VI. ANUTTARO - VÔ THƯỢNG SĨ
Tại sao đức Phật có danh hiệu ANUTTARO (VÔ THƯỢNG SĨ)?
Bởi ngài có đức hạnh không ai bằng.
Trong Tương Ưng Bộ Kinh
(Samyutta Nikāya) có một Phật ngôn như sau:
"Như Lai không thấy trên thế gian này luôn cả chư Thiên, Ma vương và Phạm thiên; trong thế hệ này luôn cả đạo sĩ, Bà la môn, vua chúa và nhân loại, có chúng sanh nào có đức hạnh thù thắng hơn cả Như Lai". Quả thật vậy, trong thế gian này không một ai có thể sánh bằng đức Phật, bởi vì ngài có những ân đức cao quý như sau:
1.
Rūpakāyesu anuttaro: Quý trọng vì có sắc thân không tội lỗi, không tật nguyền, có oai nghi (đi, đứng, nằm, ngồi) tốt đẹp, thanh tịnh, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi tướng phụ, có hào quang phún tủa ra sáng ngời, Nhân loại và chư Thiên không ai sánh bằng.
2.
Sīlesu anuttaro: Quý trọng vì giới hạnh. Giới có hai loại, là phàm giới
(Lokiya sīla) và thánh giới
(Lokuttara sīla). Phàm giới là thọ trì về ngũ giới, bát quan trai giới, thập giới và cụ túc giới. Đức Phật đã luôn luôn giữ gìn những giới không bị bợn nhơ khi còn trong vòng sanh tử luân hồi trọn cả bốn A tăng kỳ và một trăm ngàn đại kiếp quả địa cầu. Lại nữa, khi còn là Bồ tát, ngài đã thực hành và trau dồi tròn đủ Trì giới Ba la mật với cả ba bậc, đó là bậc hạ
(Sīla Pāramī), bậc trung
(Sīla Uppapāramī), và bậc thượng
(Sīla Paramattha Pāramī). Về phần thánh giới, từ trong vô lượng kiếp quá khứ, khi còn là Bồ tát, ngài đã thực hành và trau dồi viên mãn về ba pháp chân chánh, là chánh ngữ
(Sammāvācā), chánh nghiệp
(Sammākammanta) và chánh mạng
(Sammāājīva) khiến cho phát sanh thánh đạo và diệt tận các pháp xấu ác.
3.
Samādhimhi anuttaro: Quý trọng vì thiền định. Nói về thiền định (đây thuộc về thiền Chỉ - lấy những đề mục thuộc Sắc giới có ba mươi sáu và Vô sắc giới có bốn đề mục) thì có hai loại, là cận định
(Upacāra samādhi) và nhập định
(Appanā samādhi). Cận định là trạng thái nội tâm an trụ cận kề trong đề mục. Nhập định là trạng thái nội tâm an trụ kiên cố trong một đề mục. Nhập định có hai loại, là: phàm định
(Lokiya samādhi) và thánh định
(Lokuttara samādhi). Phàm định là trạng thái nhập định của hàng phàm nhân, còn duyên theo pháp Hiệp thế, có khi còn phải bị tiêu hoại (Hoại thiền). Thánh định là trạng thái nhập định của bậc thánh nhân, duyên theo pháp Siêu thế, hằng kiên cố và không bị hư hoại.
4.
Pannāsu anuttaro: Quý trọng vì trí tuệ. Có những trường hợp như sau:
- (1) Mahāpanno: Đức Phật có trí tuệ vô lượng, vô biên, chư Thiên và nhân loại không ai sánh bằng.
(2) Puthuppanno: Đức Phật có trí tuệ thậm thâm, sâu dày như quả địa cầu.
(3) Hāsappanno: Đức Phật có trí tuệ làm cho chúng sanh hoan hỷ duyệt ý khi nghe ngài khải thuyết.
(4) Javanappanno: Đức Phật có trí tuệ thông suốt thấu hiểu các pháp một cách mau lẹ.
(5) Tikkhappanno: Đức Phật có trí tuệ sắc bén.
(6) Nibbedhikappanno: Đức Phật có trí tuệ liễu tri trong việc thuyết giảng giáo pháp, không bao giờ lẫn lộn, vấp váp trong khi khải thuyết. Những loại trí tuệ này, chẳng phải đức Phật mới chứng đắc trong khi thành đạt đạo quả, mà trong những kiếp quá khứ, khi còn là Bồ tát, ngài đã thực hành và trau dồi tròn đủ trí tuệ Ba la mật với cả ba bậc, đó là bậc hạ (Sīla Pāramī), bậc trung (Sīla Uppapāramī), và bậc thượng (Sīla Paramattha Pāramī). Lúc bấy giờ, ngài có tên là Mahosatha, Vidhura v.v... đã có trí tuệ vượt trội hơn cả những bậc thiện tri thức đương thời.
5.
Purisasīlamācāresu: Quý trọng vì sanh làm nam nhân
(thái tử Siddhattha) với đầy đủ ngũ quan, diện mạo siêu phàm, học lực xuất chúng, đã thông suốt trọn bộ kinh điển Tam Phệ đà, tài lực kiếm cung xuất chúng, không một nam nhân nào có thể sánh bằng, tất cả mọi người đều cảm phục kính nể.
6.
Bhavassa sammācāresu: Quý trọng vì phẩm hạnh thanh cao hơn tất cả chúng sanh ở trong Tam giới.
7.
Parapuggalavimuttinnāne: Quý trọng vì trí tuệ liễu tri phương pháp giải thoát khỏi các pháp xấu ác (phiền não) hơn các bậc trí thức khác.
8.
Pubbenivāsānusatinnāne: Quý trọng vì trí tuệ liễu tri về các tiền kiếp quá khứ của ngài và của các chúng sanh, là chứng đắc Túc Mạng thắng trí.
9.
Dibbacakkhunnāne: Quý trọng vì đức Phật chứng đắc Thiên nhãn thắng trí.
10.
Kammavipākannāne: Quý trọng vì đức Phật có trí tuệ liễu tri được nghiệp quả của mỗi chúng sanh đều do bởi nghiệp thiện hoặc ác đã tạo ra.
11.
Yamakappātihāriyannāne: Quý trọng vì đức Phật hiện bày song đối Thần Thúc thông, hóa thân làm hai vị Phật, một vị Phật đang thuyết giảng Vô Tỷ Pháp tại cõi trời Đao Lợi thiên để độ thiên mẫu Māyā suốt trọn ba tháng (tính theo cõi Nhân loại) vào hạ thứ bảy của ngài, và một vị Phật đi trì bình khất thực vào mỗi buổi sáng tại Bắc Câu Lô châu và trùng tuyên những Mẫu đề
(Mātikā) về Vô Tỷ Pháp cho đại đức Sāriputta tại Nam Thiệm Bộ châu.
12.
Lokavivaranappātihāriyannāne: Quý trọng vì đức Phật đã dùng thắng trí để làm cho chư Thiên, nhân loại và chúng sanh ở trong cả Tam giới đều được thấy rõ ràng, là ngài đã từ cõi Đao Lợi thiên đi trở xuống lại cõi nhân loại sau ba tháng ngài thuyết giảng để độ thiên mẫu Māyā và tám trăm triệu chư Thiên chứng đắc được quả vị Thất lai (Sơ quả).
13.
Āpattikusalatāya: Quý trọng vì đức Phật liễu tri rành mạch về điều giới học và sự phạm tội, là vị Tỳ kheo đã phạm tội (về điều giới học) hoặc không phạm tội, ngài đều hiểu biết.
14.
Āpattivutthānakusalatāya: Quý trọng vì đức Phật liễu tri rành mạch cách thoát khỏi tội, là nếu vị Tỳ kheo nào sơ ý phạm tội, thì ngài từ bi cho phép thực hành những phương thế giải tội (cách sám hối v.v...)
15.
Dhātukusalatāya: Quý trọng vì đức Phật liễu tri rành mạch về bản chất tứ đại hữu tri
(Upādinnaka dhātu) của chúng sanh và bản chất tứ đại vô tri
(Anupādinnaka dhātu) của đất, núi, sông hồ v.v... luôn cả bản chất của chúng sanh duyệt ý trong tứ đại là đất, nước, lửa, gió.
16.
Manasikārakusalatāya: Quý trọng vì đức Phật liễu tri rành mạch về việc chú tâm ghi nhớ, với điều chi ngài để tâm ghi nhớ thì không bao giờ quên.
17.
Thānāthānakusalatāya: Quý trọng vì đức Phật liễu tri rành mạch về những nguyên nhân và không phải nguyên nhân. Nhân
(Hetu) tại đây là những nhân thiện, gồn có ba là: vô tham, vô sân và vô si.
18.
Dvīsu iddhīsu: Quý trọng vì đức Phật có hai năng lực thù thắng, đó là Tâm Thần túc
(Cittiddhi) là tâm thanh tịnh do nhờ thiền định và Thẩm Thần túc
(Vimamsiddhi) là trí tuệ sáng suốt do nhờ tuệ quán.
19.
Dvīsu anuttariyesu: Quý trọng vì đức Phật có oai đức thù thắng và không ai sánh bằng, đó là giới Cao thù thắng
(Sīlanuttariya) và Trí tuệ thù thắng
(Pannānuttariya).
20.
Tīsukathāvatthūsu: Quý trọng vì đức Phật có ba hạnh cao quí, đó là: xả thí, trì giới và tham thiền.
21.
Tīsusamādhisu: Quý trọng vì đức Phật có ba bậc thiền định, đó là: bậc thiền với hữu Tầm hữu Tứ; bậc thiền với vô Tầm Hữu Tứ và bậc thiền với vô Tầm vô Tứ.
22.
Tīsu pātihāriyesu: Quý trọng vì đức Phật có những điều phi thường khi ngự lên pháp tọa để thuyết pháp, trong lúc đang thuyết pháp và sau khi xuống pháp tọa.
23.
Catūsu Satipatthānesu: Quý trọng vì đức Phật thông suốt và thấu triệt về Tứ Niệm Xứ, đó là: Thân niệm xứ, Thọ niệm xứ, Tâm niệm xứ và Pháp niệm xứ.
24.
Catūsu sampadāsu: Quý trọng vì đức Phật có đủ bốn điều đầy đủ (cụ túc) khiến cho sự phước thí được quả báu cao thượng, đó là:
- (1) Cetanā sampadā: Hội đủ tam tư để thực hiện việc thiện.
(2) Paccaya sampadā: Hội túc duyên, đầy đủ tứ vật dụng.
(3) Vatthu sampadā: Đầy đủ các lễ vật cúng dường.
(4) Gunātireka sampadā: Đầy đủ ân đức của cả hai bậc Bất lai và bậc Vô sanh ngay khi ngài xuất khỏi thiền Diệt (Diệt thọ tưởng định).
25.
Catūsu iddhipādesa: Quý trọng vì đức Phật có đủ năng lực của Tứ Thần túc, đó là: Dục Thần túc, Cần Thần túc, Tâm Thần túc và Thẩm Thần túc.
26.
Catūsu maggesu catūsu phalesu: Quý trọng vì đức Phật đã thành tựu viên mãn về bốn đạo và bốn quả.
27.
Catūsu ariyavamsesu: Quý trọng vì đức Phật có đầy đủ bốn pháp của chủng tộc bậc Thánh, đó là:
- (1) Appiccho: Có sự thiểu dục.
(2) Sallekho: Có sự tri túc.
(3) Saddhā: Đức tin kiên cố trong thập Ba la mật.
(4) Sīlam: Hằng luôn có thanh tịnh giới.
28.
Catūsu vimuttinnānéu: Quý trọng vì đức Phật có trí tuệ liễu tri về bốn phương pháp giải thoát khỏi các pháp xấu ác (phiền não), đó là:
- (1) Pannāvimutti: Giải thoát bằng thánh tuệ, là trí tuệ siêu xuất khỏi thế gian.
(2) Samuccheda vimutti: Giải thoát bằng sự sát trừ diệt tận.
(3) Vikkjambhana vimutti: Giải thoát bằng sự chế ngự của thiền định.
(4) Tadanga vimutti: Giải thoát khỏi các pháp xấu ác (Kiết sử) trong tầng bậc của tuệ quán.
29.
Pancabalesu: Quý trọng vì đức Phật có đầy đủ ngũ lực, đó là: Tín lực (để diệt trừ sự tà kiến, mê tín), Tấn lực (để diệt trừ sự lười biếng, giải đãi), Niệm lực (để diệt trừ tâm thất niệm hoang vu), Định lực (để diệt trừ tâm phóng dật) và Tuệ lực (để diệt trừ sự vô minh).
30.
Pancindriyesu: Quý trọng vì đức Phật có đầy đủ ngũ quyền, đó là: Tín quyền (để diệt trừ sự tà kiến, mê tín), Tấn quyền (để diệt trừ sự lười biếng, giải đãi), Niệm quyền (để diệt trừ tâm thất niệm hoang vu), Định quyền (để diệt trừ tâm phóng dật), Tuệ quyền (để diệt trừ sự vô minh).
31.
Pancābhinnāsu: Quý trọng vì đức Phật có đầy đủ ngũ Thắng trí, đó là: Thiên nhãn thắng trí, Thiên nhĩ thắng trí, Thần túc thắng trí, Tha tâm thắng trí, và Túc mạng thắng trí (với ngũ thắng trí vừa mới kể đây là còn nằm trong phạm vi của hạng phàm nhân, Tuy nhiên, với bậc thánh nhân thì chứng đắc thêm Lậu tận thắng tí là tuệ liễu tri các pháp lậu hoặc, đã làm cho chúng sanh còn phải trầm luân trong vòng sanh tử luân hồi, để diệt tận. Kếp hợp lại thì có cả thảy là Lục thắng trí).
32.
Chaasādhāranannānesu: Quý trọng vì đức Phật có có trí tuệ thù thắng với sáu thể loại như sau:
- (1) Āsayānusayannāna: Trí tuệ liễu tri về các pháp thường lui tới (Āsaya) và các pháp thụy miên ngủ ngầm (Anusaya) trong từng tâm tánh của mỗi chúng sanh.
(2) Indriya - paropariyattinnāna: Trí tuệ liễu tri rõ biết về căn cơ dũng mãnh hay yếu đuối của chúng sanh.
(3) Yamakappātihāriyannāna: Trí tuệ linh hoạt trong việc vận dụng song đối thần túc thông.
(4) Mahākarunā - samāpattināna: Trí tuệ rõ biết về phương pháp tế độ chúng sanh sau khi xuất khỏi Đại bi định.
(5) Sabbanūtannāna: Trí tuệ thông suốt tất cả mọi pháp, không dư sót (Toàn giác).
(6) Anāvarannāna: Trí tuệ thông suốt, không chướng ngại và khuất lấp trong mọi pháp.
33.
Sattavisuddhidesanāna: Quý trọng vì đức Phật khải thuyết về bảy pháp Thanh tịnh, đó là:
- (1) Sīla visuddhi: Giới thanh tịnh.
(2) Citta visuddhi: Tâm thanh tịnh (tu tập làm cho tâm phát sanh Cận định và Nhập định).
(3) Ditthi visuddhi: Kiến thanh tịnh (là trí tuệ liễu tri về "Danh và Sắc" do sự kết hợp của tứ đại và hằng chi phối với tam tướng là Vô thường, Khổ đau và Vô ngã).
(4) Kankhāvitaram visuddhi: Đoạn nghi thanh tịnh (là trí tuệ thấy rõ nhân duyên của "Danh và sắc" và diệt trừ khỏi hoài nghi về danh sắc).
(5) Maggamaggannānadassana visuddhi: Đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh (là trí tuệ liễu tri trung thực, không sai lầm về Thập tùy phiền não).
(6) Patipadānānadassana visuddhi: Đạo tri kiến thanh tịnh (là trí tuệ thấy rõ phương thức tiến hóa qua việc trau dồi con đường tiến hóa thiền Minh sát và tuệ quán).
(7) Nānadassana visuddhi: Tri kiến thanh tịnh (là trí tuệ siêu xuất khỏi thế gian, chứng trí Tứ Thánh đạo và Tứ thánh quả).
34.
Sattākhīnāsavabalesu: Quý trọng vì đức Phật liễu tri thấu triệt đạo tuệ của bảy bậc thánh nhân, là những bậc thánh hữu học
(Sekkhapuggala) có năng lực diệt trừ từng giai đoạn những pháp trầm luân, nhất là kiết sử. Những bậc thánh hữu học, đó là: Thất lai đạo và quả; Nhất lai đạo và quả; Bất lai đạo và quả; Vô sanh đạo.
35.
Navasattāvāsadesanāsu: Quý trọng vì đức Phật đã khải thuyết về chín chỗ trú ngụ của chúng sanh, đó là:
- (1) Nānattakāyā nānattasanni - Thân dị tưởng dị: Thân hình khác nhau, tư tưởng khác nhau, như là nhan loại, chư Thiên và một số trong địa ngục.
(2) Nānattakāyā ekattasanni - Thân dị tưởng đồng: Thân hình khác nhau, nhưng tư tưởng giống nhau, như là các vị Phạm chúng thiên ở tầng Sơ thiền sắc giới.
(3) Ekattakāya nānattasanni- Thân đồng tưởng dị: Thân hình giống nhau, nhưn tư tưởng khác nhau, như là các vị Quang Âm thiên ở tầng Nhị thiền sắc giới.
(4) Ekattakāya ekattasanni - Thân đồng tưởng đồng:Thân hình giống nhau và tư tưởng cũng giống nhau, như là các vị Biến Tịnh Thiên ở tầng Tam thiền sắc giới.
(5) Asanni satta - Vô tưởng vô thọ: Chúng sanh sống mà không có tâm thức, như là chúng Phạm thiên Vô tưởng Sắc giới.
(6) Ākāsānancayatana - Không Vô biên xứ: Vượt qua khỏi sắc tướng, đoạn trừ tất cả hữu đối tượng, không còn suy tư đến bất luận một di loại tưởng, chỉ có tưởng về "Hư không là vô biên", như các vị trời Phạm thiên Không Vô biên xứ ở cõi Vô sắc giới.
(7) Vinnānancāyatana - Thức Vô Biên Xứ: Vượt khỏi Không Vô Biên Xứ, chỉ có tưởng về "Thức là vô biên", như là các vị Phạm thiên Thức Vô Biên Xứ ở cõi Vô sắc giới.
(8) Ākincannāyatanna - Vô Sở Hữu Xứ: Vượt khỏi Thức Vô Biên Xứ, chỉ có tưởng về "Không có chi cả", như là các vị Phạm thiên Vô Sở Hữu Xứ ở cõi Vô sắc giới.
(9) Nevasannānāsannāyatana - Phi Phi Tưởng Xứ: Vượt khỏi hoàn toàn Vô Sở Hữu Xứ, chỉ có tưởng về "Chẳng phải tưởng, chẳng phải chẳng phải tưởng", như là các vị Phạm thiên Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ ở cõi Vô sắc giới.
36.
Dasasināyatananesu: Quý trọng vì đức Phật liễu tri về những đề mục Thập hoàn tịnh, đó là: Đất, Nước, Lửa, Gió, màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng, Hư không và Ánh sáng.
37.
Ekādasamettānisansadesanāsu: Quý trọng vì đức Phật liễu tri rõ ràng về mười một quả phước báu của sự rải tâm từ ái, đó là:
- (1) Sukham supati: Khi ngủ được an vui.
(2) Sukham payibujjhati: Khi thức dậy cũng được an vui.
(3) Napākham supinam passati: Không nằm mộng mị điều xấu ác.
(4) Manussānam piyohoti: Nhân loại thương mến.
(5) Amanusānam piyohoti: Phi nhân cũng thương mến.
(6) Devatā rakkhanti: Chư thiên hộ trì.
(7) Nassa aggi vā visam vā sattham vā kamati: Lửa, thuốc độc và khí giới không làm hại được.
(8) Tuvā cittam samādhiyati: Tâm nhập định một cách mau lẹ.
(9) Mukhavanno vippasīdati: Sắc diện và da thịt tươi sáng xinh dẹp.
(10) Asammulho kālam karoti: Khi cận tử lâm chung tâm được an tịnh và không mê loạn.
(11) Uttarim appativijjhanto brahmalokūpago hoti: Nếu chưa chứng đắc đạo quả cao thượng thì được tục sinh về cõi Phạm thiên sắc giới.
38.
Dvādasākusaladesanānu: Quý trọng vì đức Phật liễu tri rõ biết tâm tánh của chúng sanh ở trong điều tội lỗi, xấu ác, do bởi mười hai tâm bất thiện
(Akusalacitta), gồm có tám tâm tham, hai tâm sân và hai tâm si.
39.
Terasa dhūtangagunesu: Quý trọng vì đức Phật thông suốt và liễu tri về mười ba pháp Đầu đà, đó là:
- (1) Pamsukūlika: Hạnh đầu đà với lượm vải quấn tử thi.
(2) Tecīvarika: Hạnh đầu đà chỉ có tam y.
(3) Pindapātika: Hạnh đầu đà chỉ trì bình khất thực không thọ trai Tăng.
(4) Sapadānacarika: Hạnh đầu đà trì bình khất thực theo mỗi nhà, mỗi xóm.
(5) Ekāsanika: Hạnh đầu đà chỉ ngồi thọ thực trong một chỗ (chỉ thọ một lần trong ngày mà thôi).
(6) Pattapindika: Hạnh đầu đà chỉ dùng vật thực trong một bát mà thôi.
(7) Khalupacchā - bhattika: Hạnh đầu đà không thọ vật thực người đã dâng cúng rồi thì không được phép thọ vật thực nơi nào nữa.
(8) Ārannika: Hạnh đầu đà chỉ trú ngụ trong rừng (không trú ngụ trong làng xóm).
(9) Rukkha mūkika: Hạnh đầu chỉ trú ngụ ở nơi cội cây hoặc ở gần đó.
(10) Abbhokāsika: Hạnh đầu đà chỉ trú ngụ ở ngoài trời, khoảng trống (dù ở trong bóng cây cũng không được).
(11) Sosānika: Hạnh đầu đà chỉ trú ngụ ở nghĩa địa, mộ mả hoặc nơi lìa bỏ tử thi.
(12) Yathāsanthatika: Hạnh đầu đà chỉ trú ngụ mà chư Tăng đã chỉ định đầu tiên, không dời đổi đi nơi khác.
(13) Nasajjika: Hạnh đầu đà ngăn oai nghi nằm, chỉ dùng các oai nghi đi, đứng, ngồi.
40.
Cuddasabuddhannānesu: Quý trọng vì đức Phật hoàn toàn sáng suốt vô lượng vô biên với mười bốn thể loại, đó là:
- (1) Dukkhe nānam: Trí tuệ liễu tri Khổ đế là xác thực.
(2) Dukkha samudaye: Trí tuệ liễu tri Khổ Tập đế là xác thực.
(3) Dukkha nirodhe nānam: Trí tuệ liễu tri Khổ Diệt đế là xác thực.
(4) Dukkkha nirodhagāminīpati - padāya naānam: Trí tuệ liễu tri Khổ Đạo đế là xác thực,
(5) Atthapatisambhidā: Trí tuệ liễu tri về nghĩa lý vô ngại giải.
(6) Dhammapatisambhidā: Trí tuệ liễu tri về pháp lý vô ngại giải.
(7) Niruttipatisambhidā: Trí tuệ liễu tri về từ ngữ vô ngại giải.
(8) Patibhānapatisambhidā: Trí tuệ liễu tri về ứng biện vô ngại giải.
(9) Āsayānusayannāna: Trí tuệ liễu tri về các pháp thường lui tới (Āsaya và các pháp thùy miên ngủ ngầm (Anusaya) trong từng tâm tánh của mỗi chúng sanh.
(10) Indriyaparopariyattinnāna: Trí tuệ liễu tri rõ biết về căn cơ dũng mãnh hay yếu đuối của chúng sanh.
(11) Yamakappātihāriyannāna: Trí tuệ linh hoạt trong việc vận dụng song đối Thần túc thông.
(12) Mahākarunāsamāpattināna: Trí tuệ rõ biết về phương pháp tế độ chúng sanh sau khi xuất khỏi Đại bi định.
(13) Sabbanūtannāna: Trí tuệ thông suốt tất cả mọi pháp, không dư sót (Toàn giác).
(14) Anāvarannāna: Trí tuệ thông suốt, không chướng ngại và khuất lấp trong mọi pháp.
41.
Ekasīsatikusaladesanāsu: Quý trọng vì đức Phật khải thuyết tường tận về việc phân tích các tâm thiện trong các cõi giới, đó là:
- (1) Kāsāvacarakusala: Tám tâm thiện trong cõi Dục giới.
(2) Rūpāvacarakusala: Năm tâm thiện trong cõi Sắc giới.
(3) Arūpāvacarakusala: Bốn tâm thiện trong cõi Vô Sắc giới.
(4) Lokuttarakusala: Bốn tâm thiện Siêu thế của các bậc Thánh nhân.
42.
Cattuvisatipaccayadesanāsu: Quý trọng vì đức Phật đã khải thuyết về Đại phát thủ
(Mahāpatthāna) với hai mươi bốn duyên
(Paccaya) được bắt đầu từ nhân duyên
(Hetapaccaya) và cuối cùng là Bất ly duyên
(Avigatapaccaya).
43.
Kotisatasahassa sancarita dhamma vajīrannānesu: Quý trọng vì đức Phật có trí tuệ thông suốt và liễu tri vô lượng pháp môn như là:
- - Nhị đề phát thủ (Dukapatthāna).
- Tam đề phát thủ (Tikapatthāna)
- Nhị đề tam đề phát thủ (Dukatikapatthāna)
- Tam đề nhị đề phát thủ (Tikadukapatthāna) v.v...
Do nhờ những ân đức cao quý như đã vừa giải thích ở phần trên, nên đức Phật có danh hiệu là Vô Thượng Sĩ
(Anuttaro).