KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Để giữ gìn sự trang nghiêm, thuần túy tạo nguồn tư liệu; nơi đây chỉ đăng Kinh Văn mà không thảo luận.

Điều hành viên: thử nghiệm global, Thanh Tịnh Lưu Ly

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
Đại Huệ ! Nếu vọng tưởng khác với sừng thì không nhơn sừng sanh, nếu chẳng khác thì nhơn sừng sanh. Cho đến vi trần, phân tích tìm cầu trọn không thể được. Vì không khác với sừng, kia cũng không tánh. Cả hai đều không tánh thì là pháp gì ? Cớ sao nói là không ? Đại Huệ ! Nếu là không thì không sừng. Quán là có nên nói thỏ không sừng, không nên khởi tưởng. Đại Huệ ! Vì chẳng phải chánh nhơn mà nói là có - không, cả hai đều chẳng thành.

GIẢNG
Đây nhắm vào người chấp không, y nơi sừng làm sanh nhơn. Nhiên hậu tìm cùng thì nhơn chẳng thật, chỗ chấp thành rỗng, nên chẳng ưng khởi tưởng.
Nếu vọng tưởng khác với sừng thì chẳng nhơn nơi sừng khởi vọng tưởng.
Nếu chẳng khác với sừng, tức là nhơn nơi sừng. Nhưng sừng phân tích đến vi trần thì chẳng có cái nào là sừng thật (chỉ là tên gọi của một tập hợp, không có thực). Sừng, tánh đã chẳng định (phi tánh) thì vọng tưởng về sừng cũng lại như thế. Cả hai đều vô tánh thì là vật gì ?

Cho nên thấy không (sừng thỏ), nói không
Thấy có, nhưng không phải thật (sừng trâu), nói không
Cả hai đều y nhơn (có – không), chẳng nên khởi tưởng.
Không phải chánh nhơn, không thấy thực tướng của các pháp. Hai thuyết có – không đều thành hý luận.

CHÁNH KINH
Đại Huệ ! lai có các ngoại đạo chấp trước việc sắc, không, hình xứ, hoành pháp, không thể biết chừng ngằn của hư không. Nói sắc lìa hư không, khởi kiến chấp vọng tưởng chừng ngằn.

GIẢNG
Đây là kèm phá ngoại đạo chấp có, bèn gồm nói không nhơn có đối đãi, nên phải lìa hết. Chấp trước sắc khác với không, nghĩa là tứ đại chủng và vi trần hay sanh tất cả pháp. Do không khéo biết chừng ngằn sắc cùng hư không nên khởi tất cả vọng tưởng.
(31)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
Đại Huệ ! Hư không là sắc, theo vào sắc chủng. Đại Huệ ! Sắc là hư không, chỗ năng trì, sở trì mà dựng lập tánh. Việc sắc không phân biệt nên biết. Đại Huệ ! khi tứ đại chủng sanh tự tướng mỗi thứ đều khác, cũng chẳng trụ nơi hư không, chẳng phải nó không hư không.

GIẢNG
Không một vật nào mà không chiếm một khoảng hư không. Nếu không có hư không giữ gìn cho (năng trì) thì vật không tự giữ được (sở trì) hình tướng của nó ( dựng lập tánh của nó). Phàm phu và ngoại đạo y theo sắc mà nói có không, y theo không mà nói có sắc, đều là vọng kiến. Thực ra sắc và không đều là vọng thức, do mê chơn tánh mà thành. Đông thời cùng hiện, không có trước sau. Kinh Lăng Nghiêm nói “Hư không sanh trong biển Đại Giác như hòn bọt sinh trong biển cả. Các cõi nước hữu lậu, nhiều như vi trần đều do hư không mà sanh”. Chấp sắc, chấp không đều là trong mê, chẳng lìa vọng tưởng.
Giác ngộ tự tâm hiện mới biết cảnh giới hiện ra đều là việc trong mộng. Hư không, căn thân, khí giới trong mộng bỗng nhiên hiện tiền. Lúc đó sắc, không y nhiên phân biệt. Giác rồi mới biết là thức tưởng sanh ra, chẳng thể có-không vậy. Tự tướng tứ đại chủng mỗi thứ khác nhau, tuy chẳng trụ hư không mà sở nhập và sở trì không thể phân biệt được. Chấp tứ đại vi trần là sanh nhơn của các pháp vậy (chấp tứ đại do vi trần hợp thành, là thật có, là nguồn gốc sanh các pháp).

CHÁNH KINH
Như thế, Đại Huệ ! Quán trâu có sừng nên thỏ không sừng. Đại Huệ ! Lại sừng trâu phân tích làm vi trần, lại phân biệt vi trần trong sát na không dừng. Kia quán cái gì mà nói không ư ? Nếu nói quán các vật khác đó, pháp kia cũng vậy.

GIẢNG
Nói chấp không cũng nhơn chấp có, đối đãi mà thành, chẳng phải tướng thật có, thật không. Nếu chẳng cho là nhơn có chấp không, thì phân tích sừng trâu thành vi trần, lại phân tích vi trần cho đến sát na chẳng dừng. (Sừng này do vi trần tạo thành, là tập hợp của các vi trần, nên không thực tánh. Sừng tồn tại trong thời gian, nhưng thời gian cũng không thật vì sát na chẳng dừng trụ). Sừng này đã không thì lấy cái gì so sánh để hiển tướng không ? Cho nên chấp tướng có mà tướng có không trụ thì mới nhơn tướng có chấp tướng không. Tướng có đã chẳng trụ tướng không đâu có chỗ hiển bày, cũng không năng trụ. Có – không chẳng trụ thì là cảnh giới gì ? Quán các vật khác cũng như quán sừng trâu vậy.
(32)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
Thế Tôn bảo Đại Huệ Bồ Tát :”Phải lìa dị kiến vọng tưởng sừng thỏ, sừng trâu, hư không, hình sắc. Đại Bồ Tát các ông, phải suy nghĩ tự tâm hiện vọng tưởng. Tùy vào tất cả cõi nước vì hàng tối thẳng tử dùng tự tâm hiện phương tiện mà dạy bảo họ.

GIẢNG
Kết lại là phải lìa hai thứ vọng tưởng có – không mà quán thẳng duy tâm. Bồ Tát nếu hay quán sát tự tâm hiện lượng, thấy tất cả cảnh giới vọng tưởng do tự tâm hiện ra, vì mê tâm làm thức nên đồng thời liền hiện, đều như huyễn hóa. Liền đó chóng lìa tướng hữu vô, sắc không v.v…nhiên hậu dùng thân như huyễn, vào cõi nước như huyễn, vì tất cả Phật tử, lấy phương tiện như huyễn nói tự tâm hiện lượng mà dạy bảo họ.

CHÁNH KINH
Khi ấy Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này , nói kệ rằng :
Sắc thảy và tâm không……………. Sắc thảy nuôi lớn tâm
Thân thọ dụng an lập………………..Tàng thức hiện chúng sanh
Tâm, ý cùng với thức……………… Tự tánh pháp có năm
Vô ngã , hai thứ tịnh………………. Nói rộng, nói thế này:
Dài-ngắn, có-không thảy…………. Lần lượt lẫn nhau sanh
Bởi không nên thành có………….. Do có nên thành không.
Vi trần việc phân biệt……………… Chẳng khởi vọng tưởng sắc
Tâm lượng chỗ an lập……………....Ác kiến là chẳng ưa
Phi cảnh giới giác tưởng…………. Thanh văn cũng như thế
Chỗ nói của cứu thế………………. Cảnh giới của tự giác.

GIẢNG
Bài tụng này nói sắc, không v.v.. nơi tâm vốn không có. Tâm do sắc nuôi dưỡng mà sanh. Song tâm đã không, sắc từ đâu mà có ? Căn thân, khí giới hiện tiền làm chỗ cho tâm nương tựa. Bởi vì mê chơn làm tàng thức nên mới hiện ra tất cả kiến chấp của chúng sanh. Đã nhơn mê mà hiện, Nên Như Lai rộng nói tâm, ý, ý thức, năm pháp, ba tự tánh, hai thứ vô ngã cũng là đến trong mê kia chỉ bày danh tướng, khiến biết chọn lựa. Chính như kiến chấp sắc-không, dài-ngắn, có-không v.v… đối đãi nhau dựng lập, y không thấy có, y có thấy không, đều là việc trong mê, thảy đều không có tự tánh. Nếu đối với tất cả cảnh giới phân biệt mà chẳng khởi phân biệt, chỉ trụ tự tâm hiện lượng . Đây là cảnh giới tự giác, Như Lai cứu thế nói ra. Ác kiến chẳng ưa là cảnh giới của phàm phu và Thanh văn
(33)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHỈ TRỪ SẠCH ĐỐN HAY TIỆM

CHÁNH KINH
Bấy giờ Bồ Tát Đại Huệ vì trừ sạch tự tâm hiện lưu, lại hỏi Như Lai, bạch Phật rằng “Thế Tôn ! Làm sao trừ sạch tâm hiện lưu của tất cả chúng sanh, là đốn hay tiệm ?”

GIẢNG
Tự tâm hiện lưu là tâm thức hiện hạnh và lưu trú. Trước đã nói cảnh giới vọng tưởng tự tâm hiện ra. Ở đây nói người đạt tự tâm, hiện có những hiện hạnh lưu trú vậy dùng phương tiện gì để trừ sạch ? Là đốn hay là tiệm ? Đây là nói ra chánh trí trong năm pháp.

CHÁNH KINH
Phật bảo Đại Huệ ! Tiệm tịnh chẳng phải đốn.
- Như trái yêm la, tiệm chín chẳng phải đốn. Như Lai trừ sạch tự tâm hiện lưu của tất cả chúng sanh cũng lại như thế, tiệm tịnh chẳng phải đốn.
- Thí như thợ gốm làm các món đồ, tiệm thành chẳng phải đốn, Như Lai trừ sạch tự tâm hiện lưu của tất cả chúng sanh cũng lại như thế, tiệm tịnh chẳng phải đốn
- Thí như đại địa tiệm sanh muôn vật, chẳng phải đốn sanh. Như Lai trừ sạch tâm hiện lưu của tất cả chúng sanh cũng lại như thế, tiệm tịnh chẳng phải đốn.
- Thí như người học âm nhạc, hội họa, các thứ kỹ thuật, tiệm thành chẳng phải đốn. Như Lai trừ sạch tâm hiện lưu của tất cả chúng sanh cũng lại như thế, tiệm tịnh chẳng phải đốn.

- Như gương sáng đốn hiện tất cả sắc tượng vô tướng. Như Lai trừ sạch tâm hiện lưu của tất cả chúng sanh cũng lại như thế, đốn hiện vô tướng, không có cảnh giới thanh tịnh thật.
- Như vầng nhật, nguyệt đốn chiếu hiển bày tất cả sắc tượng. Như Lai vì lìa tập khí lỗi lầm tự tâm hiện của tất cả chúng sinh cũng như thế, đốn vì hiển bày cảnh giới trí tối thắng bất khả tư nghì.
- Thí như tàng thức đốn phân biệt biết tự tâm hiện và cảnh giới thân an lập thọ dụng; Kia những người y theo Phật cũng lại như thế, đốn thành thức cảnh giới chỗ ở của chúng sanh, đem người tu hành để yên nơi cõi trời sắc cứu cánh.
- Thí như Pháp Thân Phật hiện ra y Phật (báo thân Phật) hào quang sáng suốt. Tự giác thánh trí cũng lại như thế , kia đối với pháp tướng có tánh, không tánh, ác kiến, vọng tưởng chiếu soi khiến trừ diệt.

GIẢNG
Đốn nhằm vào đốn ngộ, đốn tu. Gồm đốn, gồm tiệm nhằm chung Phật và chúng sanh. Trước mê chơn thức, các tướng hư vọng, toàn thể đồng hiện, chẳng theo thứ lớp. Thế nên ngộ vọng không có nhơn, đốn thấy chơn như tự tánh không có tướng khởi diệt, các tâm hư vọng một lúc liền hết , cũng không có cấp bực. Đây là lý đốn ngộ, đốn trừ.
Kinh Hoa Nghiêm về thập trụ, ở vị đầu dùng vô tác tam muội tự thể ứng chơn, khách trần, phiền não toàn không thể tánh. Chỉ có chơn thể dụng, không tham, sân, si , hồn nhiên là Phật, có thể gọi là đốn ngộ, đốn tu vậy. Song : hạnh, hướng, địa, giai cấp rõ ràng. Kinh Viên Giác 25 luân mở rộng phương tiện mà nói rằng “Chỉ trừ người đốn giác, cùng pháp chẳng tùy thuận”. Cho nên biết lý viên đốn, Như Lai thấy rõ. Căn dục của chúng sinh, Như Lai cũng thấy rõ. Vì thế mà quyền-thật đồng nêu, ba đời Như Lai đồng một pháp thức. Nhưng xét về bản hoài của Phật chỉ đốn chớ không tiệm, cũng y cứ tự tâm hiện lượng không có các pháp giả dối, pháp nhĩ như thế. Kinh Lăng Nghiêm nói “Giác mê thì mê diệt, giác chẳng sanh mê”. Kinh Pháp Hoa nói “Chỉ có đạo nhất thừa, phân biệt nói thành ba”. Đây là ý chỉ nhất định vậy.
*** Như thí dụ gương sáng cùng vầng nhật nguyệt đốn hiện sắc tượng không tướng. Gương và nhật, nguyệt có hai nghĩa : không và minh, dụ cho Như Lai đốn chỉ bày trí tướng thanh tịnh bất tư nghị, không thật có, khiến chúng sanh biết tự tâm hiện lượng vốn tự không và minh, vốn không ô nhiễm, đồng thời đốn lìa tập khí lỗi lầm , chẳng do tiệm dẹp vậy. Đây tức là nhật dụng của chúng sanh tâm biết hiện ra, vốn tự có trí dụng thanh tịnh như thế, một lúc chiếu liễu, không có trước sau. Cho nên Y Phật Như Lai ở cõi trời Sắc cứu kính đốn vì tất cả chúng sinh căn cơ thuần thục chẳng phiền dùng phương tiện. Lai thấy Pháp thân Phật hiện ra Y Phật (Báo Phật) làm dụ, đây là đến nghiệp dụng bất tư nghị của Như Lai, hào quang chiếu sáng. Khiến chứng tự giác thánh trí, là biết tự pháp thể hào quang chiếu sáng, đốn lìa tất cả ác kiến có-không, cũng không có sai biệt. Tóm lại, Tánh thể thì sáng suốt, dụng có phân mê - ngộ. Mê thì căn thân, khí giới bỗng nhiên hiện tiền, không có cấp bực. Ngộ thì Pháp thân, báo thân, hóa thân, cõi nước rất là đẹp đẽ, há nhờ tu ư ?
Chuyển mê làm ngộ có nhiều môn. Tức ngộ, tức mê trọn không nói dạy. Do tiệm, vào đốn cũng là việc bất đắc dĩ của Như Lai.
(34)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

E - CHỈ BA PHẬT NÓI TRÍ VÔ SAI BIỆT

CHÁNH KINH
Này Đại Huệ ! Pháp, y Phật nói tất cả pháp vào tự tướng, cộng tướng là nhơn tập khí tự tâm hiện, là nhơn vọng tưởng tự tánh chấp trước tương tục, các thứ chẳng thật, như huyễn, các thứ chấp trước không thể được.

GIẢNG
Hiện tiền các pháp tự tướng, cộng tướng đều nhơn tập khí, chủng tử của tự tâm hiện ra, hay khởi hiện hạnh vọng tưởng tương tục chấp trước. Y tha chủng tử hiện ra các thứ huyễn, vọng chấp hiện hạnh sở chấp các thứ không thể được. Đây là duyên khởi vô sanh, do mê được giác ngộ. Làm thanh tịnh cõi Phật, thành tựu chúng sanh là những lời dạy của y Phật (Báo thân).
- Phàm pháp thân Phật là Tự tánh thanh tịnh giác.Tự tánh thanh tịnh giác này chúng sanh cùng Phật đều có đủ, mê thì toàn mê, ngộ thì toàn ngộ, chẳng do tri kiến, chẳng nhờ công huân, tự tánh thiên nhiên vậy.
- Y Phật tức là Bát Nhã do pháp thân lưu xuất. Vốn từ tự tánh sinh, lại chiếu nơi tự tánh, trang nghiêm thân, gọi là Báo thân.
- Hóa Phật là tùy loại ứng hóa, khắp vào tất cả chỗ.
* Tự tánh thường tịch quang độ là tự thọ dụng, chẳng phải chỗ người khác biết được.
* Báo Phật tha thọ dụng độ, cùng Thập địa Bồ Tát chung.
* Thánh phàm đồng cư tức Hóa Phật độ.
Tùy loại đều nhập, chỗ thấy mỗi loài đều khác.

- Pháp thân Phật nói ra là tự tánh không nương (vô trụ).
- Y Phật (báo Phật) nói ra là duyên khởi vô tánh
- Hóa Phật tùy chỗ muốn xem xét căn cơ, nói không có nhất định.
Song về lý thì thông lẫn nhau. Pháp cùng báo, hóa chẳng phải ba, chẳng phải một.
Thân, độ lẽ như vậy, thuyết pháp cũng như thế.

Về nhơn quả cõi trời, cõi người cũng có lý vô thượng chánh chơn. Kinh Niết Bàn nói “Có khi Như Lai nói về thế đế mà người nghe cho là đệ nhất nghĩa đế. Có khi Như Lai nói đệ nhất nghĩa đế mà người nghe cho là thế đế”. Cũng thế, tứ đế, tam thừa chung quán, không có nhất định.

CHÁNH KINH
Lại nữa, Đại Huệ ! chấp trước duyên khởi tự tánh, sanh tướng vọng tưởng tự tánh . Đại Huệ ! Thí như nhà huyễn thuật nương cỏ cây gạch ngói tạo ra các thứ huyễn hóa. Khởi tất cả chúng sinh, bao nhiêu hình sắc, khởi các thứ vọng tưởng. Các vọng tưởng kia cũng không chơn thật.

GIẢNG
Y duyên khởi tự tánh, khởi vọng tưởng tự tánh. Như nhà huyễn thuật y cỏ cây gạch ngói v.v… hóa ra các hình sắc khởi các vọng tưởng. Duyên khởi đã huyễn thì vọng tưởng cũng không thật.
(35)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
Như thế Đại Huệ ! y duyên khởi tự tánh, khởi vọng tưởng tự tánh, các thứ tâm vọng tưởng, các thứ hành và tướng vọng tưởng, chấp trước tập khí vọng tưởng, ấy là tướng vọng tưởng tự tánh sanh. Đại Huệ ! Ấy gọi là Y Phật thuyết pháp.

GIẢNG
Y duyên khởi này mà tánh vọng chấp xuất hiện. Đây là chỉ lý do sanh vọng tưởng trước mắt. Song xét về ban đầu, chấp trước y tập khí từ vô thỉ, duyên khởi hiện ra. Nên nói là “các thứ tâm vọng tưởng, các thứ hành, tướng vọng tưởng” duyên khởi đã hiện, lại hay dẫn phát tập khí, vọng tưởng tiếp nối. Cho nên nói “Chấp trước tập khí vọng tưởng” . Đâu biết tập khí thảy đều do bất giác. Duyên khởi này liền đó vô sanh. Rõ cảnh duy tâm, vọng tưởng không có chỗ gá, từ Báo Phật nói.

CHÁNH KINH
Đại Huệ ! Pháp Phật lìa tướng tâm tự tánh, tự giác cảnh giới sở duyên của thánh, dựng lập, tạo tác .

GIẢNG
Lìa tướng tâm tự tánh là lìa tự tâm tương ưng với pháp tướng. Tướng tâm đã lìa thì giác thể hiện bày, không chủ, không y, chẳng phải tâm, chẳng phải cảnh. Chỗ ngôn ngữ, suy nghĩ dứt bặt, chỉ người chứng mới biết. Đây là Pháp Phật nói vậy.

CHÁNH KINH
Đại Huệ ! Hóa Phật nói thí, giới, nhẫn, tinh tấn, thiền định và tâm trí tuệ, lìa ấm, giới, nhập, giải thoát thức tướng, phân biệt quán sát dựng lập, vượt hẳn kiến chấp ngoại đạo và kiến chấp vô sắc.

GIẢNG
Sáu pháp Ba la mật dạy các Bồ Tát lìa ấm, giới, nhập được môn giải thoát, ắt là nói chung của tam thừa, đều phân biệt thức tướng, dựng lập tự thông, chẳng đồng với ngoại đạo nhận thức làm tâm, khởi chấp vô sắc giới về thức tưởng.
GHI CHÚ :5 ấm là Sắc,thọ, tưởng, hành, thức
Giới là : Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp + 6 căn + 6 thức.
Nhập là 6 thức này nhập vào tâm.

CHÁNH KINH
Đại Huệ ! Lại pháp thân Phật lìa phan duyên, phan duyên lìa, tất cả tướng căn lượng sở tác diệt, chẳng phải các phàm phu, Thanh văn, Duyên giác và ngoại đạo chấp trước ngã tướng và cảnh giới sở chấp. Tự giác tánh cứu cánh sai biệt tướng phải siêng tu học, tự tâm hiện kiến chấp nên phải trừ diệt.

GIẢNG
Lìa phan duyên là lìa sở phan duyên. Phan duyên lìa là lìa năng phan duyên. Năng sở đã lìa thì tất cả căn lượng sở tác thảy diệt. Đây là tướng tự tâm hiện lượng cứu cánh, chẳng đồng với phàm phu ngoại đạo cảnh giới ngã tướng chấp trước.
Tự tâm hiện kiến chấp là tướng tự tâm hiện ra, dùng tâm kiến tâm thì giác biến thành cảnh. Đây là tướng ngã nên nói sai biệt cần phải diệt trừ.
Lại bảo Pháp thân Phật nói, tự thể hợp chơn, chẳng phải cảnh giới của Báo thân, Hóa thân Phật vậy.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

E – BIỆN VỀ NHỊ THỪA TỰ GIÁC THÁNH SAI BIỆT

CHÁNH KINH
Lại nữa, Đại Huệ ! Có hai hạng Thanh văn thừa chung phân biệt tướng. Nghĩa là được tướng tự giác thánh sai biệt, và tướng tánh vọng tưởng tự tánh chấp trước.
- Thế nào là Thanh văn được tướng tự giác thánh sai biệt ?
Nghĩa là đối với cảnh giới vô thường, khổ không, vô ngã được chơn đế lìa dục, tịch diệt, dứt ấm-giới-nhập , tự tướng- cộng tướng, không hoại tướng bên ngoài mà biết như thật. Tâm được dừng lặng. Tâm dừng lặng rồi được thiền định, giải thoát, tam muội, đạo quả chánh thọ giải thoát, chẳng lìa tập khí bất tư nghì biến dịch tử, được tự giác thánh lạc trụ Thanh văn. Ấy gọi là được tự giác Thánh sai biệt Thanh văn.

GIẢNG
Ở đây phân biệt hai hạng Thanh văn:
- một là nhơn chỗ sở đắc mà tiến lên
- hai: chỉ pháp chấp kia mà chuyển
Thảy đều là vì Bồ Tát mà răn dạy,

Sở đắc là được tự giác thánh trí. Hàng Thanh văn này ban đầu quán khổ, không, vô ngã, trụ nơi chơn đế, do sức lìa dục vắng lặng hay dứt ấm-giới-nhập, tự tướng, cộng tướng, chẳng hoại tướng bên ngoài mà biết như thật.
Chẳng hoại tướng là chơn như thực tướng của tất cả các pháp .
Biết như thật là như thật tướng mà biết, không có thấy nghe khác, nên nói là chơn đế.

Do tâm này dừng lặng nên trụ cái vui thiền định giải thoát, bèn thành sai biệt.
Tập khí là tập khí từ vô thỉ. Tập khí này chưa lìa thì không thể liền đó đảm đương được 8 thức. (thấy nghe… không nhờ đến căn)
Vẫn phải nhờ thiền tịch để đổi thô thành diệu, ngoài tâm còn pháp chưa quên.

Nhị thừa không thấy Phật tánh, Bồ Tát Thập trụ thấy Phật tánh được ít phần.
- Nhị thừa định nhiều tuệ ít, tuy được tự giác thánh trí mà không biết trí thể vốn lặng, vọng thấy cái vui lặng lẽ. Bị cái lặng lẽ làm chướng nên nói chẳng thấy.
- Bồ Tát Thập trụ huệ nhiều, định ít, bởi ban đầu thấy tự giác thánh trí, trí tướng minh liễu, nơi trí thể vốn lặng lẽ chưa được tròn suốt, nên nói thấy ít phần.
Chẳng phải nói ngoài thánh trí, lại phải nhờ thiền tịch dùng để quân bình.

(36)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
Đại Huệ ! Đại Bồ Tát được tự giác thánh sai biệt lạc trụ, chẳng phải diệt môn lạc. Chính khi thọ lạc vẫn đoái hoài, thương xót chúng sinh và nhớ bản nguyện, không khởi chứng. Đại Huệ, Ấy gọi là Thanh văn được tự giác thánh sai biệt tướng lạc, Đại Bồ Tát đối với kia được tự giác thánh sai biệt chẳng nên tu học.

GIẢNG
Đây là Thanh văn tự giác sai biệt tướng tất cả tịch lạc, Bồ tát cũng có, song do bản nguyện phát khởi mà không thủ chứng. Phật răn Bồ tát chẳng nên tu học , là vì Bồ tát nhập tự giác sai biệt tướng lạc, dễ bị chìm lịm nơi ấy.

CHÁNH KINH
Đại Huệ ! Thế nào là Thanh văn tướng, tánh vọng tưởng tự tánh chấp trước ?
Nghĩa là đại chủng xanh, đỏ, trắng, vàng , cứng, ướt, ấm, động, chẳng phải tạo tác mà sanh, tự tướng, cộng tướng Phật khéo nói. Thấy rồi, nơi kia khởi tánh vọng tưởng. Đại Bồ tát đối với kia nên biết nên xả, tùy nhập pháp vô ngã tướng, diệt nhơn vô ngã tướng và kiến, thứ lớp các địa tiếp nối dựng lập. Ấy gọi là các Thanh văn tướng tánh vọng tưởng tự tánh chấp trước.

GIẢNG
Tánh vọng tưởng tự tánh chấp trước là chấp có pháp tự tánh mà khởi chấp trước. Thanh văn tuy biết đại chủng xanh, vàng, đỏ, trắng các pháp, chẳng phải có tác giả, không đồng với ngoại đạo tà kiến. Nhưng thấy Phật trước phân biệt các pháp tự tánh cộng tướng , tất cả kinh điển nói, cho là thật có, bèn thành pháp chấp. Cho nên Bồ tát đối chỗ này phải lìa nhơn vô ngã tướng, vào pháp vô ngã, thứ lớp tiến lên các địa.


(Hết tập 1)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

E – BIỆN ĐẠT ĐƯỢC THÁNH TRÍ THƯỜNG BẤT TƯ NGHÌ.

CHÁNH KINH
Khi ấy Đại Huệ bạch Phật :
Thế Tôn ! Thế Tôn nói cảnh giới thường bất tư nghì tự giác thánh thú và cảnh giới đệ nhất nghĩa. Thế Tôn ! chẳng phải các ngoại đạo nói nhơn duyên thường bất tư nghì ư ?

GIẢNG
Đây là đem so sánh tự giác thánh thú đệ nhất nghĩa thường bất tư nghì, cùng với ngoại đạo thường bất tư nghì có tác giả, muốn Phật giải thích sự sai biệt của hai bên.

CHÁNH KINH
Phật bảo Đại Huệ :
Chẳng phải ngoại đạo có nhơn duyên mà được thường bất tư nghì. Vì cớ sao ? Vì ngoại đạo thường bất tư nghì không nhơn tự tướng thành. Nếu thường bất tư nghì không nhơn tự tướng thành thì nhơn đâu hiển bày thường bất tư nghì ? Lại nữa, Đại Huệ ! Bất tư nghì nếu nhơn tự tướng thành thì tất phải thường. Bởi vì tác giả làm nhơn tướng nên thường bất tư nghì chẳng thành.

GIẢNG
Như Lai bất tư nghì nhơn tự tướng thành, cho nên thường. Tự tướng là tự tâm hiện lượng. Tự tâm hiện lượng này, tuy ở vị mê mà chẳng đoạn, chỉ vì khách trần che lấp, tạm thời bất giác, nếu giác tức là thường trụ. Chẳng đồng tác giả do vọng chấp mà có. Đây là không phải thật nhơn, không có chỗ hiển bày, cho nên thường bất tư nghì chẳng thành.
(38)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
Đại Huệ ! Đệ nhất nghĩa thường bất tư nghì của ta , đệ nhất nghĩa nhơn tướng thành, lìa tánh phi tánh, được tự giác tướng, nên có tướng. Đệ nhất nghĩa trí nhơn, nên có nhơn. Vì lìa tánh phi tánh, thí như vô tác hư không, niết bàn, diệt tận, nên thường.
Như thế, Đại Huệ ! chẳng đồng với luận thường bất tư nghì của ngoại đạo.
Như thế, Đại Huệ ! thường bất tư nghì này chư Như Lai tự giác thánh trí nhận được. Như thế nên thường bất tư nghì tự giác thánh trí nhận được, nên phải tu học.

GIẢNG
Đây là hiển bày đệ nhất nghĩa nhơn tướng để thấy khác với ngoại đạo.
Lìa tánh phi tánh là : lìa tướng có-không.
Được tự giác tướng : tự giác là bản giác, tướng là thể tướng. (nhận được thể tướng của bản giác).
Cho nên có tướng là : bản giác này thực có thể tướng, chẳng phải hư vọng.
Đệ nhất nghĩa trí là : Trí thủy giác
Do bản giác có thủy giác, do thủy giác biết bản giác. Bản giác và thủy giác hiệp làm một, che trùm, tương ưng, lấy đó làm nhơn, là đệ nhất nghĩa trí nhơn, lìa tất cả lỗi có-không…Như ba thứ vô vi là pháp chơn tịch diệt, không có hý luận, nên lấy đó làm thí dụ.
Thường bất tư nghì này chẳng đồng với ngoại đạo. Chư Như Lai tự giác thánh trí nhận được nên phải tu học.

CHÁNH KINH
Lại nữa, Đại Huệ ! Thường bất tư nghì của ngoại đạo là vô thường tánh, vì dị tướng nhơn, chẳng phải sức tự tác nhơn tướng, nên thường.
Lại nữa, Đại Huệ ! Thường bất tư nghị của ngoại đạo, đối sở tác tánh phi tánh vô thường, thấy rồi suy nghĩ chấp là thường.

GIẢNG
Thường bất tư nghì của ngoại đạo là vọng tưởng chấp. Nghĩa là thường bất tư nghì của ngoại đạo là vô thường dị tướng mà chấp là thường, chẳng phải có tự tánh nói là thường.
Sao nói vô thường dị tướng chấp là thường ? Bởi vì ngoại đạo thấy tất cả việc làm ra đều thuộc hai tướng có-không vô thường rồi, liền nơi đây tạo cảnh giới bất tư nghì, suy nghĩ chấp là thường. Đây là vọng tưởng nhơn, chẳng phải chơn nhơn.
(39)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
Đại Huệ ! Ta cũng dùng nhơn duyên như thế, việc làm ra tánh phi tánh vô thường, thấy rồi tự giác cảnh giới thánh , nói kia thường, không nhơn.
Đại Huệ ! Nếu các ngoại đạo nhơn tướng thành thường bất tư nghì, nhơn tự tướng là tánh phi tánh đồng với sừng thỏ. Thường bất tư nghì này chỉ là ngôn thuyết vọng tưởng. Các bọn ngoại đạo có lỗi như thế. Vì cớ sao ? Vì chỉ có ngôn thuyết vọng tưởng đồng với sừng thỏ, tự nhơn tướng chẳng có phần.

GIẢNG
Như Lai, đối với việc làm ra hai tướng có-không thấy vô thường rồi, nhưng chẳng ở nơi đây khởi chấp thường bất tư nghì. Vì có tự giác cảnh giới thánh, vượt ngoài suy nghĩ và ngôn thuyết, nên nói kia thường vô nhơn.
Ngoại đạo chấp thường tự tướng chẳng thật, đồng với sừng thỏ, chỉ có ngôn thuyết, nên nói tự nhơn tướng chẳng có phần. Nghĩa là Như Lai tự giác nhơn tướng, chẳng phải họ có phần.

CHÁNH KINH
Đại Huệ ! thường bất tư nghì của ta vì nhơn tự giác được tướng, lìa tánh sở tác và phi tánh nên thường. Chẳng phải ngoại đạo tánh phi tánh vô thường, suy nghĩ chấp là thường.
Đại Huệ ! Nếu ngoại đạo tánh phi tánh vô thường mà suy nghĩ chấp là thường, họ không biết được tướng thường bất tư nghì tự nhơn. Họ cùng cảnh giới tự giác thánh trí cách xa nhau nên không ưng nói.

GIẢNG
Đây lại nói rõ Như Lai thường bất tư nghì do tự giác thánh trí làm nhơn , chẳng phải việc làm ra bên ngoài có hai tướng có-không, vô thường chấp thường làm nhơn.
Ngoại đạo chẳng biết nhơn tướng tự giác, nên chẳng ngay nơi tướng tự giác ở trong tự chứng nhận, mà chấp trước nhơn bên ngoài . Đây là lý do cách nhau rất xa.
(39)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

BIỆN NHỊ THỪA BỎ VỌNG CẦU CHƠN

CHÁNH KINH
Lại nữa, Đại Huệ ! các Thanh văn sợ sanh tử vọng tưởng khổ mà cầu Niết Bàn. Chẳng biết sanh tử, Niết Bàn sai biệt tất cả tánh, vọng tưởng phi tánh. Sau rồi cảnh giới các căn thôi dứt , khởi tưởng Niết Bàn. Chẳng phải nơi tự giác thánh trí thú, tàng thức chuyển. Thế nên phàm ngu nói có ba thừa, nói tâm lượng, thú hướng không thật có.
Thế nên Đại Huệ ! Kia chẳng biết quá khứ, vị lai, hiện tại đều là cảnh giới tự tâm hiện của chư Như Lai, chấp trước cảnh giới ngoài tâm hiện, vòng sanh tử thường xoay.

GIẢNG
Đây do Thanh văn chấp có Niết Bàn để rõ những cái thấy ngoài tâm đều là vọng tưởng. Thanh văn sợ sanh tử, vọng tưởng mà cầu Niết Bàn, chẳng biết sanh tử, Niết Bàn tánh nó không hai. Thấy có sai biệt, đều là vọng tưởng chấp chẳng phải thật tánh. Nghĩa là rõ tam giới sanh nhơn, căn cảnh vị lai thôi dứt , khởi tưởng Niết Bàn. Chẳng phải chứng đến chỗ tự giác thánh trí, chuyển tàng thức làm Niết Bàn. Đây là phàm ngu chỉ nói ba thừa mà chẳng nói duy tâm tịch diệt. Chẳng biết quá khứ, vị lai, hiện tại đều là Như Lai tự tâm hiện ra, cho là có cảnh giới ngoài tâm, vọng sanh thủ xả, vẫn thuộc luân chuyển sanh tử.

CHÁNH KINH
Lại nữa Đại Huệ ! Tất cả pháp chẳng sanh là quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật nói ra. Vì cớ sao ? vì tự tâm hiện tánh phi tánh, lìa hữu phi hữu mà sanh.
Đại Huệ ! Tất cả tánh chẳng sanh, tất cả pháp như sừng thỏ , ngựa v.v… vì phàm phu ngu si chẳng giác tự tánh vọng tưởng nên vọng tưởng.
Đại Huệ ! Tất cả pháp chẳng sanh, cảnh giới tự giác thánh trí thú, tất cả tánh tự tánh tướng chẳng sanh. Chẳng phải hai cảnh giới của ngu phu kia tự tánh thân tài dựng lập thú tự tánh tướng.
Đại Huệ ! tàng thức tướng năng nhiếp, sở nhiếp chuyển. Ngu phu rơi vào hai kiến chấp sanh, trụ, diệt hy vọng tất cả tánh sanh, hữu và phi hữu vọng tưởng sanh, chẳng phải thánh hiền…
Đại Huệ ! đối với kia nên phải tu học.

GIẢNG
Lại nêu lên tất cả pháp vô sanh để chỉ bày yếu chỉ tự giác cùng tột. Đây là ba đời chư Phật nói ra. Pháp do tâm hiện nên pháp không có tự tánh. Pháp không tự tánh thì không rơi vào có-không. Chẳng rơi vào có – không thì sanh tánh trước mắt ví như sừng thỏ. Theo vọng tưởng nên tất cả tánh có. Nếu theo tự giác thì tất cả pháp không.
Y nơi căn thân và khí giới mà khởi hy vọng năng-sở, hữu-vô, đều là ngu phu chấp, chẳng phải thánh hiền. Mới biết theo tàng thức trôi lăn thì có-không trong mộng rõ ràng. Đạt cảnh giới thánh trí thì năng-sở trong gương liền không. Cởi bỏ quần mê nơi tự giác, hôi muôn pháp về nơi tự tâm. Cho nên hay lìa được tự tánh lông rùa, dứt sanh nhơn của sừng thỏ. Đây là chỗ phàm thánh phân chia, do giác, mê mà khu biệt.

(40)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.4 khách