Lời dành cho người tầm Đạo
Đã gửi: 17/10/12 20:19
Kính chào ban điều hành DĐPP.
Tìm Chân xin chân thành cám ơn ban điều hành, đã có nhiều thiện tâm và nhiệt huyết tạo nên một trang web hữu ích, không những riêng cho Phật tử mà còn giao lưu chung cho mọi người, với hoài bảo “Đại Tạng Kinh Việt Nam”, là mong kết tập “tinh hoa” mang đậm bản chất dân tộc.
TC thiết nghĩ tuy chúng ta nhận được sự thừa truyền Giáo Pháp, tư tưởng phần lớn bên ngoài từ Ấn Độ, Trung Quốc, lẫn cả Tây phương. Nhưng ngay trong bản chất nội tại của Dân Tộc Việt Nam từ xưa ngàn đời đã có Đạo lý đặc thù, được thể hiện trong việc dựng nước, giữ nước chống ngoại xâm, đối nhân xử thế trong Đạo lý đồng bào (anh em), vẫn tồn tại đến ngày hôm nay. Sự bổ xung ấy là cộng thêm vào ý thức Đạo lý sẳn có, đã hình thành ý thức tương đối hoàn chỉnh, hoàn toàn có thể phù hợp với hoàn cảnh và con người Việt Nam.
Đây là lần đầu Tìm Chân đến với diễn đàn, mục “ Vườn Tao Ngộ” dựng một chủ đề mới: “Lời dành cho người tầm Đạo”. Là những lời chân thật trau đổi trên diễn đàn, với hy vọng có ít nhiều ích lợi cho người tầm Đạo để tu hành.
Chào quý Đạo Tâm.
Vừa cách đây không lâu TC có biết tin, ở Tích Lan một thanh niên tên Premanath Pereralage Thungasiri. Giấy thông hành mang số 2353715, bị kết án chết, do thanh niên này đã lễ tượng Phật, nơi nhà mướn riêng tại Saudi Arabia. Thanh niên trên sẽ bị chặt đầu bởi qui định luật Shariah của xứ này.
Cũng có 4 trường hợp đã xảy ra tương tự như vậy ở đây. Hẳn không phải đây là nơi duy nhất xảy ra những bi kịch não lòng về tín ngưỡng. Mà lịch sử đã chứng minh, con người đã chịu nhiều đau khổ do tín ngưỡng, thay vì sự an lành, được che chở như điều này đã hứa hẹn!
Tất cả những điều như trên đã thúc đẩy TC, cho ra đời “lời dành cho người tầm Đạo”. Đây là sự kiến giải và kinh nghiệm từ sự tu tập bản thân, mong chia sẻ cùng bạn đồng tu hữu duyên; và những ai sơ căn đang trên đường tìm chân lý.
A- NHÂN VÀ QUẢ:
Câu chuyện trên có phải nhân quả bất tương đồng (ở lành gặt dữ) hay chăng?
Câu trả lời là: Nhân quả tương sanh luôn luôn đúng, không hề sai nơi cõi đời hữu tướng này. Đúng cả đối với vật lý lẫn tâm lý.
Vậy ta lý giải những trường hợp trái ngược trên như thế nào? Nếu xét kỹ sẽ nhận ra do mê, lầm nhân quả mà thôi !
Như ở trường hợp kể trên, không phải người lạy tượng Phật, hoặc lạy ảnh Phật mà bị nhân quả chẳng lành, cũng chẳng phải trả quả gì ở kiếp trước (theo thuyết luân hồi) cả, mà vì đã phạm vào luật cấm ở xứ đó. Vì quá đức tin vào tín ngưỡng, bất chấp, hoặc thiếu hiểu biết. Là thiếu sáng suốt, đó là “mê”.
Lại nếu như biết lạy Phật bị cấm, mà vì quá đức tin vào tín ngưỡng, tin là Phật sẽ cứu. Là thiếu xét nét, thiếu sáng suốt, đó là “lầm”.
Có câu người tu hành không nên “mê, lầm nhân quả”. Không nên tin, dựa vào đâu, mà phải sáng suốt tự mình xét nét. Lấy sự “chân thật” nơi bản thân để phán đoán chân lý xung quanh ta. “Tự một mình, can đảm xem chân lý là ngọn đuốc …, không nương tựa vào đâu”. Tự mình đạt đến cứu cánh giải thoát thật sự. Trọn từ khởi đầu đến chung cuộc phải sáng suốt mới được.
Có câu người giác ngộ, là người “sáng suốt với nhân quả”. Vậy sáng suốt là gì?
Sáng suốt là tinh hoa của đất, trời, thọ bẩm cho người. Người mà thọ bẩm được tinh hoa thì tâm, trí sáng suốt. Trời đất và người đồng hành, đồng điệu, người xưa gọi là Thiên lý (xin chớ lầm Trời là đấng thần bí, sáng tạo thế giới). Ấy là lý tự nhiên, vận hành theo luật nhân quả tự nhiên (xin chớ lầm thuyết nhân quả luân hồi!). Nhân quả tự nhiên là hiện tượng vật lý trong thiên nhiên, nhân nào là quả đó. Nhân là nguyên nhân đưa đến kết quả. Quả là kết quả của nguyên nhân, không sai trật.
Thí dụ như: Lười biếng là nguyên nhân của nghèo túng, người nghèo túng ấy có cầu nguyện xin Phật ban cho đầy đủ, bỗng một hôm đi thơ thẩn bên đường, chợt nhìn thấy chiếc nhẫn vàng bên lề, bèn nhặt lên, đem bán được một số tiền khá, mừng quá liền cho là nhờ cầu khẩn Phật ban cho. Nghĩ như vậy là mê lầm.
Lười làm việc là nguyên nhân dẫn đến kết quả túng thiếu.
Còn cầu nguyện là nguyên nhân dẫn đến kết quả là tâm được an ổn, do nghĩ là có Phật hộ trì.
Việc tạm thời bớt túng thiếu là kết quả của nhân nhặt được vàng. Vàng có để nhặt là do nguyên nhân có người đánh rơi, mà người đánh rơi là quả của nhân lơ đễnh, gấp rút của ai đó lúc cho tay vào túi lấy ra mang theo…Người đi thơ thẩn mà nhặt được vàng, ấy là kết quả của nhân đi đúng lúc, lại chưa có ai nhìn thấy trước, nếu có ai đó nhìn thấy trước nhặt mất thì nhân quả sẽ khác đi. Hoặc chính người ấy thấy vàng nhưng không nhặt bán lấy tiền, thì nhân quả cũng khác đi. v.v…
Người đó dần dần tiêu hết tiền ấy, tiếp tục cầu nguyện tiếp, và đi thơ thẩn tiếp , lần này không còn nhặt được vàng nữa, lại tiếp tục túng thiếu.
Vậy nguyên nhân cầu khẩn Phật, không cho ra kết quả đầy đủ hoặc túng thiếu. Mà nguyên nhân của sự túng thiếu hoặc đầy đủ, là sự chăm làm hay lười biếng mà thôi.
Thêm một thí dụ nữa: Chuyện ngụ ngôn châu Âu có kể về một người nhà quê, ra đồng bỗng gặp một con rắn độc nằm bên đường, nó sắp chết vì lạnh, không thể cựa quậy nổi. Người nông dân nọ động lòng trắc ẩn nghĩ: “Ta nên thương hết tất cả mọi loài, không nên phân biệt, dù nó là rắn độc nhưng ta có ơn chắc nó không hại ta”. Nghĩ thế anh bắt nó bỏ vào ngực trong áo để ủ ấm. Quả thật sau hồi lâu được ủ ấm nó tỉnh dậy và trở nên khỏe mạnh. Nó nhìn anh và không quên cắn cho anh một phát trước khi bỏ đi. Anh ngạc nhiên la lên “ sao ở hiền lại gặp quả báo thế này?”
Nhân quả không bao giờ sai. Chỉ tại anh nông dân mê, lầm nhân quả mà thôi. Nếu anh cứu giúp người hoặc vật hiền lành gặp nạn, ắt người lành ấy nhớ ơn và luôn mong có dịp báo đáp lại. Hoặc vật hiền thì cũng chẳng bao giờ làm gì hại anh. Đằng này anh đã giúp cho vật độc ác, nó đã quen cắn bất cứ cái gì đến gần nó, vì thế theo phản xạ nó cũng cắn anh, là đúng nhân quả chẳng sai. Nhân ở đây là sự hiểu biết phán đoán sai, lầm, nên quả của nó là bị hại vậy. (chúng ta có thể nhìn xung quanh để nhận định và suy diễn nhân quả tiếp…)
Qua những thí dụ trên ta thấy nhân quả linh động, đa dạng và biến thông, tương tục không bao giờ dứt. Mỗi một hành vi, một tư tưởng đều có nhân quả tự nhiên, như đi một nước cờ ta chuyển con cờ ở những vị trí khác nhau, sẽ có những kết quả hoàn toàn khác nhau. Nhân quả không ngoại trừ bất cứ ai, bất cứ vật gì nơi cõi hiện tượng này. Nhân quả tự nhiên luôn tác động vào giới tự nhiên ở mọi nơi là tương đồng như nhau, còn ở nơi cuộc sống con người thì cộng thêm tác động của con người vào, mà thành ra kết quả rất tự nhiên.
1/- Lời khuyên dành cho người tầm Đạo, là chớ mê, lầm nhân quả !
B- SỰ PHÁN XÉT:
Muốn biến mình để trở nên điều gì đó, ta nhìn vào ưu điểm của nó, để thêm tinh thần hăng hái, cố gắng thực hiện để đến thành công.
Ngược lại, muốn tìm Đạo tu hành để đạt đến chân lý giải thoát thật sự, thì phải nhìn vào khuyết điểm (điều không hợp lý) của nó.
Thật không dễ chút nào. Lý là tư duy của con người về đối tượng là sự, việc gì đó mà phần đông chưa được kiểm chứng, hoặc chứng minh cụ thể.
Lý thường được giải bằng lý. Vì thế nhiều học phái suốt đời cố theo đuổi một lý tưởng nào đó, mà họ công bố và cố gắng thực hiện mà vẫn chưa đạt được, thì họ cho rằng là công phu chưa tới nơi, công quả của kiếp trước chưa đủ. Họ lại khuyên những người sau nên làm nhiều công quả hơn nữa, thì sẽ được chứng Đạo…không biết là mình đang thực hiện ảo tưởng, (nhân quả không hợp)!
Hoặc giả có kết quả theo điều họ thuyết (nhân quả phù hợp), nhưng lại là những kết quả khác nhau. Cũng như học làm nghề nào thì thành thuộc nghề nấy vậy.
Chúng ta muốn học nghề, hay muốn thành điều gì, thì cứ nhận lấy mà thực hành.
Còn nếu muốn nương vào lý giải của Kinh , sách, hoặc của ai đó, tìm chân lý để đạt đến cứu cánh giải thoát, thật lý, thật chứng ngay tại kiếp sanh của ta (không phải là kiếp nào khác). Thì sự xét nét, cẩn thận là điều trọng yếu.
Chừng nào ta xét kỹ mọi khía cạnh mà vẫn không tìm thấy được điều bất hợp lý, hoặc mâu thuẫn. Nó hoàn toàn hợp lý. Thì lúc ấy ta mới nên tin và hành theo. Ta vừa thực hành vừa so lại, kết quả nó có đúng như ta đã suy nghiệm lúc trước hay không. Nếu quá trình so xét kết quả không đúng, là ta sai lầm, ta nghiệm lại…
2/-Lời khuyên dành cho người tầm Đạo là tầm chân lý, chính là tìm điểm bất hợp lý của chân lý đó. Chân lý phải hoàn toàn hợp lý.
C- CĂN BẢN CỦA SUY NGHĨ:
Không suy nghĩ, là căn bản của suy nghĩ. Giấc ngủ giúp cho ta ngưng suy nghĩ, nhưng thường là không như thế, nằm mộng là não vẫn hoạt động, ở thể bán hoạt động (tham gia nhiều hay ít của ý thức).
Nhưng sẽ tốt hơn nếu khi tỉnh thức mà ta không suy nghĩ (ngồi an tịnh), hàng ngày nên bỏ ra ít thì giờ, ngồi (im lặng) không suy nghĩ.
Trở lại đời sống bình thường, mỗi một sự việc xảy đến, ta suy nghĩ về sự việc ấy, vì sao? Như thế nào thì sẽ hay hơn? Có giá trị như thế nào? Ta đánh giá và kết luận nó.
Nếu ta không tìm được câu trả lời thỏa đáng, hoặc chưa hiểu được, đừng vội. Ta ngồi im lặng…rồi lại suy nghĩ tiếp…Hãy quan sát xung quanh và tìm câu trả lời.
Một cách giúp ta suy nghĩ chín chắn, mau lẹ là học hỏi nhiều. Thầy chúng ta ở khắp nơi. Trong trường lớp. Trong Kinh, sách vở. Ngoài đời sống thường nhật. Trong Trời, Đất. Nơi người tốt lẫn người xấu. Nơi vật…
Nghiên cứu lịch sử triết học , sẽ giúp ta có cái nhìn bao quát.
3/- Lời khuyên dành cho người tu hành là nên thường ngồi im lặng, không suy nghĩ làm căn bản cho suy nghĩ.
D- SÁNG SUỐT:
Dục vọng làm mờ lý trí. Lòng tham muốn ích kỷ thái quá trở thành dục vọng, Như bẩn bám vào gương, không còn soi được nữa. Như bùn bẩn trong ao không còn nhìn thấy đáy được.
Ý niệm, muốn thích, tham muốn chiếm hữu, dục vọng thôi thúc: Là từ nhẹ tới nặng.
Tham muốn bất cứ gì, từ tinh thần lẫn vật chất, đều làm cho tâm trí xao động , kém sáng suốt. Tình dục là tổn hại nhiều nhất.
Học hỏi nhiều, trí ta mở mang, biết thêm được nhiều điều mới lạ. Tầm nhìn rộng hơn, kiến thức trở nên bao quát hơn. Nhưng học nhiều chưa phải là sáng suốt .
Sáng suốt là nhận thức, và đánh giá đúng được, những gì đã học, nó có chiều sâu.
Người ít lòng dục, tâm trí thường sáng suốt.
Tâm trí sáng suốt, như nước trong trẻo có thể nhìn thấy tận đáy, như gương sạch bẩn, soi được mọi vật.
Thường ngồi im lặng cũng là cách chuyển hóa dục vọng.
4/- Lời khuyên dành cho người tu hành là nên khắc kỷ, kềm chế tham muốn và lánh xa dục vọng. Để tâm trí được sáng suốt.
E- SỰ CHÂN THẬT:
Chân lý là phần thưởng của Tạo Hóa dành cho ai có tâm hồn chân thật. Vì vậy chúng ta không nên giả dối. Sống chân thật từ nơi suy nghĩ, lời nói lẫn việc làm…
Trong quá khứ TC luôn băn khoăn giữa đời thường và sự chân thật. Một số ít trường hợp sự thật và lòng nhân Đạo được đặt trong sự lựa chọn khó khăn.
Thí dụ: Câu chuyện ngụ ngôn, kể về một con thỏ nhỏ xinh xắn, nó bị con chó sói đuổi bắt, thỏ quýnh quá chạy bán mạng, đến một cái hang trong hốc đá là nhà của mẹ con nhím, thỏ chui lẹ vào hang tránh sói. Sói chạy đến sau không thấy thỏ đâu nữa, chỉ có một cái hang , nhím mẹ đang đứng nhìn. Nó hổn hển cất tiếng hỏi xem nhím có thấy một con thỏ chạy đi đường nào không? Nhím bảo ngay có thấy con thỏ chạy nhanh về đằng tây, chỉ hướng có nhiều cây rậm rạp. Con chó sói vội đuổi theo mất dạng.
Sói đi rồi nhím con ngây thơ hỏi mẹ nó, mẹ thường dạy bảo con phải luôn thành thật, sao giờ mẹ lại nói dối với bác sói vậy? Nhím mẹ vò đầu nhím con và nói, đúng mẹ có dạy con như thế, nhưng vì cứu con thỏ nhỏ đáng thương, khỏi chết vì con sói hung tợn, mẹ phải nói dối. Đây là trường hợp ngoại lệ con nên biết thêm.
Trong cuộc sống không phải lúc nào sự thật cũng chiếm ưu thế. Đa phần vẻ không thật có thể dung thông và thực dụng, nó chiếm ưu thế trong xã giao làm mọi người hài lòng. Dẫu đằng sau là gì, người ta thích nhìn vào bề mặt hơn! Nó thể hiện thông thường trong phép lịch sự, trong xã giao thường nhật, trong sự động viên, trong trường hợp tránh tổn thương người khác… Về mặt này thì chúng ta cũng không nên ngoại lệ.
Riêng về mặt tầm Đạo để tu học, hướng đến chân lý, thì lại khác. Ở đây sự chân thật là điều khắt khe, không thể có mặt của sự giả dối. Sự thật phải chịu phê phán và xét nét của mọi người. Không thể một người, hay một giáo lý nào đó mệnh danh là chân lý, mà có xen vào điều giả dối, dù bất cứ lý do gì ?
Còn về phía người tu, sự chân thật là một Đạo hạnh bắt buộc. Vì nếu lòng ta chưa chân thật, thì còn tìm sự chân thật ở bên ngoài được sao ?
Một điều quan trọng mà ta cần lưu ý, mọi hiện tượng vật chất cụ thể, đều được xét đoán và nhận biết được bằng giác quan của con người, nhờ quan sát và kiểm nghiệm mà con người biết được những định luật thuộc về vật lý rất chính xác. Còn về chân lý giải thoát thì sao?. Đây là lý giải “tiên nghiệm”, chỉ khi ta nghiệm đúng lý thì mới có thực chứng. Nếu không nó chỉ đơn thuần là lý tưởng hay ảo tưởng mà thôi !
5/- Lời khuyên dành cho người tu hành là sống chân thật. Người có tâm chân thật mới có thể lĩnh hội được chân lý.
F- ĐẠO VÀ ĐỜI:
(còn tiếp)
Tìm Chân xin chân thành cám ơn ban điều hành, đã có nhiều thiện tâm và nhiệt huyết tạo nên một trang web hữu ích, không những riêng cho Phật tử mà còn giao lưu chung cho mọi người, với hoài bảo “Đại Tạng Kinh Việt Nam”, là mong kết tập “tinh hoa” mang đậm bản chất dân tộc.
TC thiết nghĩ tuy chúng ta nhận được sự thừa truyền Giáo Pháp, tư tưởng phần lớn bên ngoài từ Ấn Độ, Trung Quốc, lẫn cả Tây phương. Nhưng ngay trong bản chất nội tại của Dân Tộc Việt Nam từ xưa ngàn đời đã có Đạo lý đặc thù, được thể hiện trong việc dựng nước, giữ nước chống ngoại xâm, đối nhân xử thế trong Đạo lý đồng bào (anh em), vẫn tồn tại đến ngày hôm nay. Sự bổ xung ấy là cộng thêm vào ý thức Đạo lý sẳn có, đã hình thành ý thức tương đối hoàn chỉnh, hoàn toàn có thể phù hợp với hoàn cảnh và con người Việt Nam.
Đây là lần đầu Tìm Chân đến với diễn đàn, mục “ Vườn Tao Ngộ” dựng một chủ đề mới: “Lời dành cho người tầm Đạo”. Là những lời chân thật trau đổi trên diễn đàn, với hy vọng có ít nhiều ích lợi cho người tầm Đạo để tu hành.
Chào quý Đạo Tâm.
Vừa cách đây không lâu TC có biết tin, ở Tích Lan một thanh niên tên Premanath Pereralage Thungasiri. Giấy thông hành mang số 2353715, bị kết án chết, do thanh niên này đã lễ tượng Phật, nơi nhà mướn riêng tại Saudi Arabia. Thanh niên trên sẽ bị chặt đầu bởi qui định luật Shariah của xứ này.
Cũng có 4 trường hợp đã xảy ra tương tự như vậy ở đây. Hẳn không phải đây là nơi duy nhất xảy ra những bi kịch não lòng về tín ngưỡng. Mà lịch sử đã chứng minh, con người đã chịu nhiều đau khổ do tín ngưỡng, thay vì sự an lành, được che chở như điều này đã hứa hẹn!
Tất cả những điều như trên đã thúc đẩy TC, cho ra đời “lời dành cho người tầm Đạo”. Đây là sự kiến giải và kinh nghiệm từ sự tu tập bản thân, mong chia sẻ cùng bạn đồng tu hữu duyên; và những ai sơ căn đang trên đường tìm chân lý.
A- NHÂN VÀ QUẢ:
Câu chuyện trên có phải nhân quả bất tương đồng (ở lành gặt dữ) hay chăng?
Câu trả lời là: Nhân quả tương sanh luôn luôn đúng, không hề sai nơi cõi đời hữu tướng này. Đúng cả đối với vật lý lẫn tâm lý.
Vậy ta lý giải những trường hợp trái ngược trên như thế nào? Nếu xét kỹ sẽ nhận ra do mê, lầm nhân quả mà thôi !
Như ở trường hợp kể trên, không phải người lạy tượng Phật, hoặc lạy ảnh Phật mà bị nhân quả chẳng lành, cũng chẳng phải trả quả gì ở kiếp trước (theo thuyết luân hồi) cả, mà vì đã phạm vào luật cấm ở xứ đó. Vì quá đức tin vào tín ngưỡng, bất chấp, hoặc thiếu hiểu biết. Là thiếu sáng suốt, đó là “mê”.
Lại nếu như biết lạy Phật bị cấm, mà vì quá đức tin vào tín ngưỡng, tin là Phật sẽ cứu. Là thiếu xét nét, thiếu sáng suốt, đó là “lầm”.
Có câu người tu hành không nên “mê, lầm nhân quả”. Không nên tin, dựa vào đâu, mà phải sáng suốt tự mình xét nét. Lấy sự “chân thật” nơi bản thân để phán đoán chân lý xung quanh ta. “Tự một mình, can đảm xem chân lý là ngọn đuốc …, không nương tựa vào đâu”. Tự mình đạt đến cứu cánh giải thoát thật sự. Trọn từ khởi đầu đến chung cuộc phải sáng suốt mới được.
Có câu người giác ngộ, là người “sáng suốt với nhân quả”. Vậy sáng suốt là gì?
Sáng suốt là tinh hoa của đất, trời, thọ bẩm cho người. Người mà thọ bẩm được tinh hoa thì tâm, trí sáng suốt. Trời đất và người đồng hành, đồng điệu, người xưa gọi là Thiên lý (xin chớ lầm Trời là đấng thần bí, sáng tạo thế giới). Ấy là lý tự nhiên, vận hành theo luật nhân quả tự nhiên (xin chớ lầm thuyết nhân quả luân hồi!). Nhân quả tự nhiên là hiện tượng vật lý trong thiên nhiên, nhân nào là quả đó. Nhân là nguyên nhân đưa đến kết quả. Quả là kết quả của nguyên nhân, không sai trật.
Thí dụ như: Lười biếng là nguyên nhân của nghèo túng, người nghèo túng ấy có cầu nguyện xin Phật ban cho đầy đủ, bỗng một hôm đi thơ thẩn bên đường, chợt nhìn thấy chiếc nhẫn vàng bên lề, bèn nhặt lên, đem bán được một số tiền khá, mừng quá liền cho là nhờ cầu khẩn Phật ban cho. Nghĩ như vậy là mê lầm.
Lười làm việc là nguyên nhân dẫn đến kết quả túng thiếu.
Còn cầu nguyện là nguyên nhân dẫn đến kết quả là tâm được an ổn, do nghĩ là có Phật hộ trì.
Việc tạm thời bớt túng thiếu là kết quả của nhân nhặt được vàng. Vàng có để nhặt là do nguyên nhân có người đánh rơi, mà người đánh rơi là quả của nhân lơ đễnh, gấp rút của ai đó lúc cho tay vào túi lấy ra mang theo…Người đi thơ thẩn mà nhặt được vàng, ấy là kết quả của nhân đi đúng lúc, lại chưa có ai nhìn thấy trước, nếu có ai đó nhìn thấy trước nhặt mất thì nhân quả sẽ khác đi. Hoặc chính người ấy thấy vàng nhưng không nhặt bán lấy tiền, thì nhân quả cũng khác đi. v.v…
Người đó dần dần tiêu hết tiền ấy, tiếp tục cầu nguyện tiếp, và đi thơ thẩn tiếp , lần này không còn nhặt được vàng nữa, lại tiếp tục túng thiếu.
Vậy nguyên nhân cầu khẩn Phật, không cho ra kết quả đầy đủ hoặc túng thiếu. Mà nguyên nhân của sự túng thiếu hoặc đầy đủ, là sự chăm làm hay lười biếng mà thôi.
Thêm một thí dụ nữa: Chuyện ngụ ngôn châu Âu có kể về một người nhà quê, ra đồng bỗng gặp một con rắn độc nằm bên đường, nó sắp chết vì lạnh, không thể cựa quậy nổi. Người nông dân nọ động lòng trắc ẩn nghĩ: “Ta nên thương hết tất cả mọi loài, không nên phân biệt, dù nó là rắn độc nhưng ta có ơn chắc nó không hại ta”. Nghĩ thế anh bắt nó bỏ vào ngực trong áo để ủ ấm. Quả thật sau hồi lâu được ủ ấm nó tỉnh dậy và trở nên khỏe mạnh. Nó nhìn anh và không quên cắn cho anh một phát trước khi bỏ đi. Anh ngạc nhiên la lên “ sao ở hiền lại gặp quả báo thế này?”
Nhân quả không bao giờ sai. Chỉ tại anh nông dân mê, lầm nhân quả mà thôi. Nếu anh cứu giúp người hoặc vật hiền lành gặp nạn, ắt người lành ấy nhớ ơn và luôn mong có dịp báo đáp lại. Hoặc vật hiền thì cũng chẳng bao giờ làm gì hại anh. Đằng này anh đã giúp cho vật độc ác, nó đã quen cắn bất cứ cái gì đến gần nó, vì thế theo phản xạ nó cũng cắn anh, là đúng nhân quả chẳng sai. Nhân ở đây là sự hiểu biết phán đoán sai, lầm, nên quả của nó là bị hại vậy. (chúng ta có thể nhìn xung quanh để nhận định và suy diễn nhân quả tiếp…)
Qua những thí dụ trên ta thấy nhân quả linh động, đa dạng và biến thông, tương tục không bao giờ dứt. Mỗi một hành vi, một tư tưởng đều có nhân quả tự nhiên, như đi một nước cờ ta chuyển con cờ ở những vị trí khác nhau, sẽ có những kết quả hoàn toàn khác nhau. Nhân quả không ngoại trừ bất cứ ai, bất cứ vật gì nơi cõi hiện tượng này. Nhân quả tự nhiên luôn tác động vào giới tự nhiên ở mọi nơi là tương đồng như nhau, còn ở nơi cuộc sống con người thì cộng thêm tác động của con người vào, mà thành ra kết quả rất tự nhiên.
1/- Lời khuyên dành cho người tầm Đạo, là chớ mê, lầm nhân quả !
B- SỰ PHÁN XÉT:
Muốn biến mình để trở nên điều gì đó, ta nhìn vào ưu điểm của nó, để thêm tinh thần hăng hái, cố gắng thực hiện để đến thành công.
Ngược lại, muốn tìm Đạo tu hành để đạt đến chân lý giải thoát thật sự, thì phải nhìn vào khuyết điểm (điều không hợp lý) của nó.
Thật không dễ chút nào. Lý là tư duy của con người về đối tượng là sự, việc gì đó mà phần đông chưa được kiểm chứng, hoặc chứng minh cụ thể.
Lý thường được giải bằng lý. Vì thế nhiều học phái suốt đời cố theo đuổi một lý tưởng nào đó, mà họ công bố và cố gắng thực hiện mà vẫn chưa đạt được, thì họ cho rằng là công phu chưa tới nơi, công quả của kiếp trước chưa đủ. Họ lại khuyên những người sau nên làm nhiều công quả hơn nữa, thì sẽ được chứng Đạo…không biết là mình đang thực hiện ảo tưởng, (nhân quả không hợp)!
Hoặc giả có kết quả theo điều họ thuyết (nhân quả phù hợp), nhưng lại là những kết quả khác nhau. Cũng như học làm nghề nào thì thành thuộc nghề nấy vậy.
Chúng ta muốn học nghề, hay muốn thành điều gì, thì cứ nhận lấy mà thực hành.
Còn nếu muốn nương vào lý giải của Kinh , sách, hoặc của ai đó, tìm chân lý để đạt đến cứu cánh giải thoát, thật lý, thật chứng ngay tại kiếp sanh của ta (không phải là kiếp nào khác). Thì sự xét nét, cẩn thận là điều trọng yếu.
Chừng nào ta xét kỹ mọi khía cạnh mà vẫn không tìm thấy được điều bất hợp lý, hoặc mâu thuẫn. Nó hoàn toàn hợp lý. Thì lúc ấy ta mới nên tin và hành theo. Ta vừa thực hành vừa so lại, kết quả nó có đúng như ta đã suy nghiệm lúc trước hay không. Nếu quá trình so xét kết quả không đúng, là ta sai lầm, ta nghiệm lại…
2/-Lời khuyên dành cho người tầm Đạo là tầm chân lý, chính là tìm điểm bất hợp lý của chân lý đó. Chân lý phải hoàn toàn hợp lý.
C- CĂN BẢN CỦA SUY NGHĨ:
Không suy nghĩ, là căn bản của suy nghĩ. Giấc ngủ giúp cho ta ngưng suy nghĩ, nhưng thường là không như thế, nằm mộng là não vẫn hoạt động, ở thể bán hoạt động (tham gia nhiều hay ít của ý thức).
Nhưng sẽ tốt hơn nếu khi tỉnh thức mà ta không suy nghĩ (ngồi an tịnh), hàng ngày nên bỏ ra ít thì giờ, ngồi (im lặng) không suy nghĩ.
Trở lại đời sống bình thường, mỗi một sự việc xảy đến, ta suy nghĩ về sự việc ấy, vì sao? Như thế nào thì sẽ hay hơn? Có giá trị như thế nào? Ta đánh giá và kết luận nó.
Nếu ta không tìm được câu trả lời thỏa đáng, hoặc chưa hiểu được, đừng vội. Ta ngồi im lặng…rồi lại suy nghĩ tiếp…Hãy quan sát xung quanh và tìm câu trả lời.
Một cách giúp ta suy nghĩ chín chắn, mau lẹ là học hỏi nhiều. Thầy chúng ta ở khắp nơi. Trong trường lớp. Trong Kinh, sách vở. Ngoài đời sống thường nhật. Trong Trời, Đất. Nơi người tốt lẫn người xấu. Nơi vật…
Nghiên cứu lịch sử triết học , sẽ giúp ta có cái nhìn bao quát.
3/- Lời khuyên dành cho người tu hành là nên thường ngồi im lặng, không suy nghĩ làm căn bản cho suy nghĩ.
D- SÁNG SUỐT:
Dục vọng làm mờ lý trí. Lòng tham muốn ích kỷ thái quá trở thành dục vọng, Như bẩn bám vào gương, không còn soi được nữa. Như bùn bẩn trong ao không còn nhìn thấy đáy được.
Ý niệm, muốn thích, tham muốn chiếm hữu, dục vọng thôi thúc: Là từ nhẹ tới nặng.
Tham muốn bất cứ gì, từ tinh thần lẫn vật chất, đều làm cho tâm trí xao động , kém sáng suốt. Tình dục là tổn hại nhiều nhất.
Học hỏi nhiều, trí ta mở mang, biết thêm được nhiều điều mới lạ. Tầm nhìn rộng hơn, kiến thức trở nên bao quát hơn. Nhưng học nhiều chưa phải là sáng suốt .
Sáng suốt là nhận thức, và đánh giá đúng được, những gì đã học, nó có chiều sâu.
Người ít lòng dục, tâm trí thường sáng suốt.
Tâm trí sáng suốt, như nước trong trẻo có thể nhìn thấy tận đáy, như gương sạch bẩn, soi được mọi vật.
Thường ngồi im lặng cũng là cách chuyển hóa dục vọng.
4/- Lời khuyên dành cho người tu hành là nên khắc kỷ, kềm chế tham muốn và lánh xa dục vọng. Để tâm trí được sáng suốt.
E- SỰ CHÂN THẬT:
Chân lý là phần thưởng của Tạo Hóa dành cho ai có tâm hồn chân thật. Vì vậy chúng ta không nên giả dối. Sống chân thật từ nơi suy nghĩ, lời nói lẫn việc làm…
Trong quá khứ TC luôn băn khoăn giữa đời thường và sự chân thật. Một số ít trường hợp sự thật và lòng nhân Đạo được đặt trong sự lựa chọn khó khăn.
Thí dụ: Câu chuyện ngụ ngôn, kể về một con thỏ nhỏ xinh xắn, nó bị con chó sói đuổi bắt, thỏ quýnh quá chạy bán mạng, đến một cái hang trong hốc đá là nhà của mẹ con nhím, thỏ chui lẹ vào hang tránh sói. Sói chạy đến sau không thấy thỏ đâu nữa, chỉ có một cái hang , nhím mẹ đang đứng nhìn. Nó hổn hển cất tiếng hỏi xem nhím có thấy một con thỏ chạy đi đường nào không? Nhím bảo ngay có thấy con thỏ chạy nhanh về đằng tây, chỉ hướng có nhiều cây rậm rạp. Con chó sói vội đuổi theo mất dạng.
Sói đi rồi nhím con ngây thơ hỏi mẹ nó, mẹ thường dạy bảo con phải luôn thành thật, sao giờ mẹ lại nói dối với bác sói vậy? Nhím mẹ vò đầu nhím con và nói, đúng mẹ có dạy con như thế, nhưng vì cứu con thỏ nhỏ đáng thương, khỏi chết vì con sói hung tợn, mẹ phải nói dối. Đây là trường hợp ngoại lệ con nên biết thêm.
Trong cuộc sống không phải lúc nào sự thật cũng chiếm ưu thế. Đa phần vẻ không thật có thể dung thông và thực dụng, nó chiếm ưu thế trong xã giao làm mọi người hài lòng. Dẫu đằng sau là gì, người ta thích nhìn vào bề mặt hơn! Nó thể hiện thông thường trong phép lịch sự, trong xã giao thường nhật, trong sự động viên, trong trường hợp tránh tổn thương người khác… Về mặt này thì chúng ta cũng không nên ngoại lệ.
Riêng về mặt tầm Đạo để tu học, hướng đến chân lý, thì lại khác. Ở đây sự chân thật là điều khắt khe, không thể có mặt của sự giả dối. Sự thật phải chịu phê phán và xét nét của mọi người. Không thể một người, hay một giáo lý nào đó mệnh danh là chân lý, mà có xen vào điều giả dối, dù bất cứ lý do gì ?
Còn về phía người tu, sự chân thật là một Đạo hạnh bắt buộc. Vì nếu lòng ta chưa chân thật, thì còn tìm sự chân thật ở bên ngoài được sao ?
Một điều quan trọng mà ta cần lưu ý, mọi hiện tượng vật chất cụ thể, đều được xét đoán và nhận biết được bằng giác quan của con người, nhờ quan sát và kiểm nghiệm mà con người biết được những định luật thuộc về vật lý rất chính xác. Còn về chân lý giải thoát thì sao?. Đây là lý giải “tiên nghiệm”, chỉ khi ta nghiệm đúng lý thì mới có thực chứng. Nếu không nó chỉ đơn thuần là lý tưởng hay ảo tưởng mà thôi !
5/- Lời khuyên dành cho người tu hành là sống chân thật. Người có tâm chân thật mới có thể lĩnh hội được chân lý.
F- ĐẠO VÀ ĐỜI:
(còn tiếp)