KINH LĂNG NGHIÊM

Để giữ gìn sự trang nghiêm, thuần túy tạo nguồn tư liệu; nơi đây chỉ đăng Kinh Văn mà không thảo luận.

Điều hành viên: thử nghiệm global, Thanh Tịnh Lưu Ly

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

- Nếu có sự chẳng sanh chẳng diệt gọi là tự nhiên, thì tâm tự nhiên này là do sanh diệt đã sạch mà hiện, ấy cũng là pháp sanh diệt, chẳng phải Bồ Đề. Cái lý chẳng sanh chẳng diệt kia gọi là tự nhiên, cũng như các tướng lẫn lộn thành một thể của thế gian, gọi là tánh hòa hợp. Cái chẳng hòa hợp thì gọi là tự nhiên. Tự nhiên chẳng phải tự nhiên, hòa hợp chẳng phải hòa hợp, tự nhiên và hòa hợp đều lìa, có lìa có hợp đều sai, đến chỗ này mới được gọi là pháp chẳng hý luận.
- Nếu dựa vào chỗ này để thủ chứng Vô Thượng Bồ Đề và Niết Bàn thì quả Phật vẫn còn cách xa lắm. Tại sao ?
Vì chấp do dụng công tu chứng mà có sở đắc vậy. Kỳ thực Bồ Đề, Niết Bàn vốn sẵn đầy đủ, chỉ có thể trong sát na ngộ nhập, , chẳng do nhiều kiếp siêng năng tu chứng mà được, dẫu cho nhớ hết diệu lý thanh tịnh như cát sông Hằng trong mười hai bộ kinh của mười phuơng Như Lai, chỉ càng thêm hý luận.
- Nguơi dù nói lý nhân duyên, tự nhiên chắc chắn rõ ràng, người đời khen nguơi đa văn bậc nhất, với cái huân tập đa văn nhiều kiếp này , chẳng thể tránh khỏi nạn Ma Đăng Già, phải nhờ thần chú của Ta, làm cho Ma Đăng Già dập tắt lửa dâm, sông ái khô cạn, chứng quả A Na Hàm, nơi pháp Ta thành tựu tinh tấn, khiến nguơi giải thoát. A Nan ! Nguơi dù nhiều kiếp ghi nhớ những lời bí mật nhiệm màu của Như Lai, chẳng bằng một ngày tu nghiệp vô lậu, xa lìa hai khổ yêu ghét của thế gian. Như Ma Đăng Già xưa kia là dâm nữ, do sức thần chú , tiêu diệt lòng ái dục, nay trong pháp Ta gọi là TÁNH Tỳ Kheo Ni với Gia Du Đà La, cùng ngộ nhân xưa, biết được nhân duyên nhiều kiếp đều do tham ái làm khổ, chỉ một niệm huân tu pháp vô lậu thiện, nay người thì ra khỏi ràng buộc, người thì được Phật thọ ký, sao nguơi còn tự dối, kẹt nơi thấy nghe ?

A Nan và đại chúng nghe lời Phật dạy, nghi hoặc tiêu trừ, tâm ngộ thật tướng, thân ý khinh an, được pháp chưa từng có, rơi lệ, đảnh lễ chân Phật, quỳ gối chắp tay bạch Phật rằng:
- Lòng trong sạch đại bi vô thượng của Phật, khéo khai ngộ cho tâm chúng con, dùng đủ thứ nhân duyên và phuơng tiện dìu dắt kẻ chìm đắm ra khỏi bể khổ. Thế Tôn ! Nay con dù được nghe pháp âm như thế, nhận biết Diệu Tâm sáng tỏ khắp mười phuơng thế giới, trùm chứa các cõi Phật thanh tịnh trang nghiêm trong mười phuơng quốc độ. Như Lai lại trách con đa văn vô ích, chẳng bằng tu tập, nay con như người phiêu bạt, bỗng được Thiên Vuơng ban cho cái nhà sang, dù được nhà lớn, nhưng phải biết chỗ cửa vào. Vậy xin Như lai từ bi khai thị cho những kẻ mê muội trong hội này, lìa bỏ Tiểu Thừa, đều được bước lên con đường đã phát tâm từ xưa tới nay, thẳng đến Vô Dư Niết Bàn của Như Lai,khiến hàng hữu lậu biết cách uốn dẹp tâm phan duyên từ lâu đời, được pháp Tổng Trì, chứng nhập Tri Kiến Phật.

Nói xong , năm vóc gieo sát đất, tất cả chúng trong hội một lòng mong đợi lời Phật dạy.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Lúc bấy giờ Thế Tôn thuơng xót hàng Thanh Văn, Duyên Giác trong hội chưa được tự tại nơi tâm Bồ Đề, và những chúng sanh phát Bồ Đề tâm trong thời mạt pháp, khai thị pháp tu nhiệm mầu của Vô Thượng Thừa, bảo A Nan và đại chúng rằng :
- Các nguơi quyết định phát tâm Bồ Đề, đối với pháp Tam Ma Đề nhiệm mầu của chư Phật, chẳng sanh mỏi mệt, trước hết nên biết hai nghĩa quyết định trong lúc mới phát tâm.
- Thế nào là hai nghĩa quyết định lúc mới phát tâm ?
* A Nan ! Nghĩa thứ nhất là: Nếu các nguơi muốn lìa bỏ Thanh Văn, tu Bồ Tát thừa, nhập Tri Kiến Phật, thì nên xét kỹ chỗ phát tâm của nhân địa với chỗ giác ngộ của quả địa là đồng hay là khác ? A Nan ! Nếu ở nơi nhân địa, dùng tâm sanh diệt làm cái nhân tu hành, để cầu cho được quả chẳng sanh diệt của Phật thừa thì chẳng đúng.
Do nghĩa này, nguơi nên xét kỹ vạn vật trên thế gian, các pháp có thể tạo ra đều phải biến diệt. A Nan ! nguơi hãy xem các pháp có thể tạo ra, có cái nào chẳng hoại chăng ? Nhưng chẳng bao giờ nghe hư không biến hoại. Tại sao ? vì hư không chẳng phải vật sở tạo, cho nên chẳng thể biến hoại.
Trong thân nguơi, tánh cứng là Địa, ướt nhuần là Thủy, hơi ấm là Hỏa, Lay động là Phong. Do tứ đại ràng buộc, mà chia cái Diệu Tâm sáng tỏ của nguơi thành Kiến, Văn, Giác, Tri, từ vô thỉ, tạo thành năm lớp ô trược.
Sao gọi là trược ? A Nan ! Ví như nước trong, bản tánh thanh khiết , những chất bụi đất, tro cát bản chất ngăn ngại, thể tánh vốn khác nhau. Bỗng có người lấy đất cát bỏ vào nước trong,làm cho đất mất ngăn ngại, nước mất thanh khiết, thành tướng vẩn đục, nên gọi là trược. Năm lớp ô trược của nguơi cũng vậy.
- A Nan ! Nguơi thấy hư không khắp mười phuơng thế giới, hư không và kiến tinh chẳng thể phân ra rõ ràng. Hư không thì chẳng có bản thể, tức là ngoan không. Kiến tinh thì chẳng có bản giác, tức là vô minh. Cả hai giao kết lẫn nhau, vọng thành lớp thứ nhất, gọi là KIẾP TRƯỢC.
- Kiến, Văn, Giác, Tri vốn chẳng ngăn ngại, vì kẹt nơi tứ đại nên thành ngăn ngại. Địa, Thủy, Hỏa, Phong vốn chẳng giác tri, vì xoay chuyển theo lục căn thành có giác tri, các điều đó giao kết lẫn nhau, vọng thành lớp thứ hai, gọi là KIẾN TRƯỢC.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

- Lại trong tâm nguơi, tánh tưởng nhớ, học tập phát ra tri kiến, dung nạp lục trần, lìa trần thì chẳng có tướng, lìa giác thì chẳng có tánh, từ đó giao kết lẫn nhau vọng thành lớp thứ ba gọi là PHIỀN NÃO TRƯỢC.
- Lại tâm niệm của nguơi ngày đêm sanh diệt chẳng ngừng, tri kiến muốn ở mãi trên thế gian, nhưng nghiệp báo xoay vần lại thường dời đổi trong lục đạo, những điều ấy giao kết lẫn nhau vọng thành lớp thứ tư gọi là CHÚNG SANH TRƯỢC.
- Tánh kiến, văn của các ngươi vốn chẳng khác biệt, do lục trần ngăn cách bỗng thành khác biệt. Tánh biết thì đồng, sử dụng thì khác, đồng và khác chẳng định, từ đó giao kết nhau vọng thành lớp thứ năm, gọi là MỆNH TRƯỢC.

A Nan ! Nay nguơi muốn cho Kiến, Văn, Giác, Tri khế hợp với tứ đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của Như Lai, trước hết phải lọc bỏ cội gốc sanh tử, dựa theo tánh trong lặng, chẳng sanh diệt của Diệu Tâm, để xoay các thứ sanh diệt, hư vọng trở về Bản Giác. Được tánh chẳng sanh diệt của Bản Giác làm cái tâm nhân địa, rồi mới viên thành sự tu chứng quả địa. Như nước đục lắng trong đồ đựng nước, để yên mãi chẳng lay động, đất cát tự chìm và nước trong hiện ra. Ấy gọi là bắt đầu uốn dẹp được khách trần phiền não. Gạn bùn hết sạch, chỉ còn nước trong, gọi là dứt hẳn căn bản vô minh. Tướng minh thuần nhất thì tất cả biến hiện đều chẳng gây ra phiền não, và đều hợp với diệu đức trong sạch của Niết Bàn.

* Nghĩa thứ hai : Các nguơi đều muốn phát tâm Bồ Đề nơi Bồ Tát Thừa, sanh lòng đại dũng mãnh, quyết định lìa bỏ các tướng hữu vi, nên suy xét kỹ cái cội gốc phiền não của "nhuận nghiệp vô minh" và "nhuận sanh vô minh" từ vô thỉ này là ai làm, ai chịu ?

LƯỢC GIẢI
Xét kỹ chỗ phát tâm của nhân địa là để hợp cái chơn. Xét kỹ cộ gốc của phiền não là để tuyệt cái vọng. Vọng đã chẳng vọng, thì vọng tức chơn.
Cội gốc phiền não có hai;
Một là nhuận nghiệp vô minh (nhuận là thấm nhuần), tức là phiền não của nhiều kiếp quá khứ.
Hai là nhuận sanh vô minh, tức là khi đầu thai, nơi tình thức sanh khởi yêu ghét đối với cha mẹ.
Hai thứ phiền não này vốn chẳng có tự tánh. Nếu ngộ, biết chẳng có tự tánh thì chẳng có kẻ làm, chẳng có kẻ chịu. Ngay đó "không tịch" thì còn ai phiền não ?
Người Tiểu thừa chẳng lìa công dụng hữu vi, cho là thật có phiền não phải phá trừ, ấy là do chẳng biết căn, trần là hư vọng.
Người Đại thừa thẳng đến Vô Thượng Bồ Đề, chỉ cần xét kỹ nơi căn trần, ai làm, ai chịu, bỗng được khám phá, thì căn bản vô minh tức thời tan rã.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

- A Nan ! Người tu đạo Bồ Đề, nếu chẳng suy xét cội gốc phiền não, thì chẳng thể biết căn trần hư vọng đó điên đảo ở chỗ nào. Chỗ còn chẳng biết thì làm sao uốn dẹp được nó, để chứng nhập quả vị của Như Lai.
- Cũng như người thế gian, khi muốn mở cái thắt kết (thắt nút), nếu chẳng thấy chỗ thắt kết thì làm sao biết mở ? Nhưng chưa từng nghe nói hư không bị người ta phá hủy. Tại sao ? Vì hư không chẳng có hình tướng, chẳng thể thắt và mở. Vậy thì hiện tiền, lục căn của nguơi làm mai mối cho giặc, tự cướp của báu trong nhà, vọng thành sự thắt kết. Do sự thắt kết này nên thế giới chúng sanh tự ràng buộc từ vô thỉ, chẳng thể ra khỏi thế gian vậy.
- A Nan ! Sao gọi là thế giới chúng sanh ?
Thế là dời đổi (thời gian) Giới là phuơng vị (không gian).
Nên biết Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông bắc, Tây bắc, Đông nam, Tây nam, phuơng trên , phuơng dưới, là Giới.
Quá khư, hiện tại, vị lai là Thế.
Về phuơng vị của không gian có mười.
Về sự lưu chuyển của thời gian có ba.
Không gian, thời gian cùng với sự dời đổi trong thân thể của tất cả chúng sanh giao lộn lẫn nhau, nên thành thế giới chúng sanh.
Tánh giới (không gian) dù thiết lập thành mười phuơng, nhưng phuơng vị nhất định mà người thế gian có thể rõ được chỉ có Đông, Tây, Nam, Bắc, còn phuơng trên, phuơng dưới và chính giữa thì chẳng có vị trí nhất định.
Tứ phuơng nhân với tam thế là mười hai, rồi nhân lên gấp 100 lần (dụ cho các trường hợp) thành 1200.
Tổng quát lại là trong lục căn, mỗi mỗi có đến 1200 công đức.
- A Nan ! Nguơi nên ở trong lục căn, xác định chỗ hơn kém của mỗi căn.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

- A Nan ! Nguơi nên ở trong lục căn xác định chỗ hơn kém của mỗi căn
- NHÃN CĂN chỉ thấy phía trước, chẳng thấy phía sau. Ngó qua hai bên thì ba phần thấy được hai phần. Tóm lại công đức của nhãn căn chỉ được hai phần ba. Vây biết nhãn căn chỉ có 800 công đức.
- NHĨ CĂN nghe khắp mười phuơng chẳng sót, lúc động thì tựa có xa gần, lúc tịnh thì chẳng có bờ bến. Vậy biết nhĩ căn đầy đủ 1200 công đức
- TỶ CĂN ngửi biết khi thở ra hít vào. Có ra có vào mà sót khoảng giữa khi ra vào giao tiếp, vậy ba phần thiếu một phần , nên biết tỷ căn chỉ có 800 công đức.
- THIỆT CĂN tuyên duơng cùng tột trí thế gian và xuất thế gian. Lời nói có chừng ngằn, nhưng nghĩa lý thì vô cùng. . Vậy biết Thiệt căn đầy đủ 1200 công đức.
- THÂN CĂN ở nơi thuận nghịch sanh ra xúc giác. Khi hợp thì có xúc giác, khi lìa thì không biết, chẳng có xúc giác. Lìa thì có một, hợp thì thành hai (khi lìa thì chỉ có năng hoặc sở, khi hợp thì có đủ năng sở), vậy ba phần thiếu một, nên biết Thân Căn chỉ có 800 công đức.
- Ý CĂN thầm lặng mà cùng khắp tất cả pháp thế gian và xuất thế gian trong mười phuơng, tam thế, cùng tột Thánh phàm, đều bao gồm trong đó. Vậy biết Ý căn đầy đủ 1200 công đức

- A Nan ! Nay nguơi muốn ngược dòng sinh tử, trở về nguồn gốc của lưu chuyển, đến chỗ chẳng sanh diệt, thì nên xét cho kỹ sự thọ dụng của lục căn này, cái nào hợp, cái nào lìa. Cái nào sâu, cái nào cạn. Cái nào viên thông, cái nào chẳng viên thông. Nếu nguơi ngay những căn này, ngộ được căn nào viên thông, nuơng theo căn viên thông đó mà xoay ngược dòng nghiệp hư vọng từ vô thỉ, thì so với các căn khác hiệu quả gấp nhiều lần, một ngày bằng một kiếp.
- Nay Ta đã hiển bày một số công đức của lục căn như vậy, tùy nguơi chon lựa căn nào để nhập, thì Ta sẽ phát minh, khiến cho nguơi được thêm tinh tấn. Mười phuơng Như Lai nơi Thập bát giới, mỗi người đều chọn một giới mà tu hành, đều được Vô Thượng Bồ Đề, trong đó vốn chẳng hơn kém. Vì nay nguơi còn thấp kém , chưa thể phát huy trí huệ tự tại, nên Ta khai thị căn viên thông, khiến nguơi từ một cửa đi vào. Vào sâu một cửa, đến chỗ chẳng vọng, thì tất cả lục căn đều nhất thời trong sạch.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

- Bạch Thế Tôn, tại sao ngược dòng sinh tử, đi sâu vào một căn, có thể khiến lục căn đều nhất thời trong sạch ?
Phật bảo A Nan :
- Nay nguơi đã được quả Tu Đà Hoàn, diệt được kiến hoặc của chúng sanh ba cõi trên thế gian, nhưng còn chưa biết những tập khí hư vọng đã tích chứa trong căn từ vô thỉ, tập khí ấy phải nhờ tu đạo mới được dứt trừ. Khi đã dứt trừ tức là đến bậc vô học, chẳng những biết được quá trình dời đổi của sanh, trụ, dị, diệt, nơi một chúng sanh, mà còn biết được những hành tướng vi tế, niệm niệm dời đổi của tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới.
- Nay nguơi nhận xét lục căn này là nhất hay lục ? A Nan ! Nếu cho là nhất thì tại sao tai chẳng thấy, mắt chẳng nghe, đầu sao chẳng đi, chân sao chẳng nói ? Nếu cho là lục, như Ta nay ở trong hội vì nguơi chỉ dạy pháp môn nhiệm màu, vậy lục căn của nguơi, căn nào lãnh thọ ?
A Nan đáp :
- Con dùng tai nghe.
Phật nói :
- Tai nguơi tự nghe, có liên quan gì đến thân miệng, mà miệng thì hỏi đạo, thân tỏ cung kính ? Vậy nên biết phi nhất thành lục, phi lục thành nhất. Kỳ thật căn của nguơi chẳng phải vốn nhất hay vốn lục. A Nan nên biết cái căn phi nhất phi lục này vì vọng chấp điên đảo, chìm nối từ vô thỉ, nên ở nơi Bản Tánh viên thông, sanh ra cái nghĩa nhất-lục. Nguơi là bậc Tu Đà Hoàn, dù được tiêu lục, nhưng chưa diệt nhất, ví như hư không đặt vào nhiều khuôn hình, do khuôn hình khác nhau nên nói hư không có khác, nếu trừ bỏ khuôn hình, xem lại hư không thì nói hư không là một. Hư không sao lại vì ngươi mà thành đồng hay dị, huống chi còn gọi là một hay chẳng phải một! Nên biết, sự thọ dụng của lục căn cũng như vậy.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

LƯỢC GIẢI

A Nan nghĩ : Sao vào sâu một căn có thể khiến lục căn đều nhất thời trong sạch ?
Phật giải thích rằng :
- Giả sử lục căn vốn là một, vốn tự trong sạch, thì chẳng cần nói chi lục tặc.
- Giả sử lục căn vốn là sáu, chẳng hổ dụng nhau, làm sao có thể nhất thời trong sạch ?
Như hư không vốn chẳng khác biệt, do đặt vào nhiều khuôn hình khác nhau, thành ra có khác biệt. Vì khuôn hình khác biệt, bèn cho hư không cũng khác biệt, nên mới nói sáu chẳng phải một. Nếu trừ bỏ khuôn hình, xem lại hư không, thì nói hư không là một, tức là sáu tiêu, còn lại một. Đây là dụ cho sanh ra nghĩa nhất-lục. Thật ra hư không và khuôn hình chẳng thể hòa hợp, tất nhiên chẳng có đồng-dị. Đã chẳng đồng-dị thì có chỗ nào để gán cái tên nhất hay lục ư ? Đây là dụ cho "vốn chẳng nhất-lục", thì tánh viên thông, thường tịch hiện tiền, đâu còn chỗ nào chẳng trong sạch !

Tu Đà Hoàn gọi là "nhập lưu", mà chẳng có chỗ sở nhập. Chẳng nhập sắc, thanh, huơng, vị, xúc, pháp tức là lục tiêu, nhưng còn chấp thật có Niết Bàn nên chưa diệt NHẤT. Kỳ thật, NHẤT từ đâu đến ? KHÔNG từ đâu khởi ? Chỗ này cần phải tham cứu đến tự ngộ mới rõ được .


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

- Nhãn căn nơi diệu viên, tánh vốn trong lặng, do hai thứ sáng-tối tỏ bày lẫn nhau, dính bụi (ô nhiễm) thành cái thấy. Cái thấy gặp sắc trần, kết sắc trần thành căn, gốc căn thuộc nơi thanh tịnh tứ đại, gọi là Bản thể con mắt như trái nho tuơi. Phù căn tứ trần lưu chuyển theo sắc trần, tạo đủ thứ nghiệp .
- Nhĩ căn nơi diệu viên, tánh vốn trong lặng, do hai thứ động-tịnh đối chọi nhau, nhiễm ô thành cái nghe. Cái nghe gặp thanh trần, cuốn thanh trần thành căn, gốc căn thuộc nơi thanh tịnh tứ đại, gọi là Bản thể lỗ tai như lá cây cuốn. Phù căn tứ trần lưu chuyển theo thanh trần tạo đủ thứ nghiệp.
- Tỷ căn nơi diệu viên , tánh vốn trong lặng, do hai thứ thông và nghẽn phát hiện lẫn nhau, nhiễm ô thành cái ngửi, cái ngửi gặp huơng trần, thu nạp huơng trần thành căn, gốc căn thuộc nơi thanh tịnh tứ đại, gọi là Bản Thể cái mũi như hai móng tay rũ xuống. Phù căn tứ trần lưu chuyển theo huơng trần, tạo đủ thứ nghiệp.
- Thiệt căn nơi diệu viên, tánh vốn trong lặng, do hai thứ lạt và vị xen lộn nhau, nhiễm ô thành cái nếm. Cái nếm gặp vị trần, thu hút vị trần thành căn, gốc căn thuộc nơi thanh tịnh tứ đại, gọi là Bản thể cái lưỡi như trăng lưỡi liềm. Phù căn tứ trần lưu chuyển theo vị trần tạo đủ thứ nghiệp.
- Thân căn nơi diệu viên, tánh vốn trong lặng, do hai thứ ly và hợp xoa nhau, nhiễm ô thành xúc giác. xúc giác gặp xúc trần, nắm xúc trần thành căn, gốc căn thuộc nơi thanh tịnh tứ đại, gọi là Bản thể cái thân như dáng trống cơm. Phù căn tứ trần lưu chuyển theo xúc trần tạo đủ thứ nghiệp.
- Ý căn nơi diệu viên, tánh vốn trong lặng, do hai thứ sanh và diệt tuơng tục lẫn nhau, nhiễm ô thành cái biết. Cái biết gặp pháp trần, ôm pháp trần thành căn, gốc căn thuộc nơi thanh tịnh tứ đại, gọi là cái ý suy tư như sự thấy trong phòng tối. Phù căn tứ trần lưu chuyển theo pháp trần tạo đủ thứ nghiệp.

- A Nan ! Lục căn như thế, do giác minh kia có năng minh để minh cái giác, thì đánh mất cái tinh minh liễu triệt ấy (tự tánh), thành ra dính mắc nơi hư vọng rồi phát ra ánh sáng (cái biết) (cái ánh sáng do hư vọng phát ra, thì sáng chẳng phải sáng thật). Cho nên nguơi hôm nay lìa tối lìa sáng thì chẳng có cái thấy. Lìa động lìa tịnh thì chẳng có cái nghe. Không thông không nghẽn thì tánh ngửi chẳng sanh. Không vị không lạt thì sự nếm chẳng ra. bất ly bất hợp thì xúc giác vốn chẳng có. Không sanh không diệt thì sự liếu tri đặt ở chỗ nào ?
- Nguơi chỉ cầu chẳng duyên theo sự động-tịnh, hợp-ly, vị-lạt, thông-nghẽn, sanh-diệt, sáng-tối mười hai tướng hữu vi này, tùy tiện nhổ ra một căn, thoát khỏi sự dính mắc, trở về bản tánh chân thật, hiện ra sự chiếu soi của tự tánh. Tánh chiếu soi phát ra ánh sáng, thì sự dính mắc của ngũ căn kia liền cùng được giải thoát, và tri kiến khởi lên chẳng do cảnh trần. Chiếu soi chẳng duyên theo lục căn, mà nhờ lục căn phát ra ánh sáng, do đó sự dụng của lục căn dung thông lẫn nhau.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

LƯỢC GIẢI

Bản tánh Diệu viên trong lặng, gắp sắc trần thì thành cái thấy, gặp thanh trần thì thành cái nghe v.v...nên gọi là Diệu viên.
Nước trong lặng vốn chẳng dính mắc, do bụi trần lọt vào (nhiễm ô) thành có dính mắc.
Tánh của Địa, Thủy, Hỏa, Phong vốn đều không tịch, nên gọi là thanh tịnh tứ đại, gốc căn ẩn bên trong, tướng căn do tứ đại tạo thành ở bên ngoài, nên gọi là phù căn. Tướng của Địa, Thủy, Hỏa, Phong vốn đều lay động nên gọi là tứ trần. Nếu như sự thấy trong phòng tối, thì đâu thể có phù căn tứ trần ? Vì "tánh không" lìa Bản Giác thành ám muội, cái ám muội này kết với tối đen thành sắc trần. Tối đen và sắc trần xen lộn với vọng tưởng, lay động bên trong thành có đen tối để thấy, cũng có thể gọi là phù căn tứ trần vậy, nên nói "như sự thấy trong phòng tối".

Thanh tịnh tứ đại là một danh từ để chỉ rõ cái nghĩa của "Thắng nghĩa căn". Hai chữ Thắng nghĩa là để chỉ bày cái nghĩa lý siêu việt hơn nghĩa lý thông thường. Vì hay chiếu soi trần cảnh, phát ra cái thức phân biệt, cũng gọi là "Tịnh sắc căn" (gốc căn chẳng có hình sắc đối với mắt , nên gọi là Tịnh sắc căn).
Phù căn tứ trần là một danh từ để tỏ rõ cái nghĩa của phù trần căn, vì hay lưu chuyển theo cảnh trần, tạo đủ thứ nghiệp vậy.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

- A Nan ! Ngươi há chẳng biết, hiện trong hội này, A Na Luật chẳng mắt mà thấy, rồng Bạt Nan Đà chẳng tai mà nghe, Thần nữ Căng Già chẳng mũi mà ngửi huơng, Kiều Phạm Bát Đề lưỡi trâu mà biết vị. Thần Thuấn Nhã Đa bản chất là gió, vốn chẳng có tự thể, do ánh sáng tự tánh, tạm hiện hình bóng, nên chẳng có thân mà biết xúc giác. Các hàng Thanh văn được diệt tận định trong hội này như Ma Ha Ca Diếp, ý căn đã diệt trừ từ lâu, mà vẫn biết rõ khắp mọi nơi, chẳng do tâm niệm.
- A Nan ! Nếu các căn của guơi đều được giải thoát, thì sự dụng của Tự Tánh tự hiện, như trong lặng mà phát ra ánh sáng. vậy phù trần căn và các tướng biến hóa trong thế gian đều tiêu, như nước sôi làm tan băng đá, ngay đó liền hóa thành "Vô Thượng Tri Giác".
- A Nan ! Như người thế gian cho sự thấy là do con mắt, nếu bỗng nhắm mắt lại thì tướng tối hiện ra, lục căn mờ mịt, đầu và chân giống nhau. Người ấy dùng tay rờ thân người khác, mắt dù chẳng thấy,nhưng vẫn phân biệt được đầu và chân, vậy sáng-tối dù khác, tánh biết vẫn đồng. Nếu duyên sáng mới có thấy, thì khi tối thành chẳng thấy, nếu chẳng duyên sáng mà phát ra tánh thấy, thì các tướng tối chẳng thể làm mờ được. Căn trần đã tiêu thì tánh giác minh đâu thể chẳng thành diệu viên ?
A Nan bạch Phật rằng :
- Như lời Phật dạy, nếu muốn cầu được quả thường trụ thì chỗ phát tâm của nhân địa và quả địa phải cân xúng với nhau. Thế Tôn ! Trong quả vị Như Lai, bảy thứ : Bồ Đề, Niết Bàn, Chơn Như, Phật Tánh, Am Ma La Thức, Không Như Lai Tạng, Đại Viên Cảnh Trí, tên gọi dù khác, nhưng thể tánh trong sạch viên mãn, kiên cố như Kim Cang Vuơng, thường trụ chẳng hoại.
- Nếu cái thấy-nghe này lìa những tướng như sáng-tối, động-tịnh thông-nghẽn vốn chẳng tự thể. Cũng như tâm niệm lìa nơi tiền trần vốn chẳng có gì cả, thì tại sao lại có thể đem sự đoạn diệt này làm nhân tu, mà mong cầu bảy thứ thừong trụ của Như Lai ?
- Thế Tôn ! Nếu lìa sáng-tối thì cái thấy thành không có. Nếu chẳng có tiền trần thì tâm niệm tịch diệt. Nghĩ tới nghĩ lui, suy xét tỷ mỉ, vốn chẳng có cái tâm và tâm sở của con, vậy lấy gì làm nhân để cầu quả Vô Thượng Giác ? Như Lai trước kia đã nói tánh giác trạm nhiên thường trụ, vậy lời nói trái với lẽ thường thì chỉ thành hý luận, làm sao nhận được lời nói của Như Lai là chơn thật ? Xin Phật từ bi khai mở chỗ mê muội của con.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Phật bảo A Nan :
- Nguơi chỉ học rộng nghe nhiều, chưa dứt sạch tập khí phiền não, trong tâm dù biết rõ cái nhân điên đảo, mà điên đảo thật hiện tiền thì chẳng biết, e rằng nguơi còn chưa thật lòng tín phục, nay Ta thử đem những việc trần thế để phá trừ cái nghi của nguơi.

Tức thời Như Lai bảo La Hầu La đánh một tiếng chuông, và hỏi A Nan :
- Nay nguơi nghe chăng ?
A Nan và đại chúng đều đáp :
- Có nghe!
Khi tiếng chuông dứt rồi, Phật lại hỏi :
- Các nguơi nghe chăng ?
A Nan và đại chúng đều đáp:
- Chẳng nghe !
Khi đó La Hầu La lại đánh một tiếng chuông. Phật lại hỏi :
- Các nguơi nghe chăng ?
A Nan và đại chúng đều đáp
- Có nghe !
Phật hỏi A Nan :
- Nguơi cho thế nào là có nghe, thế nào là chẳng nghe ?
A Nan và đại chúng đều bạch Phật rằng :
- Khi tiếng chuông đánh lên thì chúng con được nghe. Khi tiếng chuông ngưng rồi, âm vang đều dứt thì chẳng nghe.
Như Lai lại bảo La Hầu La đánh chuông rồi hỏi :
- Nay có tiếng chăng ?
A Nan và đại chúng đều đáp :
- Có tiếng.
Ít lâu, tiếng ngưng, Phật lại hỏi :
- Nay có tiếng chăng ?
A Nan và đại chúng đều đáp :
- Không tiếng.
Lát sau, La Hầu La lại đánh một tiếng chuông. Phật lại hỏi :
- Nay có tiếng chăng ?
A Nan và đại chúng đều đáp :
- Có tiếng.
Phật hỏi A Nan :
- Nguơi cho thế nào là có tiếng, thế nào là chẳng có tiếng ?
A Nan và đại chúng đều bạch Phật rằng :
- Khi chuông đánh lên thì gọi là có tiếng, khi tiếng chuông ngưng rồi, âm vang đều dứt thì gọi là chẳng có tiếng.
Phật bảo A Nan và đại chúng:
- Lời nói các nguơi sao tự càn loạn với nhau
Đại chúng và A Nan đồng thời bạch Phật :
- Sao gọi chúng con là càn loạn ?
Phật nói :
- Ta hỏi về nghe thì các nguơi nói nghe. Ta hỏi về tiếng thì các nguơi nói tiếng. Cái nghe và tiếng trả lời chẳng định như thế, không phải càn loạn là gì ?
- A Nan ! Tiếng dứt chẳng âm vang thì nguơi nói là chẳng nghe, nếu thật chẳng nghe thì tánh nghe phải diệt, đồng như cây khô. Khi tiếng chuông lại đánh lên, thì nguơi làm sao biết được ? Biết có biết không, ấy là thanh trần hoặc có hoặc không đâu phải tánh nghe vì nguơi mà thành có thành không ? Nếu tánh nghe thật không thì ai biết không nghe ?
- A Nan ! Thanh trần ở trong tánh nghe tự có sanh diệt, chẳng phải tánh nghe của nguơi theo thanh trần sanh diệt, khiến tánh nghe thành có thành không. Nguơi còn điên đảo nhận lầm thanh trần là tánh nghe, lạ gì chẳng mê muội cho Thường là Đoạn ? Tóm lại chẳng nên cho rằng lìa các tướng động-tịnh, thông-nghẽn, nói chẳng có tánh nghe.
Như người đang ngủ mê trên giường trong nhà, có người giã gạo, người ấy trong chiêm bao nghe tiếng giã gạo tưởng lầm thành tiếng khác, hoặc cho là tiếng trống, hoặc cho là tiếng chuông, trong chiêm bao liền lấy làm lạ, sao tiếng chuông lại nghe như tiếng cây đập vào đá, khi chợt tỉnh dậy, nghe tiếng chầy, bảo với người nhà rằng: trong lúc chiêm bao đã lầm tiếng chày cho là tiếng trống.
A nan ! Người đó trong chiêm bao đâu nhớ những sự động-tịnh, thông- nghẽn. Thân hình dù ngủ, nhưng tánh nghe chẳng mất. Vậy dẫu cho hình tướng tiêu tan, thân mạng đổi dời, làm sao tánh nghe này lại vì nguơi mà tiêu diệt.

Do chúng sinh từ vô thỉ , nuơng theo sắc thanh, đuổi theo vọng niệm mà lưu chuyển, chưa từng khai ngộ bản tánh trong sạch thường trụ. Chẳng theo tánh chơn thuơng, lại đuổi theo sanh diệt, do đó đời đời bị xoay vần trong vòng tạp nhiễm.
Nếu bỏ sanh diệt, giữ tánh chơn thường, thì ánh sáng chơn thường tự hiện. Căn-trần, tâm-thức ngay đó liền tiêu. Tướng vọng tưởng là trần, tánh phân biệt là cấu, cả hai đều xa lìa, thì pháp nhãn của nguơi liền được trong suốt, làm sao lại chẳng thành Vô Thượng Giác ?


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

QUYỂN NĂM

A Nan bạch Phật rằng :
- Như Lai dù đã khai thị nghĩa thứ hai, nhưng con xét những người mở nút kết, nếu chẳng biết cái gốc của nút kết, thì con chắc người ấy chẳng bao giờ mở được.
Thế Tôn ! Con và hàng hữu học Thanh Văn trong hội cũng vậy. Chung với vô minh cùng sanh cùng diệt từ vô thỉ, dù được thiện căn đa văn, mang tiếng là xuất gia , mà sự tu như người sốt rét cách nhật, lúc có lúc không. Xin Phật từ bi thuơng xót kẻ chìm đắm , khai thị thế nào là cái nút thắt kết của thân tâm hiện hữu này, làm sao được mở, cũng khiến cho chúng sanh khổ não đời vị lai được ra khỏi luân hồi.

Nói xong cùng đại chúng năm vóc gieo sát đất, cung kính rơi lệ, mong đợi lời khai thị vô thượng của Phật.
Bấy giờ Thế Tôn thuơng xót A Nan và hàng hữu học trong hội, đồng thời làm nhân xuất thế gian chỉ đường cho tất cả chúng sanh đời vị lai, lấy tay xoa đầu A Nan. Liền đó sáu thứ rung động khắp mười phuơng thế giới, vô số Như Lai trong các cõi ấy mỗi mỗi đều từ đỉnh đầu phóng ra hào quang, đồng thời chiếu đến rừng Kỳ Đà, rọi vào đỉnh đầu Như Lai. Cả chúng đều được pháp chưa từng có.

Lúc ấy A Nan và đại chúng đều nghe mười phuơng Như Lai đồng thanh bảo A Nan rằng :
- Lành thay A Nan ! Nguơi muốn biết cái câu sinh vô minh (căn bản vô minh) là gốc thắt kết khiến nguơi lưu chuyển trong vòng sanh tử, ấy chính là lục căn của nguơi chứ chẳng phải vật khác.

A Nan dù được nghe pháp âm như vậy, tâm còn chưa rõ, cúi đầu bạch Phật:
- Tại sao khiến con bị sanh tử luân hồi và được tự tại giải thoát đều là lục căn, chẳng phải vật khác ?
Phật bảo A Nan :
- Căn-trần cùng gốc, mở thắt không hai, tánh thức hư vọng như hoa đốm trên không. A Nan do trần phát tri, vì căn kiến tướng. Kiến và tướng chẳng có tự tánh, như những cây sậy gác vào nhau, cho nên nay nguơi lập tri kiến thành tri, tức là căn bản vô minh. Nếu đối với tri kiến chẳng chấp là tri kiến, ấy tức là Niết bàn trong sạch, vô lậu, làm sao trong đó có thể dung nạp vật khác.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Bing [Bot]12 khách