Re: KINH HIỀN NGU
Đã gửi: 21/01/16 17:02
Cách mấy bữa sau, Ngài và ông Tu Đạt, đo đất tại khu vườn Kỳ Hoàn, mỗi người cầm một đầu dây, thấy Ngài mỉm cười! Ông hỏi:
- Tôn giả cười gì?
- Tôi cùng ông cầm dây đo, vừa hết một vòng vườn này, thì cung điện ở trên sáu cõi trời đã làm xong! Vì thế mà tôi cười!
- Vì lý do gì Tôn giả cười?
- Vì ông làm Tinh xá cúng Phật nên phúc của ông được ở các cung điện cõi trời, hiện ra nhanh như vậy! Tôi sẽ cho ông mượn đạo nhãn mà coi!
Ông Tu Đạt nhờ đạo nhãn, nhìn thấy những cung điện rất trang nghiêm đẹp đẽ, dành riêng cho mình trên sáu cõi trời, thưa rằng:
- Kính thưa Tôn giả trong sáu cõi này; cõi nào vui hơn nhất.
- Ba cõi dưới đam hoang về sắc dục nhiều, đến cõi thứ tư, là những người ít dục biết đủ, thường có những Bồ tát nhất sinh bổ xứ sinh tới, tiếng thuyết pháp không lúc nào ngớt. Trên, còn hai cõi nữa, chúng sinh ở đấy có tính kiêu mạn dậc lạc; buông lung lu bù.
- Kính thưa Tôn giả! Nếu vậy, đời sau con nguyện sinh lên cõi thứ tư!
Ông nguyện xong, các cung điện kia đều diệt hết, mà chỉ nhìn thấy cung điện cõi thứ tư, yên nhiên không biến động, bắt đầu đo, ông nhìn thấy Ngài có sắc buồn! Bèn hỏi:
- Tôn giả, tại sao Ngài có vẻ buồn?
- Trưởng giả có nhìn thấy đàn kiến này không?
- Dạ, thưa Tôn giả, có nhìn thấy!
- Trưởng giả, vì chưa có đạo nhãn, nên không biết nguyên uỷ đám kiến này. Đời quá khứ cũng ở khu đất này, ông làm Tinh xá cúng dàng đức Phật Tỳ Bà Thi, thì đàn kiến này nó ở đây! Đến đời đức Phật Thi Khí, ông cũng làm Tinh xá ở khu đất này cúng Phật, đàn kiến này nó cũng sinh ở đây! Đến đời đức Phật Tỳ Xá Phú ông cũng làm Tinh xá ở khu đất này cúng Phật, thì đàn kiến này nó cũng sinh đây! Đến đời đức Phật Câu Lưu Tôn ông cũng làm Tinh xá ở khu đất này cúng Phật, đàn kiến này nó cũng sinh ở đây! Đến đời đức Phật Na Hàm Mâu Ni ông cũng làm Tinh xá ở khu đất này cúng Phật, đàn kiến này nó cũng sinh ở đây! Đến đời đức Phật Ca Diếp ông cũng làm Tinh xá ở khu đất này cúng Phật, đàn kiến này nó cũng sinh ở đây! Cho đến nay đã chín mươi mốt kiếp, còn phải làm thân con kiến không thôi, biết ngày nào giải thoát? Ông nên coi sinh tử đọa lạc lâu dài như thế, đã mấy ai biết sợ mà cầu giải thoát, cho nên con người có trí phải biết bớt bỏ lòng tham dục si mê mà tu đạo làm thiết yếu.
Tu Đạt nghe xong rơi lệ chứa chan! Thương mình và thương chúng sinh; mê đường lạc nẻo, tham chút vinh lạc nhơ bẩn của thế gian, đến nỗi bỏ thân này, thụ thân kia, lộn vòng xoay trong các thú!
Đo đất xong bắt đầu xây cất Tinh xá, làm riêng một lầu gác bằng gỗ chiên đàn cúng Phật, nơi biệt cư cúng Tăng, làm hai mươi khu, gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị, để hiệp lệnh riêng. Làm xong ông tự nghĩ rằng:
- Dầu sao mình cũng là một kẻ hạ thần của nhà vua, nếu cứ tự do mời Phật, sợ có chướng ngại hoặc vua không hài lòng, vậy ta tâu vua xem ý thế nào?
- Tâu Bệ Hạ! Hạ thần làm Tinh xá, để mời Phật về nước nhà, giảng đạo, cho dân chúng bớt bỏ lòng bạo ngược tham tàn, tu theo chánh giáo, ngõ hầu quốc gia được an lạc thái bình. Cúi xin Bệ Hạ, cho sứ đi mời Phật, hạ thần được đội ơn vạn bội!
Nhà vua nghe nói rất hợp ý mình, liền sai người sang thành Vương Xá mời Phật và chư Tăng. Tuân lệnh, Sứ sang Vương Xá, vào yết kiến Phật, cúi đầu làm lễ thưa rằng:
- Kính lạy đức Thế Tôn! Chúa công con và hạ thần Tu Đạt, cho con tới đây câu thỉnh Thế Tôn hạ cố quang lâm sang nước Xá Vệ, để tuyên dương chánh pháp, cho quần sinh được ân triêm đức hóa, cúi xin Ngài Từ bi hoan hỷ! Cho chúa con và cận thần Tu Đạt được ăn mày công đức!
Phật dạy: - Quý hóa! Chúa khanh và cận thần Tu Đạt muốn cho quốc dân được an vui sung sướng trên cõi nhân thiên, mãi mãi, ta hứa một ngày gần đây sẽ đến.
Sứ thần tạ lễ lui ra!
Đức Thế Tôn sau khi nhận lời mời của nhà vua, muốn cho chánh pháp chóng soi tỏ lòng người, nên đầu tiên Ngài phóng Đại Quang Minh ở trên đỉnh đầu, làm chấn động thiên địa, khắp nước Xá Vệ mọi người đều biết oai thần của Ngài.
Khi đi sang nước Xá Vệ có rất nhiều đệ tử theo hầu, tới khách xá, Ngài cùng đại chúng vào nghỉ chân. Trong lúc đi đường, Ngài cũng giáo hóa được rất nhiều người quy y Tam bảo. Dần dần tới nước, Quốc Vương quần thần nhân dân, mang hương hoa ra đón, người đông như hội, ai nấy đều lễ sát đất, như một làn gió thổi lướt trên đám cỏ lau, thực là một buổi vô cùng vui vẻ! Ngựa xe chật đường, người đi như nước chảy. Nơi tiếp Ngài, một khu đất cao sạch mát mẻ, quy vuông năm ngàn mẫu, trang trí tôn nghiêm, treo cờ, dựng biểu ngữ, phướn lọng rợp trời. Đức Phật tới nơi ngồi trên bảo tọa oai nghiêm phóng Đại Quang Minh chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, ngón chân bấm xuống đất làm chuyển động hoàn cầu, các âm nhạc tự nhiên vang động, không người điều khiển. Nhờ đức hóa của Phật, kẻ mù được sáng con mắt; kẻ điếc được nghe rõ; kẻ câm ngọng được nói năng; kẻ còng được ngay thẳng, nói tóm lại tất cả toàn quốc đều hết tật bệnh đau khổ. Nhân dân lớn nhỏ trai gái trẻ già đều vui mừng hớn hở chen nhau đến lễ Phật.
Khi đó, đức Phật tùy theo căn khí mà thuyết pháp cho họ nghe. Cũng như ông Thầy thuốc, tùy theo bệnh nhân mà cho thuốc, những người có phúc duyên nhiều, nghe pháp chóng được chứng đạo; có người chứng quả Tu đà hoàn; Tư đà hàm; A na hàm; cho đến quả A la hán; cũng có người gây nhân Bích Chi Phật, cũng có người phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ đề.
Khi đó Phật bảo tôi (A Nan) rằng:
- Vuờn này thuộc ông Cấp Cô Độc, cây thuộc Thái tử Kỳ Đà, hai người chung sức làm Tinh xá. Vậy nên đề rằng: Cây của Thái tử Kỳ Đà, vườn của ông Cấp Cô Độc, lưu truyền cho hậu thế.
Đức Phật dạy thế, tôi xin phụng mạng, rồi đó mọi người đều cúi đầu, lễ Phật lui ra.
(263)
- Tôn giả cười gì?
- Tôi cùng ông cầm dây đo, vừa hết một vòng vườn này, thì cung điện ở trên sáu cõi trời đã làm xong! Vì thế mà tôi cười!
- Vì lý do gì Tôn giả cười?
- Vì ông làm Tinh xá cúng Phật nên phúc của ông được ở các cung điện cõi trời, hiện ra nhanh như vậy! Tôi sẽ cho ông mượn đạo nhãn mà coi!
Ông Tu Đạt nhờ đạo nhãn, nhìn thấy những cung điện rất trang nghiêm đẹp đẽ, dành riêng cho mình trên sáu cõi trời, thưa rằng:
- Kính thưa Tôn giả trong sáu cõi này; cõi nào vui hơn nhất.
- Ba cõi dưới đam hoang về sắc dục nhiều, đến cõi thứ tư, là những người ít dục biết đủ, thường có những Bồ tát nhất sinh bổ xứ sinh tới, tiếng thuyết pháp không lúc nào ngớt. Trên, còn hai cõi nữa, chúng sinh ở đấy có tính kiêu mạn dậc lạc; buông lung lu bù.
- Kính thưa Tôn giả! Nếu vậy, đời sau con nguyện sinh lên cõi thứ tư!
Ông nguyện xong, các cung điện kia đều diệt hết, mà chỉ nhìn thấy cung điện cõi thứ tư, yên nhiên không biến động, bắt đầu đo, ông nhìn thấy Ngài có sắc buồn! Bèn hỏi:
- Tôn giả, tại sao Ngài có vẻ buồn?
- Trưởng giả có nhìn thấy đàn kiến này không?
- Dạ, thưa Tôn giả, có nhìn thấy!
- Trưởng giả, vì chưa có đạo nhãn, nên không biết nguyên uỷ đám kiến này. Đời quá khứ cũng ở khu đất này, ông làm Tinh xá cúng dàng đức Phật Tỳ Bà Thi, thì đàn kiến này nó ở đây! Đến đời đức Phật Thi Khí, ông cũng làm Tinh xá ở khu đất này cúng Phật, đàn kiến này nó cũng sinh ở đây! Đến đời đức Phật Tỳ Xá Phú ông cũng làm Tinh xá ở khu đất này cúng Phật, thì đàn kiến này nó cũng sinh đây! Đến đời đức Phật Câu Lưu Tôn ông cũng làm Tinh xá ở khu đất này cúng Phật, đàn kiến này nó cũng sinh ở đây! Đến đời đức Phật Na Hàm Mâu Ni ông cũng làm Tinh xá ở khu đất này cúng Phật, đàn kiến này nó cũng sinh ở đây! Đến đời đức Phật Ca Diếp ông cũng làm Tinh xá ở khu đất này cúng Phật, đàn kiến này nó cũng sinh ở đây! Cho đến nay đã chín mươi mốt kiếp, còn phải làm thân con kiến không thôi, biết ngày nào giải thoát? Ông nên coi sinh tử đọa lạc lâu dài như thế, đã mấy ai biết sợ mà cầu giải thoát, cho nên con người có trí phải biết bớt bỏ lòng tham dục si mê mà tu đạo làm thiết yếu.
Tu Đạt nghe xong rơi lệ chứa chan! Thương mình và thương chúng sinh; mê đường lạc nẻo, tham chút vinh lạc nhơ bẩn của thế gian, đến nỗi bỏ thân này, thụ thân kia, lộn vòng xoay trong các thú!
Đo đất xong bắt đầu xây cất Tinh xá, làm riêng một lầu gác bằng gỗ chiên đàn cúng Phật, nơi biệt cư cúng Tăng, làm hai mươi khu, gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị, để hiệp lệnh riêng. Làm xong ông tự nghĩ rằng:
- Dầu sao mình cũng là một kẻ hạ thần của nhà vua, nếu cứ tự do mời Phật, sợ có chướng ngại hoặc vua không hài lòng, vậy ta tâu vua xem ý thế nào?
- Tâu Bệ Hạ! Hạ thần làm Tinh xá, để mời Phật về nước nhà, giảng đạo, cho dân chúng bớt bỏ lòng bạo ngược tham tàn, tu theo chánh giáo, ngõ hầu quốc gia được an lạc thái bình. Cúi xin Bệ Hạ, cho sứ đi mời Phật, hạ thần được đội ơn vạn bội!
Nhà vua nghe nói rất hợp ý mình, liền sai người sang thành Vương Xá mời Phật và chư Tăng. Tuân lệnh, Sứ sang Vương Xá, vào yết kiến Phật, cúi đầu làm lễ thưa rằng:
- Kính lạy đức Thế Tôn! Chúa công con và hạ thần Tu Đạt, cho con tới đây câu thỉnh Thế Tôn hạ cố quang lâm sang nước Xá Vệ, để tuyên dương chánh pháp, cho quần sinh được ân triêm đức hóa, cúi xin Ngài Từ bi hoan hỷ! Cho chúa con và cận thần Tu Đạt được ăn mày công đức!
Phật dạy: - Quý hóa! Chúa khanh và cận thần Tu Đạt muốn cho quốc dân được an vui sung sướng trên cõi nhân thiên, mãi mãi, ta hứa một ngày gần đây sẽ đến.
Sứ thần tạ lễ lui ra!
Đức Thế Tôn sau khi nhận lời mời của nhà vua, muốn cho chánh pháp chóng soi tỏ lòng người, nên đầu tiên Ngài phóng Đại Quang Minh ở trên đỉnh đầu, làm chấn động thiên địa, khắp nước Xá Vệ mọi người đều biết oai thần của Ngài.
Khi đi sang nước Xá Vệ có rất nhiều đệ tử theo hầu, tới khách xá, Ngài cùng đại chúng vào nghỉ chân. Trong lúc đi đường, Ngài cũng giáo hóa được rất nhiều người quy y Tam bảo. Dần dần tới nước, Quốc Vương quần thần nhân dân, mang hương hoa ra đón, người đông như hội, ai nấy đều lễ sát đất, như một làn gió thổi lướt trên đám cỏ lau, thực là một buổi vô cùng vui vẻ! Ngựa xe chật đường, người đi như nước chảy. Nơi tiếp Ngài, một khu đất cao sạch mát mẻ, quy vuông năm ngàn mẫu, trang trí tôn nghiêm, treo cờ, dựng biểu ngữ, phướn lọng rợp trời. Đức Phật tới nơi ngồi trên bảo tọa oai nghiêm phóng Đại Quang Minh chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, ngón chân bấm xuống đất làm chuyển động hoàn cầu, các âm nhạc tự nhiên vang động, không người điều khiển. Nhờ đức hóa của Phật, kẻ mù được sáng con mắt; kẻ điếc được nghe rõ; kẻ câm ngọng được nói năng; kẻ còng được ngay thẳng, nói tóm lại tất cả toàn quốc đều hết tật bệnh đau khổ. Nhân dân lớn nhỏ trai gái trẻ già đều vui mừng hớn hở chen nhau đến lễ Phật.
Khi đó, đức Phật tùy theo căn khí mà thuyết pháp cho họ nghe. Cũng như ông Thầy thuốc, tùy theo bệnh nhân mà cho thuốc, những người có phúc duyên nhiều, nghe pháp chóng được chứng đạo; có người chứng quả Tu đà hoàn; Tư đà hàm; A na hàm; cho đến quả A la hán; cũng có người gây nhân Bích Chi Phật, cũng có người phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ đề.
Khi đó Phật bảo tôi (A Nan) rằng:
- Vuờn này thuộc ông Cấp Cô Độc, cây thuộc Thái tử Kỳ Đà, hai người chung sức làm Tinh xá. Vậy nên đề rằng: Cây của Thái tử Kỳ Đà, vườn của ông Cấp Cô Độc, lưu truyền cho hậu thế.
Đức Phật dạy thế, tôi xin phụng mạng, rồi đó mọi người đều cúi đầu, lễ Phật lui ra.
(263)