KINH LĂNG NGHIÊM

Để giữ gìn sự trang nghiêm, thuần túy tạo nguồn tư liệu; nơi đây chỉ đăng Kinh Văn mà không thảo luận.

Điều hành viên: thử nghiệm global, Thanh Tịnh Lưu Ly

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Liền đó từ trong bàn tay Như Lai phóng ra một tia hào quang rọi bên phải A Nan, A Nan liền quay đầu nhìn bên phải. Phật lại phóng một tia hào quang rọi bên trái A Nan, A Nan lại quay đầu nhìn bên trái. Phật bảo A Nan :
- Đầu nguơi vì sao lại lay động ?
A Nan đáp :
- Con thấy Như Lai phóng hào quang đến hai bên cạnh con, nên con nhìn qua nhìn lại, đầu tự lay động.
- A nan ! Nguơi nhìn theo hào quang lay động là đầu nguơi lay động hay cái thấy lay động ?
- Bạch Thế Tôn ! Đầu con tự lay động, tánh thấy của con ngưng còn chẳng có, nói gì lay động !
(Bản kiến không đối đãi, động và chẳng động đều không dính dáng)
Phật nói :
- Đúng thế.
Phật bảo đại chúng rằng :
- Nếu chúng sinh cho "lay động" là trần, "chẳng trụ" là khách, các nguơi hãy xem, như A Nan đầu tự lay động mà tánh thấy chẳng động. Lại tay Ta tự nắm mở mà tánh thấy chẳng nắm mở. Vậy sao hiện nay các nguơi lại cho động là thân, cho động là cảnh ? Từ đầu đến cuối niệm niệm sinh diệt, lạc mất chơn tánh, hành theo điên đảo. Vì tâm tánh chẳng chơn nhận vật làm mình, tự trôi lăn theo dòng sinh tử, cam chịu luân hồi !


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

QUYỂN 2

Lúc bấy giờ, A Nan và đại chúng nghe lời Phật dạy, thân tâm thư thái, nghĩ mình từ vô thỉ đến nay lạc mất Bản Tâm, nhận lầm bóng phân biệt của nhân duyên căn trần, hôm nay khai ngộ như đứa bé khát sữa bỗng được gặp mẹ, chắp tay lễ Phật, mong được nghe Như Lai hiển bày chỗ chân, vọng, hư, thật của thân tâm, phát minh hai tánh : sanh diệt và chẳng sanh diệt ngay trước mắt.

Khi ấy vua Ba Tư Nặc đứng dạy bạch Phật :
- Xưa kia con chưa được nghe lời dạy của Phật, thấy bọn ngoại đạo Ca Chiên Diên (chấp các pháp cũng có cũng không) và Tỳ La Chi Tử (chấp mãn kiếp tự nhiên đắc đạo) đều nói : thân này sau khi chết, đoạn diệt, gọi là Niết Bàn. Nay dù gặp Phật nhưng vẫn hồ nghi, chẳng biết làm thế nào mới được chứng tỏ chỗ chẳng sanh diệt của tâm này. Hiện nay hàng hữu lậu trong chúng đều mong cùng nghe.
Phật nói với vua :
- Thân ông ở đây, nay Ta hỏi ông: Cái nhục thân này là đồng như kim cang, thường trụ chẳng hoại, hay có biến diệt ?
- Bạch Thế Tôn ! Thân con rốt cuộc sẽ phải biến diệt.
Phật hỏi :
- Ông chưa từng diệt, sao biết phải diệt ?
- Bạch Thế Tôn ! cái thân vô thường biến hoại của con dù chưa từng diệt, nhưng con xét thấy trước mắt niệm niệm dời đổi, mãi mãi không thôi, như lửa thành tro, sự hao mòn chẳng ngừng, nên biết chắc thân này rồi sẽ diệt mất.
Phật nói :
- Đúng thế Đại vuơng ! Tuổi tác của ông nay đã già yếu, vậy mặt mày so với thuở nhỏ như thế nào ?
- Bạch Thế Tôn ! Xưa con còn nhỏ, da thịt mơn mởn, đến khi trưởng thành, khí huyết sung túc, nay thì tuổi đã già, ngày thêm suy yếu, hình sắc khô gầy, tinh thần mệt mỏi, tóc bạc mặt nhăn, sự sống chẳng còn bao lâu nữa. Làm sao so bằng lúc trẻ khỏe mạnh !
Phật nói :
- Hình thể của ông đâu phải bỗng nhiên biến hoại !
- Bạch Thế Tôn ! Sự biến hóa âm thầm dời đổi, con thật chẳng hay, mùa đông mùa hạ thấm thoát trôi qua, dần dần đến thế này. Tại sao ? Khi hai muơi tuổi , dù gọi là trẻ, nhưng mặt mày đã già hơn lúc lên mười. Khi ba muơi tuổi lại sút hơn lúc hai muơi, đến nay đã sáu muơi hai, so với lúc năm muơi thì suy yếu hơn nhiều. Thế Tôn ! con cảm thấy sự dời đổi âm thầm trôi chảy theo kỳ hạn mười năm, nhưng nếu suy xét tỷ mỷ thì cái biến đổi ấy đâu phải từng mười năm ! Thật ra thì mỗi năm mỗi đổi, cho đến mỗi tháng, mỗi ngày,mỗi giờ , trong mỗi sát na, niệm niệm biến đổi chẳng ngừng, nên biết thân này chung qui biến diệt vậy.
Phật nói :
- Ông thấy biến hóa dời đổi chẳng ngừng, ngộ biết phải diệt. Vậy trong lúc diệt, ông còn biết trong thân có cái gì chẳng diệt chăng ?
Vua Ba Tư Nặc chắp tay bạch Phật :
- Con thật chẳng biết !
Phật nói :
- Nay ta chỉ cho ông cái tánh chẳng sanh diệt.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Phật bảo vua Ba Tư Nặc :
- Đại Vuơng ! Ông thấy nước sông Hằng hồi mấy tuổi ?
Vua đáp:
- Lúc lên ba, mẹ con dắt đi yết lễ thần Tỳ Bà Thiên, đi qua sông này, khi ấy con đã biết sông Hằng.
Phật nói :
- Như Lời ông nói, lúc hai muơi tuổi thì sút hơn lúc lên mười, cho đến lúc sáu muơi, niệm niệm dời đổi theo từng ngày từng giờ. Vậy khi ông ba tuổi thấy nước sông Hằng, rồi đến năm mười ba tuổi lại thấy nước sông Hằng, tánh thấy như thế nào ?
Vua đáp :
- Tánh thấy cũng giống như khi lên ba tuổi, cho đến năm nay đã sáu muơi hai cũng chẳng có khác.
(Bản kiến vốn chẳng sanh diệt, biến đổi)
Phật nói :
- Nay ông tự than đã già, mặt ông chắc phải nhăn hơn lúc trẻ, vậy hiện nay thấy nước sông Hằng với lúc nhỏ thấy nước sông Hằng, cái tánh thấy có già trẻ gì chăng ?
- Bạch Thế Tôn không ạ !
Phật nói :
- Mặt ông dù nhăn mà cái tánh của kiến tinh (năng kiến) chưa từng nhăn. Có nhăn là có biến đổi, chẳng nhăn thì bất biến. Biến ắt phải diệt, bất biến vốn chẳng sanh diệt. Vậy lấy gì để thọ nhận sanh tử cho ông ? mà còn đem tà thuyết của bọn Mạt Lê Già kia, cho là thân này sau khi chết đoạn diệt !

Vua nghe Phật dạy, tin biết "Bổn kiến" thật chẳng đoạn diệt, bỏ thân này sẽ được thân khác, nên cùng đại chúng vui mừng , được pháp chưa từng có.

Ngay đó, A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay đảnh lễ, quỳ gối bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn ! Nếu cái tánh thấy nghe này thật chẳng sanh diệt, sao Thế Tôn lại nói chúng con lạc mất hơn tánh, hành theo điên đảo ? Xin Phật từ bi rửa sạch trần cấu cho chúng con.

Tức thời Như Lai duỗi cánh tay sắc vàng, ngon tay chỉ xuống, bảo với A Nan :
- Nay nguơi thấy tay Ta là chánh hay nghịch ?
A Nan đáp :
- Chúng sanh thế gian cho đây là nghịch,mà con chẳng biết thế nào là chánh, thế nào là nghịch.
Phật bảo A nan :
- Nếu người thế gian cho đây là nghịch thì lấy gì làm chánh ?
A Nan đáp :
- Như Lai đưa cánh tay chỉ lên trời gọi là chánh.
Phật liền giơ cánh tay lên, bảo rằng :
- Theo tánh thấy là chánh, theo cảnh trần là nghịch. Tánh thấy chẳng có chánh nghịch, cảnh trần mới có chánh nghịch. nay chẳng duyên theo tánh thấy mà duyên theo cảnh trần, đã là một lớp điên đảo. Lại theo lý lẽ thường, cánh tay chỉ xuống thuận theo thân là chánh, cánh tay chỉ lên ngược với thân là nghịch; nay người thế gian đầu đuôi đổi nhau, cho thuận là nghịch, đảo cho là chánh, thành ra điên đảo bội phần. Đem thân nguơi so với Pháp thân Thanh tịnh của Như Lai thì được biết rõ. Thân Như Lai gọi là "Chánh biến Tri", thân các nguơi gọi là "Tánh điên đảo". Nguơi hãy quán xét kỹ thân nguơi và thân Phật, cái cho là điên đảo ấy, ở chỗ nào gọi là điên đảo ?


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

LƯỢC GIẢI

Thanh tịnh Pháp thân tức Diệu tâm Sáng tỏ (là gốc)
Kiến, văn, giác, tri là do diệu tâm hiện ra (là ngọn)
Về gốc là chánh, theo ngọn là nghịch.
Ví như bọt nổi trên biển. nhận biển là chánh, nhận bọt là nghịch.
Phật hỏi A Nan : Nguơi thấy tay ta là chánh hay nghịch ?
Khi đó A Nan nên ở nơi tánh thấy của mình trực ngộ thế nào là chánh, thế nào là nghịch, chẳng nên ở nơi tay Như Lai cho là chánh, là nghịch.
Cũng như Tu Bồ Đề tĩnh tọa trong hang, chẳng nhờ căn thức, được thấy Pháp thân Như Lai, gọi là Chánh biên tri.
A nan dùng mắt thấy tay Như Lai, lại ở nơi tay phân biệt chánh, nghịch, ấy là duyên theo lục thức, bỏ gốc theo ngọn, đã lìa ngôi chánh nên gọi là điên đảo.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Khi ấy A Nan và đại chúng ngẩn ngơ nhìn Phật không nháy mắt, chẳng biết chỗ thân tâm điên đảo. Phật mở lòng từ bi thuơng xót A Nan và đại chúng, phát Hải triều Âm bảo khắp trong hội rằng :
- Các Thiện nam tử ! Ta thường nói " các duyên tâm và sắc với các tâm sở (buồn vui, yêu ghét v.v...), các pháp sở duyên (cảnh trần) đều do tâm biến hiện. Thân tâm nguơi cũng là vật do Diệu tâm hiện ra. Vây sao các ngươi lại lạc mất cái Bản Tánh vốn tròn đầy sáng tỏ của Diệu tâm, nhận lầm cái mê (vọng tâm) nơi ngộ (Diệu tâm), cho là tâm tánh, bèn mê diệu minh (Diệu tâm sáng tỏ), trở thành vô minh, từ vô minh biến thành ngoan không. Vô minh là năng biến, ngoan không là sở biến. Năng sở hòa hợp biến ra tứ đại, là ngoại sắc của y báo. Sắc lẫn lộn với tâm vọng tưởng thành có chúng sanh, là nội sắc của chánh báo. Tưởng (vọng tưởng) và tướng (vọng sắc) làm thân.
Nhiếp trì thân tâm là thức thứ tám (Alaya)
Tụ duyên lay động bên trong là thức thứ bảy (Mạt na)
rong ruổi theo cảnh bên ngoài là thức thứ sáu (ý thức)
Từ vô minh biến khởi vọng duyên, vọng trần, mà nhận tướng nhiễu loạn lăng xăng này, mê muội cho là tự tâm ở trong sắc thân. Chẳng biết sắc thân, núi sông, đất đai cho đến hư không đều là vật do Diệu tâm biến hiện. Ví như bỏ cả trăm ngàn biển lớn, chỉ nhận một bọt nước, cho đó là bao gồm tất cả nước biển. Cũng như các nguơi tự bỏ BẢN KIẾN, lại ở nơi tay Ta phân biệt chánh - nghịch, thật là mê lại thêm mê. Như Lai gọi là kẻ đáng thuơng xót vậy.

A Nan thọ nhận lòng từ bi, dạy bảo thâm sâu của Phật, rơi lệ chắp tay bạch Phật rằng :
- Con dù được nghe diệu âm, ngộ biết chỗ Bản Lai thường trụ viên mãn của Diệu tâm, mà con hiện nay dùng tâm phan duyên nghe tiếng thuyết pháp của Phật, dẫu ngộ được tâm này, nhưng chưa dám cho là Bản Tâm. Mong Phật thuơng xót khai thị diệu pháp, nhổ trừ gốc nghi ngờ của con, để con được đến đạo Vô thượng.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Phật bảo A Nan :
- Các người nay còn dùng tâm phan duyên để nghe pháp, vậy pháp này cũng là duyên, chẳng hợp pháp tánh. Cũng như có người dùng tay chỉ mặt trăng cho người khác xem, người ấy nên nhờ ngón tay để thấy mặt trăng. Nếu nhìn ngón tay cho là mặt trăng thì chẳng những bỏ mất mặt trăng, mà cũng chẳng biết ngón tay.
Tại sao ? Vì cho ngón tay là mặt trăng, chẳng những không biết ngón tay, lại cũng chẳng phân biệt được sáng tối.
Tại sao ? Vì cho cái bản thể của ngón tay là tánh sáng của mặt trăng, chẳng rõ được hai tướng sáng tối vậy.
Các ngươi cũng thế, nếu dùng ý thức phân biệt tiếng thuyết pháp của Ta, cho là tâm của các nguơi, thì tâm này phải lìa sự phân biệt và âm thanh, vẫn riêng có tánh phân biệt. Ví như người đi đường ở lại khách sạn, nghỉ tạm rồi đi, chẳng được thường trú, còn người chủ khách sạn thì khỏi phải đi đâu cả. Nay cũng như thế, nếu là chơn tâm của ngươi thì khỏi cần đi đâu, sao lại lìa âm thanh chẳng có tự thể của tánh phân biệt ? Thế thì cái tâm phân biệt âm thanh, dung mạo này lìa các sắc tướng chẳng có tự thể của tánh phân biệt, cho đến sự phân biệt cũng chẳng có, phi sắc, phi không mà bọn ngoại đạo Câu Xá Ly mê muội cho là Minh Đế (thần ngã). Nếu lìa các pháp nhân duyên chẳng có tự thế của tánh phân biệt thì tâm tánh các ngươi đều có chỗ trả về,lấy gì làm chủ ?
A Nan nói :
- Nếu tâm tánh của con đều có chỗ trả về, thì cái Diệu tâm sáng tỏ mà Như Lai nói, sao chẳng có chỗ trả về ? Xin Phật thương xót khai thị cho con.
Phật bảo A nan :
- Nay ngươi thấy được ta là do cái kiến tinh sáng tỏ (đệ nhị nguyệt), kiến tinh này chẳng phải là Diệu tâm sáng tỏ (đệ nhất nguyệt), gượng nói như mặt trăng thứ hai, cũng chẳng phải bóng của mặt trăng thứ nhất vậy. Nguơi hãy chú ý nghe, bây giờ ta chỉ rõ chỗ chẳng thể trả về.
A nan ! Như ở đây, giảng đường mở cửa bên đông, mặt trời mọc lên thì sáng, nửa đêm không trăng thì tối. Chỗ có cửa nẻo thì thông, chỗ có vách tường thì nghẽn. Chỗ phân biệt là duyên, nơi hư không là trống rỗng, bụi trần nổi lên thì thấy mịt mù, mưa tạnh trời thanh thì thấy sáng sủa.
A Nan ! nguơi xem các tướng biến hóa này, nay ta trả về chỗ Bản nhân của nó. Sao gọi là Bản nhân ? Các tướng biến hóa này, sáng trả về mặt trời, tại sao ? Vì không có mặt trời thì chẳng sáng. Sáng thuộc về mặt trời nên trả về mặt trời. Tối trả về đêm không trăng, thông trả về cửa nẻo, bít nghẽn trả về tường vách, duyên trả về phân biệt, trống rỗng trả về hư không, mịt mù trả về bụi trần, sáng sủa trả về mưa tạnh. Tất cả các việc thế gian không ngoài những loại này. Vậy cái Kiến Tinh thấy được tám thứ kể trên đó, ngươi định trả về đâu ? Nếu trả cho sáng thì lúc không sáng chẳng thể thấy tối, thế thì sáng tối chẳng thể phân biệt. Còn bảy thứ kia cũng giống như vậy. Những cái trả về được tất nhiên chẳng phải ngươi, cái không thể trả về chẳng phải ngươi thì là ai ? Vậy biết tâm ngươi vốn diệu minh, trong sạch. Ngươi tự mê muội lạc mất BẢN TÂM nên cam chịu luân hồi, thường bị trôi lăn trong sinh tử, nên Như Lai nói là đáng thuơng xót.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

A Nan nói :
- Con dù biết Tánh thấy này chẳng thể trả về, nhưng làm sao biết là chơn tánh của con ?
Phật bảo A Nan :
- Ta hỏi nguơi, nay nguơi chưa đắc quả vô lậu, nhờ thần lực của Phật, được thấy cõi sơ thiền chẳng có ngăn ngại, mà A Na Luật thấy cõi Ta Bà như xem trái Yêm Ma La trong bàn tay, các Bồ Tát thấy trăm ngàn cõi, mười phương Như Lai cùng tột, vô số quốc độ Phật, chẳng chỗ nào không thấy khắp, mà sức thấy của chúng sinh thì chẳng quá vài dặm.
A Nan ! Nay ta cùng ngươi xem cung điện của Tứ Thiên Vương, từ đó trở xuống, xem tất cả hình tượng sáng tối khắp hư không, dưới nước và trên bờ, đều bị chướng ngại nơi tiền trần phân biệt. Nay Ta cho ngươi phân biệt trong sự thấy, cái nào là vật tượng ? A Nan ! Cùng tột sức thấy của ngươi, từ cung trăng cho đến Thất Kim Sơn, quán xét cùng khắp, dù có đủ thứ ánh sáng cũng đều là vật chứ chẳng phải ngươi, dần dần xem đến mây bay, chim hót, gió động, bụi nổi, cho đến núi sông, đất đai, người thú, cỏ lá... đều là vật chứ chẳng phải ngươi . A Nan các tánh vật xa gần dù có khác biệt, nhưng đều do kiến tinh trong sạch của ngươi nhìn thấy. Vậy thì các loài, các vật tự có sai biệt mà tánh kiến chẳng khác, cái kiến tinh Diệu minh này chính là Tánh thấy của ngươi.
Nếu kiến tinh là vật thì ngươi cũng có thể thấy kiến tinh của ta, nếu cùng thấy gọi là thấy kiến tinh của ta, thì lúc Ta chẳng thấy, sao ngươi không thấy chỗ chẳng thấy của Ta ? Nếu thấy được chỗ chẳng thấy của Ta thì chẳng phải cái tướng chẳng thấy. Nếu không thấy chỗ chẳng thấy của Ta, thì kiến tinh tất nhiên phi vật, sao lại chẳng phải ngươi ?
Nếu kiến tinh là vật thì vật cũng có tánh thấy, lúc ngươi thấy vật, vật cũng thấy ngươi, thể tánh lẫn lộn thì nguơi và Ta với tất cả thế gian chẳng thể an lập.
A Nan nếu lúc nguơi thấy, là nguơi chứ chẳng phải Ta thấy, thì cái tánh thấy cùng khắp đó không phải ngươi thì là ai ? Sao lại tự nghi chơn tánh của mình, cho là chẳng chơn, mà cầu sự thật nơi Ta ?


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

LƯỢC GIẢI

Tại sao nói : Kiến tinh này là Ngươi, chẳng phải vật ? Nếu kiến tinh là vật thì kiến tinh của Ta Ngươi cũng thấy được, nhưng sự thật thì kiến tinh của Ta Ngươi chẳng thể thấy.
Nếu nói Ta thấy Nguơi thấy, lúc cùng thấy tức là kiến tinh của Ta, vậy thì lúc Ta thấy, Nguơi đã thấy được rồi, lúc Ta chẳng thấy, Ngươi cũng phải thấy được chứ, mà sự thật lại chẳng như thế.
Nếu nói lúc thấy là dùng CÁI THẤY, lúc chẳng thấy là dùng cái CHẲNG THẤY để thấy, gọi là thấy chỗ CHẲNG THẤY của Ta. Vậy đã chẳng tự thấy, lấy gì để thấy cái tướng CHẲNG THẤY kia ? Nếu cái tướng chẳng thấy kia cho Nguơi thấy được tức là tướng thấy, chẳng phải tướng chẳng thấy.
Vậy biết chỗ chẳng thấy của Ta, Ngươi nhất định chẳng thể thấy được. Lúc Ta chẳng thấy, Ngươi đã chẳng thể thấy được thì lúc Ta thấy, Ngươi cũng chẳng thể thấy được. THẤY và CHẲNG THẤY đều chẳng thể chỉ ra kiến tinh. Vậy kiến tinh của Ta rõ ràng là phi vật. Kiến tinh của Ta là phi vật thì kiến tinh của Ngươi cũng là phi vật vậy. Kiến tinh của Ngươi đã phi vật thì chẳng thuộc nơi vật, làm sao chẳng phải Ngươi ?

Đây là dùng cái nghĩa CHẲNG THỂ THẤY để làm sáng tỏ là Kiến tinh phi vật. Nếu kiến tinh có thể thấy được thì kiến tinh cũng là vật vậy. Đã là vật , làm sao làm chủ được vạn vật mà an lập cõi thế gian ?


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

- Bạch Thế Tôn ! Nếu tánh thấy này chắc là con chứ chẳng phải ai khác, thì khi con và Như Lai xem cung điện của Tứ Thiên Vương và cung trăng, tánh thấy này cùng khắp cõi Ta Bà, khi lui về Tịnh xá, chỉ thấy vườn chùa, trước cửa giảng đường chỉ thấy hành lang. Thế Tôn ! Tánh thấy như vậy, Bản thể vốn cùng khắp một cõi, nay ở trong phòng thì chỉ khắp một phòng, vậy là do tánh thấy rút lớn thành nhỏ, hay do bức tường làm cho ngăn cách ? Nay con chẳng biết nghĩa này thế nào, mong Phật từ bi giảng rõ.
Phật bảo A Nan :
-Tất cả sự vật lớn nhỏ, trong ngoài trên thế gian đều thuộc về tiền trần, chẳng nên nói cái thấy có co dãn, ví như trong khuôn viên vuông thấy có hư không vuông. Ta lại hỏi ngươi : Hư không vuông ở trong khuôn vuông này là vuông nhất định hay chẳng nhất định ? Nếu vuông nhất định, đặt lại khuôn tròn thì hư không ấy chẳng thể tròn. Nếu không nhất định thì trong khuôn vuông chẳng có hư không vuông. Ngươi nói chẳng biết nghĩa này thế nào. Nghĩa tánh như thế, đâu còn thế nào nữa !
A Nan ! Nếu muốn hiển bày chẳng có vuông tròn, chỉ cần trừ bỏ khuôn vuông, hư không vốn chẳng có hình thể vuông tròn, chớ nên nói "Trừ bỏ tướng vuông của hư không vuông"
(Khuôn dụ cho vọng thức phân biệt, hư không dụ cho bản tâm)
Cũng như ngươi hỏi : Khi vào phòng, rút cái thấy nhỏ lại, vậy khi nhìn mặt trời thì phải kéo cái thấy cho bằng với mặt trời sao ?
Nếu xây vách tường làm cho cái thấy bị ngăn cách , vậy khi đục một lỗ nhỏ, sao chẳng thấy dấu tích nối liền của sự thấy ? Nghĩa này chẳng đúng. Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay, mê mình là vật, lạc mất BẢN TÂM, tùy vật xoay chuyển, nên thấy lớn, thấy nhỏ. Nếu chuyển được vật thì đồng với Như Lai, ngồi Bất động Đạo tràng, thân tâm tròn đầy sáng tỏ, gồm mười phương quốc độ trên đầu một mảy lông.
- Bạch Thế Tôn ! Nếu kiến tinh này là Diệu tánh của con thì Diệu tánh ở ngay trước mắt. Diệu tánh đã là con thì thân tâm con lại là vật gì ?
Nếu nói thân tâm chẳng phải diệu tánh thì nay thân tâm thật hay phân biệt sự vật. Nếu nói trước mắt đều là Diệu Tánh thì cái kiến tinh kia sao lại chẳng phân biệt được thân con ?
Nếu nói kiến tinh vô hình, mà có tự thể đồng như các vật, có cảm ứng mới sanh khởi sự dụng kia, thật là bản tâm con thì phải cho con thấy ngay, vậy kiến tinh trước mắt là thật con, còn thân này thì chẳng phải con, thế thì kiến tinh đã ngoài thân, sao được gọi là Diệu Tánh của con ? Có khác gì trước kia Như Lai gạn hỏi rằng "Vật thấy được con" ? Mong Phật từ bi khai thị cho kẻ chưa ngộ.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

- Phật bảo A Nan :
- Nay ngươi nói kiến tinh ở trước mắt ngươi, nghĩa này chẳng đúng. Nếu thật ở trước mắt ngươi mà ngươi thật thấy được, thì kiến tinh này đã có phuơng sở, chẳng phải không chỉ ra được. Nay Ta cùng ngươi ngồi trong rừng Kỳ Đà, xem khắp rừng suối và điện đường, trên từ nhật nguyệt, dưới đến sông Hằng. Nguơi hãy ở trước tòa Sư Tử của Ta, dùng tay chỉ rõ mọi thứ tướng ấy, chỗ mát là rừng, sáng là mặt trời, ngăn ngại là vách, thông là hư không, cho đến cỏ cây, chỉ mành, lớn nhỏ dù khác, nhưng hễ có hình tướng thì đều chỉ ra được. Nếu kiến tinh thật ở trước mắt ngươi, thì nguơi phải dùng tay xác thật, chỉ rõ cái nào là kiến tinh.
A Nan nên biết nếu hư không là kiến tinh thì cái nào là hư không ? Nếu vật là kiến tinh thì cái nào là vật ? Nguơi hãy ở nơi vạn tượng phân tích kỹ càng, chỉ cho Ta xem cái kiến tinh dáng tỏ ấy rõ ràng, giống như chỉ các vật, chẳng được lầm lẫn.
A Nan nói :
- Nay con ở giảng đường này nhìn ra, từ sông Hằng , trên đến nhật nguyệt, tùy nơi tay chỉ mắt nhìn, những gì chỉ được đều là vật chứ chẳng phải kiến tinh.
Thế Tôn ! Như lời Phật vừa nói , chẳng những hàng hữu lậu, sơ học Thanh văn như chúng con, cho đến Bồ tát cũng chẳng thể ở nơi vạn tượng lìa tất cả vật riêng có tự tánh.
Phật nói :
- Đúng thế ! Đúng thế !
Phật lại bảo A Nan :
- Như lời ngươi nói, chẳng có kiến tinh lìa tất cả vật riêng có tự tánh, vậy thì trong các vật ngươi chỉ, chẳng có cái nào là kiến tinh.
Nay Ta lại hỏi nguơi : Ngươi và Như Lai ngồi trong rừng Kỳ Đà, xem từ rừng cây cho đến nhật nguyệt đủ thứ hình tướng sai biệt, nhất định chẳng có kiến tinh cho ngươi chỉ. Nguơi hay tìm tòi nơi những vật kể trên, cái nào chẳng phải kiến tinh ?
A Nan đáp:
- Con xem khắp cả rừng Kỳ Đà, thật chẳng biết trong đó cái nào chẳng phải kiến tinh. Tại sao ? Nếu cây chẳng phải kiến tinh thì sao lại thấy cây ? Như vậy cho đến nếu hư không chẳng phải kiến tinh thì sao lại thấy hư không ? Nếu hư không là kiến tinh thì chẳng nên gọi là hư không. Con lại suy xét kỹ càng, phát hiện rằng trong vạn tượng không vật nào chẳng phải kiến tinh cả.
Phật nói :
- Đúng thế ! Đúng thế !


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Bấy giờ những người chưa đến bậc vô học trong chúng nghe Phật nói vậy ngơ ngác chẳng hiểu đầu đuôi của nghĩa này, đánh mất lý lẽ đã hiểu biết từ xưa nay, bỗng nhiên cảm thấy run sợ, Như Lai biết họ băn khoăn lo sợ, sanh lòng thương xót, an ủi A Nan và đại chúng :
- Các Thiện Nam Tử ! Lời chân thật của Vô Thượng Pháp Vuơng chẳng dối, chẳng vọng, như sở thuyết chẳng phải bốn thứ tà thuyết càn loạn bất tử của bọn Mạc Già Lê, các người hãy suy xét kỹ, chớ nên mất lòng tự tin.

LƯỢC GIẢI

Tại sao ngơ ngác chẳng biết đầu đuôi của nghĩa này ? Vì trước thì nói kiến tinh chẳng phải vật, sau lại nói kiến tinh đều là vật. Trước nói Diệu tánh hiện tiền, sau lại nói chẳng thể chỉ ra, nên ngơ ngác, đánh mất lý lẽ đã hiểu biết từ xưa nay vậy.
"Nói lời chân thật như sở thuyết" .v.v....tức NGŨ NGỮ trong kinh Kim Cang. Phật thuyết
CHƠN NGỮ là nghĩa chung với Nhị Thừa (có sanh tử để diệt, có Niết Bàn để chứng).
THẬT NGỮ là nghĩa chung với Bồ tát (Nghĩa Đại Thừa: sanh tử và Niết Bàn đều như hoa đốm trên không).
NHƯ NGỮ là nghĩa chung với tam thừa (trí tuệ chẳng thể suy lường, lời nói chẳng thể diễn tả).
Vô thật vô hư .
Vì vô hư nên gọi là BẤT CUỐNG NGỮ (chẳng dối)
Vì vô thật nên gọi là BẤT DỊ NGỮ (thấy trước việc chưa đến, gọi là bất dị).
Ở đây chỉ dùng hai chữ "chẳng vọng" để bao gồm.

Luận Sa Bà nói : Ngoại đạo chấp cõi trời thường trụ gọi là bất tử, cho "chẳng đáp càn" được sanh lên cõi trời ấy. Nếu thật chẳng biết mà đáp càn, sợ thành càn loạn, nên có ai hỏi thì đáp rằng "Lời bí mật chẳng nên nói hết", hoặc đáp chẳng định.
Phật quở rằng : Họ thật là kẻ càn loạn vậy.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Lúc ấy , Pháp Vuơng Tử Văn Thù Sư Lợi thuơng xót tứ chúng, liền từ chỗ ngồi đúng dậy, đảnh lễ chân Phật, chắp tay cung kính bạch Phật rằng :
- Đại chúng trong hội này chẳng ngộ hai nghĩa THỊ - PHI THỊ với KIẾN TINH - SẮC KHÔNG của Như Lai vừa hiển bày. Thế Tôn ! những hiện tượng sắc không nơi trước mắt, nếu là kiến tinh thì phải chỉ ra được, nếu chẳng phải kiến tinh thì chẳng thể thấy. Nay chẳng biết nghĩa ấy do đâu, nên có kinh sợ chứ chẳng phải xưa kia thiện căn thiếu kém, mong Như Lai từ bi phát minh những vật tượng và kiến tinh, trong đó chẳng có THỊ và PHI THỊ kia vốn là vật gì ?
Phật bảo Văn Thù :
- Mười phuơng Như Lai và Đại Bồ tát tự trụ nơi chánh định, thoát khỏi căn trần, kiến tinh với sắc không, (Năng kiến với sở kiến), ý năng tưởng, tướng sở tưởng vốn thật chẳng có, cũng như hoa đốm trên không, vậy kiến tinh và sắc không vốn là diệu thể trong sạch sáng tỏ của Vô Thượng Bồ Đề. Sao lại có THỊ hay PHI THỊ ở trong đó ?
Văn Thù ! Nay Ta hỏi ngươi , như ngươi là Văn Thù, lại có Văn Thù nào LÀ Văn Thù hay KHÔNG LÀ Văn Thù chăng?
- Bạch Thế Tôn ! Đúng thế, con là chơn Văn Thù, chẳng phải THỊ (LÀ) Văn Thù . Tại sao ? Nếu có THỊ tức là có hai Văn Thù, mà nay chẳng phải không có Văn Thù, trong đó thật chẳng có hai tướng THỊ và PHI.
Phật nói :
- Bản kiến diệu minh với hư không và lục trần cũng đều như thế. Vốn là chơn tâm sáng tỏ, tròn đầy, trong sạch của Vô Thượng Bồ Đề, vọng thành sắc - không và Kiến - văn, như đệ nhị nguyệt, vậy cái nào là THỊ nguyệt, cái nào là PHI nguyệt ? Văn Thù! chỉ có một chơn nguyệt, trong đó vốn chẳng THỊ nguyệt hay PHI nguyệt. Cho nên nay ngươi phát minh đủ thứ kiến tinh và cảnh trần, gọi là vọng tưởng, chẳng thể chỉ ra THỊ hay PHI THỊ . Vì giác tánh tinh diệu, sáng suốt, nên khiến ngươi vượt khỏi "tri và phi tri" vậy.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.16 khách