiếp khác, trong vòng sanh tử luân hồi vô cùng tận. Ái dục có ba:
  • (1) Kāma Tanhā - Dục Ái: Sự ham muốn, say mê theo ngũ trần, hoặc ước muốn được sanh làm người hoặc làm Thiên tử trong Lục Dục Giới Thiên.
    (2) Bhava Tanhā - Hữu Ái: Sự ham muốn được sanh về cõi Sắc Giới Thiên.
    (3) Vibhava Tanhā - Phi Hữu Ái: Sự ham muốn được sanh về cõi Vô Sắc Giới Thiên.
Nếu kể rộng ra thì Ái dục có tới một trăm lẻ tám (108).

Ái dục là nguyên nhân phát sanh ra các sự thống khổ, nếu Ái dục diệt tắt thì tất cả sự khổ não cũng diệt theo.

3. KHỔ DIỆT THÁNH ĐẾ (Dukkha Nirodha Ariyasacca): Là sự diệt trừ hoàn toàn các sự khổ não, là Niết Bàn.

Niết Bàn theo từ ngữ Pāli gọi là Nibbāna, theo từ ngữ Sanscrit là Nirvāna có nghĩa là ra khỏi, hoặc không còn. Vāna có nghĩa là phiền não, hoặc Tam giới.

Niết Bàn có tất cả ba mươi hai nghĩa, tuy nhiên nếu giải thích một cách tóm tắt thì có hai ý nghĩa sau đây:
  • (1) Nếu nói là trạng thái của tâm, thì Niết Bàn là trạng thái tâm đã đoạn tuyệt, diệt trừ hẳn Ái dục. Ái dục phát sanh lên là do có sự tiếp xúc của lục căn (Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý) với lục trần (Sắc, thanh, khí, vị, xúc, pháp). Nếu thu thúc lục căn cho thanh tịnh, không cho duyên theo, quyến luyến theo lục trần, thì lòng Ái dục không còn phát sanh lên được. Ái dục đã diệt trừ thì các sự khổ não cũng diệt theo không dư sót.

    (2) Nếu nói theo nơi hoặc cõi thì Niết Bàn là sự tịch tịnh, không còn có sanh, già, bệnh, chết, là vượt ra khỏi Tam giới (siêu xuất thế gian).
Đức Phật và các bậc A la hán đã chứng đắc hai loại Niết Bàn:
  1. Phiền não Niết Bàn (Kilesa Nibbānam) hoặc Hữu Dư Y Niết Bàn (Sampādiseva Nibbānam) là trạng thái tâm của các bậc Thánh nhân, ngay trong kiếp chót đã diệt tận Ái dục, đã được giác ngộ và giải thoát, song vẫn còn thân ngũ uẩn.

    Đức Phật đã chứng đắc Phiền não Niết Bàn khi còn ngự dưới cội cây Bồ đề toàn thắng bọn Ma vương, dứt tuyệt Tham, Sân, Si, Mạn, Kiến cùng bao phiền não khác và Ái dục xa lìa khỏi tâm của ngài như các giọt nước lìa khỏi lá sen.

    Khi đã chứng đắc Hữu Dư Y Niết Bàn thì ngài có lời tuyên bố như sau:

    "Anekajāti samsāram sandhāvisam
    anibbisam gahakāram gavesanto dukkha jāti
    punappunam gahakāraka ditthosi puna geham na
    kāhasi sabbe te phāsukā bhaggā gahakutam
    visankhaatam víankhāragatam cittam tanhānam
    khayamajjhagāti"


    Có ý nghĩa là: "Khi Như Lai đi tìm người thợ (tức là Ái dục) là người xây cất căn nhà (tức là thân tứ đại) của Như Lai mà chưa gặp được, Như Lai hằng bị luân hồi trải qua vô lượng kiếp, sự sanh ấy hằng đem những điều thống khổ đến Như Lai không ngừng nghỉ.

    Này người thợ làm nhà kia! Như Lai đã tìm thấy ngươi rồi! Từ đây, người không còn cất nhà là thân tứ đại của Như Lai được nữa. Sườn nhà là các phiền não của ngươi, Như Lai đã bẻ gãy rồi, nóc nhà là Vô minh mà người đã tạo ra đó, Như Lai cũng đã phá tan rồi. Hiện nay, tâm Như Lai đã chứng đắc Niết Bàn, xa lìa khỏi các sắc tướng. Như Lai đã liễu tri và chứng quả A la hán, là pháp tiêu diệt tất cả Ái dục rồi!"
  2. Ngũ uẩn Niết Bàn Khandha Nibbānam) hoặc Vô Dư Y Niết Bàn (Anapādisesa Nibbānam), là khi tuổi thọ đã đến lúc mạng chung, các bậc Thánh nhân ấy lìa bỏ thân ngũ uẩn, viên tịch Niết Bàn, không còn sanh tử luân hồi.
Đức Phật đã đem giáo lý cao thượng ra giảng giải tế độ chúng sanh trọn cả bốn mươi lăm năm, đến khi phận sự đã viên mãn, ngài đã đi đến rừng Kusinara, an tọa dưới hai tàng cây Long Thọ, nhập định rồi viên tịch. Lúc ấy, ngài hoàn toàn tịch diệt cả thân ngũ uẩn, tức là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, như thế gọi là Ngũ uẩn Niết Bàn.

Có chỗ lại thêm một nữa là Xá Lợi Niết Bàn (Dhātu Nibbānam). Hiện nay, xá lợi đức Phật ở rải rác khắp mọi nơi để cho chư Thiên và nhân loại chiêm bái. Khi Phật giáo tròn đủ năm ngàn năm, xá lợi của ngài tự nhiên bay về quy tụ lại thành một khối tại nơi Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhigaya - Trung Ấn Độ) thị hiện một vị Phật như thời đức Thế Tôn còn tại thế, ngự trên bồ đoàn thuyết pháp trọn bảy ngày đêm. Khi ấy, các vị Phạm Thiên và chư Thiên từ trên các cõi Thiên giới, tay cầm tràng hoa, bay xuống lễ bái cúng dường và thính pháp, chứng đắc đạo quả từ Tu đà hườn (Thất lai) trở lại với số lượng vô số.

Tròn đủ bảy ngày đêm, tự nhiên trong Kim tháp lửa phát cháy lên và thiêu hoại xá lợi, kể từ ngày ấy thì giáo pháp của ngài hoàn toàn tiêu diệt. Như thế, gọi là Xá Lợi Niết Bàn.

4. KHỔ DIỆT ĐẠO THÁNH ĐẾ (Dukkha Nirodha Gāminīpatipadā Ariyasacca): Là con đường đi đến diệt tắt sự khổ não. Con đường ấy là Bát Chánh đạo (Ariyatthangika Magga - Bát Chi Thánh Đạo), gồm có tám chi:
  • (1) Sammāditthi - Chánh kiến: Là sự thấy biết một cách chân chánh.
    (2) Sammāsankappa - Chánh Tư duy: Là sự suy nghĩ chân chánh.
    (3) Sammāvācā - Chánh ngữ: Là lời nói chân chánh.
    (4) Sammā Kammanta - Chánh nghiệp: Là hành động chân chánh.
    (5) Sammā Ajiva - Chánh mạng: Là việc nuôi mạng chân chánh.
    (6) Sammā Vāyāma - Chánh Tinh tấn: Là sự cố gắng chân chánh.
    (7) Sammā Sati - Chánh niệm: Là sự ghi nhớ chân chánh.
    (8) SammāSamādhi - Chánh định: Là sự định tâm chân chánh.
Bát Chánh đạo phân được chia ra làm ba phần:
  1. Chánh ngữ, Chánh nghiệp và Chánh Mạng thuộc về phần Giới.
  2. Chánh Tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định thuộc về phần Định, và
  3. Chánh kiến, Chánh tư duy thuộc về phần Tuệ
Cho nên người thực hành theo Bát Chánh đạo cũng được gọi là người tu theo Giới - Định - Tuệ, là nền tảng của Phật giáo vậy.

Bát Chánh đạo là Trung đạo (Majjhimāpatipadā) có nghĩa là con đường ở giữa, không thiên về hai cực đoạn khổ hạnh (Attakilamathānuyoga - ép xác thân) và lợi dưỡng (Kāmasukhallikānuyoga - say mê theo ngũ trần). Con đường ấy có năng lực hằng làm cho phát sanh pháp nhãn (Dhammacakkhu) và Trí tuệ (Nāna) khiến cho tâm trở nên thanh tịnh sáng suốt mà cứu cánh là sự giác ngộ và Niết Bàn.

Tứ Thánh Đế là những pháp chân thật, hiển nhiên mà mỗi người đều có thể tự mình xem xét và thực nghiệm lấy. Tứ Thánh Đế là chân lý, mà chân lý thì không bao giờ hư hoại hay chịu ảnh hưởng của thời gian. Bốn chân lý ấy đã có trong thời quá khứ, đang có trong thời hiện tại và sẽ tồn tại mãi trong thời vị lai. Tuy nhiên chỉ có trí tuệ siêu phàm của đức Phật mới khám phá ra được và từ khi ngài chuyển pháp luân nơi vườn Lộc giả tại Isipatana, thì bốn chân lý vi diệu ấy mới được phổ biến đến tất cả chư Thiên và nhân loại. Dựa theo bốn chân lý ấy, dưới cội cây Bồ đề, đức Phật đã tự mình tỏ ngộ tường tận những pháp xác thực sau đây:

- Lục căn (nhãn, nhĩ, ty, thiệt, thân và ý) là Khổ đế.

- Tư tác ý Ái dục phát khởi lên do lục căn là Tập đế.

- Trạng thái Ái dục bị diệt trừ không còn phát sanh lên được khi lục căn tiếp xúc với lục trần (sắc, thanh, khí, vị, xúc, pháp) là Diệt đế.

- Phương pháp chân chánh làm cho phát sanh trí tuệ diệt trừ Ái dục là Đạo đế.

Những pháp được tiếp tục kể thêm đây, có thể giải thích bằng cách tương tự như pháp môn nói trên:
  • Lục trần được bắt đầu từ Sắc trần v.v...
  • Lục Thức được bắt đầu từ Nhãn thức v.v...
  • Lục Xúc được bắt đầu từ Nhãn Xúc v.v...
  • Lục Thọ được bắt đầu từ Nhãn Thọ v.v...
  • Lục Tưởng được bắt đầu từ Nhãn Tưởng v.v...
  • Sáu tắc ý được bắt đầu từ Tác ý về Sắc trần v.v...
  • Sáu Ái dục được bắt đầu từ Sắc ái v.v...
  • Sáu Tầm được bắt đầu từ Tầm về sắc trần v.v...
  • Sáu Tứ được bắt đầu từ Tứ về sắc trần v.v...
  • Ngũ uẩn được bắt đầu từ Sắc uẩn v.v...
  • Mười đề mục Kasina (Hoàn tịnh).
  • Mười đề mục Tùy niệm.
  • Mười đề mục về Tử thi.
  • Ba mươi hai thế trược, được bắt đầu từ tóc, lông v.v...
  • Thập nhị xứ (sáu căn và sáu trần).
  • Thập bát giới (sáu căn, sáu trần và sáu thức).
  • Chín cảnh giới tái tục.
  • Tứ tầng Thiền được bắt đầu từ Sơ thiền v.v...
  • Tứ phạm trù (Vô lượng tâm - Từ, bi, hỷ và xả).
  • Tứ đề mục Vô sắc giới là Không vô biên xứ thiên, Thức vô viên xứ thiên, Vô sở hữu xứ thiên, Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên.
  • Liên quan tương sinh (Thập nhị nhân duyên), nếu kể xuôi thì bắt đầu từ Vô minh và kể ngược lại thì bắt đầu từ Lão Tử.
Theo phương pháp trên, nếu chỉ giải thích riêng về một nhân duyên là Lão Tử thì Lão Tử là Khổ đế, Sanh là Tập đế, sự diệt tắt Sanh và Lão Tử là Diệt đế, phương pháp chân chánh làm cho phát sanh trí tuệ để diệt trừ Sanh và Lão Tử là Đạo đế.

Tất cả những pháp ấy, luôn cả những pháp siêu xuất thế gian. Đức Phật đã tự mình tìm thấy, hiểu biết tường tận tinh vi, không phải do nơi trí tưởng tượng, mà do nơi ngài phân tách rõ ràng, do nhờ trí tuệ hoàn toàn sáng suốt, không hạn định, không chứng ngại, do tự ngài tỏ ngộ lấy và không có thầy chỉ dạy.

Nói riêng về Tứ Thánh Đế, đức Phật đã liễu tri chân chánh, trung thực những pháp đáng liễu tri là Khổ đế có mười hai điều (như đã được giải thích ở phần trên), nên ngài có danh hiệu là Toàn Tri Khổ đế (Parinneyye dhamme sammāsambuddho).

Đức Phật đã liễu tri những pháp đáng làm cho tường tận rõ rệt, là Diệt Đế mà những bậc trí tuệ đang cố gắng hành theo để thành đạt Bốn đạo, Bốn quả và Niết Bàn, nên ngài có danh hiện là Toàn Tri Diệt Đế (Sacchikātabbe dhamma sammāsambuddho).

Đức Phật đã liễu tri những pháp đáng phải nương theo, là Đạo Đế, tức là Bát Chánh đạo có năng lực đem đến sự giác ngộ và giải thoát là Niết Bàn, nên ngài có danh hiệu là Toàn Tri Đạo Đế (Bhavetabbe dhamma sammāsambuddho).

Do nhờ những Ân đức cao quý như đã vừa giải thích ở phần trên, nên đức Phật có danh hiệu là đức Chánh Biến Tri (Sammāsambuddho - Chánh Đẳng Giác - Toàn Tri Diệu Giác).


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Ân Đức Tam Bảo

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

III. VIJJĀCARANASAMPANNO - MINH HẠNH TÚC
Tại sao đức Phật có danh hiệu VIJJĀCARANASAMPANNO (MINH HẠNH TÚC)?

Bởi ngài là bậc đã toàn đắc ba Giác (Vijjā), tám Giác và mười lăm Hạnh (Carana).

1. GIÁC hoặc MINH (Vijjā) có nghĩa là sự hiểu biết cùng tột, tinh tường. Ba Giác của đức Phật có được nói đến trong bài Kinh "Bhayabherava Sutta - Kinh Sợ Hãi và Khiếp Đảm" thuộc trong Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikāya) như sau:
  • (1) Pubbe nivāsānusati - Túc Mạng Tùy Niệm: là trí tuệ biết rõ những tiền kiếp của đức Phật và của tất cả chúng sanh. Đức Phật có liễu tri căn nguyên về thân ngũ uẩn của ngài từ một kiếp đến vô số kiếp quá khứ, trong từng mỗi kiếp, ngài liễu tri sanh ở cảnh nào, khi ấy có tên họ là chi, thuộc dòng giống nào, sắc diện ra sao, tuổi thọ được bao nhiêu, khi thác rồi tái sanh vào trong cõi giới nào v.v... đức Phật đã biết rõ từng chi tiết như thế trong mỗi tiền kiếp của ngài và luôn của mỗi chúng sanh.

    Về Túc Mạng Minh này, đức Bồ Tát đã chứng đắc vào lúc canh thứ nhất trong đêm trước khi thành đạo ở dưới cội cây Bồ đề.

    (2) Cutūpapāta vijjā - Thiên Nhãn Minh: có hai ý nghĩa sau đây:
    1. Sanh Tử Minh là có Nhãn Thắng Trí để thấy rõ sự sanh tử luân hồi của chúng sanh đều do nghiệp (thiện hoặc ác) tạo tác hình thành.

      Chúng sanh nào làm những nghiệp ác do từ nơi thân, lời, ý, chấp theo tà kiến, sẽ phải tái sanh vào trong các cảnh Khổ (Duggati - Khổ Thú) là các cõi địa ngục, ngạ quỷ, A tu la và súc sanh.

      Chúng sanh nào những nghiệp thiện do từ nơi thân, lời, ý, thực hành theo chánh kiến, sẽ được tái sanh vào những cảnh an vui (Sugati - Thiện Thú) là cõi người và những cõi Thiên giới.

      Đức Phật thấy rõ và biết trước những cảnh giới tái sanh của mỗi chúng sanh tùy theo nghiệp ác hoặc thiện mà chúng sanh ấy đã tạo.
    2. Thiên Nhãn Thắng Trí là có Nhãn Thắng Trí thấy rõ tất cả chư Thiên, Nhân loại và các vật.

      Cho dù sâu dưới lòng đất, trong lòng núi hay bị che khuất, cho dù hữu hình hay vô hình, cho dù gần hoặc xa, ngài cũng đều thấy rõ như ở ngay trước mặt. Tuy nhiên, tại đây chỉ nói đến Sanh Tử Minh là việc thấu trí mà đức Bồ tát đã chứng đắc vào canh giữa trong đêm trước khi ngài thành đạo.
    (3) Asāvakkhaya Vijjā - Lậu Tận Minh: là trí tuệ liễu tri các pháp trầm luân đã được diệt tận. Pháp trầm luân gọi là tứ lậu, gồm có: Dục lậu, Hữu Lậu, Kiến lậu và Vô minh lậu.
Riêng về Ái dục, đức Bồ tát đã thấy rõ, liễu tri tường tận, rằng đây là Khổ, đây là nguyên nhân phát sanh sự Khổ, đây là sự diệt tận của sự Khổ và đây là con đường đi đến nơi diệt tận sự Kổ.

Về các pháp trầm luân khác, đó là tam giới, tà kiến và vô minh, đức Bồ tát cũng liễu tri một cách tường tận: pháp này là pháp trầm luân; pháp này là nguyên nhân sanh ra pháp trầm luân; pháp này là sự tận diệt pháp trầm luân và pháp này là phương pháp diệt trừ pháp trầm luân.

Đức Bồ tát chứng đắc Lậu Tận Minh vào canh thứ ba lúc rạng đông sáng của ngày thành đạo. Đạo quả viên thành, đức Bồ tát thành tựu bậc Chánh Đẳng Giác, là bậc tối thượng, là bậc thầy của chư Thiên và nhân loại, là bậc xứng đáng để cho chúng sanh cung kính và lễ bái cúng dường.

2. Ngoài ba Giác vừa kể trên, đức Phật còn chứng đắc năm Giác khác nữa, có được nói đến ở trong bài kinh "Amnattha Sutta" thuộc trong Trường Bộ Kinh (Dīgha Nikāya). Năm Giác ấy là:
  • (1) Vipassanā Vijjā - Tuệ Quán Minh:
Là trí tuệ thẩm sát các pháp hành (Sankhāra - Hữu vi) là danh và sắc (Nāma Rūpa), tuần tự theo thập Tuệ quán (Vipassanā nana):
  • Sammasanāna - Phổ thông trí: là trí tuệ thẩm sát các danh và sắc theo tam tướng là Vô thường, Khổ đau và Vô ngã đúng theo thực tướng.
  • Udayabhayannāna - Sanh diệt trí: là trí tuệ thẩm sát về sự sanh và diệt của danh và sắc.
  • Bhangannāna - Hoại diệt trí: là trí tuệ thẩm sát sự tan rã, hoại diệt của danh và sắc.
  • Bhayannāna - Bố úy trí: là trí tuệ thẩm sát và liễu tri về danh và sắc quả thật đáng ghê sợ, kinh hãi.
  • Adīnavannāna - Quả hoạn trí: là trí tuệ thẩm sát cho được liễu tri về sự tội lỗi của danh và sắc, ví như người thấy nhà đang bị đốt cháy, mau tìm đường thoát ly ra khỏi nơi hỏa tai.
  • Nibbidannāna - Yểm ly trí: là trí tuệ thẩm sát cho phát sanh lên tâm nhàm chán về danh và sắc.
  • Mincitukamyatanāna - Dục thoát trí: là trí tuệ thẩm sát cho phát sanh lên tâm dục cầu thoát lý ra khỏi danh và sắc, cũng như cá bị mắc lưới muốn được thoát thân, như kẻ tù tội muốn lìa khỏi cùm xích lao tù.
  • Patisankhārannāna- Quyết ly trí: là trí tuệ thẩm sát để tìm phương thế giải thoát ra khỏi danh và sắc.
  • Sankhārupekkhānāna - Hành xả trí: là trí tuệ liễu tri về sự buông bỏ danh và sắc, giữ tâm quân bình thản nhiên.
  • Anulomamāna - Thuận tùng trí: là trí tuệ liễu tri và quyết lòng thực hành xuôi theo dòng Thánh vức, Thánh đạo.
Tuệ Quán Minh đã ẩn tàng trong tâm trí của đức Phật từ khi ngài chưa xuất gia tầm đạo, tuy nhiên lúc bấy giờ mức độ chưa được thành thục tinh vi. Chính nhờ vào Tuệ Quán Minh còn thô thiển này, mà khi còn là Thái tử Siddhattha, ngài đã nhận thức được những điều thống khổ của sự già, sự bệnh, sự chết dơ bởi được nhìn thấy một người già, một người bệnh và một tử thi trong khi ngài đang du ngoạn ngoài hoàng thành. Lúc quay trở lại nội cung, ngài đã suy tư mãi về cái thân ngũ uẩn vô thường này, phát tâm chán ngán thế sự phù du, lập nguyện kiên định để cắt ái ly gia, mong cầu con đường giải thoát không còn bị chi phối vì già, bệnh và tử vong.

Tuệ Quán Minh là tuệ giác đầu tiên trong tám tuệ giác mà đức Bồ tát đã hoàn toàn liễu tri thấu triệt chân lý Tứ Thánh Đế.

Sau khi cảm thắng Ma vương cùng Thiên ma dưới cội cây Bồ đề do tam thập pháp Ba La Mật, đức Bồ tát liền nhập đại định và khi vừa xuất khỏi đại định thì ngài đã dùng Tuệ Quán Minh để thẩm sát vào các pháp hành (Hữu vi) và thấy rõ về danh và sắc đều là Vô thường, Khổ đau và Vô ngã. Bồ tát đã ví thân ngũ uẩn theo lý Tứ Đế như sau:
  • - Khổ đế: Ngũ uẩn là chủ tể của các sự khổ rất đáng sợ, ví như năm kẻ nghịch rất hung bạo.

    - Tập đế: Với ba ái dục được ví như ba tên dẫn đường chỉ lối cho năm kẻ nghịch ấy.

    - Diệt đế: Niết bàn là khí cụ để diệt trừ năm kẻ nghịch ấy.

    - Đạo đế: Bát chánh đạo là con đường hoặc phương pháp để diệt trừ năm kể nghịch ấy.
Khi tìm thấy căn nguyên của sự khổ và phương pháp để diệt trừ sự khổ bằng Tuệ Quán Minh, đức Bồ tát xa lìa và cắt đứt được ba Hạ phần kiết sử đầu tiên, là thân kiến (Sakkāya ditthi), hoài nghi (Vicikicchā) và giới cấm thủ (Sīlabbattaparāmāsa - Giới chấp tiện thị) qua con đường chứng đắc Thất Lai đạo tuệ (Sotāpattimaggannāna).

Kế tiếp, ngài xa lìa hai hạ phần kiết sử còn thô thiển, đó là tham dục (Kāmacchanda) và sân hận (Byāpāda) bằng con đường chứng đắc Nhất Lai đạo tuệ (Sakadāgāmimaggannāna).

Tiếp nối theo, ngài xa lìa và cắt đứt trọn vẹn về hai hạ phần kiết sử ở phần vi tế, đó là tam dục và sân hận bằng con đường chứng đắc Bất Lai đạo tuệ (Anāgāmimaggannāna)

Cuối cùng, ngài hoàn toàn xa lìa và cắt đứt trọn vẹn năm thượng phần kiết sử vào giai đoạn cuối cùng, đó là ái sắc (Rūparāga), Ái vô sắc (Arūparāga), Ngã mạn (Māna), Phóng dật (Uddhacca), và Vô minh (Avijjā) để rồi ngài chứng tri Vô sinh đạo tuệ (Arhattamaggannāna).

Phiền não chướng ngại đã xa lìa, thân tâm của ngài đã trở nên hoàn toàn thanh tịnh, quả vị vô sinh phát sanh và bảy tuệ giác cũng tuần tự khởi sự lên tròn đủ đến ngài.
  • (2) Manomayiddhi Vijjā - Hóa Tâm Minh:
Với nội tâm định tĩnh, bất cấu uế nhiễm, hướng tâm để có thể hóa hiện một thân (Hóa thân) do tâm ý làm ra với đầy đủ các căn, với mọi chi tiết lớn nhỏ. Cũng ví như một người rút cây đao ra khỏi vỏ, người rút gươm ra khỏi bao, người lột xác một con rắn, ra một con rắn khác.

Đức Phật dùng nội tâm định tĩnh, bất cấu nhiễm, không phiền não, thuần thục để tự hóa hiện một người già, lúc làm người trẻ v.v... biến hiện dưới hình thể khác nhau tùy theo ý muốn của mình.
  • (3) Iddhividdhi Vijjā - Thần Túc Minh:
Với nội tâm định tĩnh, bất cấu nhiễm, hướng tâm để có thể hiện bày các pháp thần thông, đức Phật có thể biến hóa một người thành ra nhiều người, hoặc nhiều người biến hóa thành một người. Ngài có thể tàng hình, độn thổ, đi trên nước như đi trên đất bằng, đi xuyên qua vách núi như đi trong khoảng trống, ngồi thiền tọa trên hư không, lấy tay rờ mặt trời và mặt trăng. Cũng ví như người thợ gốm khéo tay, khéo nhồi chuyên đất sét, làm thành các đồ gốm theo sở thích.
  • (4) Dibbasota Vijjā - Thiên Nhĩ Minh:
Với Thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân, có thể nghe được các âm thanh của chư Thiên và Nhân Loại, xa và gần. Đức Phật có thể nghe được các âm thanh trong bốn loài (Noãn, thai, thấp, hóa).
  • (5) Cetopariya Vijjā - Tha Tâm Minh:
Với khả năng tâm của mình có thể biết rõ ý tưởng hoặc tâm thức của người khác. Đức Phật rõ biết tâm của tất cả chúng sanh, với tâm của người này còn tham, sân, si, với tâm của người kia đã diệt trừ phiền não, người này đang nghĩ tưởng đến điều ác, người kia đang nghĩ đến điều lành.

Năm Giác vừa được liệt kê ở trên và kết hợp với ba Giác đã được giải thích ở phần đầu tiên, thành ra tám Giác mà đức Phật đã chứng đắc viên mãn.

3. HẠNH (Carana - Hành) là phương pháp mà bậc Phạm hạnh phải hành theo để đi đến nơi giải thoát là Niết Bàn. Pháp Hạnh có mười lăm là:
  • (1) Sīla samvara: thu thúc theo giới hạnh là thọ trì Biệt biệt giải thoát (Patimokkha) cho trọn vẹn tinh nghiêm.

    (2) Indriya samvara: thu thúc lục căn cho được thanh tịnh, là giữ tâm cho được bình thản, quân bình, không cho pháp thế gian chi phối một khi lục căn tiếp xúc với lục trần.

    (3) Bhojane mattannutā: có sự tiết độ trong ẩm thực, là không độ quá nhiều cũng như ít quá, chỉ độ theo hạnh tri túc.

    (4) Jāgariyānuyogo: luôn giữ tâm ý tỉnh táo, không uể oải, thường luôn tỉnh thức, không muội lược mê ngủ.

    (5) Saddhā: luôn có đức tin chân chánh, là tin vào lý nhân quả (tin nghiệp - tin quả), tin vào sự giác ngộ của đức Thế Tôn và tin vào ba mươi bảy Bồ đề phần.

    (6) Sati Sampajanna: luôn có sự ghi nhớ chân chánh và biết mình trung thực, là ghi nhớ theo Tứ Niệm Xứ (Thân, Thọ, Tâm, Pháp) và luôn biết rõ những hành vi của mình về thân, lời và ý qua những oai nghi.

    (7) Hiri: biết hổ thẹn với những điều xấu ác.

    (8) Ottappa: biết ghê sợ với những điều xấu ác.

    (9) Bāhusacca: nghe nhiều học rộng (đa văn quảng kiến) về Kinh, Luật và Vô Tỷ pháp và về các pháp đưa đến giác ngộ và giải thoát.

    (10) Viriya: có sự tinh tấn đúng theo Tứ chánh cần, đó là:
    1. Cố gắng diệt trừ các pháp ác đã phát sanh nơi thân tâm.
    2. Cố gắng ngăn ngừa các pháp ác chưa sanh không cho khởi sanh nơi thân tâm.
    3. Cố gắng làm cho khởi sanh việc thiện chưa từng sanh nơi thân tâm.
    4. Cố gắng làm phát triển việc thiện đã từng sanh cho được tăng trưởng
    (11) Pannā: trí tuệ liễu tri một cách trung thực và thấu triệt các pháp theo ba thực tướng là Vô thường, Khổ đau và Vô ngã, do nương theo Tứ Thánh Đế.

    (12) Pathama Jhāna: tu tập và chứng đắc tầng thiền thứ nhất (Sơ thiền).

    (13) Dutiya Jhāna: tu tập và chứng đắc tầng thiền thứ hai (Nhị thiền).

    (14) Tatiya Jhāna: tu tập và chứng đắc tầng thiền thứ ba (Tam thiền).

    (15) Catuttha Jhāna: tu tập và chứng đắc tầng thiền thứ tư (Tứ thiền).
Nhờ sự toàn đắc về tám Giác mà đức Phật đã phát sanh trí tuệ vô biên. Nhờ thực hành viên mãn về mười lăm Hạnh mà đức Phật phát tâm đại bi vô lượng.

Nhờ vào trí tuệ mà đức Phật đã thông suốt về sự Khổ. Nhờ vào bi mẫn mà đức Phật đã chỉ dạy chúng sanh con đường diệt trừ sự Khổ.

Nhờ vào trí tuệ mà đức Phật đã tự mình đi đến sự giác ngộ. Nhờ vào sự bi mẫn mà đức Phật đã dắt dẫn chúng sanh đến bờ giải thoát.

Nhờ vào trí tuệ mà đức Phật đã chứng đắc quả vị Chánh đẳng giác. Nhờ vào sự bi mẫn mà đức Phật đã thực hành viên mãn phận sự của bậc Chánh biến tri.

Nhờ vào trí tuệ mà đức Phật đã liễu tri pháp nào có sự lợi ích, pháp nào có sự nguy hại đến chúng sanh. Nhờ vào sự bi mẫn mà đức Phật đã chỉ dạy chúng sanh lánh xa những điều xấu ác và tội lỗi, khuyến khích chúng sanh làm những điều lành.

Nói tóm lại, do nhờ vào tám Giác và mười lăm Hạnh của đức Phật mà hàng tứ chúng môn đệ của ngài được dắt dẫn chu đáo trên con đường chân chánh, lánh xa những con đường lầm lạc như tu khổ hạnh, tà kiến hoặc lợi dưỡng v.v...

Do nhờ những ân đức cao quý như đã vừa giải thích ở phần trên, nên đức Phật có danh hiệu là Minh Hạnh Túc (Vijjācaranasampanno).


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Ân Đức Tam Bảo

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

IV. SUGATO - THIỆN THỆ
Tại sao đức Phật có danh hiệu SUGATO (THIỆN THỆ)?

Bởi ngài:
  1. Có sự hành trình toàn hảo (Sobhana gamana).
  2. Có ngôn ngữ chân chánh (Sammāgadattā).
1. SỰ HÀNH TRÌNH TOÀN HẢO có ý nghĩa về bốn sự việc như sau:
  • (1) Tướng đi xinh đẹp: Đức Phật có tướng đi rất oai hùng và trang nghiêm thanh tịnh, khiến cho chúng sanh vừa trông đến phát tâm ngưỡng mộ, tôn kính và duyệt ý nhìn xem. Sau khi thành đạt đạo quả ở dưới cội cây Bồ đề, đức Phật cất bước thẳng tiến về phía vườn Lộc Giả (Isipatana) để độ năm anh em Kiều Trần Như, có vô số chư Thiên vừa trông thấy diện mạo quang minh sáng rực với tướng đi trang nghiêm thanh tịnh của đức Thế Tôn thì tất cả đồng phát tâm hoan hỷ và ca tụng. Từ trên hư không chư Thiên đã rải những thiên hoa với hương thơm và phổ tất những nhạc điệu thanh nhã để cúng dường từng bước đi của đức Phật. Lại nữa, mỗi khi đức Phật ngự đến xóm làng nào, đều có chư Thiên và rất đông người cung kính đi theo nhìn xem tướng trang nghiêm tốt đẹp và phát tâm ngưỡng mộ tôn kính. Cần nói thêm rằng có nhiều hạng chúng sanh tôn kính đức Phật do bởi ngài có bốn pháp chan hòa (Pamāna) với nhiều ý nghĩa tốt đẹp cao quý như sau:
    1. Sắc chan hòa (Rūpa pamāna): Dung sắc của đức Phật xinh đẹp siêu phàm, trọn đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi tướng phụ. Chư Thiên và Nhân loại không ai sánh bì.
    2. Pháp chan hòa (Dhamma pamāna): Các pháp mà đức Phật đã chứng đắc thật thậm thâm vi diệu và đúng theo chân lý, các bậc thiện tri thức ở trong thế gian này không ai sánh bì.
    3. Thinh chan hòa (Ghosa pamāna): Âm thanh tiếng nói của đức Phật thanh tao, vang ngân như âm thanh của chư Thiên và êm dịu rõ ràng như tiếng nói của loài chim quốc Karavika).
    4. Tâm duyệt ý bình đẳng chan hòa (Lukha pamāna): Đức Phật có tâm bình đẳng, cho dù hàng vương giả, vua chúa hoặc thường dân, người giàu sang hay người nghèo khổ, đem vật chi đến cúng dường, ngài đều thọ lãnh một cách vui vẻ và an lạc, không phân biệt giai cấp của thí chủ và vật cúng dường cao quý hay thấp kém.
    Do vậy, nên có người phát tâm hoan hỷ, duyệt ý về sắc tướng xinh đẹp siêu phàm của đức Phật, rồi xuất gia vào tu theo giáo pháp hoặc tin theo lời giáo huấn của ngài mà làm những điều phước thiện.

    Có những người cảm mến đức Phật, vì những pháp hợp lý, cao thượng, chân chánh mà đức Phật đã giảng dạy, rồi trở thành môn đệ của ngài.

    Có người hoan hỷ duyệt ý với những âm thanh tao nhã êm ái của đức Phật, rồi xin được xuất gia và tu theo ngài.

    Có người lại ưa thích tâm bình đẳng của đức Phật trong sự thọ nạp những lễ vật cúng dường, rồi xin thọ giáo với ngài.

    Do nhờ bốn pháp chan hòa cao quý như vừa kể, mà khi đức Phật ngự đến nơi nào, cũng thường làm cho đại chúng phát tâm tín ngưỡng sùng mộ đến ngài. Chúng sanh nào chưa có đức tin vào nơi Tam Bảo thì khi được diện kiến với ngài, liền phát tâm sanh lòng cảm mến tín ngưỡng. Chúng sanh nào đã tu theo giáo pháp của đức Phật rồi, thì khi được ngài thuyết giảng, hoặc nhìn sắc diện, hoặc nghe âm thanh, hoặc cảm thông tâm bình đẳng của ngài, lại càng có đức tin dũng mãnh và thực hành tinh tấn về những pháp mà ngài đã giáo huấn.

    (2) Đi đến nơi thanh tịnh: Đức Phật thường luôn đi đến nơi thanh tịnh, vì nơi nào cho dù có uế trược, bợn nhơ thì khi đức Phật đến ngự, đều trở nên thanh tịnh xinh đẹp. Như tích xưa, tại thành Vesāli, bị nhóm phi nhân là Dạ xoa, Ngạ quỷ v.v... hoành hành, gieo rắc bệnh ôn dịch, làm cho chúng sanh bị mạng vong vô số, đều không kịp chôn cất, mùi tử khí xông lên nồng nặc. Trước khi Phật đến ngự thành ấy thì chư Thiên được biết, liền tạo một cơn mưa thật to, quét sạch hết các hàng phi nhân và mùi tử thi sình thúi, tạo cho thành Vesāli trở nên sạch sẽ và an lạc.

    (3) Đi con đường chân chánh: Đức Phật đã đi trên con đường chân chánh (Chánh đạo) thanh tịnh là Thánh đạo (Ariya Magga), không hề quay lại tìm các điều phiền não và thụy miên mà ngài đã diệt trừ nhờ vào các tầng Thánh đạo, là từ Sơ đạo cho đến Tứ đạo mà ngài đã chứng đắc. Con đường chân chánh ấy trọn cả bốn A tăng kỳ và một trăm ngàn đại kiếp quả địa cầu, từ khi được Phật Nhiên Đăng (Dīpankāra) thọ ký cho đến thành bậc Chánh đẳng giác ở dưới cội cây Bồ đề. Với hoài bảo thiết tha cứu độ chúng sanh ra khỏi mê tân khổ hải, đức Phật đã hành viên mãn Tam thập pháp Ba la mật và đã trải nhiều gian lao khổ nhọc trên con đường Trung đạo, không thiên về những quan niệm cực đoan là "Lợi dưỡng" và "Khổ hạnh", "Thường kiến" và "Đoạn kiến" v.v...

    (4) Đi đến nơi an lạc: Đức Phật đã đi đến nơi an lạc, vô sanh bất diệt, là Đại Niết Bàn. Trước ngày thành đạo, đức Phật chưa từng đến nơi tịch tịnh, nhưng ngài không may may e ngại vì thân tâm đã được hoàn toàn thuần khiết thanh tịnh, không còn phiền não. Với phiền não nào mà đức Phật đã diệt trừ thì những phiền não ấy không còn trở lại trong thân tâm của ngài, và ngài cũng không bao giờ quay trở lại để tìm kiếm những phiền não ấy nữa.
2. NGÔN NGỮ CHÂN CHÁNH ý nói đến những huấn từ chân thật, đúng theo giáo lý, nhằm vào sự lợi ích và sự giải thoát chúng sanh mà đức Phật khải thuyết ra và tùy theo trường hợp cùng với hoàn cảnh thích đáng.

Đức Phật liễu tri tường tận lời nói nào đúng theo chân lý hoặc không đúng theo chân lý, lời nói nào hữu ích và vô ích, lời nói nào đem lại hân hoan duyệt ý hoặc bất toái nguyện và bất duyệt ý.

Với lời nói nào không đúng theo chân lý, vô ích và bất duyệt ý với chúng sanh thì đức Phật không bao giờ khải thuyết.

Với lời nói nào mà đúng theo chân lý, nhưng lại vô ích và bất duyệt ý với chúng sanh thì đức Phật không bao giờ khải thuyết.

Với lời nói đúng theo chân lý, hữu ích nhưng lại duyệt ý với chúng sanh thì đức Phật tùy cơ hội thuận tiện mà khải thuyết.

Với lời nói mà không đúng theo chân lý, vô ích nhưng lại duyệt ý với chúng sanh thì đức Phật không bao giờ khải thuyết.

Với lời nói mà đúng theo chân lý, nhưng vô ích cho dù làm duyệt ý chúng sanh thì đức Phật không bao giờ khải thuyết.

Với lời nói đúng theo chân lý, hữu ích và duyệt ý thì đức Phật biết lựa chọn cơ hội thuận tiện để khải thuyết.

Như một ngày nọ, nhân đi qua cánh rừng nhỏ gần thành Kosambi, đức Phật đã cầm một nắm lá trong tay và phán hỏi đại đức Ananda như sau:

- Này Ananda, lá cây mà Như Lai nắm trong tay đây và lá cây ở trong cánh rừng này, số lá cây nào nhiều hơn.

Đại đức Ananda bèn bạch rằng:

- Kính bạch đức Thế Tôn, lá cây mà đức Thế Tôn nắm trong tay có số lượng rất ít, lá cây còn ở trong rừng thì có số lượng rất nhiều.

Đức Phật tiếp lời:

- Này Ananda, cũng thế ấy, những pháp mà Như Lai đã chứng tri, đã liễu tri là nhiều ví như lá cây trong rừng này, còn những pháp mà Như Lai đã thuyết ra cho chúng sanh được hay biết thì chỉ ít oi, ví như nắm lá trong tay Như Lai vậy! Vì sao thế? Là vì các pháp mà Như Lai không thuyết ra là những pháp không đem lại sự lợi ích, không liên hệ đến sự thực hành Phạm hạnh, đưa đến sự diệt tận phiền não, đưa đến sự yên lặng của nội tâm, đưa đến sự phát sanh trí tuệ viên mãn và dẫ đến Niết Bàn. Do vậy, này Ananda, Như Lai không khải thuyết những pháp môn ấy.

Còn các pháp mà Như Lai đã khải thuyết là những pháp chỉ rõ đây là Khổ, đây là nguyên nhân làm phát sanh đến sự Khổ, đây là sự diệt tắt của sự Khổ, đây là con đường đưa đến sự diệt tắt mọi khổ đau. Vì các pháp ấy đem lại lợi lạc, sự lợi ích liên hệ đến đời sống thanh cao, đưa đến sự diệt tận mọi phiền não, đem đến sự an tịnh của nội tâm, đưa đến phát sanh trí tuệ viên mãn và đến Niết Bàn.


Như thế, nhận thấy rằng cho dù đức Phật đã liễu tri tường tân vô lượng pháp môn, tuy nhiên ngài chỉ phổ cập đến những pháp môn nào đúng theo chân lý, và dem lại sự lợi ích và dẫn đến sự giải thoát cho tất cả chúng sanh.

Do nhờ những ân đức cao quí như đã vừa giải thích ở phần trên, nên đức Phật có danh hiệu là Thiện Thệ (Sugato).


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Ân Đức Tam Bảo

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

V. LOKAVIDŪ - THẾ GIAN GIẢI
Tại sao đức Phật có danh hiệu LOKAVIDŪ (THẾ GIAN GIẢI)?

Bởi ngài đã thông suốt cả Tam giới. Tam giới có nghĩa là ba cõi giới mà chúng sanh đi tục sanh, đó là cõi Dục giới (Kāmabhava), cõi Sắc giới (Rūpabhava), và cõi Vô Sắc giới (Arūpabhava).

Cõi Dục giới là cõi mà chúng sanh còn vui thích, ưa muốn ngũ trần là: sắc, thanh, hương, vị, xúc. Cõi Dục giới gồm có mười một cõi, đó là địa ngục, ngạ quỷ, a tu la, súc sanh, Nhân loại và lục dục giới Thiên.

Cõi Sắc giới là cõi mà chúng sanh hưởng sự an vui do nơi quả phước của thiền định Hữu sắc. Tùy theo năng lực của bậc thiền đã chứng đắc tại cõi Nhân loại, các vị ấy đã chứng đắc từ tầng Sơ thiền đến Tứ thiền thì được tái tục về mười sáu cõi Sắc giới Thiên, không còn phân biệt nam nữ và sống lâu từ một phần ba (1/3) kiếp đến 16,000 kiếp quả địa cầu.

Cõi Vô Sắc giới là cõi mà chúng sanh không còn hình thể sắc tướng (không còn sắc pháp), chỉ có tâm thuần khiết (danh pháp), không còn bợn nhơ. Các vị Phạm Thiên này đã chứng đắc bốn tàng thiền Vô Sắc giới khi còn ở cõi Nhân loại, và tục sanh về bốn cõi Vô Sắc giới Thiên, hưởng tuổi thọ từ 20,000 kiếp đến 84,000 kiếp quả địa cầu.

Trong Tam giới vừa kể trên, có cõi chúng sanh chỉ có nhát uẩn (là cõi Vô Tưởng Phạm Thiên Sắc giới), có cõi chỉ có tứ uẩn (là bốn cõi Phạm Thiên Vô Sắc giới) và có cõi đủ cả ngũ uẩn (là hai mươi sáu cõi còn lại). Tuy nhiên tất cả chúng sanh đi tái tục dựa theo bốn cách, đó là Noãn, Thai, Thấp, Hóa và vẫn còn dính mắc mãi trong vòng sanh tử luân hồi.

Tam giới là thuộc về thế gian (Lokiya), còn Siêu xuất thế gian (Lokuttara) là Niest Bàn. Pháp nào có sanh và có diệt, thể trạng nào bị chi phối bởi lẽ Vô thường, là hằng phải bị tiêu hoại tan rã, gọi là Thế gian (Loka).

Thế gian có ba loại:
  • Pháp Hành Thế Gian (Sankhāra Loka).
  • Chúng Sanh Thế Gian (Satta Loka).
  • Hư Không Thế Gian (Ākasa Loka).
1. PHÁP HÀNH THẾ GIAN (Sankhāra Loka): Đức Phật đã thông suốt các pháp hành (còn gọi là những pháp hữu vi, phát sanh do bởi có nhân duyên tạo tác sai khác với nhau) được liệt kê như sau:
  • (1) Āhārasankhāra lokam - Vật thực tạo thành thế gian: Tất cả chúng sanh đều do nhờ vào vật thực mà được tồn tại (Nhất thiết chúng sanh duy thực tồn).

    (2) Nāmarūpa sankhātam - Danh sắc tạo thành: Danh (Nāma) gồm có một trăm hai mươi mốt tâm (Citta) và năm mươi hai tâm sở (Cetasika), hai mươi tám Sắc (Rūpa) gồm có Tứ đại hiền (Mahābhūtarūpa), và hai mươi bốn Sắc Y sinh (Upādāyarūpa) (Danh và sắc cúng nương tựa vào nhau, mới hình thành một xác thân hữu tri này. Ví như chiếc thuyền và người lái thuyền, chiếc thuyền nhờ có người lái mới đi được. Hoặc ví như người bại xụi với người mù, người bại xụi phải nhờ vào đôi chân của người mù, người mù nhờ vào đôi mắt của người bại, mới có thể đi và thấy đường được).

    (3) Tividhavedanā sankhātam - Tam thọ tạo hành: Ba loại Thọ tạo tác, đó là: Hỷ thọ, Ưu thọ và Xả thọ (một loại thọ khác nữa là Lạc thọ, Khổ thọ và Xả thọ) tạo tác ra chúng sanh.

    (4) Caturāhāra sankhātam - Tứ thực tạo hành: Bốn loại vật thực tạo tác ra chúng sanh, đó là:
    1. Kabalinkārāhāra - Đoàn thực: Những vật thực hữu hành như là cơm, bánh, trái v.v.. màu sắc, mùi vị và chất bổ dưỡng.
    2. Phassāhārā - Xúc thực: Sự xúc chạm giữa lục căn với lục trần làm thành món ăn tinh thần, làm cho khởi sanh lên Thọ (Vedanā).
    3. Manosancetanhāra - Tư tác ý thực: Với những tác ý thiện và bất thiện (hoặc ác), làm thành vật thực nuôi dưỡng việc tái tục của chúng sanh trong Tam giới.
    4. Vinnānāhāra - Thức thực: Tâm thức làm thành vật thực để khởi sanh lên danh sắc trong lúc đi tục sanh.
    (5) Pancupādānakkhandhā sankhātam - Ngũ thủ uẩn tạo hành: Hành vi chấp thủ (Upādāna) là cố chấp, giữ chặt vào ngũ uẩn bao gồm sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn, cho là ta, là thân ta, là của ta v.v... tạo tác ra chúng sanh.

    (6) Chaajjhattikāyatana sankhātam - Lục xứ tạo hành: Lục xứ Ayatana) tạo tác, gồm có nhãn xứ, nhĩ xứ, Tỷ xứ, Thiệt xứ, Thân xứ và Ý xứ.

    (7) Sattavinnānatthiti sankhātam- Thất thức tạo hành: Bảy thức tạo tác ra chúng sanh, đó là:
    1. Nānattakāyā nānattasanni - Thân dị tưởng dị: Thân hình khác nhau, tư tưởng khác nhau, như là Nhân loại, chư Thiên và một số trong địa ngục.
    2. Nānattakāyā ekattasanni - Thân dị tưởng đồng: Thân hình khác nhau, nhưng tư tưởng giống nhau, như là các vị Phạm chúng thiên ở tầng Sơ thiền Sắc giới.
    3. Ekattakāyā nānattasanni - Thân đồng tưởng dị: Thân hình giống nhau, nhưng tư tưởng khác nhau, như là các vị Quang Âm thiên ở tầng Nhị thiền Sắc giới.
    4. Ekattakāyā ekattasanni - Thân đồng tưởng đồng: Thân hình giống nhau và tư tưởng cũng giống nhau, như là các vị Biến Tịnh Thiên ở tầng Tam thiền Sắc giới.
    5. Ākāsānancayattana - Không Vô Biên Xứ: Vượt qua khỏi sắc tướng, đoạn trừ tất cả hữu đối tượng, không còn suy tư đến bất luận một dị loại tưởng, chỉ có tưởng về "Hư không là vô biên", như các vị Phạm Thiên Không Vô Biên Xứ ở cõi Vô Sắc giới.
    6. Vinnānancāyatana - Thức Vô Biên Xứ: Vượt khỏi Không Vô Biên Xứ, chỉ có tưởng về "Thức là vô biên" như là các vị Phạm Thiên Thức Vô Biên Xứ ở cõi Vô Sắc giới.
    7. Ākincannāyatana - Vô Sở Hữu Xứ: Vượt khỏi Thức Vô Biên Xứ, chỉ có tưởng về "Không có chi cả", như là các vị Phạm Thiên Vô Sở Hữu Xứ ở cõi Vô Sắc giới.
    (8) Atthalokadhamma sankhātam - Bát thế gian pháp tạo thành: Hành vi ở nội tâm của hạng phàm nhân luôn bị tám pháp thế gian (Bát phong) chi phối và ám ảnh, đó là:
    • - Được lợi.
      - Thất lợi.
      - Được danh.
      - Thất danh.
      - Bị chê.
      - Được khen.
      - Hạnh phúc.
      - Khổ đau.
    (9) Navasattāvāsa sankhātam - Cửu trú xứ hữu tình tạo hành: Chính chỗ trú ngụ tạo tác của chúng sanh, đó là:
    1. Nānattakāyā nānattasanni - Thân dị tưởng dị: Thân hình khác nhau, tư tưởng khác nhau, như là Nhân loại, chư Thiên và một số trong địa ngục.
    2. Nānattakāyā ekattasani - Thân dị tưởng đồng: Thân hình khác nhau, nhưng tư tưởng giống nhau, như là các vị Phạm chúng Thiên ở tầng Sơ thiền Sắc giới.
    3. Ekattakāyā nānattasanni - Thân đồng tưởng dị: Thân hình giống nhau, như tư tưởng khác nhau, như là các vị Quang Âm thiên ở tầng Nhị thiền Sắc giới.
    4. Ekattakāyā ekattasani- Thân đồng tưởng đồng: Thân hình giống nhau và tư tưởng cũng giống nhau, như là các vị Biến Tịnh thiên ở tầng Tam thiền Sắc giới.
    5. Asanni satta - Vô tưởng vô thọ: Chúng sanh sống mà không có tâm thức, như là chúng Phạm Thiên Vô tưởng Sắc giới.
    6. Ākāsānancayatana - Không Vô Biên Xứ: Vượt qua khỏi sắc tướng, đoạn trừ tất cả hữu đối tượng, không còn suy tư đến bất luận một dị loại tưởng, chỉ có tưởng về "Hư không là vô biên", như là các vị Phạm thiên Không Vô Biên Xứ ở cõi Vô sắc giới.
    7. Vinnānancāyatana - Thức Vô Biên Xứ: Vượt khỏi Không Vô Biên Xứ, chỉ có tưởng về "Thức là vô biên", như là các vị Phạm thiên Thức Vô Biên Xứ ở cõi Vô sắc giới.
    8. Ākincannāyatanna - Vô Sở Hữu Xứ: Vượt khỏi Thức Vô Biên Xứ, chỉ có tưởng về "Không có chi cả", như là các vị Phạm thiên Vô Sở Hữu Xứ ở cõi Vô sắc giới.
    9. Nevasannānāsannāyatana - Phi Phi Tưởng Xứ: Vượt khỏi hoàn toàn Vô Sở Hữu Xứ, chỉ có tưởng về "Chẳng phải tưởng, chẳng phải chẳng phải tưởng", như là các vị Phạm thiên Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ ở cõi Vô sắc giới.
    (10) Dasāyatana sankhātam - Thập xứ tạo hành: Ngũ xứ và ngũ trần tiếp xúc với nhau, tạo tác ra chúng sanh, đó là: nhãn xứ - sắc trần; nhĩ xứ - thinh trần; Tỷ xứ - khí trần; thiệt xứ - vị trần; thân xứ - xúc trần.

    (11) Pancadasavithārammana sankhātam - Thập ngũ duyên cảnh tạo hành: Mười lăm tâm nương duyên theo cảnh tạo tác ra chúng sanh, đó là:
    1. Sonanassa sahagatam nānasampayuttam - Câu hành hỷ tương ưng trí: Tâm câu hành hỷ và tương ưng trí để phối hợp với cảnh, có hai loại là vô dẫn và hữu dẫn.
    2. Sonanassa sahagatam nānavipayuttam - Câu hành hỷ bất tương ưng trí: Tâm câu hành hỷ và bất tương ưng trí để phối hợp với cảnh, có hai loại là vô dẫn và hữu dẫn.
    3. Upekkhā sahagatam nānasampayuttam - Câu hành xả tương ưng trí: Tâm câu hành xả và tương ưng trí để phối hợp với cảnh, có hai loại là vô dẫn và hữu dẫn.
    4. Upekkhā sahagatam nānavipayuttam - Câu hành xả bất tương ưng trí: Tâm câu hành xả và bất tương ưng trí để phối hợp với cảnh, có hai loại là vô dẫn và hữu dẫn.
    5. Upekkhā sahagatam sampaticchanam - Tiếp thâu câu hành xả: Tâm tiếp thâu câu hành xả để phối hợp với cảnh, có hai loại là quả bất thiện và quả thiện vô nhân.
    6. Upekkhā sahagatam santīranam - Thẩm tấn câu hành xả: Tâm thẩm tấn câu hành xả để phối hợp với cảnh, có hai loại là quả bất thiện và quả thiện vô nhân.
    7. Sonanassa sahagatam santīranam - Thẩm tấn câu hành hỷ: Tâm thẩm tấn câu hành hỷ để phối hợp với cảnh, chỉ có một loại là quả thiện vô nhân.
    (12) Dvādasāyatana sankhātam - Thập nhị xứ tạo hành: Lục xứ tiếp xúc với lục trần tạo tác ra chúng sanh, đó là: nhãn căn - sắc trần; nhĩ căn - thinh trần; tỷ căn - khí trần; thiệt căn - vị trần, thân căn - xúc trần; ý căn - pháp trần.

    (13) Terasahasanacitta sankhātam - Thập tam tâm tạo hành: Mười ba tâm tạo tác ra chúng sanh, đó là : Bốn tâm Tham câu hành hỷ, bốn tâm Đại thiện câu hành hỷ, bốn tâm Đại duy tác câu hành hỷ và tâm Tiểu sinh câu hành hỷ.

    (14) Cuddasacittupāda sankhātam - Yếu tố tâm sở tạo hành: Mười bốn bất thiện tạo tác, đó là: Si, vô tàm, vô quý, phóng dật, tham, tà kiến, ngã mạn, sân hận, tật đố, lận sắc, hối hận.

    (15) Addhārasadhātu sankhātam - Thập bát giới tạo hành: Mười tám yếu tố tạo tác, đó là:
    • - Nhãn giới, sắc giới và nhãn thức giới.
      - Nhĩ giới, thinh giới và nhỉ thức giới.
      - Tỷ giới, khi giới và ty thức giới.
      - Thiệt giới, vị giới và thiệt thức giới.
      - Thân giới, xức giới và thân thức giới.
      - Ý giới, pháp giới và ý thức giới.
2. CHÚNG SANH THẾ GIAN (Satta Loka): Đức Phật thông suốt tâm tánh của chúng sanh, như sau:
  • (1) Sabbasattānam āsayam: Đức Phật liễu tri tường tận tâm tánh của mỗi chúng sanh, với các pháp thường trụ sâu kín trong nội tâm như là Thường kiến (Sassata Sitthi) và Đoạn kiến (Uccheda Ditthi) thường luôn hiện hữu trong nội tâm của hạng phàm nhân và thập Tuệ quán (Vipassanānāna) và Chân trí kiến (Yathābhūtanāna) thường luôn hiện hữu trong nội tâm của bậc Thánh nhân.

    (2) Anusayam: Đức Phật liễu tri tường tận những pháp phiền não ngủ ngầm trong nội tâm của chúng sanh chực chờ hội túc duyên để sanh khởi, đó là: tham dục thụy miên, sân hận thụy miên, khuể phẩn thụy miên, ngã mạn thụy miên, tà kiến thụy miên, hoài nghi thụy miên, vô minh thụy miên.

    (3) Caritam: Đức Phật liễu tri tường tận sáu thể loại tâm tánh của tất cả chúng sanh, đó là: tánh ái tình (ưa thích sắc đẹp, âm thanh tốt v.v...), tánh sân hận (dễ sân hận, nóng giận, bất bình v.v...) tánh đức tin (dễ tin, tin tâm v.v...), tánh giác ngộ (hay suy xét, dễ hiểu biết, sáng suốt v.v...), tánh suy tầm (hay suy nghĩ, tìm kiếm, lục lọi v.v...)

    (4) Adhimuttam: Đức Phật liễu tri tường tận tâm thức chúng sanh ưa thích những pháp cao thượng hoặc thấp hèn, ưa thích phước hay tội.

    (5) Apparajjakkhe mahārajakkhe satte: Đức Phật liễu tri tường tận chúng sanh nào có nhiều bụi trần hoặc ít bụi trần trong con mắt, nghĩa là có nhiều tham ái hoặc ít tham ái.

    (6) Tikkhindriye satte muddindriye satte: Đức Phật liễu tri tường tận chúng sanh nào có bản căn tinh nhuệ thượng trí, hoặc hạ căn hạ trí. Có ngũ căn thuộc lãnh vực tinh thần, đó là :tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn và tuệ căn.

    (7) Svā kāre satte dvākāre satte: Đức Phật liễu tri tường tận chúng sanh nào có phẩm hạnh thanh cao và lánh xa điều ác hoặc có tâm tánh xấu xa, ty liệt và ưa thích tạo điều tội lỗi.

    (8) Suvinnāpaye satt duvīnnāpaye satte: Đức Phật liễu tri tường tận chúng sanh nào có nhiều trí tuệ, thấu triệt các pháp một cách mau lẹ hoặc ít trí tuệ, chậm hiểu biết các pháp.

    (9) Bhabbāhabbe satte: Đức Phật liễu tri tường tận chúng sanh nào có duyên lành có thể giác ngộ đạo quả hoặc không có duyên lành để có thể giác ngộ với nhiều lý do, như sau:
    1. Chúng sanh nào ở nội tâm còn nhiều ái dục (Tanhā), nhiều phiền não (Kíela), nhiều tà kiến (Micchā Ditthi), là những pháp cản ngăn (Āvarana dhamma) thiện duyên, nên không thể chứng đắc đạo quả Niết bàn.
    2. Ái dục duyên theo ngũ trần có năm là: Sắc ái (Rūpatanhā, thinh ái (Saddatanhā), khí ái (Gandhatanhā), vị ái (Rasatanhā), xúc ái (Pjotthabbatanhā).
    3. Phiền não có mười là: Tham, sân, si, ngã mạn, tà kiến, hoài nghi, hôn thùy, trạo cử, vô tàm và vô quý.
    4. Tà kiến có hai loại là:

      - Sasata Ditthi - thường kiến: là sự thấy sai chấp lầm cho rằng vạn vật trên thế gian luôn thường hằng, bất tiến hoặc bất thối, khi mãn kiếp thì vẫn tái tục y như trước vậy.
      - Uccheda Ditthi - Đoạn kiến: là sự thấy sai chấp lầm rằng khi mạng chung là chấm dứt, không có việc tái tục vào nơi nào cả.

      Tà kiến còn được chia ra làm ba thể loại là: Vô hành kiến (Akiriyā Ditthi), vô nhân kiến ( Ahetuka Ditthi) và vô hữu kiến (Natthika Ditthi).

      Lại nữa, chúng sanh khi đã phạm vào ngũ vô gián nghiệp (Panca - antariya kamma - Ngũ nghịch đại tội), đó là: giết cha, giết mẹ, giết bậc A la hán, làm chảy máu chân đức Phật và phá hòa hợp Tăng (từ bốn vị Tỳ kheo trở lên) cùng với xâm phạm tiết hạnh của một vị Thánh Tỳ kheo Ni thì những chúng sanh ấy không thể chứng đắc đạo quá Niết bàn trong kiếp quả địa cầu này được.
    5. Chúng sanh nào không có ba pháp cản ngăn, không chấp vào tà kiến, không phạm vào ngũ vô gián nghiệp và không xâm phạm tiết hạnh của một vi Thánh Tỳ kheo Ni. Lại là người chuyên cần trong việc xả thí, trí giới, tham thiền, có tâm từ ái, siêng năng thính pháp và hết lòng phụng dưỡng mẹ cha, thì những chúng sanh ấy thường tạo nhiều duyên lành có thể giác ngộ đạo quả trong kiếp hiện tại. Bằng như chưa chứng đắc dạo quả trong kiếp này, cũng thường được hưởng những phước báu cao quý trong cõi nhân loại và cõi thiên giới, đến khi viên mãn các pháp Ba la mật thì được giác ngộ và chứng đắc đạo quả Niết Bàn một cách trọn vẹn.
3. HƯ KHÔNG THẾ GIAN (Ākasa Loka): Hư không thế gian, thường được gọi là vũ trụ, gồm có vô số tiểu thế giới. Mỗi một tiểu thế giới đều nằm trên nước, nước nằm trên gió, gió thì nằm trên hư không. Ở nơi trung tâm là núi Tu Di (Sineru hoặc Meru) cao đến 84,000 do tuần, chân núi ngập sâu vào trong lòng đại dương cũng bằng 84,000 do tuần.

Chung quanh núi Tu Di có bảy lớp biển cách xa nhau bằng bảy lớp núi, có tên lần lượt là: Yugandhara, Isadhara, Karavīka, Sudassana, Nemidhara, Vinataka, Asakanna. Thể chất núi Tu Di và bảy lớp núi ấy được hình thành bằng bốn thứ châu báu kết hợp, chẳng phải bằng chất đất và đá như bao núi thông thường. Chiều cao và chiều sâu của lớp núi Yugandhara bằng phân nửa của núi Tu Di. Chiều cao của lớp núi Isadhara bằng phân nửa của núi Yugandhara và cứ như thế, chiều cao và chiều sâu của lớp núi bên ngoài chỉ bằng phân nữa của lớp núi ở bên trong.

Trung tâm của bảy lớp núi ấy và ở bốn hướng, có bốn châu thiên hạ. Mỗi châu đều có năm trăm hòn đảo bao bọc. Bốn châu ấy là: Nam Thiệm Bộ châu (Jambudīpa), Đông Thắng Thần châu (Pubbavideha), Bắc Câu Lô châu (Uttarakurū), và Tây Ngưu Hóa châu (Aparagoyāna). Quả địa cầu này là Nam Thiệm Bộ châu. Mặt trời xoay quanh vần chung quanh núi Tu Di vào khoảng giữa núi ấy và soi sáng khắp cả bốn châu thiên hạ. Dưới chân núi Tu Di có vương quốc của chư A Tu La thiên (Asūra) là chư thiên có tâm sân hận, thường niên đi gây chiến với cõi Đao Lợi thiên và cõi Tứ Đại thiên vương cai quản, để chiếm lấy các triền núi thấp của Tu Di Sơn. Cõi Tứ Đại thiên vương (Catunahārājadevatā) cao từ các triền núi Tu Di trở lên đến khoảng giữa núi, kế đến là cõi Đao Lợi thiên (Tvātisma) là từ khoảng giữa đến đỉnh núi, do thiên chủ Sakka cai quản. Bốn cõi Dục giới thiên còn là: Cõi Dạ Ma thiên (Yāma), cõi Đâu Xuất Đà thiên (Tusitā), Hóa Lạc thiên (Nimmānaratī) và cõi Tha Hóa Tự Tại thiên (Paranimmitavasavattī) ở trên hư không của núi Tu Di. Trên các cõi Dục giới thiên là mười sáu cõi Sắc giới thiên và cao hơn nữa là bốn cõi Vô Sắc giới thiên.

Vô Gián địa ngục (Lokantariya) ở khoảng giữa hư không, có hình tam giác thường luôn tối tăm, lạnh lẽo và không có ánh sáng của mặt trời, là ở khoảng ba thế giới giáp với nhau.

Tất cả núi, biển, các châu, cõi thiên giới v.v... vừa kể trên là gồm lại đủ như vậy, gọi là một tiểu thế giới. Một ngàn tiểu thế giới hiệp lại thành một cõi tiểu thiên. Một ngàn cõi tiểu thiên hiệp lại thành một cõi trung thiên. Một ngàn cõi trung thiên hiệp lại thành một cõi đại thiên. Như thế, một cõi đại thiên gồm có:
  • 1,000 x 1,000 x 1,000 = 1,000,000,000 tiểu thiên thế giới.
Vì nhân bội ba lần 1,000 như vậy, nên được gọi là "Tam thiên đại thiên thế giới".

Đức Phật đã liễu tri tường tận và thấu triệt pháp hành thế gian, chúng sanh thế gian và hư không thế gian.

Do nhờ những ân đức cao quý như đã vừa giải thích ở phần trên, nên đức Phật có danh hiệu là Thế Gian Giải (Lokavidū).


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Ân Đức Tam Bảo

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

VI. ANUTTARO - VÔ THƯỢNG SĨ
Tại sao đức Phật có danh hiệu ANUTTARO (VÔ THƯỢNG SĨ)?

Bởi ngài có đức hạnh không ai bằng.

Trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikāya) có một Phật ngôn như sau: "Như Lai không thấy trên thế gian này luôn cả chư Thiên, Ma vương và Phạm thiên; trong thế hệ này luôn cả đạo sĩ, Bà la môn, vua chúa và nhân loại, có chúng sanh nào có đức hạnh thù thắng hơn cả Như Lai". Quả thật vậy, trong thế gian này không một ai có thể sánh bằng đức Phật, bởi vì ngài có những ân đức cao quý như sau:

1. Rūpakāyesu anuttaro: Quý trọng vì có sắc thân không tội lỗi, không tật nguyền, có oai nghi (đi, đứng, nằm, ngồi) tốt đẹp, thanh tịnh, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi tướng phụ, có hào quang phún tủa ra sáng ngời, Nhân loại và chư Thiên không ai sánh bằng.

2. Sīlesu anuttaro: Quý trọng vì giới hạnh. Giới có hai loại, là phàm giới (Lokiya sīla) và thánh giới (Lokuttara sīla). Phàm giới là thọ trì về ngũ giới, bát quan trai giới, thập giới và cụ túc giới. Đức Phật đã luôn luôn giữ gìn những giới không bị bợn nhơ khi còn trong vòng sanh tử luân hồi trọn cả bốn A tăng kỳ và một trăm ngàn đại kiếp quả địa cầu. Lại nữa, khi còn là Bồ tát, ngài đã thực hành và trau dồi tròn đủ Trì giới Ba la mật với cả ba bậc, đó là bậc hạ (Sīla Pāramī), bậc trung (Sīla Uppapāramī), và bậc thượng (Sīla Paramattha Pāramī). Về phần thánh giới, từ trong vô lượng kiếp quá khứ, khi còn là Bồ tát, ngài đã thực hành và trau dồi viên mãn về ba pháp chân chánh, là chánh ngữ (Sammāvācā), chánh nghiệp (Sammākammanta) và chánh mạng (Sammāājīva) khiến cho phát sanh thánh đạo và diệt tận các pháp xấu ác.

3. Samādhimhi anuttaro: Quý trọng vì thiền định. Nói về thiền định (đây thuộc về thiền Chỉ - lấy những đề mục thuộc Sắc giới có ba mươi sáu và Vô sắc giới có bốn đề mục) thì có hai loại, là cận định (Upacāra samādhi) và nhập định (Appanā samādhi). Cận định là trạng thái nội tâm an trụ cận kề trong đề mục. Nhập định là trạng thái nội tâm an trụ kiên cố trong một đề mục. Nhập định có hai loại, là: phàm định (Lokiya samādhi) và thánh định (Lokuttara samādhi). Phàm định là trạng thái nhập định của hàng phàm nhân, còn duyên theo pháp Hiệp thế, có khi còn phải bị tiêu hoại (Hoại thiền). Thánh định là trạng thái nhập định của bậc thánh nhân, duyên theo pháp Siêu thế, hằng kiên cố và không bị hư hoại.

4. Pannāsu anuttaro: Quý trọng vì trí tuệ. Có những trường hợp như sau:
  • (1) Mahāpanno: Đức Phật có trí tuệ vô lượng, vô biên, chư Thiên và nhân loại không ai sánh bằng.
    (2) Puthuppanno: Đức Phật có trí tuệ thậm thâm, sâu dày như quả địa cầu.
    (3) Hāsappanno: Đức Phật có trí tuệ làm cho chúng sanh hoan hỷ duyệt ý khi nghe ngài khải thuyết.
    (4) Javanappanno: Đức Phật có trí tuệ thông suốt thấu hiểu các pháp một cách mau lẹ.
    (5) Tikkhappanno: Đức Phật có trí tuệ sắc bén.
    (6) Nibbedhikappanno: Đức Phật có trí tuệ liễu tri trong việc thuyết giảng giáo pháp, không bao giờ lẫn lộn, vấp váp trong khi khải thuyết. Những loại trí tuệ này, chẳng phải đức Phật mới chứng đắc trong khi thành đạt đạo quả, mà trong những kiếp quá khứ, khi còn là Bồ tát, ngài đã thực hành và trau dồi tròn đủ trí tuệ Ba la mật với cả ba bậc, đó là bậc hạ (Sīla Pāramī), bậc trung (Sīla Uppapāramī), và bậc thượng (Sīla Paramattha Pāramī). Lúc bấy giờ, ngài có tên là Mahosatha, Vidhura v.v... đã có trí tuệ vượt trội hơn cả những bậc thiện tri thức đương thời.
5. Purisasīlamācāresu: Quý trọng vì sanh làm nam nhân (thái tử Siddhattha) với đầy đủ ngũ quan, diện mạo siêu phàm, học lực xuất chúng, đã thông suốt trọn bộ kinh điển Tam Phệ đà, tài lực kiếm cung xuất chúng, không một nam nhân nào có thể sánh bằng, tất cả mọi người đều cảm phục kính nể.

6. Bhavassa sammācāresu: Quý trọng vì phẩm hạnh thanh cao hơn tất cả chúng sanh ở trong Tam giới.

7. Parapuggalavimuttinnāne: Quý trọng vì trí tuệ liễu tri phương pháp giải thoát khỏi các pháp xấu ác (phiền não) hơn các bậc trí thức khác.

8. Pubbenivāsānusatinnāne: Quý trọng vì trí tuệ liễu tri về các tiền kiếp quá khứ của ngài và của các chúng sanh, là chứng đắc Túc Mạng thắng trí.

9. Dibbacakkhunnāne: Quý trọng vì đức Phật chứng đắc Thiên nhãn thắng trí.

10. Kammavipākannāne: Quý trọng vì đức Phật có trí tuệ liễu tri được nghiệp quả của mỗi chúng sanh đều do bởi nghiệp thiện hoặc ác đã tạo ra.

11. Yamakappātihāriyannāne: Quý trọng vì đức Phật hiện bày song đối Thần Thúc thông, hóa thân làm hai vị Phật, một vị Phật đang thuyết giảng Vô Tỷ Pháp tại cõi trời Đao Lợi thiên để độ thiên mẫu Māyā suốt trọn ba tháng (tính theo cõi Nhân loại) vào hạ thứ bảy của ngài, và một vị Phật đi trì bình khất thực vào mỗi buổi sáng tại Bắc Câu Lô châu và trùng tuyên những Mẫu đề (Mātikā) về Vô Tỷ Pháp cho đại đức Sāriputta tại Nam Thiệm Bộ châu.

12. Lokavivaranappātihāriyannāne: Quý trọng vì đức Phật đã dùng thắng trí để làm cho chư Thiên, nhân loại và chúng sanh ở trong cả Tam giới đều được thấy rõ ràng, là ngài đã từ cõi Đao Lợi thiên đi trở xuống lại cõi nhân loại sau ba tháng ngài thuyết giảng để độ thiên mẫu Māyā và tám trăm triệu chư Thiên chứng đắc được quả vị Thất lai (Sơ quả).

13. Āpattikusalatāya: Quý trọng vì đức Phật liễu tri rành mạch về điều giới học và sự phạm tội, là vị Tỳ kheo đã phạm tội (về điều giới học) hoặc không phạm tội, ngài đều hiểu biết.

14. Āpattivutthānakusalatāya: Quý trọng vì đức Phật liễu tri rành mạch cách thoát khỏi tội, là nếu vị Tỳ kheo nào sơ ý phạm tội, thì ngài từ bi cho phép thực hành những phương thế giải tội (cách sám hối v.v...)

15. Dhātukusalatāya: Quý trọng vì đức Phật liễu tri rành mạch về bản chất tứ đại hữu tri (Upādinnaka dhātu) của chúng sanh và bản chất tứ đại vô tri (Anupādinnaka dhātu) của đất, núi, sông hồ v.v... luôn cả bản chất của chúng sanh duyệt ý trong tứ đại là đất, nước, lửa, gió.

16. Manasikārakusalatāya: Quý trọng vì đức Phật liễu tri rành mạch về việc chú tâm ghi nhớ, với điều chi ngài để tâm ghi nhớ thì không bao giờ quên.

17. Thānāthānakusalatāya: Quý trọng vì đức Phật liễu tri rành mạch về những nguyên nhân và không phải nguyên nhân. Nhân (Hetu) tại đây là những nhân thiện, gồn có ba là: vô tham, vô sân và vô si.

18. Dvīsu iddhīsu: Quý trọng vì đức Phật có hai năng lực thù thắng, đó là Tâm Thần túc (Cittiddhi) là tâm thanh tịnh do nhờ thiền định và Thẩm Thần túc (Vimamsiddhi) là trí tuệ sáng suốt do nhờ tuệ quán.

19. Dvīsu anuttariyesu: Quý trọng vì đức Phật có oai đức thù thắng và không ai sánh bằng, đó là giới Cao thù thắng (Sīlanuttariya) và Trí tuệ thù thắng (Pannānuttariya).

20. Tīsukathāvatthūsu: Quý trọng vì đức Phật có ba hạnh cao quí, đó là: xả thí, trì giới và tham thiền.

21. Tīsusamādhisu: Quý trọng vì đức Phật có ba bậc thiền định, đó là: bậc thiền với hữu Tầm hữu Tứ; bậc thiền với vô Tầm Hữu Tứ và bậc thiền với vô Tầm vô Tứ.

22. Tīsu pātihāriyesu: Quý trọng vì đức Phật có những điều phi thường khi ngự lên pháp tọa để thuyết pháp, trong lúc đang thuyết pháp và sau khi xuống pháp tọa.

23. Catūsu Satipatthānesu: Quý trọng vì đức Phật thông suốt và thấu triệt về Tứ Niệm Xứ, đó là: Thân niệm xứ, Thọ niệm xứ, Tâm niệm xứ và Pháp niệm xứ.

24. Catūsu sampadāsu: Quý trọng vì đức Phật có đủ bốn điều đầy đủ (cụ túc) khiến cho sự phước thí được quả báu cao thượng, đó là:
  • (1) Cetanā sampadā: Hội đủ tam tư để thực hiện việc thiện.
    (2) Paccaya sampadā: Hội túc duyên, đầy đủ tứ vật dụng.
    (3) Vatthu sampadā: Đầy đủ các lễ vật cúng dường.
    (4) Gunātireka sampadā: Đầy đủ ân đức của cả hai bậc Bất lai và bậc Vô sanh ngay khi ngài xuất khỏi thiền Diệt (Diệt thọ tưởng định).
25. Catūsu iddhipādesa: Quý trọng vì đức Phật có đủ năng lực của Tứ Thần túc, đó là: Dục Thần túc, Cần Thần túc, Tâm Thần túc và Thẩm Thần túc.

26. Catūsu maggesu catūsu phalesu: Quý trọng vì đức Phật đã thành tựu viên mãn về bốn đạo và bốn quả.

27. Catūsu ariyavamsesu: Quý trọng vì đức Phật có đầy đủ bốn pháp của chủng tộc bậc Thánh, đó là:
  • (1) Appiccho: Có sự thiểu dục.
    (2) Sallekho: Có sự tri túc.
    (3) Saddhā: Đức tin kiên cố trong thập Ba la mật.
    (4) Sīlam: Hằng luôn có thanh tịnh giới.
28. Catūsu vimuttinnānéu: Quý trọng vì đức Phật có trí tuệ liễu tri về bốn phương pháp giải thoát khỏi các pháp xấu ác (phiền não), đó là:
  • (1) Pannāvimutti: Giải thoát bằng thánh tuệ, là trí tuệ siêu xuất khỏi thế gian.
    (2) Samuccheda vimutti: Giải thoát bằng sự sát trừ diệt tận.
    (3) Vikkjambhana vimutti: Giải thoát bằng sự chế ngự của thiền định.
    (4) Tadanga vimutti: Giải thoát khỏi các pháp xấu ác (Kiết sử) trong tầng bậc của tuệ quán.
29. Pancabalesu: Quý trọng vì đức Phật có đầy đủ ngũ lực, đó là: Tín lực (để diệt trừ sự tà kiến, mê tín), Tấn lực (để diệt trừ sự lười biếng, giải đãi), Niệm lực (để diệt trừ tâm thất niệm hoang vu), Định lực (để diệt trừ tâm phóng dật) và Tuệ lực (để diệt trừ sự vô minh).

30. Pancindriyesu: Quý trọng vì đức Phật có đầy đủ ngũ quyền, đó là: Tín quyền (để diệt trừ sự tà kiến, mê tín), Tấn quyền (để diệt trừ sự lười biếng, giải đãi), Niệm quyền (để diệt trừ tâm thất niệm hoang vu), Định quyền (để diệt trừ tâm phóng dật), Tuệ quyền (để diệt trừ sự vô minh).

31. Pancābhinnāsu: Quý trọng vì đức Phật có đầy đủ ngũ Thắng trí, đó là: Thiên nhãn thắng trí, Thiên nhĩ thắng trí, Thần túc thắng trí, Tha tâm thắng trí, và Túc mạng thắng trí (với ngũ thắng trí vừa mới kể đây là còn nằm trong phạm vi của hạng phàm nhân, Tuy nhiên, với bậc thánh nhân thì chứng đắc thêm Lậu tận thắng tí là tuệ liễu tri các pháp lậu hoặc, đã làm cho chúng sanh còn phải trầm luân trong vòng sanh tử luân hồi, để diệt tận. Kếp hợp lại thì có cả thảy là Lục thắng trí).

32. Chaasādhāranannānesu: Quý trọng vì đức Phật có có trí tuệ thù thắng với sáu thể loại như sau:
  • (1) Āsayānusayannāna: Trí tuệ liễu tri về các pháp thường lui tới (Āsaya) và các pháp thụy miên ngủ ngầm (Anusaya) trong từng tâm tánh của mỗi chúng sanh.
    (2) Indriya - paropariyattinnāna: Trí tuệ liễu tri rõ biết về căn cơ dũng mãnh hay yếu đuối của chúng sanh.
    (3) Yamakappātihāriyannāna: Trí tuệ linh hoạt trong việc vận dụng song đối thần túc thông.
    (4) Mahākarunā - samāpattināna: Trí tuệ rõ biết về phương pháp tế độ chúng sanh sau khi xuất khỏi Đại bi định.
    (5) Sabbanūtannāna: Trí tuệ thông suốt tất cả mọi pháp, không dư sót (Toàn giác).
    (6) Anāvarannāna: Trí tuệ thông suốt, không chướng ngại và khuất lấp trong mọi pháp.
33. Sattavisuddhidesanāna: Quý trọng vì đức Phật khải thuyết về bảy pháp Thanh tịnh, đó là:
  • (1) Sīla visuddhi: Giới thanh tịnh.
    (2) Citta visuddhi: Tâm thanh tịnh (tu tập làm cho tâm phát sanh Cận định và Nhập định).
    (3) Ditthi visuddhi: Kiến thanh tịnh (là trí tuệ liễu tri về "Danh và Sắc" do sự kết hợp của tứ đại và hằng chi phối với tam tướng là Vô thường, Khổ đau và Vô ngã).
    (4) Kankhāvitaram visuddhi: Đoạn nghi thanh tịnh (là trí tuệ thấy rõ nhân duyên của "Danh và sắc" và diệt trừ khỏi hoài nghi về danh sắc).
    (5) Maggamaggannānadassana visuddhi: Đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh (là trí tuệ liễu tri trung thực, không sai lầm về Thập tùy phiền não).
    (6) Patipadānānadassana visuddhi: Đạo tri kiến thanh tịnh (là trí tuệ thấy rõ phương thức tiến hóa qua việc trau dồi con đường tiến hóa thiền Minh sát và tuệ quán).
    (7) Nānadassana visuddhi: Tri kiến thanh tịnh (là trí tuệ siêu xuất khỏi thế gian, chứng trí Tứ Thánh đạo và Tứ thánh quả).
34. Sattākhīnāsavabalesu: Quý trọng vì đức Phật liễu tri thấu triệt đạo tuệ của bảy bậc thánh nhân, là những bậc thánh hữu học (Sekkhapuggala) có năng lực diệt trừ từng giai đoạn những pháp trầm luân, nhất là kiết sử. Những bậc thánh hữu học, đó là: Thất lai đạo và quả; Nhất lai đạo và quả; Bất lai đạo và quả; Vô sanh đạo.

35. Navasattāvāsadesanāsu: Quý trọng vì đức Phật đã khải thuyết về chín chỗ trú ngụ của chúng sanh, đó là:
  • (1) Nānattakāyā nānattasanni - Thân dị tưởng dị: Thân hình khác nhau, tư tưởng khác nhau, như là nhan loại, chư Thiên và một số trong địa ngục.
    (2) Nānattakāyā ekattasanni - Thân dị tưởng đồng: Thân hình khác nhau, nhưng tư tưởng giống nhau, như là các vị Phạm chúng thiên ở tầng Sơ thiền sắc giới.
    (3) Ekattakāya nānattasanni- Thân đồng tưởng dị: Thân hình giống nhau, nhưn tư tưởng khác nhau, như là các vị Quang Âm thiên ở tầng Nhị thiền sắc giới.
    (4) Ekattakāya ekattasanni - Thân đồng tưởng đồng:Thân hình giống nhau và tư tưởng cũng giống nhau, như là các vị Biến Tịnh Thiên ở tầng Tam thiền sắc giới.
    (5) Asanni satta - Vô tưởng vô thọ: Chúng sanh sống mà không có tâm thức, như là chúng Phạm thiên Vô tưởng Sắc giới.
    (6) Ākāsānancayatana - Không Vô biên xứ: Vượt qua khỏi sắc tướng, đoạn trừ tất cả hữu đối tượng, không còn suy tư đến bất luận một di loại tưởng, chỉ có tưởng về "Hư không là vô biên", như các vị trời Phạm thiên Không Vô biên xứ ở cõi Vô sắc giới.
    (7) Vinnānancāyatana - Thức Vô Biên Xứ: Vượt khỏi Không Vô Biên Xứ, chỉ có tưởng về "Thức là vô biên", như là các vị Phạm thiên Thức Vô Biên Xứ ở cõi Vô sắc giới.
    (8) Ākincannāyatanna - Vô Sở Hữu Xứ: Vượt khỏi Thức Vô Biên Xứ, chỉ có tưởng về "Không có chi cả", như là các vị Phạm thiên Vô Sở Hữu Xứ ở cõi Vô sắc giới.
    (9) Nevasannānāsannāyatana - Phi Phi Tưởng Xứ: Vượt khỏi hoàn toàn Vô Sở Hữu Xứ, chỉ có tưởng về "Chẳng phải tưởng, chẳng phải chẳng phải tưởng", như là các vị Phạm thiên Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ ở cõi Vô sắc giới.
36. Dasasināyatananesu: Quý trọng vì đức Phật liễu tri về những đề mục Thập hoàn tịnh, đó là: Đất, Nước, Lửa, Gió, màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng, Hư không và Ánh sáng.

37. Ekādasamettānisansadesanāsu: Quý trọng vì đức Phật liễu tri rõ ràng về mười một quả phước báu của sự rải tâm từ ái, đó là:
  • (1) Sukham supati: Khi ngủ được an vui.
    (2) Sukham payibujjhati: Khi thức dậy cũng được an vui.
    (3) Napākham supinam passati: Không nằm mộng mị điều xấu ác.
    (4) Manussānam piyohoti: Nhân loại thương mến.
    (5) Amanusānam piyohoti: Phi nhân cũng thương mến.
    (6) Devatā rakkhanti: Chư thiên hộ trì.
    (7) Nassa aggi vā visam vā sattham vā kamati: Lửa, thuốc độc và khí giới không làm hại được.
    (8) Tuvā cittam samādhiyati: Tâm nhập định một cách mau lẹ.
    (9) Mukhavanno vippasīdati: Sắc diện và da thịt tươi sáng xinh dẹp.
    (10) Asammulho kālam karoti: Khi cận tử lâm chung tâm được an tịnh và không mê loạn.
    (11) Uttarim appativijjhanto brahmalokūpago hoti: Nếu chưa chứng đắc đạo quả cao thượng thì được tục sinh về cõi Phạm thiên sắc giới.
38. Dvādasākusaladesanānu: Quý trọng vì đức Phật liễu tri rõ biết tâm tánh của chúng sanh ở trong điều tội lỗi, xấu ác, do bởi mười hai tâm bất thiện (Akusalacitta), gồm có tám tâm tham, hai tâm sân và hai tâm si.

39. Terasa dhūtangagunesu: Quý trọng vì đức Phật thông suốt và liễu tri về mười ba pháp Đầu đà, đó là:
  • (1) Pamsukūlika: Hạnh đầu đà với lượm vải quấn tử thi.
    (2) Tecīvarika: Hạnh đầu đà chỉ có tam y.
    (3) Pindapātika: Hạnh đầu đà chỉ trì bình khất thực không thọ trai Tăng.
    (4) Sapadānacarika: Hạnh đầu đà trì bình khất thực theo mỗi nhà, mỗi xóm.
    (5) Ekāsanika: Hạnh đầu đà chỉ ngồi thọ thực trong một chỗ (chỉ thọ một lần trong ngày mà thôi).
    (6) Pattapindika: Hạnh đầu đà chỉ dùng vật thực trong một bát mà thôi.
    (7) Khalupacchā - bhattika: Hạnh đầu đà không thọ vật thực người đã dâng cúng rồi thì không được phép thọ vật thực nơi nào nữa.
    (8) Ārannika: Hạnh đầu đà chỉ trú ngụ trong rừng (không trú ngụ trong làng xóm).
    (9) Rukkha mūkika: Hạnh đầu chỉ trú ngụ ở nơi cội cây hoặc ở gần đó.
    (10) Abbhokāsika: Hạnh đầu đà chỉ trú ngụ ở ngoài trời, khoảng trống (dù ở trong bóng cây cũng không được).
    (11) Sosānika: Hạnh đầu đà chỉ trú ngụ ở nghĩa địa, mộ mả hoặc nơi lìa bỏ tử thi.
    (12) Yathāsanthatika: Hạnh đầu đà chỉ trú ngụ mà chư Tăng đã chỉ định đầu tiên, không dời đổi đi nơi khác.
    (13) Nasajjika: Hạnh đầu đà ngăn oai nghi nằm, chỉ dùng các oai nghi đi, đứng, ngồi.
40. Cuddasabuddhannānesu: Quý trọng vì đức Phật hoàn toàn sáng suốt vô lượng vô biên với mười bốn thể loại, đó là:
  • (1) Dukkhe nānam: Trí tuệ liễu tri Khổ đế là xác thực.
    (2) Dukkha samudaye: Trí tuệ liễu tri Khổ Tập đế là xác thực.
    (3) Dukkha nirodhe nānam: Trí tuệ liễu tri Khổ Diệt đế là xác thực.
    (4) Dukkkha nirodhagāminīpati - padāya naānam: Trí tuệ liễu tri Khổ Đạo đế là xác thực,
    (5) Atthapatisambhidā: Trí tuệ liễu tri về nghĩa lý vô ngại giải.
    (6) Dhammapatisambhidā: Trí tuệ liễu tri về pháp lý vô ngại giải.
    (7) Niruttipatisambhidā: Trí tuệ liễu tri về từ ngữ vô ngại giải.
    (8) Patibhānapatisambhidā: Trí tuệ liễu tri về ứng biện vô ngại giải.
    (9) Āsayānusayannāna: Trí tuệ liễu tri về các pháp thường lui tới (Āsaya và các pháp thùy miên ngủ ngầm (Anusaya) trong từng tâm tánh của mỗi chúng sanh.
    (10) Indriyaparopariyattinnāna: Trí tuệ liễu tri rõ biết về căn cơ dũng mãnh hay yếu đuối của chúng sanh.
    (11) Yamakappātihāriyannāna: Trí tuệ linh hoạt trong việc vận dụng song đối Thần túc thông.
    (12) Mahākarunāsamāpattināna: Trí tuệ rõ biết về phương pháp tế độ chúng sanh sau khi xuất khỏi Đại bi định.
    (13) Sabbanūtannāna: Trí tuệ thông suốt tất cả mọi pháp, không dư sót (Toàn giác).
    (14) Anāvarannāna: Trí tuệ thông suốt, không chướng ngại và khuất lấp trong mọi pháp.
41. Ekasīsatikusaladesanāsu: Quý trọng vì đức Phật khải thuyết tường tận về việc phân tích các tâm thiện trong các cõi giới, đó là:
  • (1) Kāsāvacarakusala: Tám tâm thiện trong cõi Dục giới.
    (2) Rūpāvacarakusala: Năm tâm thiện trong cõi Sắc giới.
    (3) Arūpāvacarakusala: Bốn tâm thiện trong cõi Vô Sắc giới.
    (4) Lokuttarakusala: Bốn tâm thiện Siêu thế của các bậc Thánh nhân.
42. Cattuvisatipaccayadesanāsu: Quý trọng vì đức Phật đã khải thuyết về Đại phát thủ (Mahāpatthāna) với hai mươi bốn duyên (Paccaya) được bắt đầu từ nhân duyên (Hetapaccaya) và cuối cùng là Bất ly duyên (Avigatapaccaya).

43. Kotisatasahassa sancarita dhamma vajīrannānesu: Quý trọng vì đức Phật có trí tuệ thông suốt và liễu tri vô lượng pháp môn như là:
  • - Nhị đề phát thủ (Dukapatthāna).
    - Tam đề phát thủ (Tikapatthāna)
    - Nhị đề tam đề phát thủ (Dukatikapatthāna)
    - Tam đề nhị đề phát thủ (Tikadukapatthāna) v.v...
Do nhờ những ân đức cao quý như đã vừa giải thích ở phần trên, nên đức Phật có danh hiệu là Vô Thượng Sĩ (Anuttaro).


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Ân Đức Tam Bảo

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

VII. PURISADAMMASĀRATHĪ - ĐIỀU NGỰ TRƯỢNG PHU
Tại sao đức Phật có danh hiệu PURISADAMMASĀRATHĪ (ĐIỀU NGỰ TRƯỢNG PHU)?

Bởi ngài là đấng tế độ những người hữu duyên nên tế độ.

1. NGƯỜI HỮU DUYÊN: Người hữu duyên là người, trong những kiếp quá khứ, đã thực hành các pháp Ba la mật, là người siêng năng trong việc xả thí, chuyên cần trong việc trì giới và hằng vui thích tham thiền và thính pháp.

Người đã thực hành những phẩm hạnh thanh cao ấy, là người đã tu tập nhiều duyên lành (Upanisssaya) - Cận Y Duyên đáng được tế dộ. Tùy theo trình độ phẩm hạnh thấp hay cao, thiện duyên nhiều hay ít, đức Phật dùng phương tiện thích nghi để tế độ mỗi người hữu duyên. Có hai hạng người hữu duyên:
  • Buddhaveneyya: Hạng người hữu duyên chính do đức Phật tế độ.
  • Sāvakaveneyya: Hạng người hữu duyên do các bậc Thinh văn đệ tử của đức Phật tế độ.
Với hạng người nào hữu duyên cùng đức Phật thì tự ngài đi đến tế độ. Với hạng người nào mà đức Phật biết rõ hữu duyên với bậc Thinh văn nào thì ngài bảo vị ấy đi đến tế độ.

2. PHƯƠNG TIỆN TẾ ĐỘ CHÚNG SANH: Đức Phật tùy theo tâm tánh và căn cơ của mỗi hạng người mà giảng giải rõ ràng về nhân quả, về phước tội:

- Chúng sanh nào duyệt ý về những việc thiện thì đức Phật thuyết giảng về các pháp thiện hạnh, là Thân thiện hạnh (Kāyasucarita), Ngữ thiện hạnh (Vacīsucarita) và Ý thiện hạnh (Manosucarita) cùng với những quả phước báo của các pháp ấy, ngõ hầu chúng sanh khởi phát tâm duyệt ý trong các thiện sự.

- Chúng sanh nào duyệt ý về những việc xấu ác thì đức Phật thuyết giảng về các pháp ác hạnh, là Thân ác hạnh (Kāyaduccarita), Ngữ thiện hạnh (Vacīduccarita) và Ý thiện hạnh (Manoduccarita) cùng với những quả báo của những pháp ấy, ngõ hầu chúng sanh khởi phát tâm tàm quý trong các điều ấy và hồi tâm làm các thiện sự.

Kế tiếp, với những hạng người đã trau dồi giới hạnh thanh tịnh rồi, thì đức Phật thuyết giảng về các pháp tu tập về thiền Chỉ và quả phước báo do bởi các pháp ấy, từ tầng Sơ thiền cho đến Tứ thiền.

Với những bậc đã chứng các tầng thiền Chỉ thì đức Phật thuyết giảng về các pháp tu tập về thiền Quán, ngõ hầu những vị ấy tiến tu để phát sanh trí tuệ, cho thấy rõ tam thực tướng Vô thường, Khổ đau và Vô ngã của các pháp hữu vi, diệt trừ phiền não và chứng đắc đạo quả của bậc Thánh nhân từ bậc Bất Lai cho đến bậc Vô sinh, và an vui Niết Bàn.

Chúng ta không nên lấy làm ngạc nhiên rằng trong câu chuyện xưa kể lại, là có những chư Thiên và những bậc đại thiện duyên, khi nghe qua một kệ ngôn hoặc một pháp thoại do bởi đức Phật khải thuyết, được chứng tri đạo quả Thánh nhân ở ngay tại chỗ ngồi của mình. Nguyên do là các bậc ấy đã thực hành viên mãn các pháp Ba la mật, và kết hợp rất nhiều thiện duyên dầy công tu tập từ vô lượng kiếp quá khư, cho đến kiếp hiện tại có được hội túc duyên mà gặp đức Phật giảng dạy tế độ, và được nếm hương vị an vui tuyệt đối, ví như trái cây đã chín mùi từ bao nhiêu ngày trên cành cao, chỉ một luồng gió nhẹ thoảng qua là rơi rụng vậy.

Trong Tăng Chi Bộ kinh (Anguttara Nikāya) có kệ Phật ngôn như sau: "Này Kesi! Như Lai giảng dạy chúng sanh hữu duyên nên tế độ khi thì bằng phương thức dịu dàng, lúc thì bằng phương thức cứng rắn và có khi thì bằng phương thức vừa thoa dịu vừa cứng rắn".

Nói tóm lại, đức Phật tế độ chúng sanh với ba phương thức sau:
  • (1) Abhinnā - Thắng trí: Đức Phật giảng dạy rõ ràng về các việc thiện và việc xấu ác.

    (2) (Sanidāna: Đức Phật giảng dạy theo lý nhân quả, là tùy theo quả lành hoặc quả dữ đã trổ sanh, và ngài chỉ cho thấy do bởi nhân thiện hoặc do bởi nhân ác.

    (3) Sappātihāriya: Đức Phật giảng dạy theo ba phương thức phi thường như sau:
    1. Idhippātihāra: Bằng phương tiện qua các pháp thắng trí thần thông.
    2. Ādesanāpātihāra: Bằng cách thấu triệt tường tận tâm tánh của chúng sanh.
    3. Anusāsanipātihāra: Bằng những lời khuyên răn, nhắc nhở và huấn từ về Giới, định, tuệ.
Đức Phật tinh thông và liễu tri tường tận trong việc giáo hóa chúng sanh, ví như người nài voi đã tinh chuyên thuần thục trong việc tập luyện các voi, bởi do ngài thấu triệt tâm tánh của chúng sanh, như đã được giải thích trong phần danh hiệu Thế Gian Giải (Lokavidū), ở tại phần "Chúng Sanh Thế Gian". Do nhờ sự hiểu biết tường tận tánh nết, nết hạnh, trình độ tâm trí và duyên lành của mỗi chúng sanh, nên đức Phật mới có thể giáo hóa chư Thiên và nhân loại một cách dễ dàng. Vì thế, các bậc hữu duyên nên tế độ đều vâng theo lời khuyên bảo và sự giáo hóa của đức Phật.

3. CHÚNG SANH ĐƯỢC TẾ ĐỘ: Theo từ ngữ Pāli được dịch dúng theo ý nghĩa thì "Purisadammasarathī" có nghĩa là "Bậc Đạo Sư" (Sārathi) những người nam (Purisa) đáng được giáo hóa(Damma).

Như thế có câu hỏi được nêu lên là "Đức Phật chỉ độ toàn người nam hay sao?" Quả thật không phải vậy! Đức Phật tế độ cả người nam và người nữ, tuy nhiên theo lệ thường thì thường nói đến người nam trước nhất, vì theo Phật giáo, người nam hữu phước duyên hơn người nữ và hành đạo cũng được tiện lợi dễ dàng hơn.

Lại nữa, chẳng những chỉ riêng về nhân loại, đức Phật còn tế độ luôn cả loài thú và hạng phi nhân (dạ xoa, ngạ quỷ v.v...) hội đủ duyên lành.

Hạng Nam tính được tế độ có ba loại là:
  • - Tiracchāna purisa: Những loại giống dực.
    - Manussa purisa: Hạng người nam.
    - Amanussa purisa: Hạng phi nhân nam.

    (1) Những loại giống đực như các loài rồng chúa Apalālo trong dãy Hy Mã Lạp Sơn, CūlodaraMahodara trong thế giới loài rồng, AggisikhaDhūmasikha trong đảo Tích Lan, Āravāla v.v... đã được đức Phật với tâm bi mẫn dùng thần thông cảm hóa, khiến cho những rồng chúa ấy hết hung dữ và diệt trừ nọc độc là lòng sân hận, khởi tâm phát nguyện thọ trì Tam quy và ngũ giới. Voi Dhanāpālaka cũng được đức Phật tế độ và cho thọ Tam quy. Không chỉ có bấy nhiêu mà những loài thú khác cũng đã được đức Phật dùng tâm bi mẫn để tế độ rất nhiều trường hợp.

    (2) Những người nam đã tạo ra những việc tội lỗi, hằng chấp giữ lấy tà kiến, như người con trai của ngoại đạo Nigantha có tên gọi là Saccaka, những người Bà la môn có tên gọi là Ambattha, Pokkharasāti, Sonadanda, Kūtadanta v.v... đã được đức Phật bi mẫn thuyết giảng để tế độ, làm cho phát khởi đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, xa lìa tà kiến có được chánh kiến và chứng đắc đạo quả cao thượng. Những người nam đã rơi vào "lưới tuệ nhãn" của đức Phật và được ngài tế độ không chỉ bấy nhiêu, ngoài ra còn rất nhiều không kể hết được.

    (3) Những hạng Phi nhân như các dạ xoa Ālavaka, SūcilomaKharaloma v.v..., Thiên chủ Sakka, Đại Phạm thiên Bāka v.v... chấp giữ tà kiến và ngã mạn, đã tự cho mình là bậc có đức hạnh tối thượng. Tuy nhiên, tất cả đã được đức Phật thuyết giảng tế độ, đưa đến phát tâm tín thành với Tam Bảo.
4. HUẤN TỪ CỦA ĐỨC THẾ TÔN: Những lời nói của đức Phật thốt ra là để giáo hóa chúng sanh rất nhiều lợi lạc, không thể kể xiết. Khi giáo huấn, đức Phật tùy theo tâm tánh và duyên lành, tùy theo trí tuệ và căn cơ cao thấp của mỗi chúng sanh, theo nhân duyên, thời lúc và cơ hội (giáo cơ thời quốc), theo phong tục tập quán của mỗi quốc độ v.v...

Nói tóm lại, huấn từ của đức Phật có ba thể loại, đó là:
  • - Sabbapāpassa akaranam - Chư ác mạc tác: Không nên làm các điều ác.
    - Kūsalassupasampadā - Chúng thiện phụng hành: Nên làm các điều lành.
    - Sacittapariyodapanam - Tự tịnh kỳ ý: Nên trau dồi tâm cho thanh tịnh.

    (1) Chư Ác Mạc Tác: Đức Phật thường luôn khuyên bảo hàng môn đệ, là không nên làm các điều xấu ác, là nên xa lánh thập ác hạnh từ nơi thân, lời, ý (Duccarita kiriyā gọi là thập ác: sát sanh, trộm cắp, tà dâm, cọng ngữ, lưỡng thiệt, thô ác ngữ, hồ ngôn loạn ngữ, ý tham, ý sân, ý tà kiến.

    (2) Chúng Thiện Phụng Hành: Đức Phật thường luôn khuyến khích hàng môn đệ, cố gắng thực hành các việc thiện, nên trau dồi Thập Phúc Hành Tông (Dasakiryāphunnāvathu) là con đường tạo ra phước báu, gồm có: xả thí, trì giới, tu tiến, cung kính, phụng hành, thuyết pháp, thính pháp, hồi hướng, tùy hỷ và chân trí chước kiến.

    (3) Tự Tịnh Kỳ Ý: Đức Phật khuyên bảo hàng môn đệ nên cố gắng trau dồi thanh lọc tâm cho được thanh tịnh, là nên cố gắng diệt trừ các phiền não và các pháp ngủ ngầm trong tâm, là những điều làm cho tâm bị bợn nhơ và khiến chúng sanh phải bị sa đọa mãi trong vòng sanh tử luân hồi.

    Những loại phiền não ấy chia ra làm hai thể loại: phiền não thô thiển và phiền não vi tế. Với phiền não thô thiển như sát sanh, trộm cắp, tà hạnh v.v... có thể diệt trừ qua việc thọ trì giới luật và tu tập thiền định. Với phiền não vi tế, quả thật khó mà nhận định được là căn nguyên làm cho phát khởi những phiền não khác, chỉ có diệt tận qua con đường trau dồi thánh tuệ.
Một cách tóm tắt, huấn từ của đức Phật có thể thâu ngắn lại trong hai khuyến ngôn quý báu, đó là:
  • - Nên lánh xa sự dễ duôi, phóng dật quên mình (Pamāda).

    - Nên trau dồi tu tập sự không dễ duôi, bất khinh suất (Appamāda).
Sự dễ duôi (Pamāda) thường trú trong nội tâm của hạng người khinh xuất, hay quên mình, thường buông lung sự chú niệm, không nhất tâm làm việc chi cho được thành tựu, viên mãn.

Tâm chúng sanh thường luôn say mê chạy theo sự cám dỗ của ngũ trần lục dục, tự nghĩ rằng ta hãy còn hạng trẻ tuổi, chưa lão mại; ta hãy còn khỏe mạnh, chưa ốm đau v.v..., nên không nghĩ tới những việc thiện, pháp lành và những công đức. Cho dù có nghĩ tưởng tới đi nữa thì cũng chỉ làm cho qua loa, cho lấy lệ, không để hết tâm trí vào sự trau dồi thực hành những thiện pháp. Đó là tâm dễ duôi, phóng dật quên mình.

Lại nữa, chẳng khác nào như con cắc ké chỉ chạy một đoạn đường rồi ngừng lại một chập, không bao giờ chạy một mạch cho đến đích. Cũng như vậy, có người lam xả thí hoặc trì giới, hoặc thính pháp, tham thiền v.v... được một ngày rồi bỏ luống đi nhiều ngày, có hạng người xuất gia trong mọt thời gian rồi lại hoàn tục, không còn tưởng nhớ đến Phật pháp nữa v.v... Tất cả những sự kiện ấy là trạng thái của tâm dễ duôi, phóng dật quên mình.

Sự dễ duôi là cội nguồn và chủ động các pháp xấu ác. Chúng sanh làm nô lệ cho sự dễ duôi thì hằng chất chứa bao phiền não trong thân tâm, phải chịu những sự thống khổ của sự sanh, sự già, sự bệnh, sự đau từ đời này qua nhiều kiếp không ngừng.

Sự không dễ duôi (Appamāda) trái nghịch hẳn với sự dễ duôi. Người không dễ duôi là người thường có sự chú niệm ở trong nội tâm, chẳng phải chỉ trong một thời gian ngắn, mà thường luôn có sự chú niệm trong bất cứ lúc nào, nơi nào và trong mọi hành động nào cũng vậy.

Có năm đặc tính của người không dễ duôi, đó là:
    1. Sīle patitthito: Luôn ở trong khuôn khổ giới luật.
    2. Indriye samvuto: Thu thúc lục căn cho được thanh tịnh.
    3. Bhojane mattannū: Biết thiểu dục tri túc trong việc độ thực.
    4. Jāgariyam anuyanjati: Thường luôn thức tỉnh, không hôn trầm thụy miên, không mê thích việc ngủ nghỉ.
    5. Bahāvayam kusalam dhammam: Tinh tấn trau dồi tu tập, tham thiền hành đạo để chứng đắc những pháp cao thượng.
Sự không dễ duôi là bức tường ngăn cản rất hiệu quả các pháp ác không cho xâm nhập và tăng trưởng trong thân tâm, là cội nguồn và chủ động mọi pháp thiện. Có câu kệ Phật ngôn như sau: "Này chư Tỳ kheo! Dấu chân tất cả loài thú khác đều có thể nằm trọn trong dấu chân của con voi, như thế nào, cũng như thế ấy, các thiện pháp hằng qui tựu cả thảy dưới năng lực của sự không dễ duôi, như thể vậy".

"Appamādo amatam padam" có nghĩa là "Sự không dễ duôi là con đường đi đến nơi bất diệt, là Niết Bàn". Chúng sanh nào có tâm không dễ duôi, thường luôn tưởng nhớ đến những thiện pháp, chuyên cần trau dồi nhưng thiện công đức như xả thí, trì giới, tu thiền, thính pháp v.v... và cố gắng tinh cần thu thúc lục căn cho được thanh tịnh, không cho duyên theo dục trần, hạng chúng sanh ấy, chắc chắn một ngày, sẽ diệt tận được các phiền não từ thô thiển cho đến vi tế, và sẽ nếm được hương vị của Niết Bàn, là bất sanh bất diệt, an nhiên tịch tịnh.

Vì thế, ngay khi thọ bệnh kiết lỵ trầm trọng trước ngày viên tịch Niết Bàn, đức Phật đưa mắt nhìn hàng tứ chúng đang ngồi chung quanh ngài, với hàng Thánh tăng an tịnh vơi nội tâm chánh niệm. Khi nhìn thấy cảnh tượng đang hiện bày, đức Phật thốt lên căn dặn: "Này chư Tỳ kheo! Nay ta khuyên các người: Các pháp hữu vi là vô thường, hãy tinh tấn, chớ có phóng dật" (Kinh Đại Viên Tịch Niết Bàn - Trường Bộ Kinh, bài kinh thứ mười sáu). Đó là lời cuối cùng của đức Phật khi ngài sắp viên tịch Niết Bàn, theo từ ngữ Pāli gọi là "Pacchimabuddhavacana - Di Huấn Tối Hậu của đức Phật".

Bao nhiêu lời ấy đã bao gồm trọn vẹn giáo pháp mà đức Phật đã giảng giải và truyền bá trọn bốn mươi lăm năm, vào một câu: Chớ có phóng dật" để nhắc nhở các vị Tỳ kheo không nên dễ duôi, giải đãi trên con đường tự tu, tự độ. Với hàng Phật tử hữu duyên gặp được chánh pháp, cũng nên khắc ghi nơi tâm khảm lời di huân cao quí của đức Phật và cố gắng tu tập "Không có dễ duôi" ngõ hầu thấy rõ con đường giải thoát trong ngày vị lai.

Do nhờ những ân đức cao quý như đã vừa giải thích ở phần trên, nên đức Phật có danh hiệu là Điều Ngự Trượng Phu (Purisadammasārathī).


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Ân Đức Tam Bảo

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

VIII. SATTHĀDEVAMANUSSĀNAM - THIÊN NHÂN SƯ
Tại sao đức Phật có danh hiệu SATTHĀDEVAMANUSSĀNAM (THIÊN NHÂN SƯ)? Bởi ngài là bậc Đạo sư của chư Thiên và Nhân loại.

1. SỰ LỢI ÍCH CỦA GIÁO PHÁP: Giáo pháp của đức Phật đã khéo khải thuyết cho hội chúng chư Thiên và Nhân loại, nhằm vào mục đích của ba sự lợi ích sau đây:
  • (1) Ditthadhammikattha - Sinh Sanh Hữu Phúc: Vì lợi ích ngay hiện tại.
    (2) Samparāyikattha - Lai Sanh Hữu Phúc: Vì lợi ích trong ngày vị lai.
    (3) Paramattha - Siêu Lý: Vì lợi ích cao thượng là Niết Bàn.
- Sự lợi ích ngay hiện tại có bốn thể loại như sau:
  1. Utthāna sampadā: Nên nỗ lực tinh cần thực hiện những việc nuôi mạng hàng ngày bằng những nghề nghiệp chân chánh, không tội lỗi (như xa lìa năm nghề tà mạng, đó là: buôn bán vũ khí, buôn bán thú vật, buôn bán chất say, buôn thuốc độc, buôn bán nô lệ).
  2. Kalyānamittā: Nên thân cận hảo bằng hữu, là những người có chánh tín, có giới hạnh, vui thích trong việc tạo những thiện sự như xả thí v.v...
  3. Samājīvitā: Nên biết chi tiêu một cách độ lượng cân phân, là nương theo khả năng mình đã kiếm được mà lượng định cho việc chi tiêu, không nên hoang phí.
  4. Ārakkha sampadā: Nên giữ gìn tài sản đã kiếm được cho được bền vững, không bị tiêu hoại bởi những nguyên nhân sai khác, như là lửa đốt cháy, nước cuốn trôi, trộm cướp lấy, vua quan tịch thu hoặc sanh con bất hiếu phá hại tài sản.
- Sự lợi ích trong ngày vị lai có bốn thể loại như sau:
  1. Saddhā sampadā:Có đầy đủ dức tin, là tứ chánh tín, tin vào ân đức Tam Bảo, tin vào nghiệp báo, tin lý nhân quả.
  2. Sīla sampadā: Có giới hạnh là thọ trì giới thanh tịnh.
  3. Cāga sampadā: Có sự dứt bỏ, là đem tài vật ra thực hiện những thiện công đức, như xả thí cúng dường đến những bậc Sa môn, và những nghèo khó.
  4. Pannā sampadā: Có trí tuệ, là liễu trị tội phước và rõ biết thực tướng của các pháp hữu vi.
Người nào thực hành đầy đủ cả bốn điều vừa kể trên, là người đã dọn xong con đường đi cho ngày vị lai, đến khi tan rã ngũ uẩn thì được hưởng sự an vui về người, trời và Niết Bàn.

- Về sự lợi ích cao thượng là Niết Bàn, đức Phật đả giảng dạy và chỉ bảo cho thấy rõ bốn chân lý, đó là Tứ Thánh Đế, gồm có như sau:
  1. Dukkham: Khổ đế (có mười hai sự thống khổ hiển nhiên của nhân loại).
  2. Dukkha Samudaya: Tập đế (là nhân sanh các sự thống khổ, là ái dục).
  3. Dukkha Nirodho: Diệt đế (là sự diệt tắt các sự thống khổ, là Niết Bàn).
  4. Dukkha Nirodhagāmīnipattipadā: Đạo đế (là con đường Bát chánh đạo nương theo đó, để diệt tắt mọi sự thống khổ).
Đức Phật đã giáo hóa tùy theo thiện duyên (Upanissaya - Cận y): Với chúng sanh nào yếu kém về thiện duyên và nhiều phiền não thì ngài dạy bảo về sự lợi ích hiện tại và vị lai. Với chúng sanh nào dũng mãnh về thiện duyên thì ngài giảng dạy về sự lợi ích cao thượng là Niết Bàn.

2. BẬC ĐẠO SƯ TUYỆT LUÂN: Trong Bộ Chú Giải Đại Xiển Thuật (Mahā Niddesa) có giải thích về từ ngữ "Sattha - Đạo sư" như sau: "Đức Phật là một bậc Đạo sư, vì ngài dẫn dắt chỉ đường cho chúng sanh đi đến nơi an lạc, là Niết Bàn".

Lệ thường, phận sự của người hướng đạo tinh chuyên là dắt dẫn đoàn lữ hành vượt qua những con đường xa xôi, nhiều sự nguy hiểm và tai hại, về đến nhà hoặc đi đến nơi đã định trước được một cách an toàn vô sự. Con đường xa xôi và đầy sự nguy hiểm và nhiều tai hại có năm thể loại, như sau:
  • (1) Corakantāra: Tai hại vì trộm cướp.
    (2) Bālakantāra: Nguy hiểm vì thú dữ.
    (3) Niridakakantāra: Nguy hiểm vì không có nước uống.
    (4) Amanussakantāra: Mguy hiểm vì Phi nhân hãm hại.
    (5) Appabhakkhakantāra: Nguy hiểm vì không có vật thực.
Cũng như thế ấy, đức Phật đã hướng dẫn chúng sanh vượt qua khỏi mười ba con đường xa xôi (Kantāra) có nhiều sự ưu não và tai hại như sau:
  • (1) Jāti kanāra: Con đường nguy hiểm của sự Sanh.
    (2) Jarā kanāra: Con đường nguy hiểm của sự Lão mại.
    (3) Byādhi kanāra: Con đường nguy hiểm của sự Tật bệnh.
    (4) Marana kanāra: Con đường nguy hiểm của sự Chết.
    (5) Dukkha dukkha: Con đường nguy hiểm vì các sự thống khổ.
    (6) Soka: Khổ vì sự ưu não, buồn rầu.
    (7) Parideva: Khổ vì sự khóc than, kể lễ.
    (8) Domanassa: Khổ vì sự ưu bi, phiền não.
    (9) Upāyāsa: Khổ vì khó chịu, bực tức.
    (10) Ditthi: Khổ vì sự kiến chấp, thấy sai chấp lầm.
    (11) Uddhacca: Nguy hiểm vì sự phóng dật.
    (12) Vicikicchā: Nguy hiểm vì sự hoài nghi.
    (13) Sīlabbatta prāmāsa: Nguy hiểm vì giới cấm thủ (Giới chấp ty liệt, cúng tế thần linh, tế đàn).
Đức Phật đã dùng tam thập pháp Ba la mật kết hợp lại làm một thớt tượng dũng mãnh hoặc thành một cỗ xe kiên cố, đã vượt qua mười ba con đường xa xôi và nhiều nguy hiểm tai hại như vừa kể trên, đã đến Vô sanh bất diệt là Niết Bàn. Sau khi tự mình vượt qua, đức Phật đã từ bi dạy bảo chúng sanh dùng những phương tiện quý báu ấy và hướng dẫn chúng sanh vượt qua con đường xa xôi và đầy dẫy những sự thống khổ về sự sanh, sự già, sự bệnh, sự tử v.v... đến nơi an lạc cũng như ngài. Hoặc giả ngài đã dùng tam thập Ba la mật tạo thành một chiếc thuyền, trước tiên tự mình vượt qua sự khổ hải của vòng sanh tử luân hồi, sau đó ngài lại dùng chiếc thuyền đó đưa chúng sanh ra khỏi bờ mê đi đến bến giác.

"Ye te kappasalasahassā dhammam sutvā pannāya pasanti" Chúng sanh nào đã tu tập và trau dồi các pháp Ba la mật được một trăm ngàn đại kiếp, có được phước duyên thính pháp của đức Phật, khiến cho phát sanh trí tuệ thông suốt giáo lý của ngài, được thấy rõ Tứ Thánh Đế, diệt tận ái dục phiền não trong thân tâm bằng A la hán đạo tuệ, chúng sanh ấy đã vượt qua khỏi con đường xa xôi và có nhiều sự thống khổ về sự sanh, nghĩa là không còn thọ sanh vào bào thai của người mẹ nữa, như năm anh em Kiều Trần Như và công tử Yasa cùng năm mươi bốn người bạn của mình.

Theo Liên quan tương sinh (Paticcasamuppāda), còn được gọi là Thập nhị nhân duyên thì các pháp hữu vi đều do bởi nguyên nhân mà phát sanh lên, khi nguyên nhân đã diệt tắt rồi thì các pháp hữu vi ấy cũng phải diệt tắt theo đó.

Sanh (Jāti) là nguyên nhân của Lão, Tử (Jarā Maranam), khi sanh diệt thì Lão, tử cũng diệt theo. Đúng với câu Phật ngôn "Jāti nirodhā Jarā Maranam soka paridevadukkkha domanassupāyāsa nirujjhanti -Khi sanh diệt mất thì sự già, sự chết, thương tiếc, khóc than, khổ não, phiền muộn, bực tức cũng cùng diệt theo tất cả". Vì thế, bậc thánh nhân nào không còn có sự tái tục, là bậc ấy cũng không còn sắc thân ngũ uẩn, cũng không còn có sự già, đau, chết và các điều thống khổ sai khác nữa trong ngày vị lai, vì các pháp hữu vi ấy đều bị diệt tắt, và như thế, bậc thánh nhân ấy đã vượt qua khỏi mười ba con đường xa xôi và rất nhiều nguy hiểm, như vừa kể trên.

3. CHƯ THIÊN VÀ NHÂN LOẠI: Theo từ ngữ Pāli, "Devamanussānam", chư Thiên và Nhân loại, có ý nghĩa là những chúng sanh có rất nhiều thiện duyên, có thể chứng đắc đạo quả ngay trong kiếp hiện tại.

Quả thật là, chẳng phải đức Phật chỉ tế độ đến các hàng chư Thiên và Nhân Loại, mà ngài còn tế độ luôn cả đến các loài súc sanh nữa. Vì mặc dầu, là loài súc sanh trong kiếp hiện tại, nhưng khi được nghe giáo pháp của đức Phật, đã tạo được thiện duyên, và nhờ vào thiện duyên ấy, trong một hay hai ba kiếp vị lai cũng sẽ đực chứng đắc đạo quả. Một lẽ nữa, các loài súc sanh ấy, trong những kiếp quá khứ, khi còn làm người, lúc làm Thiên tử v.v... đã kết tụ nhiều thiện duyên, cho đến kiếp hiện tại, tuy phải trả quả khổ do nghiệp ác đã tạo nên phải làm thân súc sanh, nhưng thiện duyên vẫn còn tồn tại, cho nên đến kiếp hiện tại hội túc duyên và phước báu được gặp đức Phật tế độ.

Ví như tích chuyện về Thiên tử Mandūka (con ếch) sau đây:

Vào thời đức Phật còn thuyết pháp độ dân chúng trong thành Campā, canh bờ hồ Gaggarā, có một con ếch nhận biết được chỉ có một tiếng trong lời nói của đức Phật. Lúc bấy giờ, có một người chăn bò đứng gần đó, chống cây gậy bọc sắt trên mặt đất, nào ngờ trúng ngay con ếch và đè bẹp nát đầu con ếch. Con ếch chết ngay tại nơi đó và liền tục sanh vào cõi Đao Lợi thiên trong một thiên cung rộng lớn tới mười hai do tuần, như là vừa mới thức dậy sau một giấc ngủ. Kh nhìn thấy Thiên cung chói sáng và đoàn chư Thiên nữ bao quanh mình, vị Thiên tử ngạc nhiên tự hỏi: "Ta dã làm điều phước thiện nào mà có được như vầy?" Sau khi cố công tìm kiếm trong trí não thì nhớ ra rằng điều phước thiện đã làm không chi hơn là sự nhận biết được chỉ có một tiếng nói trong lời thuyết pháp của đức Phật. Vị Thiên tử liền đi đến diện kiến và đảnh lễ đức Phật.

Mặc dù đã rõ biết, tuy nhiên đức Phật vẫn nêu lên lời vấn hỏi bằng lời kệ rằng: "Ko me vandati pādāni iddhiyā yasasā jalam abhikantena vannesa sabbā obbāsayam disā - Vị nào có nhiều thần lực, có địa vị cao quý và có hào quang rực rỡ chiếu sáng khắp cả bốn phương, đến đảnh lễ dưới chân Như Lai đó?"

Vị Thiên tử bèn bạch bằng lời kệ rằng: "Mandukoham pure āsim udake vārigocaro tava dhammam sunantassa avadhi vacchapalako - Kính bạch đức Thế Tôn, lúc trước con là một con ếch sống dưới nước. Trong khi đang nghe pháp thoại do đức Thế Tôn khải thuyết thì người chăn bò đã vô ý giết chết mạng sống của con".

Liền sau đó, đức Phật đã khải thuyết pháp thoại cho vị Thiên tử ấy nghe. Có tám muôn bốn ngàn Thiên chúng được chứng đắc đạo quả ngay trong lúc đó, và vị Thiên tử Mandūka chứng đắc Thất Lai quả, hoan hỷ duyệt ý, đảnh lễ đức Phật và quay trở lại Thiên cung.


Do nhờ những ân đức cao quý như đã vừa giải thích ở phần trên, nên đức Phật có danh hiệu là Thiên Nhân Sư (Satthādevamanussānam).


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Ân Đức Tam Bảo

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

IX. BUDDHO - PHẬT
Tại sao đức Phật có danh hiệu BUDDHO (PHẬT)? Bởi ngài là:
  • - Bậc đã giác ngộ.
    - Bậc đã thoát ly.
    - Bậc đã thông suốt lý Tứ Thánh Đế và đem ra giáo hóa chúng sanh cũng được biết như ngài.
1. BẬC ĐÃ GIÁC NGỘ:

Đức Phật là bậc đã giác ngộ, vì ngài đã diệt trừ bảy pháp thụy miên (Anusaya - Tùy miên ở Pháp ngủ ngầm), có bảy, đó là:
  • (1) Dục ái tùy miên (Kāmarāgānusaya).
    (2) Hữu ái tùy miên (Bhavarāgānussaya).
    (3) Sân hận tùy miên (Patighānusaya).
    (4) Ngã mạn tùy miên (Mānānusaya).
    (5) Tà kiến tùy miên (Ditthānusaya).
    (6) Hoài nghi tùy miên (Vicikicchānusaya).
    (7) Vô ninh tùy miên (Avijjānusaya).
Đức Phật là bậc đã giác ngộ, có nghĩa là chính ngài đã tự liễu tri tường tận (Bujjhi) và diệt trừ trong tâm hết cả bảy pháp ngủ ngầm như vừa kể trên. Sau đó, đức Phật lại giáo hóa chúng sanh đang ngủ mê hoặc đang ngủ quên trong các pháp ấy đặng cho tỉnh thức và giác ngộ như ngài đã giác ngộ. Chúng sanh nào tròn đủ thiện duyên, thì tức thời giác ngộ, với chúng sanh nào ít thiện duyên thì mãi còn trôi lăn trong vòng luân hồi.

Đức Phật đã tự mình giác ngộ, không người nhắc nhở hoặc làm cho giác ngộ, do chính nhờ vào tam thập pháp Ba la mật mà ngài đã trau dồi và tu tập trong suốt bốn A tăng kỳ và một trăm ngàn đại kiếp. Chính nhờ vào sự tu tập viên mãn tam thập pháp Ba la mật này đã làm cho ngài thành tựu đạo quả giác ngộ.

Từ khi thành đạo quả dưới cội cây Bồ đề cho đến lúc viên tịch Niết Bàn, đức Phật đã châu du hoằng hóa để tế độ chúng sanh trong suốt bốn mươi lăm năm dài, không ngừng nghỉ với hạnh ngộ tự giác ngộ và độ tha. Ngài đã thấy rõ điều tội lỗi và khổ não trong sự si mê và sự an lạc trong sự giải thoát Niết Bàn. Đức Phật đã thấy rõ sanh đang chìm ngập trong vòng khổ hải, nên khởi tâm bi mẫn rộng lớn bao la, lo lắng nhắc nhở, cảnh tỉnh (Bodhesi) chúng sanh còn đang ngủ mê trong vòng sanh tử luân hồi cho có được sự tỉnh thức và giác ngộ như ngài đã giác ngộ.

2. BẬC ĐÃ THOÁT LY:

Đức Phật là bậc đã thoát ly, ra khỏi vô minh. Vô minh (Avijjā) có hai nghĩa, đó là:
  • (1) Adassanam: Không thấy.
    (2) Annānam: Không biết.
Nơi đây, Vô minh có nghĩa là không thấy, không biết những pháp chân lý là Tứ Thánh Đế. Có bốn điều, đó là:
    1. Dukkhe annānam: Bất liễu tri về Khổ đế. Chúng sanh có thức tánh như Trời, người, súc sanh v.v... đang bị các sự thống khổ đè nén hãm hại không ngừng, là sự khổ Sanh, sự khổ Già, sự khổ Bệnh, sự khổ Chết, sự khổ thương tiếc, sự khổ khóc than, sự khổ phiền muộn, sự khổ thất vọng v.v... nhưng vẫn cứ thản nhiên dường như không hay, không biết về những sự thống khổ ấy, vẫn miệt mài vui say trong ngũ trần, lục dục, cứ mãi chấp vào cái khổ cho là vui, cái uế trược cho là thanh tịnh, cái chi là vô thường lại cho là bền vững v.v...
    2. Dukkhasamudaye annānam: Bất liễu tri về Tập đế, có nghĩa là không thấy, không biết về Tập đế là ái dục (có ba hoặc 108), là nguyên nhân phát sanh ra Khổ đế.
    3. Dukkha nirodhe annānam: Bất liễu tri về Diệt đế, có nghĩa là không thấy, không biết về Diệt đế, là Niết Bàn, là sự tận diệt Tập đế.
    4. Dukkha nirodha gāminīpatipadāya annnānam: Bất liễu tri về Đạo đế, có nghĩa là không thấy, không biết về Đạo đế, là con đường dẫn đến sự diệt tận Khổ đế (Vô minh vừa được giải thích ở phần trên, là theo Tạng kinh. Còn theo phần Vô Tỷ pháp thì có tám điều, với bốn điều vừa kể trên, lại tính thêm bốn điều nữa, đó là:
      • (a) Bất liễu tri nhân đã qua (Pubbante annānam): không rõ biết về sự sơ khởi của ngũ uẩn là từ lúc nào.
        (b) Bất liễu tri quả hiện tại (Aparante annānam): không rõ biết về chỗ cuối cùng của ngũ uẩn là lúc nào.
        (c) Bất liễu tri nhân quả tương quan (Pubbantāparante annnānam: không rõ biết về sự khởi thủy và chỗ cuooci cùng của ngũ uẩn.
        (d) Bất liễu tri liên quan tương sinh (Paticcasamuppāde annānam: không rõ biết về lý nhân quả liên quan dựa theo Thập nhị nhân duyên.
Màn vô minh đã bao trùm tất cả chúng sanh không cho thấy được ánh sáng, tức là trí tuệ thấy rõ, biết rõ những pháp chân lý, ví như con gà chưa nở, vẫn còn nằm trong vỏ trứng thì không thể thấy được ánh sáng mặt trời được. Đến khi gà con đó, cố gắng lấy mỏ cứng soi vỏ trứng, lấy chân phá lỗ cho rộng, mới chui ra khỏi vỏ và lúc bấy giờ gà con mới thấy ánh sáng của mặt trời được.

Đức Phật là người đầu tiên đã phá tan vỏ trứng vô minh bao bọc tâm thức của ngài từ bao A tăng kỳ kiếp quá khứ, và ngài đã chứng đắc được tuệ giác liễu tri thấu triệt các pháp Tứ Thánh Đế, sau đó thì đức Phật đã nỗ lực tinh cần thực hành phận sự của một vị Phật (Buddha Kicca) không ngừng nghỉ để tế độ chúng sanh cho đến viên tịch Niết Bàn.

Phận sự của đức Phật trong đời sống hàng ngày có năm điều như sau:
  • (1) Pubbante pindapātam: Buổi sáng ,đức Phật đi trì bình khất thực.
    (2) Sāyanke dhammadesanam: Buổi trưa, đức Phật thuyết giảng độ hàng Phật tử tại gia.
    (3) Padose bhikkhu ovādam: Buổi chiều, đức Phật ban huấn từ cho hàng Tỳ kheo Tăng.
    (4) Addharatte devapanhanam: Vào lúc nửa đêm, đức Phật trả lời những câu hỏi của chư Thiên.
    (5) Paccūseva gote kale bhabbābahbbe vilokanam: Gần rạng đông sáng, đức Phật quán xét đến chúng sanh hữu duyên để tế độ.
3. BẬC ĐÃ THÔNG SUỐT LÝ TỨ THÁNH ĐẾ: Đức Phật đã liễu tri và thấu triệt bốn pháp chân lý, là Tứ Thánh Đế (Ariyasacca), đó là:
  • (1) Dukkha sacca: Khổ đế.
    (2) Samudaya sacca: Tập đế.
    (3) Nirodha sacca: Diệt đế.
    (4) Magga sacca: Đạo đế.
    • a. Mỗi Thánh đế đều có Tứ trạng thái hoặc nghĩa lý như sau:
      • (a) Tứ trạng thái của Khổ đế:
        • Pilanattho: Có năng lực hãm hại, phá hoại chúng sanh.
        • Sankhatattho: Có trạng thái do bởi nguyên nhân là ái dục tạo nên.
        • Santāpattho: Có năng lực làm cho nóng nảy, bực bội.
        • Viparināmattho: Có trạng thái luôn luôn thay đổi, không bền vững.
        (b) Tứ trạng thái của Tập đế:
        • Āyuhatanattho: Có năng lực hội hợp các sự khổ để cho phát sanh lên.
        • Nidānattho: Có trạng thái là nguyên nhân của sự khổ (sự khổ là quả).
        • Samyogattho: Có năng lực cột trói, giam hãm chúng sanh trong tam giới (trong sự khổ).
        • Palibodhanattho: Có năng lực làm cho bận rộn chúng sanh trên con đường giác ngộ, là không cho chứng đắc đạo quả.
        (c) Tứ trạng thái của Diệt đế:
        • Nissaranattho: Có năng lực làm cho thoát khỏi phiền não (sự khổ) và ra khỏi tam giới.
        • Visekattho: Có trạng thái an tịnh, lánh xa sự khổ.
        • Asankhatattho: Có trạng thái không do nguyên nhân nào tạo thành (vô sanh).
        • Smatattho: Có trạng thái bất tử (bất diệt).
        (d) Tứ trạng thái của Đạo đế:
        • Niyānattho: Có năng lực đưa ra khỏi vòng sanh tử luân hồi.
        • Hetvattho: Có tánh cách là nguyên nhân đưa đến Niết Bàn.
        • Dassanattho: Có năng lực làm cho thấy rõ Niết Bàn.
        • Adhipateyyattho: Có tánh cách quan trọng trong các pháp hành đặng cho thấy rõ Niết Bàn.
      b. Đặc tướng (Lakkhana) của Tứ Thánh Đế có hai thể loại, đó là:
      • (a) Sankkhāta lakkhana: Đặc tướng hữu vi gồm có ba, là:
        • Uppādo: Sanh.
        • Thīti: Trụ.
        • Vayo: Diệt.
        (b) Asankhāta lakkhan: Đặc tướng vô vi gồm có ba, là:
        • Anuppādo: Bất sanh.
        • Nathīti: Bất trụ.
        • Navayo: Bất diệt.
      c. Sự vụ (Kicca):
Tứ Thánh Đế, nếu chia theo pháp thiện (Kusala), pháp bất thiện (Akusala) và pháp vô ký (Abyākata) thì Tập đế là pháp bất thiện, Đạo đế là pháp thiện, Diệt đế là pháp vô lý, Khổ đế là cả hai, vừa là pháp thiện và vừa là pháp bất thiện.

Khổ đế là pháp thiện khi đi đôi với Đạo đế (pháp thiện) có nghĩa là khi người nào cố gắng học kinh sách và tu thiền, hoặc trau dồi tu tập mười ba pháp Đầu đà, hoặc chuyên cần làm những việc thiện (xả thí, trì giới v.v...). Trong sự nghiên cứu học hỏi gọi là Khổ, nhưng những hành vi ấy đều là nghiệp thiện, nên mới gọi Khổ đế là pháp thiện.

Khổ đế là pháp bất thiện khi đi đôi với Tập đế (Pháp bất thiện) có nghĩa là khi người nào cố gắng làm những điều bất thiện (sát sanh, trộm cắp, tà hạnh v.v...) nhiều khi phải dầm mưa, dãi nắng để tìm kiếm mưu sinh, để thỏa lòng dục vọng và luôn có tâm lo sợ (sợ bị chê bai, bị hình phạt v.v...) như thế gọi là Khổ. Lại nữa, những hành vi ấy đều là nghiệp bất thiện, nên mới gọi Khổ đế là pháp bất thiện.
  • Quán tưởng về ngũ uẩn theo lý Tứ Thánh Đế
Nếu quán tưởng về ngũ uẩn theo lý Tứ Thánh Đế thì phải quán tưởng từng mỗi một uẩn. Trước tiên là Sắc uẩn. Sự vui thích nào đã phát sanh lên từ nơi Sắc, gọi là sự vui thích của Sắc. Ấy là Tập đế, có thể giác ngộ được bằng sự dứt bỏ.

Sắc không bền vững, là khổ não, luôn luôn thay đổi vô thường, gọi là tội lỗi của Sắc phát sanh lên từ nơi Sắc. Ấy là Khổ đế, có thể giác ngộ được bằng sự nhận thức.

Sự dứt bỏ được tâm ham muốn trong Sắc, gọi là thoát ly khỏi Sắc. Ấy là Diệt đế, có thể giác ngộ được bằng cách làm cho thấu triệt rõ ràng.

Bát chánh đạo gồm có Chánh kiến v.v... gọi là Đạo đế, có thể giác ngộ được qua con đường chú niệm thẩm sát.

Cũng cùng một phương thức trên, nên quán tưởng thêm về Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn và Thức uẩn như ở phần quán tưởng về Sắc uẩn.
  • Quán tưởng nhân quả liên quan theo lý Tứ Thánh Đế
Pháp nhân quả liên quan (Paticca samuppāda - Liên quan tương sinh) có mười hai chi nương với nhau và liên hệ chặt chẽ. Chi này là nhân của chi sau và cũng là quả của chi trước, liên quan với nhau ví như một sợi dây xích có mười hai khoen liền nhau, khoen này là quả của khoen trước và cũng là nhân để nối liền với khoen sau:
  • (a) Vô minh (Avijjā) sanh ra Hành.
    (b) Hành (Sankhāra) sanh ra Thức.
    (c) Thức (Vinnāna) sanh ra Danh sắc.
    (d) Danh sắc (Nāmarūpa) sanh ra Lục xứ.
    (e) Lục xứ (Salāyatana) sanh ra Xúc
    (f) Xúc (Phasa) sanh ra Thọ.
    (g) Thọ (Vedanā) sanh ra Ái.
    (h) Ái (Tanhā) sanh ra Thủ.
    (i) Thủ (Upādāna) sanh ra Hữu.
    (j) Hữu (Bhava) sanh ra Sanh.
    (k) Sanh (Jāti) sanh ra Lão tử (Jarā Maranam).
    (l) Luôn cả sự thương tiếc, khóc than, khó chịu, phiền muộn v.v... là những sự thống khổ cùng phát sanh lên với sự già, sự chết thảnh ra chi thứ mười hai.
Nếu quán tưởng mười hai chi của pháp Liên quan tương sinh ấy theo lý Tứ Thánh Đế, thì như sau:
  • - Lão Tử là Khổ đế. Sanh là Tập đế. Sự thoát ly khỏi Lão Tử và Sanh là Diệt đế. Tuệ liễu tri Diệt đế là Đạo đế.
    - Sanh là Khổ đế. Hữu là Tập đế. Sự thoát lý khỏi Sanh và Hữu là Diệt đế. Tuệ liễu tri Diệt đế là Đạo đế.
    - Hữu là Khổ đế. Thủ là Tập đế. Sự thoát lý khỏi Hữu và Thủ là Diệt đế. Tuệ liễu tri Diệt đế là Đạo đế.
    - Thủ là Khổ đế. Ái là Tập đế. Sự thoát lý khỏi Thủ và Ái là Diệt đế. Tuệ liễu tri Diệt đế là Đạo đế.
    - Ái là Khổ đế. Thọ là Tập đế. Sự thoát lý khỏi Ái và Thọ là Diệt đế. Tuệ liễu tri Diệt đế là Đạo đế.
    - Thọ là Khổ đế. Xúc là Tập đế. Sự thoát lý khỏi Thọ và Xúc là Diệt đế. Tuệ liễu tri Diệt đế là Đạo đế.
    - Xúc là Khổ đế. Lục căn là Tập đế. Sự thoát lý khỏi Xúc và Lục căn là Diệt đế. Tuệ liễu tri Diệt đế là Đạo đế.
    - Lục căn là Khổ đế. Danh sắc là Tập đế. Sự thoát lý khỏi Lục căn và Dánh sắc là Diệt đế. Tuệ liễu tri Diệt đế là Đạo đế.
    - Danh sắc là Khổ đế. Thức là Tập đế. Sự thoát lý khỏi Danh sắc và Thức là Diệt đế. Tuệ liễu tri Diệt đế là Đạo đế.
    - Thức là Khổ đế. Hành là Tập đế. Sự thoát lý khỏi Thức và Hành là Diệt đế. Tuệ liễu tri Diệt đế là Đạo đế.
    - Hành là Khổ đế. Vô minh là Tập đế. Sự thoát lý khỏi Hành và Vô minh là Diệt đế. Tuệ liễu tri Diệt đế là Đạo đế.
Những sự thống khổ do bởi sự già, sự chết, sự thương tiếc, sự khóc than, sự khổ não, sự khó chịu, bực tức, sự thất vọng v.v.., gọi là Khổ đế. Đức Phật đã liễu tri một cách tường tận, tinh thông về Vô minh và Ái dục là hai nguồn gốc (Mūla) của bánh xe nhân quả, là căn cội của bánh xe luân hồi, là nguyên nhân phát sinh ra sự Khổ, gọi là Tập đế. Do nhờ chứng đắc đạo quả, đức Phật đã cắt đứt (diệt tận) cả hai gốc rễ ấy. Vô minh và ái dục đã bị diệt rồi, thì các pháp khác còn lại, như là Hành, Thức, Danh sắc v.v... cũng tuần tự bị diệt theo và bánh xe nhân quả cũng ngừng xoay. Sự diệt tận ấy gọi là Diệt đế. Do nhờ vào thiền Chỉ và thiền Minh sát, đức Phật đã làm cho thấy rõ con đường đi đến nơi diệt tận sự Khổ, gọi là Đạo đế.

Sau khi giác ngộ, thông suốt lý Tứ Thánh Đế, đức Phật đem ra giáo hóa chúng sanh cùng biết với, ngõ hầu thực hành theo để diệt tận các sự thống khổ và được giải thoát cũng như ngài đã giải thoát.

Lại nữa, đức Phật có được danh hiệu là Phật (Buddho) cũng do những ân đức sau đây:

4. Sabbadassāvitā Buddho: Đức Phật đã thấy rõ những điều nguy hại trong quá khứ, vị lai và hiện tại (có ý đề cập đến các điều kinh sợ mà chúng sanh phải chịu khi sa vào tứ ác đạo là địa ngục, ngạ quỷ, A tu la và súc sanh (Duggati bhaya - Kinh Sợ Khổ Thú).

5. Khīnāsavankhātena Buddho: Đức Phật không còn ở trong ba pháp trầm luân (Āsava) à trầm luân trong ngũ trần (Kāmāsava), trầm luân trong tam giới (Bhavāsava) và trầm luân trong vô minh (Avijjāsava).

6. Nirupakilesankhātena Buddho): Đức Phật đã xa lìa thập phiền não (Kilesa) là tham, san, si, ngã mạn, tà kiến, hoài nghi, phóng dật hôn thùy, vô tàm và vô quý.

7. Ekāyamaggam gatoti: Đức Phật đã đi theo con dường chân chánh duy nhất (độc đạo), đó là Trung đạo (Majihimāpatipadā) để đạt đến mục tiêu là Niết Bàn.

8. Eko anuttarasammāsambodhim abhisambuddho: Đức Phật là bậc đã chứng tri giác ngộ chân chánh, thông suốt thập huệ lực (Dasabalanāna) và liễu tri tất cả các pháp hữu vi và vô vi không còn dư sót (Sabbannuta-nàna - Toàn tri diệu giác) không có một vị chư Thiên và Phạm thiên nào sanh bằng (Thập huệ lực - Dasabalanàna) của đức Phật, dó là:
  • (1) Thànàthànannàna - Nhân phi nhân trí: Trí tuệ liễu tri về nguyên nhân hoặc chẳng phải nguyên nhân đúng theo chân lý.
    (2) Vipàkanannàna - Dị thục quả trí: Trí tuệ liễu tri về quả dị thục của nghiệp báp (thiện hoặc bất thiện) đã tạo ra.
    (3) Sabbathagàmimaggannàna- Chư đạo hành trí: Trí tuệ liễu tri về những hành vi tạo tác dắt dẫn chúng sanh đi đến thiện thú hoặc khổ thú.
    (4) Nànàdhàtunnàna - Dị biệt giới trí: Trí tuệ liễu tri về các nguyên tố khác biết với nhau.
    (5) Nànadhimuttinàna - Biệt bạch năng trí: Trí tuệ liễu tri về trình độ cao thấp của chúng sanh.
    (6) Indriyaparopariystannàna - Dị tri quyền trí: Trí tuệ liễu tri về căn cơ sai biệt của chúng sanh
    (7) Jhànàdinnàna - Bất khả thiền trí: Trí tuệ liễu tri về sự thanh tịnh và uế trược trong các tầng thiền và sự giải thoát.
    (8) Pubbenivàsannàna- Túc mạng minh trí: Trí tuệ liễu tri về những tiền kiếp quá khứ của mình và của chúng sanh.
    (9) Cutūpapàtannàna - Sanh tử trí: Trí tuệ liễu tri về sự sanh tử luân hồi của chúng sanh do bởi nghiệp báo (thiện hoặc bất thiện).
    (10) Āsavakkhayannūna - Lậu tận trí): Trí tuệ liễu tri về các pháp trầm luân (lậu hoặc) và diệt tận không còn dư sót.
Do nhờ những ân đức cao quý như đã vừa giải thích ở phần trên, nên đức Phật có danh hiệu là Phật (Buddho)


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Ân Đức Tam Bảo

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

X. BHAGAVĀ - THẾ TÔN
Tại sao đức Phật có danh hiệu là BHAGAVĀ (THẾ TÔN)? Bởi ngài là:
  • - Bậc hữu hạnh (Bhāga).
    - Bậc phân phối (Bhāgī).
    - Bậc cảm thắng Jaya).
    - Bậc đã diệt tận (Bhagga).
    - Bậc đại phước đức (Bhaggavā).
    - Bậc hữu phước (Bhagavantu).
    - Bậc năng vãng lai (Bhaji).
    - Bậc đã dứt nẻo tam giới (Bhavānam antakaroti).
Từ ngữ "Bhagavā" (Thế Tôn) là một danh từ dùng để phát biểu bày tỏ sự tôn kính và lòng sủng ái của chúng sanh đối với đức Phật, vì ngài là bậc tối thượng hơn tất cả chúng sanh và có những ân đức cao quý không ai sánh bằng.

1. BẬC HỮU HẠNH: Đức Phật là bậc hữu hạnh, có nghĩa là có nhiều thiện hạnh thù thắng, là tam thập Ba la mật của ngài đã tạo ra trong bốn A tăng kỳ và một trăm ngàn đại kiếp quả địa cầu, có năng lực đem đến sự an vui cho ngài và cho tất cả chúng sanh trong thế gian và siêu xuất thế gian.

2. BẬC PHÂN PHỐI:
  • (1) Đức Phật đã phân phối tứ vật dụng cho đến chư Tăng do thí chủ đã cúng dường đến ngài.

    (2) Đức Phật đã phân phối lượng vị của giáo pháp, là các pháp đem đến sự lợi ích và cứu cánh giải thoát cho chúng sanh.

    (3) Đức Phật đã phân chia các pháp theo từng chi, từng loại cho rõ ràng minh bạch, vì như pháp có ba chi là pháp thiện, pháp bất thiện và pháp vô ký; có bốn loại tâm là tâm dục giới, tâm sắc giới, tâm vô sắc giới và tâm siêu thế v.v... Đức Phật lại phân tách các pháp ấy ra làm uẩn, xứ, giới, quyền, đế, duyên v.v...
3. BẬC CẢM THẮNG: Sa khi chứng đắc đạo quả Chánh đẳng giác, đức Phật đã đem giáo pháp truyền bá cho tất cả chúng sanh thấm nhuần những pháp vi diệu cứu khổ. Có những hạng người phát tâm chán ngán thế sự phù du, cắt ái ly gia, sống cuộc đời phạm hạnh của giới Tăng già, có hạng người trở nên có đức tin thuần tịnh và tín thành Tam Bảo. Tăng đồ và thiện tín trong giáo pháp của đức Phật trở nên rất đông đảo, không kể xiết.

Lại nữa trên con đường châu du thuyết pháp tế độ chúng sanh, có nhiều lúc bên phía Lục sư ngoại đạo quyết tâm đến chất vấn tranh luận với đức Phật, tuy nhiên ngài không có gặp điều chi trở ngại, thản nhiên bác bỏ những lập luận sai lầm của ngoại đạo và giảng giải cho thấy rõ đâu là chánh đạo và đâu là tà đạo. Chỉ cho chính đức Phật mới có trí tuệ thậm thâm, đầy đủ oai lực cảm thắng Lục sư ngoại đạo kích bác ngài. Có những lúc sau buổi tranh luận, có người tự thấy mình đã lầm lạc từ bấy lâu nay, đã phát tâm quy ngưỡng vào Tam Bảo và trở nên môn đệ của đức Phật.

4. BẬC ĐÃ DIỆT TẬN:

Đức Phật đá phá tan diệt tận tất cả phiền não thô thiển và vi tế, với tham, sân, si là nguồn cội. Hoặc nói một cách khác, đức Phật đã chiến thắng và diệt trừ ngũ ma (Pancamāna) khi còn ngự dưới cội cây Bồ đề trước khi thành đạo quả. Ngũ ma ấy là:
  • (1) Khandha Māra - Ngũ uẩn ma: Chính vì có thân ngũ uẩn này, nên chúng ta mới có những sự thống khổ và cũng vì lầm lạc chấp rằng "Trong ngũ uẩn này có ta, cho sắc uẩn là ta, là của ta, là thân ta v.v..." và chấp vào Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn và Thức uẩn cũng cùng phương thức ấy, nên các sự khổ não mới phát khởi sanh. Cả năm sự chấp vào ngũ uẩn (Upādānakkhadha - Thủ uẩn) ấy được ví như năm tên đạo tặc đi theo khít sát với chúng sanh để chờ dịp hãm hại, nên gọi là ngũ uẩn ma.

    (2) Kisela Māna - Phiền não ma: Phiền não ma có mười hoặc 1,500 đó là: tham, sân, si, ngã mạn, tà kiến, hoài nghi, hôn thùy, phóng dật, vô tàm và vô quý.

    Thập phiền não vừa kể trên, là nguồn cội của pháp bất thiện, thường luôn làm cho chúng sanh nóng nảy, khổ sở không ngừng trong kiếp hiện tại và vị lai, lại phải bị trầm luân mãi trong vòng sanh tử luân hồi, nên gọi là phiền não ma.

    (3) Abhisankhāra Māra - Tối hành ma: Hành vi tạo tác dp bởi thân, lời, ý, cho dù thiện hay bất thiện, đều gọi là pháp hành. Pháp Phi Phúc Tối Hành (Apunnābhisankhāra) có được mười hai, là :tám căn Tham (Lobha mūla), hai căn Sân (Dosa mūla) và hai căn Si (Moha mūla).

    Pháp Phúc Tối Hành (Punnābhisankhāra) có được mười bảy, là: tám thiện Dục giới (Kāmāvacara Kusala), năm thiện Sắc giới (Rūpāvacara Kusala) và bốn thiện Vô sắc giới (Arūpāvacara Kusala).

    Các Phúc Tối Hành và Phi Phúc Tối Hành vừa kể trên đều gọi là Ma vương, vì pháp Phi Phúc Tối Hành thường xúi dục, xô đẩy chúng sanh tạo ra những nghiệp dữ, xấu ác và phải chịu khổ đau trong kiếp hiện tại và bị sa đọa vào trong tứ ác đạo. Còn pháp Phúc Tối Hành thì thường dắt dẫn chúng sanh làm những thiện phước (xả thí, trì giới, tu thiền v.v...) cho được hưởng Nhân Thiên phước báu, hết làm trời đi đến làm người v.v... xoay vần mãi trong tam giới, không thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.

    (4) Devaputta Māra - Thiên ma: Có một hạng chư Thiên bất hoan hỷ và tật đố với những bậc thiện nhân, cứ mãi theo ngăn cản không cho làm những thiện sự, và đứng đầu hạng chư Thiên là một vị chủ tể mà thường được gọi là Ma vương (Māra)[/b, thươgf có một trú xứ riêng biệt (Māradheyya) trong cõi Tha Hóa Tự Tại (Parinimmitavasavatti). Chính vị ma vương này đã đến khuấy rối và cám dỗ đức Bồ tát dưới cội cây Bồ đề, nhưng bị ngài đã cảm thắng do nhờ vào tam thập pháp Ba la mật, nhất là Xả thí Ba la mật cả ba bậc. Lợi khí của Thiên ma vương là ba tấm lưới, là lưới tham dục (Rāga), lưới sân hận (Dosa) và lưới ái dục (Tanhā). Chúng sanh nào bị sa vào trong ba mảnh lưới ấy thì luôn phải chịu khổ đau, cho dù cố vũng vẫy cũng không sao thoát khỏi, ví như loài phi cầm tẩu thú đã dính mắc vào trong lưới của thợ săn rồi thì không dễ gì thoát thân được.

    (5) Macca Māra - Tử thần ma: Gọi là Ma vương, vì sự chết có quyền lực cắt đứt tuổi thọ của chúng sanh. Không có sự khổ nào bằng cái khổ tử. Cho dù không muốn xa lìa những nhân vật thương yêu trìu mến, dầu tâm còn tham luyến vào tài sản sự nghiệp, nhưng một khi tử thần đi đến, thì cho dù là hạng vua chúa hay thường dân, giài sang bay bần hèn, bậc trí thức và hạng thiểu trí, ai ai cũng không thể cưỡng lại được tử thàn.

    Đức Phật đã chiến thắng và diệt trừ tất cả năm hạng ma vương này, do đó ngài được hoàn toàn giải thoát.
5. BẬC ĐẠI PHƯỚC ĐỨC: Đức Phật là đại phước đức với hai ý nghĩa là:
  • (1) Sắc thân hoàn mỹ: Đức Phật có được ba mươi hai tướng tốt và tám mươi tướng phụ.

    (2) Đức hạnh toàn thiện: Đức Phật đã thực hành tròn đủ các thiện pháp và diệt tận các pháp bất thiện xấu ác, không còn dư sót.

    Các hạng chúng sanh ngưỡng mộ vào Sắc thân hoàn mỹ thì phát khởi đức tin thuân tịnh vào đức Phật. Có hạng chúng sanh tin tưởng vào Đức hạnh toàn thiện thì ly gia cắt ái, trở thành môn đệ và vâng theo lời giáo huân của đức Phật.
6. BẬC HỮU PHƯỚC: Đức Phật là bậc có được sáu loại phước báu như sau:
  • (1) Có khả năng đè nén, chế ngự tâm thức không cho việc xấu ác khởi sanh lên.

    (2) Đã thực hành viên mãn các thiện pháp Hiệp thế và Siêu thế.

    (3) Danh thơm tiếng tốt vang lừng khắp cả tam giới và không ai sánh bằng
    (4) Sắc thân rực rỡ như vàng ròng, hào quang phóng túa khắp châu thâu, khiến cho chúng sanh hân hoan duyệt ý khi nhìn thấy đức Phật.

    (5) Khi ước mong đến điều chi hay cần dùng vật chi cho đức Phật và cho người khác, đều được thành tựu như ý nguyện.

    (6) Có chánh tinh tấn là sự cố gắng trong tứ chánh cần, khiến cho các hàng chúng sanh đều thán phục và tôn kính.
7. BẬC NĂNG VÃNG LAI:
  • (1) Đức Phật thường lai vãng ở những nơi thanh vắng, thâm sơn cùng cốc, là những nơi thanh tịnh, lánh xa sự ồn ào náo nhiệt, để an trú tâm thiền định.

    (2) Đức Phật năng lai vãng các pháp hành siêu xuất khỏi thế gian, là các pháp thiền định về Sắc giới và Vô sắc giới, các pháp thiền Minh sát theo tam tướng là Vô thường, Khổ đau, Vô ngã và Bát chánh đạo quả và Niết Bàn.
8. BẬC ĐÃ DỨT NẺO TAM GIỚI: Đức Phật đã dứt nẻo tam giới, có nghĩa là cuộc hành trình của đức Phật trải dài từ bao A tăng kỳ kiếp ở trong tam giới cho đến kiếp hiện tại là đã đến mức cuối cùng, vì nhân sanh là ái dục đã hoàn toàn diệt tận thì bánh xe luân hồi cũng ngừng xoay. Nói một cách khác, đức Phật đã siêu xuất ra khỏi tam giới và không còn tái tục trở lại nữa.

Do nhờ những ân đức cao quý như đã vừa giải thích ở phần trên, nên đức Phật có danh hiệu là Thế Tôn Bhagavā)
Sửa lần cuối bởi battinh vào ngày 21/05/14 04:53 với 1 lần sửa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.12 khách