Nhà riêng của Quang Tâm
Điều hành viên: quang_tam3
-
- Điều Hành Viên
- Bài viết: 684
- Ngày: 03/10/08 05:48
- Giới tính: Nam
- Phật tử: Tại gia
- Đến từ: HCM
- Đã cảm ơn: 21 time
- Được cảm ơn: 1 time
Nhà riêng của Quang Tâm
Xả xì trét một chút
Diễn đàn là nơi các thầy, cùng các bạn Phật tử trao đổi thảo luận trên tinh thần lục hòa.
Thế mà dạo này có những người ăn nói vô lễ, dùng những từ chợ trời vào diễn đàn làm loạn .
Vẫn biết các pháp vốn như huyễn, vô thường , chẳng thật. Nhưng diễn đàn còn nhiều người sơ cơ, đọc những lời lẽ vô văn hóa ở một diễn đàn bình thường là đã cảm thấy khó chịu, huống chi là ở một nơi gọi là Phật pháp.
Thôi thì, biết làm sao, các thầy ĐHV đã chẳng nói gì thì mình cũng chỉ biết
...buồn.
Diễn đàn là nơi các thầy, cùng các bạn Phật tử trao đổi thảo luận trên tinh thần lục hòa.
Thế mà dạo này có những người ăn nói vô lễ, dùng những từ chợ trời vào diễn đàn làm loạn .
Vẫn biết các pháp vốn như huyễn, vô thường , chẳng thật. Nhưng diễn đàn còn nhiều người sơ cơ, đọc những lời lẽ vô văn hóa ở một diễn đàn bình thường là đã cảm thấy khó chịu, huống chi là ở một nơi gọi là Phật pháp.
Thôi thì, biết làm sao, các thầy ĐHV đã chẳng nói gì thì mình cũng chỉ biết
...buồn.
_()_
-
- Bài viết: 1141
- Ngày: 07/06/10 04:08
- Giới tính: Nam
Re: Nhà riêng của Quang Tâm
http://niemphat.net/Luan/phatkhoibotat/ ... botat2.htm
(Đức Phật bảo Di Lặc Bồ Tát rằng:
- Này Di Lặc! Nếu có Bồ Tát vào đời mạt sau, trong năm trăm năm, lúc pháp sắp diệt, hãy nên thành tựu bốn pháp thì sẽ được an ổn, không phiền não, được giải thoát).
(Những gì là bốn? Chính là: Với các chúng sanh, chẳng tìm lỗi họ).
(Thấy các Bồ Tát có vi phạm gì, trọn chẳng nêu bày)
(Với các thân hữu và hàng thí chủ, chẳng sanh chấp trước).
(Vĩnh viễn dứt trừ hết thảy lời lẽ thô lỗ, hung tợn).
(Này Di Lặc! Đấy là Bồ Tát vào đời mạt sau, trong năm trăm năm, lúc pháp sắp diệt, thành tựu bốn pháp an ổn không phiền não mà được giải thoát).
(Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng)
(Chớ tìm cầu lỗi người,
Cũng đừng cử tội người,
Lìa lời thô, keo bẩn,
Người ấy sẽ giải thoát.
Này Di Lặc! Lại có Bồ Tát vào đời mạt sau, trong năm trăm năm, lúc pháp sắp diệt, nên thành tựu bốn pháp sẽ an ổn, không phiền não, bèn được giải thoát).
Chẳng những chỉ đối với các vị Đại Thừa Bồ Tát, mà đối với hết thảy chúng sanh đều chẳng nên gây rắc rối cho họ, đều chẳng nên tìm lỗi lầm của họ. Câu này giống như trong Đàn Kinh, Lục Tổ đã nói: “Nhược chân tu đạo nhân, bất kiến thế gian quá” (Nếu là người thật sự tu đạo, chẳng thấy lỗi thế gian). Người chân chánh tu đạo, trong mỗi một niệm chỉ quan tâm đến chánh niệm của chính mình, có thời gian đâu để thấy lỗi lầm của người khác cơ chứ! Chúng ta phải biết điều này, thấy lỗi người khác tức là mình có lỗi sờ sờ. Nếu tâm quý vị thanh tịnh, không có phiền não, làm sao quý vị thấy lỗi người khác cho được? Nếu một phen tiếp xúc với cảnh giới bên ngoài mà trong tâm phiền não bèn hiện hành, thì đấy là do “thấy lỗi của người khác”.
Bởi thế, Phật thấy hết thảy chúng sanh đều là Phật, Bồ Tát thấy hết thảy chúng sanh đều là Bồ Tát. Bọn ta là hạng nghiệp chướng sâu nặng, thấy chư Phật, Bồ Tát nghiệp chướng cũng sâu nặng luôn! Đấy chính như đức Phật đã dạy: “Tướng tùy tâm chuyển”. Vì thế, quý vị thấy cảnh giới bên ngoài tướng trạng ra sao thì sẽ biết rõ tâm mình như thế nào. Quý vị thấy ai cũng có lỗi lầm nghĩa là chính mình lầm lỗi vô lượng vô biên. Khi nào thấy hết thảy chúng sanh đều chẳng có lầm lỗi thì xin chúc mừng quý vị, quý vị đã thành Phật rồi! Điều này rất khẩn yếu đấy nhé! Vì thế mới nói “với các chúng sanh, chẳng tìm lỗi họ” chính là điều thứ nhất người tu hành phải tuân thủ.
(Đức Phật bảo Di Lặc Bồ Tát rằng:
- Này Di Lặc! Nếu có Bồ Tát vào đời mạt sau, trong năm trăm năm, lúc pháp sắp diệt, hãy nên thành tựu bốn pháp thì sẽ được an ổn, không phiền não, được giải thoát).
(Những gì là bốn? Chính là: Với các chúng sanh, chẳng tìm lỗi họ).
(Thấy các Bồ Tát có vi phạm gì, trọn chẳng nêu bày)
(Với các thân hữu và hàng thí chủ, chẳng sanh chấp trước).
(Vĩnh viễn dứt trừ hết thảy lời lẽ thô lỗ, hung tợn).
(Này Di Lặc! Đấy là Bồ Tát vào đời mạt sau, trong năm trăm năm, lúc pháp sắp diệt, thành tựu bốn pháp an ổn không phiền não mà được giải thoát).
(Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng)
(Chớ tìm cầu lỗi người,
Cũng đừng cử tội người,
Lìa lời thô, keo bẩn,
Người ấy sẽ giải thoát.
Này Di Lặc! Lại có Bồ Tát vào đời mạt sau, trong năm trăm năm, lúc pháp sắp diệt, nên thành tựu bốn pháp sẽ an ổn, không phiền não, bèn được giải thoát).
Chẳng những chỉ đối với các vị Đại Thừa Bồ Tát, mà đối với hết thảy chúng sanh đều chẳng nên gây rắc rối cho họ, đều chẳng nên tìm lỗi lầm của họ. Câu này giống như trong Đàn Kinh, Lục Tổ đã nói: “Nhược chân tu đạo nhân, bất kiến thế gian quá” (Nếu là người thật sự tu đạo, chẳng thấy lỗi thế gian). Người chân chánh tu đạo, trong mỗi một niệm chỉ quan tâm đến chánh niệm của chính mình, có thời gian đâu để thấy lỗi lầm của người khác cơ chứ! Chúng ta phải biết điều này, thấy lỗi người khác tức là mình có lỗi sờ sờ. Nếu tâm quý vị thanh tịnh, không có phiền não, làm sao quý vị thấy lỗi người khác cho được? Nếu một phen tiếp xúc với cảnh giới bên ngoài mà trong tâm phiền não bèn hiện hành, thì đấy là do “thấy lỗi của người khác”.
Bởi thế, Phật thấy hết thảy chúng sanh đều là Phật, Bồ Tát thấy hết thảy chúng sanh đều là Bồ Tát. Bọn ta là hạng nghiệp chướng sâu nặng, thấy chư Phật, Bồ Tát nghiệp chướng cũng sâu nặng luôn! Đấy chính như đức Phật đã dạy: “Tướng tùy tâm chuyển”. Vì thế, quý vị thấy cảnh giới bên ngoài tướng trạng ra sao thì sẽ biết rõ tâm mình như thế nào. Quý vị thấy ai cũng có lỗi lầm nghĩa là chính mình lầm lỗi vô lượng vô biên. Khi nào thấy hết thảy chúng sanh đều chẳng có lầm lỗi thì xin chúc mừng quý vị, quý vị đã thành Phật rồi! Điều này rất khẩn yếu đấy nhé! Vì thế mới nói “với các chúng sanh, chẳng tìm lỗi họ” chính là điều thứ nhất người tu hành phải tuân thủ.
Nam Mô A Di Đà Phật
-
- Điều Hành Viên
- Bài viết: 684
- Ngày: 03/10/08 05:48
- Giới tính: Nam
- Phật tử: Tại gia
- Đến từ: HCM
- Đã cảm ơn: 21 time
- Được cảm ơn: 1 time
Re: Nhà riêng của Quang Tâm
cảm ơn đạo hữunguynlinhtam đã viết:(Đức Phật bảo Di Lặc Bồ Tát rằng:
- Này Di Lặc! Nếu có Bồ Tát vào đời mạt sau, trong năm trăm năm, lúc pháp sắp diệt, hãy nên thành tựu bốn pháp thì sẽ được an ổn, không phiền não, được giải thoát).
Những gì là bốn?
Chính là:
1.(Với các chúng sanh, chẳng tìm lỗi họ).
2.(Thấy các Bồ Tát có vi phạm gì, trọn chẳng nêu bày)
3.(Với các thân hữu và hàng thí chủ, chẳng sanh chấp trước).
4.(Vĩnh viễn dứt trừ hết thảy lời lẽ thô lỗ, hung tợn).
_()_
-
- Điều Hành Viên
- Bài viết: 684
- Ngày: 03/10/08 05:48
- Giới tính: Nam
- Phật tử: Tại gia
- Đến từ: HCM
- Đã cảm ơn: 21 time
- Được cảm ơn: 1 time
Re: Nhà riêng của Quang Tâm
(http://www.buddhanet.net/budsas/uni/u-t ... h/ttpg.htm)
4 Thánh tích Phật giáo
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã để lại dấu chân Ngài trên toàn lãnh thổ Ấn và hình bóng Ngài đã khắc sâu trong tâm tư nhân loại. Trong thời kỳ chánh pháp hưng thịnh, các địa danh quan trọng đều được nhắc tới. Bốn thánh địa nổi tiếng của Phật Giáo nói riêng và của Ấn Độ nói chung là: Vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) nơi Đức Phật giáng sanh, Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh-Gaya) nơi Đức Phật thành đạo, Lộc Uyển (Sarnath) nơi Đức Phật chuyển pháp luân đầu tiên, và Câu Thi Na (Kusinagara) nơi Đức Phật nhập diệt.
Những địa danh này đã lôi cuốn không biết bao nhiêu khách thập phương đến chiêm bái, và nhiều ngôi đền, tháp, bia ký cũng được xây dựng chung quanh những thánh địa này. Tuy nhiên, trong thời kỳ đạo Phật suy tàn tại Ấn Độ, một vài thánh địa đã bị hoang phế tàn rụi theo cát bụi và thời gian. Ngày nay, các nhà khảo cổ Ấn Độ đang trên đường khai quật lại di tích và trùng tu lại các thánh địa.
--------
Thánh địa thứ nhất:
Lâm Tỳ Ni (Lumbini)
Lâm Tỳ Ni (Lumbini), nơi Đức Phật giáng sanh, là một thánh địa ở vùng Rummindei, cách một dặm về phía Bắc vùng Paderia và hai dặm phía Bắc vùng Bhagwanpur nước Nepal. Ngày nay các nhà khảo cổ xác định Lâm Tỳ Ni nằm về phía Bắc quận Basti của xứ Uttar Pradesh.
Theo tài liệu sử Phật Giáo, Lâm Tỳ Ni tọa lạc cách thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) 12 dặm. Sử chép rằng, "Theo tục lệ, Hoàng Hậu Ma Gia phải trở về quê mẹ để sanh nở. Khi đến động hoa Lâm Tỳ Ni, bà cảm thấy trong người sảng khoái lạ thường. Cảnh vật xinh đẹp tươi mát chào đón, chim muông hót ríu rít trên cây, gió hiu hiu thổi làm tâm hồn người dịu êm nhẹ nhàng, Hoàng Hậu thong thả dạo bước ngắm nhìn thưởng thức cảnh trí thiên nhiên.
Khi đến tàng cây Sa La, Hoàng Hậu dơ tay vịn cành hoa sà thấp trước mặt và kỳ lạ thay, Thái tử giáng trần trong tư thế đứng của người mẹ. Chư Thiên tung hoa chào đón, bẩy con rồng phun nước thơm tắm rửa Thái tử và Thái tử đi 7 bước dõng dạc tuyên bố rằng: "Ta là đấng Vô Thượng Đạo Sư của Trời Người." (Thiên thượng thiên hạ, duy Ngã độc tôn). Từ vườn Lâm Tỳ Ni, Thái tử được các cung nô hầu hạ trở về thành Ca Tỳ La Vệ.
Quang cảnh giáng sanh của Thái tử Tất Đạt Đa là đề tài cho hàng ngàn tác phẩm nghệ thuật Ấn mà ngày nay người ta đã tìm thấy trong điêu khắc và tranh vẽ.
Nhận dạng được địa danh của Lâm Tỳ Ni, thiết tưởng chúng ta phải nhớ đến công ơn của vua A Dục. Hai mươi năm sau ngày đăng quang lên ngôi hoàng đế, Vua A Dục đã đích thân đi chiêm bái đãnh lễ các thánh địa và chính Vua đã sai người đúc một cột trụ khắc lên dòng chữ "Địa danh này là nơi Đức Phật giáng sanh." Vua A Dục cũng đã giảm 5% thuế hằng năm cho dân chúng vùng này. Đó là một đặc ân của vua A Dục đối với dân cư địa phương nơi Đức Phật giáng sanh. Bên cạnh cột trụ này, người ta còn thấy một ngôi đền xưa cũ khắc chạm hình ảnh quang cảnh giáng sanh của Đức Phật.
Lumbini
The exact birth place of Gautama Buddha, in Lumbini, Nepal.
Thánh địa thứ hai:
Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh-Gaya)
Thánh địa nổi tiếng thứ hai trong lịch sử Phật Giáo là Bồ Đề Đạo tràng, nơi Đức Phật thành đạo. Nơi đây Đức Phật đã tọa thiền suốt 49 ngày đêm dưới tàng cây pipala, bên cạnh dòng sông Ni Liên Thiền. Vì hiện tượng bất diệt đó, địa danh này đã trở thành Bồ Đề Đạo Tràng, và cây cổ thụ pipala được đặt tên là cây Bồ Đề (có nghĩa là "giác ngộ, bodhi tree").
Có thể nói, Bồ Đề Đạo Tràng đã trở thành một cái nôi của lịch sử văn hoá Phật Giáo và các đệ tử Phật đều ao ước được ít nhất một lần đến chiêm bái nơi này. Tòa cỏ Đức Phật ngồi thiền, cây Bồ Đề đều được chăm sóc kỹ lưỡng. Những bia tháp và những cột đá lớn nhỏ chung quanh Bồ Đề Đạo Tràng, do các du tăng Ấn Độ, Trung Quốc và các nước khác tự đắp lấy cúng dường khi đến chiêm bái thánh địa này, và tài liệu ghi chép của ngài Tam Tạng Huyền Trang, đã cho chúng ta hình dung ra được quang cảnh sầm uất rực rỡ của địa danh này trong quá khứ hơn 2500 năm trước. Cây Bồ Đề bây giờ là cây cháu cây chắt của hàng ngàn cây Bồ Đề gốc, nhưng cành lá vẫn xum xuê, thân cây to lớn rắn chắc.
Mahabodhi temple
Thánh Địa thứ ba:
Sarnath
Một thánh địa đáng ghi nhớ nữa trong lịch sử Phật Giáo là thánh địa Isipitana hay Sarnath. Nơi đây, trong sự tĩnh lặng của vườn Lộc Uyển, Đức Phật đã khai giảng bài pháp đầu tiên cho 5 anh em ông Kiều Trần Như trước kia cùng tu khổ hạnh với Ngài. Nội dung bài thuyết pháp nói về những khổ đau của kiếp người và những phương cách giải hóa những thống khổ đó. Sự kiện này đã được mệnh danh là "Chuyển Pháp Luân," có nghĩa là Đức Phật chuyển bánh xe pháp đầu tiên đánh dấu một kỷ nguyên huy hòang rực rỡ của một tôn giáo kéo dài bền vững trên 2500 năm cho đến nay.
SARNATH
A_Buddhist_temple_at_Sarnath
Thánh địa thứ tư:
Kusinagara
Kusinagara hay Kusinara (Câu Thi na) là nơi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nhập Niết Bàn năm Ngài 80 tuổi dưới hai tàng cây Sa La. Địa danh này sau được các nhà khảo cổ nhận dạng là Kasia ở quận Deoria của xứ Utta Pradesh.
Giống như các thánh địa khác liên quan đến những biến cố lịch sử đời Đức Phật, Kusinagara đã trở thành một thánh địa quan trọng để các Phật tử đến chiêm bái đãnh lễ.
KUSHINAGAR
(http://www.buddhanet.net/budsas/uni/u-t ... h/ttpg.htm)
4 Thánh tích Phật giáo
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã để lại dấu chân Ngài trên toàn lãnh thổ Ấn và hình bóng Ngài đã khắc sâu trong tâm tư nhân loại. Trong thời kỳ chánh pháp hưng thịnh, các địa danh quan trọng đều được nhắc tới. Bốn thánh địa nổi tiếng của Phật Giáo nói riêng và của Ấn Độ nói chung là: Vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) nơi Đức Phật giáng sanh, Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh-Gaya) nơi Đức Phật thành đạo, Lộc Uyển (Sarnath) nơi Đức Phật chuyển pháp luân đầu tiên, và Câu Thi Na (Kusinagara) nơi Đức Phật nhập diệt.
Những địa danh này đã lôi cuốn không biết bao nhiêu khách thập phương đến chiêm bái, và nhiều ngôi đền, tháp, bia ký cũng được xây dựng chung quanh những thánh địa này. Tuy nhiên, trong thời kỳ đạo Phật suy tàn tại Ấn Độ, một vài thánh địa đã bị hoang phế tàn rụi theo cát bụi và thời gian. Ngày nay, các nhà khảo cổ Ấn Độ đang trên đường khai quật lại di tích và trùng tu lại các thánh địa.
--------
Thánh địa thứ nhất:
Lâm Tỳ Ni (Lumbini)
Lâm Tỳ Ni (Lumbini), nơi Đức Phật giáng sanh, là một thánh địa ở vùng Rummindei, cách một dặm về phía Bắc vùng Paderia và hai dặm phía Bắc vùng Bhagwanpur nước Nepal. Ngày nay các nhà khảo cổ xác định Lâm Tỳ Ni nằm về phía Bắc quận Basti của xứ Uttar Pradesh.
Theo tài liệu sử Phật Giáo, Lâm Tỳ Ni tọa lạc cách thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) 12 dặm. Sử chép rằng, "Theo tục lệ, Hoàng Hậu Ma Gia phải trở về quê mẹ để sanh nở. Khi đến động hoa Lâm Tỳ Ni, bà cảm thấy trong người sảng khoái lạ thường. Cảnh vật xinh đẹp tươi mát chào đón, chim muông hót ríu rít trên cây, gió hiu hiu thổi làm tâm hồn người dịu êm nhẹ nhàng, Hoàng Hậu thong thả dạo bước ngắm nhìn thưởng thức cảnh trí thiên nhiên.
Khi đến tàng cây Sa La, Hoàng Hậu dơ tay vịn cành hoa sà thấp trước mặt và kỳ lạ thay, Thái tử giáng trần trong tư thế đứng của người mẹ. Chư Thiên tung hoa chào đón, bẩy con rồng phun nước thơm tắm rửa Thái tử và Thái tử đi 7 bước dõng dạc tuyên bố rằng: "Ta là đấng Vô Thượng Đạo Sư của Trời Người." (Thiên thượng thiên hạ, duy Ngã độc tôn). Từ vườn Lâm Tỳ Ni, Thái tử được các cung nô hầu hạ trở về thành Ca Tỳ La Vệ.
Quang cảnh giáng sanh của Thái tử Tất Đạt Đa là đề tài cho hàng ngàn tác phẩm nghệ thuật Ấn mà ngày nay người ta đã tìm thấy trong điêu khắc và tranh vẽ.
Nhận dạng được địa danh của Lâm Tỳ Ni, thiết tưởng chúng ta phải nhớ đến công ơn của vua A Dục. Hai mươi năm sau ngày đăng quang lên ngôi hoàng đế, Vua A Dục đã đích thân đi chiêm bái đãnh lễ các thánh địa và chính Vua đã sai người đúc một cột trụ khắc lên dòng chữ "Địa danh này là nơi Đức Phật giáng sanh." Vua A Dục cũng đã giảm 5% thuế hằng năm cho dân chúng vùng này. Đó là một đặc ân của vua A Dục đối với dân cư địa phương nơi Đức Phật giáng sanh. Bên cạnh cột trụ này, người ta còn thấy một ngôi đền xưa cũ khắc chạm hình ảnh quang cảnh giáng sanh của Đức Phật.
Lumbini
The exact birth place of Gautama Buddha, in Lumbini, Nepal.
Thánh địa thứ hai:
Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh-Gaya)
Thánh địa nổi tiếng thứ hai trong lịch sử Phật Giáo là Bồ Đề Đạo tràng, nơi Đức Phật thành đạo. Nơi đây Đức Phật đã tọa thiền suốt 49 ngày đêm dưới tàng cây pipala, bên cạnh dòng sông Ni Liên Thiền. Vì hiện tượng bất diệt đó, địa danh này đã trở thành Bồ Đề Đạo Tràng, và cây cổ thụ pipala được đặt tên là cây Bồ Đề (có nghĩa là "giác ngộ, bodhi tree").
Có thể nói, Bồ Đề Đạo Tràng đã trở thành một cái nôi của lịch sử văn hoá Phật Giáo và các đệ tử Phật đều ao ước được ít nhất một lần đến chiêm bái nơi này. Tòa cỏ Đức Phật ngồi thiền, cây Bồ Đề đều được chăm sóc kỹ lưỡng. Những bia tháp và những cột đá lớn nhỏ chung quanh Bồ Đề Đạo Tràng, do các du tăng Ấn Độ, Trung Quốc và các nước khác tự đắp lấy cúng dường khi đến chiêm bái thánh địa này, và tài liệu ghi chép của ngài Tam Tạng Huyền Trang, đã cho chúng ta hình dung ra được quang cảnh sầm uất rực rỡ của địa danh này trong quá khứ hơn 2500 năm trước. Cây Bồ Đề bây giờ là cây cháu cây chắt của hàng ngàn cây Bồ Đề gốc, nhưng cành lá vẫn xum xuê, thân cây to lớn rắn chắc.
Mahabodhi temple
Thánh Địa thứ ba:
Sarnath
Một thánh địa đáng ghi nhớ nữa trong lịch sử Phật Giáo là thánh địa Isipitana hay Sarnath. Nơi đây, trong sự tĩnh lặng của vườn Lộc Uyển, Đức Phật đã khai giảng bài pháp đầu tiên cho 5 anh em ông Kiều Trần Như trước kia cùng tu khổ hạnh với Ngài. Nội dung bài thuyết pháp nói về những khổ đau của kiếp người và những phương cách giải hóa những thống khổ đó. Sự kiện này đã được mệnh danh là "Chuyển Pháp Luân," có nghĩa là Đức Phật chuyển bánh xe pháp đầu tiên đánh dấu một kỷ nguyên huy hòang rực rỡ của một tôn giáo kéo dài bền vững trên 2500 năm cho đến nay.
SARNATH
A_Buddhist_temple_at_Sarnath
Thánh địa thứ tư:
Kusinagara
Kusinagara hay Kusinara (Câu Thi na) là nơi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nhập Niết Bàn năm Ngài 80 tuổi dưới hai tàng cây Sa La. Địa danh này sau được các nhà khảo cổ nhận dạng là Kasia ở quận Deoria của xứ Utta Pradesh.
Giống như các thánh địa khác liên quan đến những biến cố lịch sử đời Đức Phật, Kusinagara đã trở thành một thánh địa quan trọng để các Phật tử đến chiêm bái đãnh lễ.
KUSHINAGAR
(http://www.buddhanet.net/budsas/uni/u-t ... h/ttpg.htm)
_()_
Re: Nhà riêng của Quang Tâm
quang_tam3 đã viết:Xả xì trét một chút
Diễn đàn là nơi các thầy, cùng các bạn Phật tử trao đổi thảo luận trên tinh thần lục hòa.
Thế mà dạo này có những người ăn nói vô lễ, dùng những từ chợ trời vào diễn đàn làm loạn .
Vẫn biết các pháp vốn như huyễn, vô thường , chẳng thật. Nhưng diễn đàn còn nhiều người sơ cơ, đọc những lời lẽ vô văn hóa ở một diễn đàn bình thường là đã cảm thấy khó chịu, huống chi là ở một nơi gọi là Phật pháp.
Thôi thì, biết làm sao, các thầy ĐHV đã chẳng nói gì thì mình cũng chỉ biết
...buồn.
đạo hữu Quang Tâm mến
các đhv cũng chỉ là người thường thôi nên cũng không thể la rầy họ.
Mấy lần tôi đã cử tội hhc rồi, muốn khóa topic, nhưng rồi hhc lại nhận lỗi, hỏi đạo tiếp nên tôi lại thôi
Nhưng cuối cùng Admin cũng đã xóa topic ấy rồi.
Mong đ/h thông cảm.
Cảm ơn vì đã quan tâm đến D Đ đến Phật pháp.
Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
-
- Điều Hành Viên
- Bài viết: 684
- Ngày: 03/10/08 05:48
- Giới tính: Nam
- Phật tử: Tại gia
- Đến từ: HCM
- Đã cảm ơn: 21 time
- Được cảm ơn: 1 time
Re: Nhà riêng của Quang Tâm
binh đã viết: Cảm ơn vì đã quan tâm đến D Đ đến Phật pháp.
Nam mô A Di Đà Phật
_()_
-
- Điều Hành Viên
- Bài viết: 684
- Ngày: 03/10/08 05:48
- Giới tính: Nam
- Phật tử: Tại gia
- Đến từ: HCM
- Đã cảm ơn: 21 time
- Được cảm ơn: 1 time
Re: Nhà riêng của Quang Tâm
7. Ai sống nhìn tịnh tướng,
Không hộ trì các căn,
ăn uống thiếu tiết độ,
biếng nhác, chẳng tinh cần.
Ma uy hiếp kẻ ấy,
như cây yếu trước gió.
8. Ai sống quán bất tịnh,
Khéo hộ trì các căn,
ăn uống có tiết độ,
Có lòng tin, tinh cần,
Ma không uy hiếp được,
Như núi đá, trước gió.
9. Ai mặc áo cà sa. [1]
tâm chưa rời uế trược,
không tự chế, không thực,
không xứng áo cà sa .
10. Ai rời bỏ uế trược,
giới luật khéo nghiêm trì,
tự chế, sống chơn thực,
thật xứng áo cà sa.
19. Nếu người nói nhiều kinh,
Không hành trì, phóng dật;
Như kẻ chăn bò người,
Không phần Sa môn hạnh.
20. Dầu nói ít kinh điển,
Nhưng hành pháp, tùy pháp,
Từ bỏ tham, sân, si,
Tĩnh giác, tâm giải thoát,
Không chấp thủ hai đời,
Dự phần Sa môn hạnh.
(Kinh Pháp Cú)
_()_
-
- Điều Hành Viên
- Bài viết: 684
- Ngày: 03/10/08 05:48
- Giới tính: Nam
- Phật tử: Tại gia
- Đến từ: HCM
- Đã cảm ơn: 21 time
- Được cảm ơn: 1 time
Re: Nhà riêng của Quang Tâm
Kinh Đại Bảo Tích
Chương XXX: PHÁP HỘI DIỆU HUỆ ĐỒNG NỮ - THỨ BA MƯƠI
Hán dịch: Nhà Đường, Pháp sư Bồ Đề Lưu Chí.
Việt dịch: Việt Nam, Tỳ kheo Thích Trí Tịnh.
Như vậy tôi nghe một lúc đức Phật ở tại thành Vương Xá trong núi Kỳ Xà Quật cùng chúng đại Tỳ kheo ngàn hai trăm năm mươi người và đại Bồ tát mười ngàn người câu hội.
Bấy giờ thành Vương Xá có Trưởng giả nữ tên Diệu Huệ mới tám tuổi dung mạo đoan chánh xinh đẹp đầy đủ tướng người ai thấy đều vui thích, đã từng thân cận cúng dường trồng các căn lành nơi vô lượng chư Phật quá khứ. Đồng nữ Diệu Huệ đến lễ chân đức Như Lai nhiễu ba vòng quỳ chắp tay bạch rằng:
"Đấng Vô Thượng Chánh giác
Làm đèn sáng thế gian
Xin cho phép tôi hỏi
Sở hành của Bồ tát.”
Đức Phật phán: "Nay cho ngươi tùy ý hỏi, Phật sẽ giải thuyết để dứt lưới nghi.”
Diệu Huệ liền nói kệ thỉnh hỏi:
"Làm sao được thân đẹp
Đại phú và tôn quí
Lại do nhơn duyên gì
Quyến thuộc khó trở hoại
Thế nào thấy thân mình
Được thọ biến hóa sanh
Ngồi hoa sen ngàn cánh
Diện phụng Phật Thế Tôn
Thế nào chứng nhập được
Tự tại thắng thần thông
Đến khắp vô lượng cõi
Kính lễ lạy chư Phật
Thế nào được không oán
Lời nói được người tin
Trừ sạch các pháp chướng
Lìa hẳn các ma nghiệp
Thế nào lúc mạng chung
Được thấy chư Phật hiện
Nghe nói pháp thanh tịnh
Chẳng bị khổ não bức
Đấng đại bi Vô thượng
Xin thương giải thuyết cho.”
Đức Phật bảo Diệu Huệ: "Lành thay lành thay! Khéo hỏi được nghĩa thâm diệu ấy. Lắng nghe kỹ và khéo suy gẫm, đức Phật sẽ nói cho.”
Diệu Huệ bạch rằng: "Vâng, bạch Thế Tôn, xin muốn được nghe.”
Đức Phật dạy: "Này Diệu Huệ! Bồ tát thành tựu bốn pháp thì được thọ thân hình đoan chánh: một là nơi ác hữu chẳng khởi lòng giận hờn, hai là an trụ đại từ, ba là rất thích chánh pháp, bốn là tạo hình tượng Phật.”
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
"Sân hoại thiện căn chớ tăng trưởng
Từ tâm thích pháp tạo hình Phật
Sẽ được thân đủ tướng trang nghiêm
Tất cả chúng sanh thường ưa thấy.
Lại này Diệu Huệ! Bồ tát thành tựu bốn pháp thì được thân phú quí: một là bố thí đúng thời, hai là không lòng khinh mạn, ba là vui mừng mà cho, bốn là chẳng mong quả báo.”
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
"Đúng thời bố thí không khinh mạn
Hoan hỉ đem cho chẳng mong cầu
Nơi bốn hạnh này thường siêng tu
Thọ sanh sẽ được đại phú quí.”
Lại này Diệu Huệ! Bồ tát thành tựu bốn pháp thì được quyến thuộc chẳng trở hoại: một là khéo rời bỏ được lời ly gián, hai là làm cho chúng sanh tà kiến an trụ chánh kiến, ba là chánh pháp sắp diệt hộ trì cho còn lâu, bốn là dạy chúng sanh xu hướng Phật Bồ đề.”
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
"Bỏ rời ly gián và tà kiến
Chánh pháp sắp diệt hay hộ trì
Khiến chúng sanh trụ đại Bồ đề
Sẽ được quyến thuộc không hư hoại.”
Lại này Diệu Huệ! Bồ tát thành tựu bốn pháp sẽ được ở trước chư Phật hóa sanh ngồi tòa liên hoa: một là cầm hoa quả đẹp ngon và hương thơm dâng cúng chư Phật và các chùa Tháp, hai là trọn chẳng vọng làm tổn hại kẻ khác, ba là tạo tượng Phật ở trên đài sen, bốn là với Phật Bồ đề hay sanh lòng tin thanh tịnh.”
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
"Hoa hương cúng Phật và chùa Tháp
Chẳng hại kẻ khác và tạo tượng
Rất tin hiểu nơi Phật Bồ đề
Được ngồi hoa sen sanh trước Phật.
Lại này Diệu Huệ! Bồ tát thành tựu bốn pháp thì được thần thông thù thắng từ một Phật độ đến một Phật độ: một là thấy người tu pháp lành thì chẳng làm chướng não, hai là lúc người thuyết pháp trọn chẳng làm trở ngại, ba là thắp đèn sáng cúng dường Tháp Phật, bốn là siêng tu tập các môn thiền định.”
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
"Thấy người tu lành thuyết chánh pháp
Chẳng hủy báng cũng chẳng trở ngại
Tháp thờ Như Lai cúng đèn sáng
Siêng tu thiền định dạo nước Phật.
Lại này Diệu Huệ! Bồ tát thành tựu bốn pháp thì ở đời không oán thù: một là dùng lòng không dua vạy mà gần gũi thiện hữu, hai là nơi pháp thù thắng của người không lòng tật đố, ba là người được danh dự lòng vui mừng theo, bốn là nơi hạnh Bồ tát không lòng khinh hủy.”
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
"Chẳng lòng dua vạy gần bạn lành
Người có hơn ta không ganh ghét
Người được danh dự thường hoan hỉ
Chẳng chê Bồ tát được không oán.
Lại này Diệu Huệ! Bồ tát thành tựu bốn pháp thì lời nói được người tin: một là phát ngôn tu hành thường khiến tương ưng, hai là ở chỗ thiện hữu chẳng giấu lỗi quấy, ba là nơi pháp được nghe chẳng tìm lỗi dở, bốn là với người thuyết pháp chẳng sanh ác tâm.”
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
"Phát ngôn tu hành thường tương ưng
Chẳng giấu tội mình với thiện hữu
Nghe kinh chẳng tìm lỗi nhơn pháp
Lời nói tất cả được người tin.
Lại này Diệu Huệ! Bồ tát thành tựu bốn pháp thì có thể rời lìa pháp chướng mau được thanh tịnh: một là thâm tâm ưa thích nhiếp trì ba luật nghi, hai là nghe kinh thậm thâm chẳng sanh lòng nghi báng, ba là thấy Bồ tát tân phát ý thì sanh tâm Nhứt thiết trí, bốn là đối với tất cả hữu tình có tâm đại từ bình đẳng.”
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
"Dùng thâm ý nguyện nhiếp luật nghi
Nghe kinh thậm thâm hay tin hiểu
Kính sợ phát tâm tưởng là Phật
Tâm từ khắp độ tiêu chướng nạn.
Lại này Diệu Huệ! Bồ tát thành tựu bốn pháp thì hay rời lìa các ma nghiệp: một là biết rõ pháp tánh bình đẳng, hai là phát khởi tinh tiến, ba là thường siêng niệm Phật, bốn là tất cả thiện căn đều hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
"Biết được các pháp tánh bình đẳng
Thường khởi tinh tiến niệm Như Lai
Hồi hướng tất cả các thiện căn
Chúng ma không thể được dịp hại.
Lại này Diệu Huệ! Bồ tát thành tựu bốn pháp thi lúc lâm chung được chư Phật hiện tiền: một là người có cầu muốn gì thì bố thí cho đầy đủ, hai là nơi các pháp lành sanh tin hiểu sâu, ba là với chư Bồ tát thí cúng đồ trang nghiêm, bốn là ở nơi Tam bảo siêng lo cúng dường.”
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
"Người có cầu dùng thí cho đủ
Tin hiểu pháp sâu cúng trang nghiêm
Tam bảo phước điền siêng cúng dường
Lâm mạng chung thời thấy Phật hiện.”
Diệu Huệ Đồng nữ bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Như lời đức Phật dạy về hạnh Bồ tát tôi sẽ phụng hành. Trong bốn mươi hạnh ấy nếu tôi thiếu một hạnh mà chẳng tu thì là trái lời đức Phật dạy là khi dối đức Như Lai.”
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên bảo Đồng nữ Diệu Huệ rằng: "Hạnh Bồ tát rất khó làm được, nay cô phát nguyện lớn thù thắng ấy, có phải là cô đã được tự tại nơi nguyện ấy chăng?”
Diệu Huệ bạch Tôn giả rằng: "Nếu hoằng nguyện của tôi chân thiệt chẳng hư có thể làm cho các hạnh Bồ tát được viên mãn thì xin cõi Đại Thiên Tam Thiên này chấn động sáu cách trời mưa hoa đẹp trống trời tự kêu.”
Đồng nữ nguyện xong, hư không tuôn hoa như mưa, trống trời kêu vang, cả Đại Thiên thế giới chấn động sáu cách.
Diệu Huệ lại bạch Tôn giả rằng: "Do lời phát nguyện chân thiệt ấy, đời vị lai tôi sẽ thành Phật như đức Thích Ca Như Lai. Cõi nước tôi không có các ma sự và tên ác thú nữ nhơn. Nếu lời tôi nói đây không hư vọng thì nguyện cho thân thể đại chúng đều kim sắc.”
Đồng nữ nói xong cả chúng đều thành kim sắc.
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên rời chỗ ngồi đứng dậy trịch y vai hữu đảnh lễ chân Phật mà bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi trước lạy Bồ tát sơ phát tâm và chúng đại Bồ tát.”
Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương tử hỏi Diệu Huệ: "Cô an trụ pháp gì mà phát nguyện thành thiệt ấy?”
Đồng nữ Diệu Huệ đáp rằng: "Bạch Văn Thù Sư Lợi! Lời hỏi ấy chẳng phải. Tại sao? Vì trong pháp giới không có sở trụ vậy.”
Lại hỏi: "Thế nào gọi là Bồ đề?”
Đáp: "Vô phân biệt pháp, đây gọi là Bồ đề.”
Lại hỏi: "Thế nào gọi là Bồ tát?”
Đáp: "Tất cả các pháp đồng tướng hư không, đây gọi là Bồ tát.”
Lại hỏi: "Thế nào gọi là hạnh Bồ đề?”
Đáp: "Hạnh dường như dương diệm cốc hưởng, đây là hạnh Bồ đề.”
Lại hỏi: "Y cứ mật ý gì mà nói như vậy?”
Đáp: "Ở trong đây tôi không thấy có chút pháp mật chẳng phải mật.”
Lại hỏi: "Nếu như vậy thì tất cả phàm phu lẽ ra là Bồ đề?”
Đáp: "Ngài cho rằng Bồ đề khác với phàm phu ư! Chớ quan niệm như vậy. Tại sao? Vì đồng một tướng pháp giới chẳng thủ chẳng xả không có thành hoại vậy.”
Lại hỏi: "Trong nghĩa này người hiểu rõ được số ấy có bao nhiêu?”
Đáp: "Như bao nhiêu lượng tâm tâm sở huyễn hóa thì có bao nhiêu chúng sanh huyễn hóa hay hiểu rõ nghĩa này.”
Lại hỏi: "Huyễn hóa vốn không có sao lại có tâm tâm sở như vậy?”
Đáp: "Pháp giới cũng vậy chẳng có chẳng không, nhẫn đến Như Lai cũng chẳng có chẳng không như vậy.”
Văn Thù Sư Lợi Bồ tát bạch đức Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Đồng nữ Diệu Huệ này thật rất hi hữu hay thành tựu được pháp nhẫn như vậy.”
Đức Phật phán: "Đúng như vậy, thiệt như lời Văn Thù Sư Lợi nói. Nhưng thuở quá khứ Đồng nữ này đã phát tâm Bồ đề trải qua ba mươi kiếp rồi ta mới phát xu Vô thượng Bồ đề. Đồng nữ này cũng làm cho Văn Thù Sư Lợi an trụ vô sanh nhẫn.”
Văn Thù Sư Lợi Bồ tát liền day lại đảnh lễ Đồng nữ Diệu Huệ và bạch rằng: "Thuở quá khứ vô lượng kiếp trước tôi đã từng cúng dường cô, chẳng ngờ ngày nay lại được thân cận.”
Diệu Huệ nói: "Bạch Ngài Văn Thù Sư Lợi! Ngài chớ sanh khởi phân biệt như vậy. Tại sao, vì do vô phân biệt mà được vô sanh nhẫn vậy.”
Văn Thù Sư Lợi Bồ tát lại hỏi Diệu Huệ Đồng nữ: "Nay cô vẫn chưa chuyển đổi thân nữ nhơn ư?”
Diệu Huệ nói: "Tướng nữ nhơn trọn bất khả đắc thì nay chuyển đổi những gì. Bạch Ngài Văn Thù Sư Lợi! Tôi sẽ vì Ngài mà dứt trừ nghi hoặc. Do vì tôi nói lời chân thiệt như vầy: Đời đương lai lúc tôi được Vô thượng Bồ đề, trong chánh pháp của tôi các hàng Tỳ kheo nghe lời truyền thiện lai xuất gia nhập đạo. Trong quốc độ tôi tất cả chúng sanh thân đều kim sắc ăn mặc đồ dùng như cung trời thứ sáu đều tùy niệm hiện ra, không có ma sự và các ác đạo cũng không có tên nữ nhơn, có tòa bảy báu trên giăng lưới báu, hoa sen bảy báu trùm với tướng báu, như cõi thanh tịnh trang nghiêm của Văn Thù Sư Lợi được thành đồng nhau không khác. Nếu lời tôi nói trên đây không hư vọng thì nay toàn đại chúng thân đều kim sắc, thân nữ nhơn của tôi biến thành nam tử như Tỳ kheo tri pháp ba mươi tuổi.”
Đồng nữ nói xong, toàn đại chúng thân đều kim sắc. Diệu Huệ chuyển thành nam tử như Tỳ kheo tri pháp ba mươi tuổi.
Bấy giờ chư Thiên địa cư chuyền nhau ca ngợi: "Thiện tai! Đại tai! Diệu Huệ đại Bồ tát có thể thuở vị lai lúc thành Bồ đề cõi nước nghiêm tịnh công đức như vậy.”
Đức Phật bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ tát: "Diệu Huệ Bồ tát này đời đương lai thành Phật hiệu là Thù Thắng Công Đức Bửu Tạng Như Lai.”
Đức Phật nói lời này có ba mươi câu chi chúng sanh an trụ bất thối chuyển nơi Vô thượng Bồ đề, tám mươi câu chi chúng sanh xa trần lìa cấu được pháp nhãn tịnh, tám ngàn chúng sanh được trí chứng. Năm ngàn Tỳ kheo hành Bồ tát thừa lòng muốn thối chuyển nay nhơn vì thấy Diệu Huệ Bồ tát ý nguyện thiện căn oai đức thù thắng nên đều cởi thượng y đang mặc dâng lên đức Như Lai rồi phát hoằng thệ rằng: "Do thiện căn này chúng tôi quyết định thành Vô thượng Bồ đề.”
Vì chư Tỳ kheo này đem thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề nên siêu chín mươi kiếp khổ sanh tử được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề.
Đức Phật liền thọ ký cho năm ngàn Tỳ kheo ấy rằng: "Đời đương lai qua sau ngàn kiếp, trong kiếp Vô Cấu Quang Minh, thế giới Dương Diệm, quốc độ Nam Nhẫn, trong một kiếp nối kế nhau thành Phật đồng một hiệu là Biện Tài Trang Nghiêm Như Lai.”
Đức Phật phán tiếp: "Này Văn Thù Sư Lợi! Pháp môn như vậy có đại oai đức hay khiến chư Bồ tát và người Thanh văn thừa được lợi ích lớn.
Này Văn Thù Sư Lợi! Hoặc có Thiện nam tử Thiện nữ nhơn vì cầu Bồ đề mà không phương tiện thiện xảo hành sáu Ba la mật mãn ngàn kiếp. Lại có người trong nửa tháng biên chép đọc tụng kinh này, thì phước đức đây hơn phước đức trên ngàn muôn ức lần, nhẫn đến không thể toán số thí dụ.
Này Văn Thù Sư Lợi! Pháp môn vi diệu như vậy là căn bổn của các khế kinh Đại thừa, ta đem phó chúc cho ông, đời đương lai ông thọ trì đọc tụng giải thuyết cho người.
Ví như vua Chuyển Luân Thánh Vương xuất thế thì bảy báu đều hiện ra tại trước vua. Sau khi vua mất thì bảy báu cũng mất theo.
Pháp môn vi diệu này lưu hành tại thế gian thì chính là pháp nhãn thất Bồ đề phần v.v... của chư Như Lai chẳng mất. Nếu không lưu hành thì chánh pháp sẽ mất.
Vì thế nên, này Văn Thù Sư Lợi! Nếu người muốn cầu Bồ đề thì nên phát khởi tinh tiến biên chép kinh này thọ trì đọc tụng vì người mà giải thuyết. Đây là lời dạy của Phật, chớ để đời sau phải sanh lòng hối hận.”
Đức Phật nói kinh này rồi, Diệu Huệ Bồ tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ tát và cả đại chúng Thiên Long Bát bộ nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành./.
(PHÁP HỘI DIỆU HUỆ ĐỒNG NỮ - THỨ BA MƯƠI HẾT)
Chương XXX: PHÁP HỘI DIỆU HUỆ ĐỒNG NỮ - THỨ BA MƯƠI
Hán dịch: Nhà Đường, Pháp sư Bồ Đề Lưu Chí.
Việt dịch: Việt Nam, Tỳ kheo Thích Trí Tịnh.
Như vậy tôi nghe một lúc đức Phật ở tại thành Vương Xá trong núi Kỳ Xà Quật cùng chúng đại Tỳ kheo ngàn hai trăm năm mươi người và đại Bồ tát mười ngàn người câu hội.
Bấy giờ thành Vương Xá có Trưởng giả nữ tên Diệu Huệ mới tám tuổi dung mạo đoan chánh xinh đẹp đầy đủ tướng người ai thấy đều vui thích, đã từng thân cận cúng dường trồng các căn lành nơi vô lượng chư Phật quá khứ. Đồng nữ Diệu Huệ đến lễ chân đức Như Lai nhiễu ba vòng quỳ chắp tay bạch rằng:
"Đấng Vô Thượng Chánh giác
Làm đèn sáng thế gian
Xin cho phép tôi hỏi
Sở hành của Bồ tát.”
Đức Phật phán: "Nay cho ngươi tùy ý hỏi, Phật sẽ giải thuyết để dứt lưới nghi.”
Diệu Huệ liền nói kệ thỉnh hỏi:
"Làm sao được thân đẹp
Đại phú và tôn quí
Lại do nhơn duyên gì
Quyến thuộc khó trở hoại
Thế nào thấy thân mình
Được thọ biến hóa sanh
Ngồi hoa sen ngàn cánh
Diện phụng Phật Thế Tôn
Thế nào chứng nhập được
Tự tại thắng thần thông
Đến khắp vô lượng cõi
Kính lễ lạy chư Phật
Thế nào được không oán
Lời nói được người tin
Trừ sạch các pháp chướng
Lìa hẳn các ma nghiệp
Thế nào lúc mạng chung
Được thấy chư Phật hiện
Nghe nói pháp thanh tịnh
Chẳng bị khổ não bức
Đấng đại bi Vô thượng
Xin thương giải thuyết cho.”
Đức Phật bảo Diệu Huệ: "Lành thay lành thay! Khéo hỏi được nghĩa thâm diệu ấy. Lắng nghe kỹ và khéo suy gẫm, đức Phật sẽ nói cho.”
Diệu Huệ bạch rằng: "Vâng, bạch Thế Tôn, xin muốn được nghe.”
Đức Phật dạy: "Này Diệu Huệ! Bồ tát thành tựu bốn pháp thì được thọ thân hình đoan chánh: một là nơi ác hữu chẳng khởi lòng giận hờn, hai là an trụ đại từ, ba là rất thích chánh pháp, bốn là tạo hình tượng Phật.”
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
"Sân hoại thiện căn chớ tăng trưởng
Từ tâm thích pháp tạo hình Phật
Sẽ được thân đủ tướng trang nghiêm
Tất cả chúng sanh thường ưa thấy.
Lại này Diệu Huệ! Bồ tát thành tựu bốn pháp thì được thân phú quí: một là bố thí đúng thời, hai là không lòng khinh mạn, ba là vui mừng mà cho, bốn là chẳng mong quả báo.”
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
"Đúng thời bố thí không khinh mạn
Hoan hỉ đem cho chẳng mong cầu
Nơi bốn hạnh này thường siêng tu
Thọ sanh sẽ được đại phú quí.”
Lại này Diệu Huệ! Bồ tát thành tựu bốn pháp thì được quyến thuộc chẳng trở hoại: một là khéo rời bỏ được lời ly gián, hai là làm cho chúng sanh tà kiến an trụ chánh kiến, ba là chánh pháp sắp diệt hộ trì cho còn lâu, bốn là dạy chúng sanh xu hướng Phật Bồ đề.”
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
"Bỏ rời ly gián và tà kiến
Chánh pháp sắp diệt hay hộ trì
Khiến chúng sanh trụ đại Bồ đề
Sẽ được quyến thuộc không hư hoại.”
Lại này Diệu Huệ! Bồ tát thành tựu bốn pháp sẽ được ở trước chư Phật hóa sanh ngồi tòa liên hoa: một là cầm hoa quả đẹp ngon và hương thơm dâng cúng chư Phật và các chùa Tháp, hai là trọn chẳng vọng làm tổn hại kẻ khác, ba là tạo tượng Phật ở trên đài sen, bốn là với Phật Bồ đề hay sanh lòng tin thanh tịnh.”
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
"Hoa hương cúng Phật và chùa Tháp
Chẳng hại kẻ khác và tạo tượng
Rất tin hiểu nơi Phật Bồ đề
Được ngồi hoa sen sanh trước Phật.
Lại này Diệu Huệ! Bồ tát thành tựu bốn pháp thì được thần thông thù thắng từ một Phật độ đến một Phật độ: một là thấy người tu pháp lành thì chẳng làm chướng não, hai là lúc người thuyết pháp trọn chẳng làm trở ngại, ba là thắp đèn sáng cúng dường Tháp Phật, bốn là siêng tu tập các môn thiền định.”
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
"Thấy người tu lành thuyết chánh pháp
Chẳng hủy báng cũng chẳng trở ngại
Tháp thờ Như Lai cúng đèn sáng
Siêng tu thiền định dạo nước Phật.
Lại này Diệu Huệ! Bồ tát thành tựu bốn pháp thì ở đời không oán thù: một là dùng lòng không dua vạy mà gần gũi thiện hữu, hai là nơi pháp thù thắng của người không lòng tật đố, ba là người được danh dự lòng vui mừng theo, bốn là nơi hạnh Bồ tát không lòng khinh hủy.”
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
"Chẳng lòng dua vạy gần bạn lành
Người có hơn ta không ganh ghét
Người được danh dự thường hoan hỉ
Chẳng chê Bồ tát được không oán.
Lại này Diệu Huệ! Bồ tát thành tựu bốn pháp thì lời nói được người tin: một là phát ngôn tu hành thường khiến tương ưng, hai là ở chỗ thiện hữu chẳng giấu lỗi quấy, ba là nơi pháp được nghe chẳng tìm lỗi dở, bốn là với người thuyết pháp chẳng sanh ác tâm.”
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
"Phát ngôn tu hành thường tương ưng
Chẳng giấu tội mình với thiện hữu
Nghe kinh chẳng tìm lỗi nhơn pháp
Lời nói tất cả được người tin.
Lại này Diệu Huệ! Bồ tát thành tựu bốn pháp thì có thể rời lìa pháp chướng mau được thanh tịnh: một là thâm tâm ưa thích nhiếp trì ba luật nghi, hai là nghe kinh thậm thâm chẳng sanh lòng nghi báng, ba là thấy Bồ tát tân phát ý thì sanh tâm Nhứt thiết trí, bốn là đối với tất cả hữu tình có tâm đại từ bình đẳng.”
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
"Dùng thâm ý nguyện nhiếp luật nghi
Nghe kinh thậm thâm hay tin hiểu
Kính sợ phát tâm tưởng là Phật
Tâm từ khắp độ tiêu chướng nạn.
Lại này Diệu Huệ! Bồ tát thành tựu bốn pháp thì hay rời lìa các ma nghiệp: một là biết rõ pháp tánh bình đẳng, hai là phát khởi tinh tiến, ba là thường siêng niệm Phật, bốn là tất cả thiện căn đều hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
"Biết được các pháp tánh bình đẳng
Thường khởi tinh tiến niệm Như Lai
Hồi hướng tất cả các thiện căn
Chúng ma không thể được dịp hại.
Lại này Diệu Huệ! Bồ tát thành tựu bốn pháp thi lúc lâm chung được chư Phật hiện tiền: một là người có cầu muốn gì thì bố thí cho đầy đủ, hai là nơi các pháp lành sanh tin hiểu sâu, ba là với chư Bồ tát thí cúng đồ trang nghiêm, bốn là ở nơi Tam bảo siêng lo cúng dường.”
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
"Người có cầu dùng thí cho đủ
Tin hiểu pháp sâu cúng trang nghiêm
Tam bảo phước điền siêng cúng dường
Lâm mạng chung thời thấy Phật hiện.”
Diệu Huệ Đồng nữ bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Như lời đức Phật dạy về hạnh Bồ tát tôi sẽ phụng hành. Trong bốn mươi hạnh ấy nếu tôi thiếu một hạnh mà chẳng tu thì là trái lời đức Phật dạy là khi dối đức Như Lai.”
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên bảo Đồng nữ Diệu Huệ rằng: "Hạnh Bồ tát rất khó làm được, nay cô phát nguyện lớn thù thắng ấy, có phải là cô đã được tự tại nơi nguyện ấy chăng?”
Diệu Huệ bạch Tôn giả rằng: "Nếu hoằng nguyện của tôi chân thiệt chẳng hư có thể làm cho các hạnh Bồ tát được viên mãn thì xin cõi Đại Thiên Tam Thiên này chấn động sáu cách trời mưa hoa đẹp trống trời tự kêu.”
Đồng nữ nguyện xong, hư không tuôn hoa như mưa, trống trời kêu vang, cả Đại Thiên thế giới chấn động sáu cách.
Diệu Huệ lại bạch Tôn giả rằng: "Do lời phát nguyện chân thiệt ấy, đời vị lai tôi sẽ thành Phật như đức Thích Ca Như Lai. Cõi nước tôi không có các ma sự và tên ác thú nữ nhơn. Nếu lời tôi nói đây không hư vọng thì nguyện cho thân thể đại chúng đều kim sắc.”
Đồng nữ nói xong cả chúng đều thành kim sắc.
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên rời chỗ ngồi đứng dậy trịch y vai hữu đảnh lễ chân Phật mà bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi trước lạy Bồ tát sơ phát tâm và chúng đại Bồ tát.”
Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương tử hỏi Diệu Huệ: "Cô an trụ pháp gì mà phát nguyện thành thiệt ấy?”
Đồng nữ Diệu Huệ đáp rằng: "Bạch Văn Thù Sư Lợi! Lời hỏi ấy chẳng phải. Tại sao? Vì trong pháp giới không có sở trụ vậy.”
Lại hỏi: "Thế nào gọi là Bồ đề?”
Đáp: "Vô phân biệt pháp, đây gọi là Bồ đề.”
Lại hỏi: "Thế nào gọi là Bồ tát?”
Đáp: "Tất cả các pháp đồng tướng hư không, đây gọi là Bồ tát.”
Lại hỏi: "Thế nào gọi là hạnh Bồ đề?”
Đáp: "Hạnh dường như dương diệm cốc hưởng, đây là hạnh Bồ đề.”
Lại hỏi: "Y cứ mật ý gì mà nói như vậy?”
Đáp: "Ở trong đây tôi không thấy có chút pháp mật chẳng phải mật.”
Lại hỏi: "Nếu như vậy thì tất cả phàm phu lẽ ra là Bồ đề?”
Đáp: "Ngài cho rằng Bồ đề khác với phàm phu ư! Chớ quan niệm như vậy. Tại sao? Vì đồng một tướng pháp giới chẳng thủ chẳng xả không có thành hoại vậy.”
Lại hỏi: "Trong nghĩa này người hiểu rõ được số ấy có bao nhiêu?”
Đáp: "Như bao nhiêu lượng tâm tâm sở huyễn hóa thì có bao nhiêu chúng sanh huyễn hóa hay hiểu rõ nghĩa này.”
Lại hỏi: "Huyễn hóa vốn không có sao lại có tâm tâm sở như vậy?”
Đáp: "Pháp giới cũng vậy chẳng có chẳng không, nhẫn đến Như Lai cũng chẳng có chẳng không như vậy.”
Văn Thù Sư Lợi Bồ tát bạch đức Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Đồng nữ Diệu Huệ này thật rất hi hữu hay thành tựu được pháp nhẫn như vậy.”
Đức Phật phán: "Đúng như vậy, thiệt như lời Văn Thù Sư Lợi nói. Nhưng thuở quá khứ Đồng nữ này đã phát tâm Bồ đề trải qua ba mươi kiếp rồi ta mới phát xu Vô thượng Bồ đề. Đồng nữ này cũng làm cho Văn Thù Sư Lợi an trụ vô sanh nhẫn.”
Văn Thù Sư Lợi Bồ tát liền day lại đảnh lễ Đồng nữ Diệu Huệ và bạch rằng: "Thuở quá khứ vô lượng kiếp trước tôi đã từng cúng dường cô, chẳng ngờ ngày nay lại được thân cận.”
Diệu Huệ nói: "Bạch Ngài Văn Thù Sư Lợi! Ngài chớ sanh khởi phân biệt như vậy. Tại sao, vì do vô phân biệt mà được vô sanh nhẫn vậy.”
Văn Thù Sư Lợi Bồ tát lại hỏi Diệu Huệ Đồng nữ: "Nay cô vẫn chưa chuyển đổi thân nữ nhơn ư?”
Diệu Huệ nói: "Tướng nữ nhơn trọn bất khả đắc thì nay chuyển đổi những gì. Bạch Ngài Văn Thù Sư Lợi! Tôi sẽ vì Ngài mà dứt trừ nghi hoặc. Do vì tôi nói lời chân thiệt như vầy: Đời đương lai lúc tôi được Vô thượng Bồ đề, trong chánh pháp của tôi các hàng Tỳ kheo nghe lời truyền thiện lai xuất gia nhập đạo. Trong quốc độ tôi tất cả chúng sanh thân đều kim sắc ăn mặc đồ dùng như cung trời thứ sáu đều tùy niệm hiện ra, không có ma sự và các ác đạo cũng không có tên nữ nhơn, có tòa bảy báu trên giăng lưới báu, hoa sen bảy báu trùm với tướng báu, như cõi thanh tịnh trang nghiêm của Văn Thù Sư Lợi được thành đồng nhau không khác. Nếu lời tôi nói trên đây không hư vọng thì nay toàn đại chúng thân đều kim sắc, thân nữ nhơn của tôi biến thành nam tử như Tỳ kheo tri pháp ba mươi tuổi.”
Đồng nữ nói xong, toàn đại chúng thân đều kim sắc. Diệu Huệ chuyển thành nam tử như Tỳ kheo tri pháp ba mươi tuổi.
Bấy giờ chư Thiên địa cư chuyền nhau ca ngợi: "Thiện tai! Đại tai! Diệu Huệ đại Bồ tát có thể thuở vị lai lúc thành Bồ đề cõi nước nghiêm tịnh công đức như vậy.”
Đức Phật bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ tát: "Diệu Huệ Bồ tát này đời đương lai thành Phật hiệu là Thù Thắng Công Đức Bửu Tạng Như Lai.”
Đức Phật nói lời này có ba mươi câu chi chúng sanh an trụ bất thối chuyển nơi Vô thượng Bồ đề, tám mươi câu chi chúng sanh xa trần lìa cấu được pháp nhãn tịnh, tám ngàn chúng sanh được trí chứng. Năm ngàn Tỳ kheo hành Bồ tát thừa lòng muốn thối chuyển nay nhơn vì thấy Diệu Huệ Bồ tát ý nguyện thiện căn oai đức thù thắng nên đều cởi thượng y đang mặc dâng lên đức Như Lai rồi phát hoằng thệ rằng: "Do thiện căn này chúng tôi quyết định thành Vô thượng Bồ đề.”
Vì chư Tỳ kheo này đem thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề nên siêu chín mươi kiếp khổ sanh tử được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề.
Đức Phật liền thọ ký cho năm ngàn Tỳ kheo ấy rằng: "Đời đương lai qua sau ngàn kiếp, trong kiếp Vô Cấu Quang Minh, thế giới Dương Diệm, quốc độ Nam Nhẫn, trong một kiếp nối kế nhau thành Phật đồng một hiệu là Biện Tài Trang Nghiêm Như Lai.”
Đức Phật phán tiếp: "Này Văn Thù Sư Lợi! Pháp môn như vậy có đại oai đức hay khiến chư Bồ tát và người Thanh văn thừa được lợi ích lớn.
Này Văn Thù Sư Lợi! Hoặc có Thiện nam tử Thiện nữ nhơn vì cầu Bồ đề mà không phương tiện thiện xảo hành sáu Ba la mật mãn ngàn kiếp. Lại có người trong nửa tháng biên chép đọc tụng kinh này, thì phước đức đây hơn phước đức trên ngàn muôn ức lần, nhẫn đến không thể toán số thí dụ.
Này Văn Thù Sư Lợi! Pháp môn vi diệu như vậy là căn bổn của các khế kinh Đại thừa, ta đem phó chúc cho ông, đời đương lai ông thọ trì đọc tụng giải thuyết cho người.
Ví như vua Chuyển Luân Thánh Vương xuất thế thì bảy báu đều hiện ra tại trước vua. Sau khi vua mất thì bảy báu cũng mất theo.
Pháp môn vi diệu này lưu hành tại thế gian thì chính là pháp nhãn thất Bồ đề phần v.v... của chư Như Lai chẳng mất. Nếu không lưu hành thì chánh pháp sẽ mất.
Vì thế nên, này Văn Thù Sư Lợi! Nếu người muốn cầu Bồ đề thì nên phát khởi tinh tiến biên chép kinh này thọ trì đọc tụng vì người mà giải thuyết. Đây là lời dạy của Phật, chớ để đời sau phải sanh lòng hối hận.”
Đức Phật nói kinh này rồi, Diệu Huệ Bồ tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ tát và cả đại chúng Thiên Long Bát bộ nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành./.
(PHÁP HỘI DIỆU HUỆ ĐỒNG NỮ - THỨ BA MƯƠI HẾT)
_()_
-
- Điều Hành Viên
- Bài viết: 684
- Ngày: 03/10/08 05:48
- Giới tính: Nam
- Phật tử: Tại gia
- Đến từ: HCM
- Đã cảm ơn: 21 time
- Được cảm ơn: 1 time
Re: Nhà riêng của Quang Tâm
Lịch sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Gia Tuệ
-----------
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát. Và cũng với đại tâm đại nguyện ấy, sau khi chứng được đạo quả Vô thượng Bồ đề, Ngài đã dâng hiến thời gian cho công cuộc hằng hóa độ sanh. Đức Thế Tôn đã chu du khắp đất nước Ấn Độ thời xa xưa ấy, từ cực Bắc dưới chân núi Hymalaya, đến cực Nam bên ven sông Gange (sông Hằng).
Đức Thế Tôn đã dành những tuần lễ đầu tiên để chiêm nghiệm đến giáo pháp thậm thâm vi diệu mà Ngài đã chứng đắc, và thọ hưởng pháp lạc mà quả phúc mang đến. Pháp Cú kinh, kệ số 153-154, đã ghi lại một trong những Phật ngôn đầu tiên Ngài đã thốt lên trong thời gian này:
Lang thang bao kiếp sống
Ta tìm nhưng không gặp
Người xây dựng nhà này
Khổ thay, phải tái sanh
Ôi! Người làm nhà kia
Nay ta đã thấy ngươi
Ngươi không làm nhà nữa
Đòn tay ngươi bị gẫy
Kèo cột ngươi bị tan
Tâm ta được tịch diệt
Tham ái thảy tiêu phong
(Bản dịch của HT Thích Minh Châu)
Câu kinh như một lời ca khải hoàn, mô tả sự chiến thắng vẻ vang rực rỡ sau cuộc chiến đấu nội tâm thầm lặng gian nan. Ông thợ tượng trưng cho ái dục, vô minh, phiền não luôn ẩn sâu kín trong mỗi con người, nay đã bị phát hiện.
Đức Phật cũng đã để lại cho thế gian một bài học luân lý đẹp đẽ, đó là sự tỏ lòng tri ân sâu sa đối với cây bồ đề che nắng che mưa cho Ngài trong suốt thời gian tầm đạo. Đức Thế Tôn đã đứng cách một khoảng xa để chiêm bái đại thọ suốt trong một tuần. Sau này, nơi đây vua Asoka (A Dục) dựng lên một tháp kỷ niệm gọi là Animisalocana Cetiya, nay vẫn còn.
Đức Thế Tôn đã suy nghĩ đến giáo lý giải thoát sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh cao thượng, siêu lý luận, ly dục, vô ngã mà Ngài đã chứng đắc; còn chúng sanh thì luôn chìm sâu vào ái dục, định kiến, chấp ngã với nhiều thủ trước... Làm thế nào để con người dễ dàng chấp nhận giáo lý ấy? Và rồi, với trí tuệ của bậc giác ngộ, Đức Thế Tôn đã quan sát thế gian và thấy rằng: "Có hạng chúng sinh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời; có hạng độn căn, lợi căn; có hạng thiện tánh, ác tánh; có hạng dễ giáo hóa, khó giáo hóa... Như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng, hồ sen trắng, sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, không vươn lên khỏi mặt nước, được nuôi dưỡng dưới nước; có loại sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, vươn lên khỏi mặt nước, không bị nước thấm ướt..." (Trung Bộ I). Và như vậy, với hình ảnh những cành sen vươn ra khỏi mặt nước, những cành ở lưng chừng, những cành ở sâu trong lòng nước v.v... đã gợi lên trong Thế Tôn về căn cơ bất đồng của mọi người. Có những căn cơ thấp như cánh sen ở đáy hồ, có những căn cơ trung bình như những cánh sen ở lưng chừng nước, cũng có những căn cơ cao có thể tiếp thu trọn vẹn giáo pháp của Ngài như những cành sen đã nhô ra khỏi mặt nước. Dù sống trong nghiệp quả bất đồng, nmỗi chúng sanh đều có hạt giống giác ngộ, như hoa sen dù sống trong bùn tanh hôi, vẫn tỏa hương thơm ngát.
Với ba lần thỉnh cầu và phát khởi thiện nguyện hộ trì giáo pháp của Phạm Thiên, Đức Thế Tôn quyết định gióng lên tiếng trống Pháp và bắt đầu thực hiện sứ mạng của mình. Ngài tuyên bố với thế gian, với loài người, với cõi trời và với tất cả, con đường đạo cứu khổ và diệt khổ, con đường dẫn đến cõi bất sanh bất diệt, cõi Niết bàn đã được khai mở: "Cửa bất tử rộng mở, cho những ai chịu nghe..." (Trung Bộ I). Và bánh xe Pháp bắt đầu chuyển vận.
I. Bài pháp đầu tiên - Ngôi Tam Bảo được hình thành - Khởi đầu Giáo hội Phật giáo
Sau khi quyết định truyền bá đạo lý cứu khổ cho muôn loài, Đức Phật dùng tuệ nhãn quan sát thế gian xem ai là người có cơ duyên để hóa độ trước, và Ngài nghĩ ngay đến hai vị thầy cũ của mình là Alara Kàlama và Uddaka Ramaputta, nhưng cả hai đã qua đời cách đó không lâu. Đức Thế Tôn nghĩ đến năm người bạn đồng tu khổ hạnh đã rời bỏ Ngài trước kia, đang ở tại vườn Nai (Lộc Uyển) - Benares (Baranàsi) và lên đường đi đến đó.
Bài Pháp đầu tiên
Tại đây, bài Pháp đầu tiên, bài giảng về Tứ diệu đế (Tứ Thánh đế) được Đức Thế Tôn chỉ bày rõ ràng. Nghe xong, tôn giả Kodanna (Kiều Trần Như) chứng quả Tu Đà Hoàn. Đức Thế Tôn thu nhận năm tôn giả làm các đệ tử xuất gia đầu tiên - và thế là ngôi Tam bảo đã được hình thành.
Để đánh dấu sự kiện đáng ghi nhớ này, về sau người ta đã biểu trưng nó với hình ảnh bánh xe với hai con nai hai bên. Hai con nai biểu tượng cho địa điểm thuyết pháp (Lộc Uyển) và bánh xe Dhamma Cakka tức là bánh xe pháp - "pháp luân". Cả đầu đề bài khi được giảng là: Dhamma Cakkappavattana, có nghĩa là Chuyển Pháp Luân (chuyển bánh xe pháp).
Nội dung kinh Chuyển Pháp Luân
Đức Thế Tôn mở đầu bằng lời khuyên các tu sĩ không nên mắc vào hai cực đoan: một là đam mê thú vui dục lạc thế gian, vì nó giả tạm, nhất thời, tầm thường, ngăn cản mọi tiến bộ tâm linh; cực đoan thứ hai là khổ hạnh ép sát, nó làm mỏi mệt tinh thần, mê mờ trí tuệ. Và Ngài khuyến tấn họ nên theo con đường trung đạo dẫn tới một cuộc sống thanh tịnh, trí tuệ, sáng suốt, giải thoát tối hậu. Đó là con đuờng đạo 8 chánh - Bát chánh đạo: 1. Chánh tri kiến: thấy biết chân chánh, 2. Chánh tư duy: suy nghĩ chân chánh, 3. Chánh ngữ: nói năng chân chánh, 4. Chánh nghiệp: hành động chân chánh, 5. Chánh mạng: sinh sống chân chánh, 6. Chánh tinh tấn: siêng năng chân chánh, 7. Chánh niệm: nhớ nghĩ chân chánh, 8. Chánh định: tập trung tư tưởng chân chánh.
Và bốn Thánh đế được Đức Phật giảng tiếp theo, dó là chân lý về sự Khổ (Khổ đế), chân lý về nguyên nhân của sự Khổ (Tập đế), chân lý về sự diệt Khổ (Diệt đế) và chân lý về con đường diệt Khổ (Đạo đế).
Sau khi nghe Đức Thế Tôn giảng bài pháp thứ hai có đầu đề Anttalakkhana Sutta (kinh Vô ngã tướng), bàn về thuyết Vô ngã (không có cái ta), rằng năm uẩn là vô thường, nếu ai thoát khỏi tham ái thì ra khỏi tái sanh, được giải thoát, năm tôn giả Kodanna, Vappa, Bhaddhiya, Mahànàma và Assaji lần lượt chứng quả A La Hán. Bấy giờ là tháng Vesàkha (giữa tháng 4 và 5 dương lịch), đầu mùa kiết hạ. Giáo hội của Đức Thế Tôn an cư mùa mưa đầu tiên tại đây.
Giáo hóa ôngYasa (Ya Xá)
Gần Benarès, có con trai của một người triệu phú tên là Yasa. Chán cuộc đời xa hoa phú quí tầm thường vô vị của thế gian, chàng tìm đến đức Phật; sau khi nghe pháp đã xin xuất gia và chẳng bao lâu chứng quả vị A La Hán. Cha của Yasa trên đường đi tìm con cũng đến vườn Nai thính pháp và xin quy y. Ông trở thành đệ tử tại gia đầu tiên của Đức Phật. Tại nhà của Yasa, mẹ và vợ của chàng cũng quy y Tam bảo. Bốn người bạn thân của Yasa là Vimala, Subhàhu, Punnaji và Gavampati cũng như hơn 50 bạn khác từ các gia đình và địa phương gần xa nghe tin Yasa xuất gia, cũng lạy cha mẹ, từ giã gia đình xin theo chân Đức Phật, và sau một thời gian đều đắc Thánh quả.
Đoàn tăng sĩ thuyết pháp đầu tiên
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn đã có 60 người đệ tử đều là A La Hán. Ngài quyết định đưa họ đi khắp nơi để truyền bá chánh pháp. Trước khi họ lên đường, Ngài đã động viên, kêu gọi các đệ tử rằng:
"Này các Tỳ kheo! Như Lai đã được giải thoát hết mọi ràng buộc thế gian và xuất thế gian (các cõi trời). Các ông cũng vậy... Này các Tỳ kheo, hãy đi vì lợi lạc của nhiều người, vì hạnh phúc của số đông, vì lòng lân mẫn đối với thế gian, vì lợi lạc, vì hạnh phúc của trời và người. các ông hãy đi, nhưng đừng đi hai người cùng một hướng, hãy đi mỗi người một ngã, hãy truyền bá chánh pháp. Này các Tỳ kheo, chánh pháp toàn thiện ở phần đầu, phần giữa cũng như phần cuối, cả trong ý tứ và lời văn. Hãy tuyên bố về cuộc sống toàn thiện và thanh tịnh... Chính Như Lai cũng đi, Như Lai sẽ đi về hướng Uruve là ở Sanànigàma để hoằng dương giáo pháp. Hãy phất lên ngọn cờ của bậc thiện trí, hãy truyền dạy giáo pháp cao siêu, hãy mang lại sự tốt đẹp cho người khác; được vậy, là các ông đã hoàn tất nhiệm vụ" (Mahavagga, 19-20).
Đức Phật không khuyên tất cả mọi người nên rời bỏ đời sống gia đình để xuất gia, trở thành người sống không nhà cửa, không tài sản, sự nghiệp. Một người cư sĩ cũng có thể sống đời cao đẹp thích ứng với giáo pháp và đắc quả Thánh. Cha mẹ và vợ của Yasa là những người tu tại gia đầu tiên bước theo dấu chân của Đức Phật, tất cả đều tiến triển đầy đủ về tinh thần và thành tựu đạo quả Tu Đà Hoàn.
Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, Đức Phật và 60 người học trò chứng quả A La Hán tổ chức thành một tăng đoàn những tu sĩ khất thực không có trú xứ nhất định, không có của cải vật chất nào khác ngoài tấm áo vàng che thân và một bình bát để khất thực nuôi thân. Trong mưa nắng, trong sương gió, làng mạc hay phố thị, rừng núi hay đồng hoang đều có dấu chân của những con người thuyết giảng về đạo lý cứu khổ và đời sống thanh hạnh và tự mình nêu gương sáng về cuộc sống thanh tịnh và giải thoát. Đó là sự nghiệp, là nội dung chủ yếu của Tăng đoàn đầu tiên do Đức thế Tôn đích thân thành lập và chỉ đạo.
Có thể nói, đây là sự khởi đầu của Giáo hội Phật giáo.
II. Hóa độ rộng lớn và cùng khắp
Sứ mạng hóa độ - con đường giáo hóa của Đức Thế Tôn thật vô cùng nặng nề và khó khăn, nhưng với lòng bi mẫn rộng sâu, tinh thần bình đẳng triệt để và một ý chí dũng mãnh vô song, Đức Thế Tôn đã tùy theo căn cơ của mọi người mà dùng nhiều phương tiện thiện xảo giáo hóa, như một bậc y vương đã tùy bệnh mà cho thuốc, đã hoàn thành sứ mạng thiêng liêng một cách viên mãn và đã đề ra một con đường giáo dục thật mới lạ trong lịch sử nhân loại.
Cảm hóa ba anh em ông Kassapa (Ca Diếp) - Giáo chủ thần lửa.
Sau khi sáu mươi vị Tỳ kheo mỗi người đi về một hướng, Đức Thế Tôn cũng đi về hướng Uruvela. Dọc đường, trong một khu rừng nhỏ, Đức Phật đã hóa độ cho 30 thanh niên đang vui đùa cùng vợ của họ và một kỹ nữ ở trong rừng.
Gần Uruvela (Ưu Lâu Tần Loa) có ba anh em Kassapa: Uruvela Kassapa, Nadi Kassapa và Gaya Kassapa. Ba anh em ông là những người có danh vọng lớn ở Magadha, đặc biệt là người anh cả Uruvela Kassapa; ông này thờ thần lửa và tự cho mình đã chứng quả A La Hán trọ qua đêm và bị cố ý thu xếp cho ở căn phòng thờ thần lửa có một con rắn chúa rất độc và dữ tợn, Đức Phật đã hàng phục con rắn thiêng này, ngoài suy nghĩ của ông Uruvela Kassapa. Tin rằng chính Đức Phật là người đã chứng quả Thánh, chứ không phải là mình, ba anh em ông Kassapa và 1.000 đệ tử đều xin xuất gia theo Phật.
Sau đó, Đức Phật đã đến Gàya Sirà, cách Uruvela không xa lắm. Chính nơi đây Đức Thế Tôn đã thuyết giảng kinh Aditthapariyàya Sutta (bài kinh Lửa Cháy, với chủ đề: thế gian là tòa nhà cháy rực bằng ngọn lửa tham, sân, si, sanh, già, bệnh, chết, sầu bi, khổ não và thất vọng). Các Tỳ kheo có mặt đều đắc quả A La Hán.
Khi vừa thoát ly gia đình đi tầm đạo, Đức Phật có lúc đã ngụ tại Pàndavapabbata. Vua Bimbisàra (Tần Bà Sa La - Bình Sa Vương) lấy làm cảm kích trước tướng mạo oai nghi và tư cách trang nghiêm, sang trọng, khiêm tốn, đã cho người dò hỏi lai lịch. Sau khi biết được chí nguyện của vị Thái tử đầy hùng tâm này, đức vua xin Ngài hãy trở lại viếng thăm vương quốc Magadha (Ma kiệt đà) do vua cai trị, khi chứng đạo quả.
Nhớ lời hứa xưa, Đức Thế Tôn cùng trên 1.000 đệ tử A La Hán từ Gàya đến Ràiagaha (Vương xá), thủ phủ của vương quốc Magadha giàu mạnh. Và tại đây, vua Bimbisàra hiểu được giáo pháp cao diệu liền chứng Sơ quả và xin quy y Tâm bảo cùng dân chúng tinh xá rộng lớn có tên là Veluvanaràma (Trúc Lâm tinh xá) gần thành Ràjagaha. Có thể coi đây là tự viện đầu tiên ra đời, và vua Bimbisàra là vị thí chủ đầu tiên trong hàng vua chúa. tại tinh xá yên tĩnh những ày, Đức Phật và đại chúng đã nhập hạ một lần 3 năm liên tiếp và ba hạ khác, xa cách nhau.
Thâu nhận Sàriputta (Xá Lợi Phất) và Moggallàna (Mục Kiền Liên)
Gần Ràjagaha có một làng tên Upatissa, còn có tên là Nàlaka, Sàriputta - một chàng trai thông minh - là người ở làng này. Vì xuất thân ở một gia đình quyền quý nhất làng, nên chàng còn được gọi là Upatissa.
Cùng với người bạn thân ở làng Kolita tên gọi Moggallàna, có chung một nhận thức rằng tất cả những thú vui vật chất đều tạm bợ, trống rỗng và vô vị. Hai chàng trai quyết định từ bỏ gia đình, lang thang đi tìm chân lý và thọ giáo với đạo sĩ Sànjaya, người có rất nhiều đồ đệ. Nhưng do không thỏa mãn với giáo lý của vị thầy hữu danh này và sau đó là nhiều đạo sĩ khác, cả hai chia tay nhau và thề hẹn rằng: Nếu ai tìm ra con đường đạo giải thoát trước, sẽ cho người kia hay.
Trong một dịp bất ngờ, Ngài Sàriputta đã xúc động mạnh trước phong thái giải thoát, trầm tĩnh, siêu phàm đang đi trì bình một cách thong dong để giáo hóa mọi người ở thành Ràjagaha của Ngài Assaji (Mã Thắng, Thuyết Thị). Cho rằng đây hẳn là bậc A La Hán, hay cũng là người đang trên con đường dẫn đến đạo giác ngộ, Sàriputta đã - đợi cơ hội và liền đảnh lễ, thưa hỏi: "Kính bạch Tôn giả! Các căn của Ngài thật bình thản, an tịnh. màu da của Ngài thật trong sáng. Vì sao Ngài thoát ly thế tục? Ai là đạo sư của Ngài? Giáo lý của Ngài là gì?".
Trước những câu hỏi chân thật, khiêm tốn và sự khẩn khoản yêu cầu của Sàriputta, ngài Assaji đã đọc tóm tắt giáo lý mà Ngài đã học ở Đức Thế Tôn bằng bài kệ:
"Các pháp do nhân duyên sanh.
Duyên ấy Như Lai đã chỉ rõ,
và dạy phương pháp để chấm dứt,
đó là giáo pháp của bậc Đại Sa môn".
Là người thông tuệ và trí óc đã thuần thục để thấu triệt chân lý sâu xa, dù nó chỉ được gợi ra một cách vắn tắt, Sàriputta đã chứng Sơ quả (Sotàpatti, Tu đà hoàn, Dự Lưu) khi vừa nghe hai câu đầu.
Theo lời giao hẹn, Sàriputta liền thông tin cho bạn thân. Moggallàna cũng đã chứng Sơ quả. Do lời tha thiết yêu cầu của cả hai, Đức Phật đã nhận hai ông vào Tăng đoàn tại tinh xá Veluvana với câu nói đơn giản: "Etha, Bhikkhave!" (Hãy đến đây, các Tỳ kheo!). Nửa tháng sau, Sàriputta chứng quả A La Hán, nhân nghe bài kinh Vedanà Pariggha mà Đức Phật giảng cho đạo sĩ Dighnakha. Ngài Moggalàna đã chứng quả ấy trước đó một tuần. Với cơ duyên lớn, Đức Phật đã triệu tập Tăng chúng và tuyên bố hai vị là Thượng thủ trong Tăng đoàn.
Từ đấy, hai Ngài thường thay mặt Thế Tôn để hướng dẫn Tăng chúng. Đây là thời điểm đánh dấu sự phát triển lớn mạnh của Giáo hội Phật giáo, dưới sự lãnh đạo của Đức Thế Tôn.
III. Đức Phật và thân quyến
Hay tin người con yêu dấu trí tuệ đã thành đạo và đang thuyết pháp giáo hóa nổi danh tại Ràjagaha, đức vua Suddhodana nóng lòng gặp mặt, liền tức tốc sai nhiều sứ giả đến thỉnh Đức Phật về Kapilavatthu. Nhưng chín lần ra đi là chín lần sứ giả đều ở xin xuất gia với Đức Phật. Vị sứ giả thứ mười là Kàludàyi, vốn là bạn thân của Đức Phật khi còn là Thái tử, đến nơi nghe pháp cũng xin xuất gia và cũng chứng Thánh quả như những vị sứ giả trước, nhưng ông Kàludàyi đã chuyển đến Đức Phật lời yêu cầu được gặp mặt của vị vua già yếu.
Sau 2 tháng, Đức Thế Tôn và đại chúng đã về đến Kapilavatthu. Trước đạo phong của Đức Phật, vua Suddhodana đã cúi đầu kính lễ lần thứ ba. Và sau khi Đức Thế Tôn thuyết pháp lần thứ nhất, đức vua đã chứng Sơ quả, và đạt quả thứ hai (Sakkadagami, Tư đà hàm, Nhất Lai) khi nghe bài pháp kế tiếp. Lần thứ ba khi nghe bài pháp có tên Dhammapala Jàtaka (Trì Pháp Túc Sanh truyện, số 447), đức vua đắc quả Anagami (A na hàm, Bất Lai). Với bài pháp này, di mẫu Pajapati Gotami đã chứng quả Sotapana (sơ quả).
Sau này trên giường bệnh, vua Suddhodana lại được Đức Phật về thăm và giảng pháp cho nghe. Đức vua sau 7 ngày tận hưởng pháp lạc và đắc quả A La Hán, đã băng hà trong định tĩnh. Năm ấy, Đức Phật ở tuổi 40 và đang an cư lần thứ năm. Cũng trong hạ thứ năm này, Giáo hội Ni được thành lập. Và ở hạ thứ bảy, Đức Phật đã lên cung trời Tusita (Đao Lợi) thuyết pháp độ chư Thiên và hoàng hậu Maya.
Công chúa Yasodhara (Da Giu Đà La)
Sau khi Thái tử rời bỏ cung vàng, công chúa Yasodhara cũng bỏ hết đồ trang sức, mặc y vàng của người tu sĩ, và trong khoảng 6 năm trường đã thủy chung, tận tình nuôi dạy đứa con độc nhất Ràhula đến tuổi lớn khôn.
Nghe vua cha tán dương đức hạnh của nàng dâu, Đức Thế Tôn đã giảng kinh Candakinnara Jàtaka và nói thêm rằng: "Không phải chỉ kiếp cuối cùng này, mà trong những tiền kiếp, công chúa cũng đã từng bảo vệ, kính mộ và thủy chung với Như Lai".
Sau khi vua Suddhodana qua đời, di mẫu Pajàpati xuất gia làm Tỳ kheo ni, công chúa cũng được xuất gia và đắc quả A La Hán sau đó. Trong hàng Ni chúng, công chúa là người có thần thông bậc nhất. bà nhập Niết bàn năm 78 tuổi. Trong kinh Apadana còn ghi lại những câu kệ do bà giảng thuyết.
Cậu bé Ràhula (La Hầu La)
Ràhula sinh ra đúng ngày mà Thái tử quyết định thoát ly thế tục. Cậu bé trưởng thành trong cảnh không cha, được ông nội và bà mẹ nuôi dưỡng. Khi lên bảy tuổi, cũng đúng vào ngày thứ 7 Đức Thế Tôn lưu lại quê nhà, Ràhula luôn quấn quýt bên chân Đức Phật, nũng nịu đòi gia tài như lời mẹ dặn. Đức Phật quyết định giao "Thất thánh tài" [1] cho cậu bé bằng cách nhận cậu vào Tăng đoàn và trao cho ngài Sàriputta dạy dỗ.
Thật khó tưởng tượng một cậu bé lên bảy có thể sống đời sống cao thượng của bậc xuất trần thượng sĩ. Nhưng Sa di Ràhula vừa thông minh đặc biệt, vừa biết vâng lời chuyên cần tu học. Kinh ghi rằng mỗi sáng vị Sa Di trẻ này dạy thật sớm, bóc một nắm cát tung lên và nguyện: "Mong rằng ngày hôm nay ta học được nhiều như bao nhiêu cát đây... ".
Một trong những bài kinh nổi tiếng mà Đức Phật đích thân dạy cho Ràhula là bài Ambalatthika Rahulovada Sutta, nhấn mạnh về tầm quan trọng của sự chân thật, phương pháp phản tĩnh để diệt trừ mọi ý niệm, lời nói, hành động bất thiện.
Năm lên 18 tuổi, một lần cùng Đức Phật đi khất thực, phong độ và oai nghi quí phái của hai vị tu sĩ xem tựa như thớt ngự tượng dõng dạc cùng đi với tượng con ngoan hiền, như thiên nga của vua dắt con lội trên mặt hồ trong ngự uyển, như hổ chúa oai phong cùng hùm con lẫm liệt. Cả hai Ngài đều có thân hình đẹp đẽ, cả hai đều thuộc dòng dõi quí tộc từ khước ngai vàng cất bước ra đi. Trong lúc chiêm ngưỡng Thế Tôn, Ràhula nảy lên ý niệm nghĩ về thân hình đẹp đẽ của mình và Đức Phật. Biết được ý tưởng đó, Đức Thế Tôn đã nói bài kệ bất hủ "N'etam mama (cái này không phải của ta); N'eso'ham'asmi (cái này không phải là ta); Na me so attatà (cái này không phải tự ngã của ta)" ( Xem Anattalakkhana Sutta, bài II.)
Và sau khi nghe kinh Cùla Ràhulovàda Sutta, Ràhula chứng quả A La Hán. Ngài nhập diệt trước cả Đức Phật và Ngài Sàriputta. Ngài nổi tiếng là người tôn trọng kỹ luật. Bạn bè thân gọi Ngài "Ràhula may mắn", vì đời Ngài có được hai diễm phúc: là con của Đức Phật và chứng ngộ được chơn lý; như trong kệ Theragàthà (Trưởng Lão kệ), Ngài đã đề cập đến điều ấy.
Ngài Ananda (A Nan)
Con của hoàng thân Amitodana, em trai vua Suddhodana, Ananda là anh em chú bác với Đức Phật. Ông sanh ra mang lại niềm hoan hỉ cho hoàng tộc, nên được đặt tên là Ananda (Khánh Hỷ). Hai năm sau khi Phật thành đạo, ông xuất gia cùng với các thanh niên của dòng họ Sakya là Anurudha, Bhaddiya, Bhagu, Kimbala và Devadatta. Không bao lâu, ông chứng Sơ quả khi nghe bài pháp của Đại đức Puna Mantàniputta.
Năm Đức Thế Tôn 55 tuổi, với 8 điều thỉnh cầu mà ông đưa ra là: 1. Đức Phật không ban cho Ngài những bộ y mà thiện tín dâng cho Đức Phật; 2. Không ban cho Ngài những vật thực mà thiện tín dâng cho Đức Phật; 3. Cho phép không ở chung tinh thất với Đức Phật; 4. Không cho phép Ngài đi theo đến nơi thí chủ chỉ thỉnh Đức Phật; 5. Đức Phật hoan hỷ đến nơi mà thí chủ chỉ thỉnh Ngài đến; 6. Hoan hỷ cho phép Ngài tiếp dẫn những người từ phương xa đến ra mắt Phật; 7. Hoan hỷ cho Ngài thưa hỏi mỗi khi có điều hoài nghi; 8. Hoan hỷ giảng lại bài pháp mà Đức Phật giảng khi Ngài không có mặt.
Được Đức Phật chấp thuận vói ý nghĩa của nó, và giữa đại chúng, ông được cử làm thị giả Đức Thế Tôn suốt 25 năm trường sau đó. Ông làm công việc của mình thật tận tụy. Kinh ghi rằng, đêm đêm Đại đức Ananda tay cầm gậy, tay cầm đuốc đi chung quanh tịnh thất của Đức Phật 9 lần, để Ngài khỏi bị quấy rầy.
Tôn giả Ananda có một trí nhớ tốt lạ lùng; ông ghi nhớ không bỏ sót tất cả các bài pháp của Đức Phật, cũng như của một số các đệ tử lớn của Ngài, mà ông được nghe qua. Khi có một Bà la môn hỏi Tôn giả nhớ được bao nhiêu bài kinh, Tôn giả trả lời là được 82.000 bài của Đức Phật và 2.000 của các Tôn giả khác thuyết.
Đức Phật đã tán thán 5 đức hạnh của Tôn giả Ananda là học uyên bác, trí nhớ tuyệt hảo, kiên định, săn sóc chu đáo và ứng xử tốt.
Mãi sau khi Đức Thế Tôn nhập diệt, Tôn giả Ananda mới chứng quả A La Hán, trước một ngày Đại hội kết tập kinh điển lần thứ nhất xảy ra, trong khi nghiêng mình nằm xuống. Kinh sách ghi rằng, Ngài là vị A La Hán độc nhất đắc quả ngoài lúc đi, đứng, nằm, ngồi. Tôn giả mất năm 120 tuổi.
IV. Dì mẫu Maha Pajapati Gotami xuất gia - Giáo hội Ni giới ra đời
Được gọi là Maha Pajàpati bởi vì các nhà tiên tri thời bấy giờ cho rằng về sau bà sẽ cầm đầu một đám đông người. Con trai bà là Nandà, em một cha khác mẹ với Thái tử Siddhattha, cũng được Đức Thế Tôn độ cho xuất gia khi chàng trai này đang tổ chức 3 đại lễ quan trọng: kết hôn, phong tước và khánh thành cung điện mới.
Tuy công bố rằng nữ giới cũng có thể chứng 4 Thánh quả (bà Maha Pajàpati đã chứng Sơ quả, như đã nói ở trước), nhưng con đường tu hành sống không gia đình, khép mình vào khuôn khổ của giáo pháp và giới luật cũng như sứ mạng hoằng hóa độ sanh thật lắm gian nan, khó nhọc, với bản tánh mềm yếu và dễ cảm xúc, phụ nữ khó đảm đương nỗi trách nhiệm thiêng liêng, cao cả lẫn nặng nề của một sứ giả Như Lai. Vì thế mà sau khi vua Suddhodana băng hà, di mẫu dù 3 lần bạch xin xuất gia, Đức Thế Tôn vẫn từ chối không nêu lý do.
Mãi đến khi bà cùng nhiều mệnh phụ phu nhân của dòng Sakya xuống tóc, đắp y vàng, đi bộ từ Kapilavatthu đến Vesàli, đoạn đường gian khổ dài khoảng 200 cây số, đôi chân sưng phồng, thân thế lấm lem cát bụi, đến bên tinh xá Đức Phật khóc than. Và chính nhờ Tôn giả Ananda thay mặt họ vào cầu thỉnh Đức Thế Tôn đến lần thứ tư, Ngài mới chấp thuận cho di mẫu cùng các bà được sống đời sống xuất gia, với điều kiện phải chấp hành 8 điều qui định cho một người nữ trong Tăng đoàn. Khi nghe Ananda thuật lại 8 điều ấy, bà Maha Pajàpati cùng các vị trong đoàn đều hoan hỷ đồng ý, và thế là Giáo hội Ni giới được thành lập.
Khi ưng thuận cho Ni giới được gia nhập vào Giáo hội. Đức Phật cũng đã lưu ý đại chúng nhiều vấn đề. Ngài dạy rằng: "Này Ananda, trong ngôi nhà nào nhiều nữ giới và ít đàn ông thì ăn trộm dễ lọt vào. Cũng dường như thế, nếu hàng phụ nữ sống trong pháp và luật của Như Lai thì giáo pháp thiêng liêng khó duy trì lâu. Cũng như người đắp đê bên một hồ nước rộng lớn cho nước không tràn qua, ta cũng vậy, chế ra Bát kỉnh pháp cho các Tỳ kheo ni để họ tuân thủ trọn đời".
Trong một tổ chức xã hội quy mô nào, ta cũng thấy vì tôn trọng và bảo vệ quyền lợi của một giới, một đối tượng cá biệt nào đó mà ở trong những nguyên tắc sống, làm việc luôn có những khoản ưu tiên dành riêng cho họ. Đức Phật đã không làm giảm suy giá trị của hàng phụ nữ, mà còn là vị giáo chủ đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã thành lập một đoàn thể, một tổ chức, một giáo hội cho nữ giới với đầy đủ pháp và giới luật. Ấn Độ đương thời với nhiều tôn giáo, nhưng không có một đoàn thể nữ giới nào được sinh hoạt như vậy.
Ít lâu sau, bà Tỳ kheo ni Maha Pajàpati đắc A La Hán. Kinh Therigàthà (Trưởng lão Ni kệ) còn ghi rất nhiều tên và các bài kệ do các Tỳ kheo ni chứng thánh quả sáng tác.
V. Ông Devadatta (Đề bà đạt ta) và những người chống đối
Mặc dầu gia công kiến tạo hạnh phúc giải thoát cho mọi người với một chủ ý tuyệt đối tinh khiết và hoàn toàn bất vụ lợi, cũng như không có một sự phân biệt nào giữa già ngheo, quyền quý, mạt hạng, trí thức hay u mê, Đức Phật luôn phải đương đầu với nhiều sự đối nghịch mãnh liệt trên con đường chu du hoằng hóa. Ngài bị chỉ trích nghiêm khắc, bị đối xử tàn tệ, chửi mắng và tấn công một cách tàn bạo. Kẻ đối nghịch là những người theo các hệ thống tôn giáo chủ trương những nghi thức dị đoan, tạo ra phong tục vô ích, có hại đến xã hội và ngăn chặn sự tiến bộ của tinh thần, hoặc là những kẻ có tham vọng thấp hèn, vị kỉ. Trong ấy, Devadatta là một điển hình lớn nhất.
Ông là con vua Suppabuddha và hoàng hậu Pamità, một người cô của Đức Phật: công chúa Yasodharà là chị ông. Ông xuất gia cùng một lượt với Đại đức Ananda và các thanh niên hoàng tộc Sakya, tuy không chứng quả Thánh nào, nhưng lại giỏi thần thông và được vua Ajàtasattu (A Xà Thế) ủng hộ tối đa về mọi mặt. Thời gian đầu xuất gia, ông có nếp sống gương mẫu, cao thượng đến độ ngài Sàriputta đã ca ngợi tài đức của ông khắp Pajàgaha. Về sau, danh lợi trần thế đã làm ông thối chuyển, trở nên người sống đồi trụy, tà hạnh, tà kiến; dù vậy, ông có rất đông người ủng hộ. Khi niên thọ Đức Phật đã cao, ông yêu cầu Ngài giao quyền lãnh đạo tăng già, nhưng Đức Phật đã từ chối.
Ông tìm cách xúi giục Thái tử Ajàtasattu (A xà thế) giết vua cha là Bimbisàra để nắm toàn quyền bính và cùng âm mưu hãm hại Đức Phật. Sau đó, các xạ thủ được thuê để giết Đức Phật đều được cảm hóa thành đệ tử. Devadatta tự thân ra tay, bằng cách đẩy một tảng đá lớn từ trên sườn núi Gijihakuta (Linh Thứu) xuống ngay Đức Phật khi Ngài đi ngang qua. May thay, tảng đá ấy va vào một tảng đá khác, vỡ ra nhiều mảnh và chỉ một mảnh vụn làm chân Ngài rỉ máu, và lương y Jìvaka (nhà giải phẫu đại tài của thành Rajàgaha, người chăm sóc sức khỏe cho Đức Phật và đại chúng) đã có mặt liền sau đó. Mưu đồ bất thành, Devadatta lại chuốc rượu mạnh cho voi dữ Nàlàgin và xua nó chạy thẳng đến ngay Đức Phật, nhưng voi cũng bị đức từ bi của Thế Tôn cảm hoá.
Dần dần mất hết uy tín, dư luận lên tiếng mạnh mẽ, vua Ajàtasattu bỏ rơi, Devadatta chuyển qua một mưu toan có vẻ hòa bình hơn. Ông nêu ra 5 yêu cầu đối với sự sinh hoạt của Tăng đoàn, với nội dung rằng: Tỳ kheo phải sống trọn đời trong rừng, phải sống dưới gốc cây, mặc vải vụn lượm ở nghĩa địa, sống bằng khất thực và ăn chay trọn đời. Đức Phật đã đưa ra câu trả lời rất tự do dân chủ, không bắt buộc một cá nhân nào phải tuân theo điều ấy.
Cuối đời không còn một ai ủng hộ, Devadatta rơi vào những ngày đen tối. Lâm bệnh trầm kha, với lòng ăn năn vô hạn, ông mong muốn được gặp Đức Thế Tôn lần cuối cùng, nhưng không còn kịp nữa, chỉ thốt ra câu quy y Phật và trút hơi thở sau cùng.
VI. Những đại hộ pháp
Ngài Anathapindika (Cấp cô độc)
Vị thí chủ quan trọng nhất thời Đức Phật tại tiền phải kể đến là ông Sudatta, người Savatthi. Chuyên làm từ thiện xã hội, nuôi dưỡng chu cấp cho những người quan quả cô đơn, nên ông lại được mọi người tặng cho danh hiệu Trưởng giả Anathapindika (Cấp Cô Độc - giúp đỡ, trợ cấp cho những người cô đơn, hiu quạnh). Một lần có việc, ông đến thành Ràjagaha, nghe anh rể đang chuẩn bị hôm sau đón Đức Phật quang lâm. Danh từ Phật - Buddha (người tỉnh giác) khiến ông cảm thấy một sự thay đổi lạ lùng trong lòng. "Văn kỳ thinh" đã lâu, nay lại sắp được "kiến kỳ hình", nhưng không thể chờ đợi đến ngày mai; như có một chuyện gì thôi thúc, ngay đêm khuya, ông băng rừng đến nơi Sitavara ra mắt Đức Phật và được cảm độ từ ấy.
Với lời thách thức nữa đùa nữa thiệt của Thái tử Jeta (Kỳ Đà), ông đã đem những đồng tiền vàng lót đầy mặt đất trong khu vườn của Jeta. Lòng tín thành của ông đã gây được lòng ngưỡng mộ của Thái tử Jeta đối với Đức Phật. Sau đó, hiệp với những tàng cây do Jeta cúng, ông xây dựng tinh xá Jetavana (Kỳ Viên) dâng lên Đức Phật. Chính nơi đây, Đức Thế Tôn trải qua 19 lần an cư kiết hạ. Phần lớn những bài pháp cũng được hình thành ở ngôi tinh xá nằm ở Savatthi này, và nó được nhận biết nhờ qua câu kinh "Xá Vệ, Kỳ Thọ, Cấp Cô Độc Viên..." (nước Savatthi, cây của Jeta và vườn ông Anathapindika). Các bài pháp liên quan đến hàng cư sĩ đều do công của ông thưa hỏi. Trong một bài pháp nói về hạnh bố thí, Đức Phật đã dạy rằng, cúng dường chỗ ăn, chỗ ở cho chư Tăng là tạo nhiều công đức; nhưng quy y Tam bảo có công đức hơn, và cao hơn là nghiêm trì ngũ giới. Công đức cao hơn giữ giới là thiền quán và từ bi tâm. Nhưng công đức tối thượng phải là phát triển tuệ giác, thể nhập chơn như, thấy được thật tướng của các pháp - Vipassanà (Minh sát tuệ) - (Tăng Chi IV).
Cũng từ gia đình ông trưởng giả này, Đức Phật đã giảng dạy pháp phân chia 7 loại vợ trong cuộc sống kiến tạo hạnh phúc gia đình lứa đôi. Một bài pháp rất tinh tế, thiết thực; một bài học giáo dục đầy tâm lý cho cả xã hội ngày nay và mai sau.
Bà Visàkhà
Vị nữ thí chủ lớn nhất phải đề cập đến đầu tiên là bà Visàkhà, con gái triệu phú Dhananjaya và bà Summanà Devi; ông nội bà cũng là triệu phú tên Mendaka. Bà xây cúng tinh xá Pubbasama, cũng ở Sàvathi (6 mùa an cư đã diễn ra ở đây). Là người phụ nữ được 5 điều diễm phúc: tóc, da, xương, vóc dáng và sức khoẻ tuyệt hảo, bà còn là người công, dung, ngôn, hạnh vẹn toàn, sáng suốt trong công việc thế gian cũng như trong phạm vi tinh thần đạo đức. Bà Visàkhà đóng một phần quan trọng trong nhiều lĩnh vực khác nhau liên quan đến sinh hoạt Tăng đoàn. Có lần Phật dạy bà đi hòa giải những mối bất đồng giữa các Tỳ kheo ni. Đôi lúc bà thỉnh cầu Đức Phật khai chế một vài giới cấm cho Tăng Ni.
Cha chồng bà là triệu phú Migàra, vốn là tín đồ thuần thành của Nigantha Nataputta, giáo chủ đạo Jain - đạo lõa thể. Bà đã khuyến dụ cả gia đình bên chồng quy y Tam bảo và nhiều người đã chứng quả. Bà qua đời khi đã thọ 120 tuổi.
Vua Pasenadi (Ba Tư Nặc)
Ngài đại vương Bimbisàra như đã nói đến ở phần trước, và người con kế vị là vua Ajàtasattu, sau khi cải ác tùng thiện đã trở nên một vị đại hộ pháp, một thiện tín lỗi lạc, có công hỗ trợ mọi mặt cho cuộc kết tập Tam tạng lần I. Một đại thí chủ nữa trong hàng vua chúa phải kể đến là vua Pasenadi, trị vì xứ Kosala, có thủ phủ là Savatthi (Xá Vệ). Tu viện Rajakamara là do vua cho xây cúng lên Đức Phật và đại tăng. Hoàng hậu Malika, vợ của vua, là người khéo hướng dẫn phu quân của mình trên con đường đạo đức, quy y Tam bảo. Bà đã khuyên vua nên tham vấn với Đức Phật để hiểu ý nghĩa 16 cơn mộng hơn là giết hại nhiều sinh mạng để tế lễ cầu an theo lời các đạo sĩ Bà La Môn.
Samyutta Nikaya (kinh Tương Ưng) có trọn một chương mang tựa là Kosala Samyutta, là chương Đức Phật giảng cho vua nghe. Trong những bài pháp ấy có những ý được nhấn mạnh như: 1. Đánh giá một người không phải là chuyện đơn giản; 2. Nên coi trọng phụ nữ như coi trọng nam giới: "Itthì hi'pi ekacciyà seyyà" (Trong hàng phụ nữ có người còn tốt hơn nam giới). Với xã hội Ấn Độ thời ấy, phụ nữ không bao giờ được kính nể xứng đáng, lời nói cao quý của Đức Phật thật là một khích lệ lớn lao cho nữ giới; 3. Không nên coi thường giới trẻ (như Thái tử còn trẻ, con rắn còn bé, ngọn lửa nhỏ và Tỳ kheo trẻ); tất cả đều có thể trở thành quan trọng, ý nghĩa sau này; 4. Chiến thắng nuôi dưỡng hận thù:
Thắng trận sanh thù oán
Bại trận niệm khổ đau
Ai bỏ thắng bỏ bại
Tịch tĩnh hưởng an lạc
(Tương Ưng VII)
VII. Những người cùng đinh mạt hạng
Đạo từ bi giải thoát mở rộng cho tất cả mọi người, không phân biệt giàu sang và đẳng cấp xã hội. Một sát nhân như Angulimàla, một dâm nữ như Ambapali, nếu quay về với con đường đạo cũng có thể chứng Than1h quả, như kinh đã ghi lại như sau.
Ông Angulimàla
Có tên là Ahimsaka (người vô tội), con của một quốc sư xứ Kosala, và là một đệ tử lỗi lạc, thân tín của một danh sư ở Trung tâm Giáo dục Taxila nổi tiếng, nhưng do vì lòng ganh tỵ của đồng môn khiến thầy dạy đã hiểu lầm ông và buộc ông phải dâng lên 1.000 ngón tay út để làm lễ cầu pháp.
Ông trở nên là một hiểm họa, một bóng đen thần chết bao trùm lên đất nước Kosala. Sợ quạ ăn những ngón tay kiếm được, ông đành đeo vào cổ nên có hỗn danh là Angulimàla (vòng hoa bằng ngón tay). Đức Phật là người thứ 1.000 ông định sát hại để tròn đủ vòng hoa mà thầy ông yêu cầu. Ông như bừng cơn mơ sát nhân hãi hùng khi nghe người ông đang cố sức rượt đuổi mà không sao đến gần được, thốt lên rằng: "Này Angulimàla, chính ngươi mới phải dừng lại, còn Như Lai đã dừng lại lâu rồi". Ông quăng dao tội lỗi và được xuất gia bởi nhân duyên đó. Bởi tội ác gây ra, ông trở thành một Tỳ kheo luôn bị chửi bới, đánh đập, ném đá ở mọi nơi. Với ông, chuyện đầu cổ tay chân mang nhiều thương tích, máu chảy đầy mình là chuyện cơm bữa. Với tâm ăn năn sám hối cùng với sự nỗ lực tinh tấn thiền định, ông đắc quả A La Hán sau đó.
Bà Ambapàli
Trường hợp kỹ nữ Ambapàli nổi danh tài sắc của thành Vesali là một điển hình khác của sự hóa độ vô phân biệt mà Đức Thế Tôn đang làm.
Trên đường đi Kusinara để nhập Niết Bàn, Đức Phật dừng chân ở vườn xoài của cô gái giang hồ này. Nghe tin, cô liền đến thỉnh Đức Phật và đại chúng về nhà để được cúng dường, dù các nhà quý tộc Licchavi đề nghị đền bù cho cô một số tiền rất lớn để họ có đặc ân làm điều này. Cô phát tâm cúng vườn xoài cho đại tăng, xin xuất gia, và sau sự gia công chuyên cần, cô đạt Thánh quả.
"Như cơn gió lốc thổi dồn tất cả các thứ lá lại một chỗ, Đức Cù Đàm giáo hóa tất cả. Trí thức ngu si, vương giả - bần cùng, nghèo hèn - giàu sang, già cả - niên thiếu, đàn bà - đàn ông, kẻ ác - người thiện, tất cả và hết thảy, Đức Cù Đàm đều mang vào giáo pháp và xem như nhau. Đạo của Đức Cù Đàm là đạo bình đẳng, không phân biệt vậy" (Kinh Đại Báo Ân).
Thật không có lời tán dương nào nói hết được sự vô biên của lòng từ bi, sự bình đẳng trong con đường giáo hóa của Đức Bổn sư.
VII. Đức Phật tuyên bố nhập Niết Bàn
Đức Phật là một nhân vật phi thường, tuy nhiên còn mang thân ngũ uẩn là còn chịu sự hoại diệt của định luật vô thường. Khi 80 tuổi, thấy niên cao sức yếu, con đường giáo hóa đã viên mãn, Đức Thế Tôn quyết định nhập Niết Bàn tại một làng mạc xa xôi, hẻo lánh là Kusinàrà (cách Patna, thủ phủ tiểu bang Bihar ngày nay 180 dặm - khoảng 300 cây số - về hướng Bắc), mà không phải ở những đô thị lớn như Sàvatthi hay Ràjagaha.
Trong thời gian cuối cùng còn lưu lại Magadha, Đức Phật đã giảng cho đại thần của Ajàtavattu nghe 7 điều kiện thịnh suy của một quóc gia, khi ông này tham vấn Thế Tôn về việc chinh phục nước Cộng hòa Vajjian. Nhân đó, Đức Phật cũng giảng 7 yếu tố thịnh suy của Giáo hội.
Rời Ràjagaha, Đức Phật đi về Ambalatthika, và đến Nàlandà, rồi qua Pàtaligàma; nhân Đức Phật đến viếng nơi này, dân chúng đặt tên cổng thành là Gotama. Từ đó, Đức Phật vượt sông Hằng và hướng về Kotigàma đến làng Nàdika và sau đó đi về Vesàli, nhập Niết bàn cuối cùng tại đây. Mỗi nơi chốn Ngài đi qua đều có dấu ấn của sự tế độ mọi người.
Trong năm này, Đức Phật đã tuyên bố giữa đại tăng: "Này Ananda, Giáo hội các đệ tử còn mong mỏi gì nữa ở Như Lai? Như Lai đã truyền dạy giáo pháp không có sự phân biệt nào giữa giáo lý bí truyền và giáo lý công truyền. Về chơn lý, Như Lai không bao giờ có bàn tay nắm lại của một ông thầy..." Và Ngài đã dạy rằng không nên nghĩ là có một ai phải lãnh đạo Giáo hội và Giáo hội phải tùy thuộc một ai, mà mỗi cá nhân phải là một giáo hội, một hiện thân của giáo pháp chân chánh.
Ngài tiếp lời: ".... Như Lai đã già yếu, gần đến ngày lìa trần. Như Lan đã 80 tuổi, không khác nào cỗ xe quá cũ kỹ phải cần có những sợi dây để cột lại các bộ phận, giữ nó khỏi rời ra...". Và Ngài lại kêu gọi sự nỗ lực tinh tấn, giác tỉnh chánh niệm, khước từ mọi tham ái thế gian, quán niệm Bốn niệm xứ [2].... của các Tỳ kheo. Ngài nói thêm rằng: "Các ông hãy xem chính mình là hải đảo của mình, chính mình là nơi nương tựa của mình, không nên nương tựa bên ngoài. Hãy xem giáo pháp là hải đảo của các ông, giáo pháp như chỗ nương tựa, không nên nương tựa bên ngoài". Ngài lại đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của nỗ lực cá nhân.
Mặc dầu tuổi cao sức yếu, Đức Phật luôn vận dụng mọi cơ hội để khuyên dạy các Tỳ kheo bằng nhiều phương thức khác nhau.
Ở Càpalà, Đức Thế Tôn tuyên bố 3 tháng sau nhập Niết Bàn.
Trước đây, Đức Thế Tôn đã tạo cơ hội cho Ananda thỉnh cầu sự trụ thế lâu dài hơn nữa của Ngài, nhưng Ananda đã vô tình bỏ qua; giờ nghe Đức Phật tuyên bố như vậy, Ngài liền khẩn cầu nhưng bị từ chối.
Trước khi cùng Ananda đi về Mahàvana, Đức Phật đã giảng cho đại chúng nghe về tính cách vô thường của cuộc sống khi thấy họ quá u sầu não.
Triệu tập Tăng chúng quanh thành Vesàli, Đức Phật nói lời cuối cùng và đưa mắt nhìn thành phố này lần chót và đi về Kusinara. Trên đường đi, Ngài dừng lại nhiều nơi để hóa độ kẻ hữu duyên. Ở Pava, người thợ rèn Cunda (Thuần Đà) cúng dường cho Đức Phật món sùkasamaddhara (nấm rừng). Ngài hoan hỷ nhận lãnh và dặn kỹ nên chôn phần còn lại. Sau bữa cơm này, Đức Phật bị kiết lỵ rất nặng. Với tinh thần bình thản, Ngài nói những lời chúc phúc để trấn an và thanh minh cho Cunda và từ giã đi về Kusinara cách Pava 6 dặm (khoảng 9 cây số), nơi có dòng tiểu vương của bộ tộc Malla ở.
Đến nơi, giữa hai tàng cây sala, Ngài nằm tĩnh lặng, nghiêng mình về hông mặt, chân trái để trên chân phải duỗi thẳng, đầu quay về hướng Bắc. Cây sala trổ bông trái mùa như để cúng dường cho ngài đại tang. Mọi người mọi cách biểu hiện sự kính lễ. Đức Phật lại dạy cách tỏ lòng kính ngưỡng và tôn sùng Đức Thế Tôn là hãy tuân thủ giáo pháp, tinh tấn tu hành, phẩm hạnh trang nghiêm.
Kế đó, Ngài đề cập đến 4 thánh tích (nơi Đản sanh, Thành đạo, Chuyển pháp luân lần đầu tiên và nơi Nhập diệt) liên quan đến đời sống của một Đức Phật, nếu với lòng thành kính chiêm bái sẽ được nhiều lợi lạc.
Sau khi độ cho tu sĩ ngoại đạo Subhadda và đây là người đệ tử sau cùng, Đức Thế Tôn bảo Ananda báo cho dân chúng người Malla biết rằng Ngài sẽ nhập Niết bàn vào canh cuối đêm nay, cũng như căn dặn Ananda không nên bận tâm với việc phải làm vẻ vang long trọng đối với nhục thể của Như Lai, mà hãy tận lực tinh tấn để chu toàn hạnh phúc cho chính mình.
Được tin qua hàng nước mắt ràn rụa của Tôn giả Ananda, dân chúng Malla thành Kusinara tấp nập kéo về quây quần quỳ bên Đức Phật, cùng rừng cây sala chứng kiến giây phút thiêng liêng duy nhất trong đời và nghe những lời dạy sau rốt của Đức Bổn sư: "Này Ananda, đừng nghĩ rằng chỉ còn lại giáo pháp cao cả mà không còn bậc Đạo sư nữa. Pháp và luật mà ta đã dạy bảo, đó là Đạo sư của các ông. Này Ananda, Tăng chúng nếu muốn có thể bỏ các giới luật phụ và nhỏ, sau khi Như Lai nhập diệt. Có một nghi ngờ, thắc mắc, phân vân gì liên quan đến Phật Pháp Tăng, đến đạo, đến phương pháp, hãy hỏi đi, đừng để sau này hối tiếc". Đức Thế Tôn nói như vậy ba lần, nhưng cả đại chúng đều im lặng.
Và Đức Đạo Sư đã khuyến tấn các đệ tử câu cuối cùng:
"Hỡi các đệ tử, Như Lai khuyên các con, các pháp hữu vi đều vô thường, hãy tận lực, liên tục chuyên cần".
Đó là di huấn tối hậu của Đức Thế Tôn.
Thế rồi Đức Bổn sư yên lặng nhập và xuất sơ thiền. Lần lượt nhị thiền v.v... đến nhập và xuất Diệt thọ tưởng định. Ngài lại nhập và xuất Phi tưởng phi phi tưởng xứ định và lần lượt ngược trở lại đến nhập và xuất sơ thiền. Và khi nhập và xuất lần thứ hai ra khỏi tứ thiền, Đức Thế Tôn nhập Vô dư Niết bàn.
Kim thân của Đức Phật được đưa đến Makutabandhana để cho mọi người chiêm bái, và sau 7 ngày được cử hành lễ trà tỳ dưới sự tổ chức của ngài Maha Kassapa. Xá lợi được chia làm 8 phần theo thỏa thuận của cuộc họp do ngài Maha Kassapa, đại vương Ajàtasattu và ông Dona đứng chủ trì và phân phối cho 8 quốc gia lớn nhỏ cùng dân tộc Malla, xây tháp tôn thờ. Ông Dona xin được thờ phụng cái bình đựng xá lợi khi vừa thiêu xong. Những người Maurya ở Pipphalirana vì đến chậm, xin được lấy tro tàn của giàn hỏa để dựng tháp mà lễ bái.
Hình dáng của Như Lai khuất dạng từ đây. Con đường hoằng pháp lợi sanh của Đức Phật kéo dài hơn 45 năm. Từ lúc thành đạo cho đến lúc nhập Niết Bàn, Ngài không ngừng phục vụ chúng sanh bằng hai lối đời sống của chính bản thân và những lời dạy. Suốt cả con đường, đôi lúc đi một mình, lắm khi cùng đại chúng, từ làng mạc, rừng núi đến thung lũng đồi cao, ở xã thôn nghèo khổ đến phố tứ phồn hoa. Ngài đều có mặt và đưa tất cả trở về với giáo pháp chơn như, giáo pháp của từ bi, tự do, dân chủ, bình đẳng, giải thoát.
Với sự hy sinh cao cả, lòng từ bi rộng lớn và một ý chí độ sanh dũng mãnh của Đức Phật, ta có thể tán dương hay quan niệm Ngài là vĩ nhân trên tất cả những vĩ nhân, siêu nhân đứng trên mọi siêu nhân. Nhưng lời tán dương, việc làm tôn vinh, kính ngưỡng Đức Phật đúng đắn nhất, ý nghĩa nhất phải là như lời dặn dò của Bổn Sư trước lúc Ngài ly trần:
"Này Ananda, không nên tôn trọng, đảnh lễ, tán thán, quý mến Như Lai theo cách như vậy. Bất cứ Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di nào sống đúng với chánh pháp, tự mình ứng xử hợp với đạo, có hành động chân chánh, thì chính người đó, tôn trọng, đảnh lễ, tán thán, quý mến Như Lai một cách tốt đẹp nhất".
Gia Tuệ
from :http://www.buddhanet.net/budsas/uni/1-bai/phap007.htm
Gia Tuệ
-----------
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát. Và cũng với đại tâm đại nguyện ấy, sau khi chứng được đạo quả Vô thượng Bồ đề, Ngài đã dâng hiến thời gian cho công cuộc hằng hóa độ sanh. Đức Thế Tôn đã chu du khắp đất nước Ấn Độ thời xa xưa ấy, từ cực Bắc dưới chân núi Hymalaya, đến cực Nam bên ven sông Gange (sông Hằng).
Đức Thế Tôn đã dành những tuần lễ đầu tiên để chiêm nghiệm đến giáo pháp thậm thâm vi diệu mà Ngài đã chứng đắc, và thọ hưởng pháp lạc mà quả phúc mang đến. Pháp Cú kinh, kệ số 153-154, đã ghi lại một trong những Phật ngôn đầu tiên Ngài đã thốt lên trong thời gian này:
Lang thang bao kiếp sống
Ta tìm nhưng không gặp
Người xây dựng nhà này
Khổ thay, phải tái sanh
Ôi! Người làm nhà kia
Nay ta đã thấy ngươi
Ngươi không làm nhà nữa
Đòn tay ngươi bị gẫy
Kèo cột ngươi bị tan
Tâm ta được tịch diệt
Tham ái thảy tiêu phong
(Bản dịch của HT Thích Minh Châu)
Câu kinh như một lời ca khải hoàn, mô tả sự chiến thắng vẻ vang rực rỡ sau cuộc chiến đấu nội tâm thầm lặng gian nan. Ông thợ tượng trưng cho ái dục, vô minh, phiền não luôn ẩn sâu kín trong mỗi con người, nay đã bị phát hiện.
Đức Phật cũng đã để lại cho thế gian một bài học luân lý đẹp đẽ, đó là sự tỏ lòng tri ân sâu sa đối với cây bồ đề che nắng che mưa cho Ngài trong suốt thời gian tầm đạo. Đức Thế Tôn đã đứng cách một khoảng xa để chiêm bái đại thọ suốt trong một tuần. Sau này, nơi đây vua Asoka (A Dục) dựng lên một tháp kỷ niệm gọi là Animisalocana Cetiya, nay vẫn còn.
Đức Thế Tôn đã suy nghĩ đến giáo lý giải thoát sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh cao thượng, siêu lý luận, ly dục, vô ngã mà Ngài đã chứng đắc; còn chúng sanh thì luôn chìm sâu vào ái dục, định kiến, chấp ngã với nhiều thủ trước... Làm thế nào để con người dễ dàng chấp nhận giáo lý ấy? Và rồi, với trí tuệ của bậc giác ngộ, Đức Thế Tôn đã quan sát thế gian và thấy rằng: "Có hạng chúng sinh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời; có hạng độn căn, lợi căn; có hạng thiện tánh, ác tánh; có hạng dễ giáo hóa, khó giáo hóa... Như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng, hồ sen trắng, sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, không vươn lên khỏi mặt nước, được nuôi dưỡng dưới nước; có loại sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, vươn lên khỏi mặt nước, không bị nước thấm ướt..." (Trung Bộ I). Và như vậy, với hình ảnh những cành sen vươn ra khỏi mặt nước, những cành ở lưng chừng, những cành ở sâu trong lòng nước v.v... đã gợi lên trong Thế Tôn về căn cơ bất đồng của mọi người. Có những căn cơ thấp như cánh sen ở đáy hồ, có những căn cơ trung bình như những cánh sen ở lưng chừng nước, cũng có những căn cơ cao có thể tiếp thu trọn vẹn giáo pháp của Ngài như những cành sen đã nhô ra khỏi mặt nước. Dù sống trong nghiệp quả bất đồng, nmỗi chúng sanh đều có hạt giống giác ngộ, như hoa sen dù sống trong bùn tanh hôi, vẫn tỏa hương thơm ngát.
Với ba lần thỉnh cầu và phát khởi thiện nguyện hộ trì giáo pháp của Phạm Thiên, Đức Thế Tôn quyết định gióng lên tiếng trống Pháp và bắt đầu thực hiện sứ mạng của mình. Ngài tuyên bố với thế gian, với loài người, với cõi trời và với tất cả, con đường đạo cứu khổ và diệt khổ, con đường dẫn đến cõi bất sanh bất diệt, cõi Niết bàn đã được khai mở: "Cửa bất tử rộng mở, cho những ai chịu nghe..." (Trung Bộ I). Và bánh xe Pháp bắt đầu chuyển vận.
I. Bài pháp đầu tiên - Ngôi Tam Bảo được hình thành - Khởi đầu Giáo hội Phật giáo
Sau khi quyết định truyền bá đạo lý cứu khổ cho muôn loài, Đức Phật dùng tuệ nhãn quan sát thế gian xem ai là người có cơ duyên để hóa độ trước, và Ngài nghĩ ngay đến hai vị thầy cũ của mình là Alara Kàlama và Uddaka Ramaputta, nhưng cả hai đã qua đời cách đó không lâu. Đức Thế Tôn nghĩ đến năm người bạn đồng tu khổ hạnh đã rời bỏ Ngài trước kia, đang ở tại vườn Nai (Lộc Uyển) - Benares (Baranàsi) và lên đường đi đến đó.
Bài Pháp đầu tiên
Tại đây, bài Pháp đầu tiên, bài giảng về Tứ diệu đế (Tứ Thánh đế) được Đức Thế Tôn chỉ bày rõ ràng. Nghe xong, tôn giả Kodanna (Kiều Trần Như) chứng quả Tu Đà Hoàn. Đức Thế Tôn thu nhận năm tôn giả làm các đệ tử xuất gia đầu tiên - và thế là ngôi Tam bảo đã được hình thành.
Để đánh dấu sự kiện đáng ghi nhớ này, về sau người ta đã biểu trưng nó với hình ảnh bánh xe với hai con nai hai bên. Hai con nai biểu tượng cho địa điểm thuyết pháp (Lộc Uyển) và bánh xe Dhamma Cakka tức là bánh xe pháp - "pháp luân". Cả đầu đề bài khi được giảng là: Dhamma Cakkappavattana, có nghĩa là Chuyển Pháp Luân (chuyển bánh xe pháp).
Nội dung kinh Chuyển Pháp Luân
Đức Thế Tôn mở đầu bằng lời khuyên các tu sĩ không nên mắc vào hai cực đoan: một là đam mê thú vui dục lạc thế gian, vì nó giả tạm, nhất thời, tầm thường, ngăn cản mọi tiến bộ tâm linh; cực đoan thứ hai là khổ hạnh ép sát, nó làm mỏi mệt tinh thần, mê mờ trí tuệ. Và Ngài khuyến tấn họ nên theo con đường trung đạo dẫn tới một cuộc sống thanh tịnh, trí tuệ, sáng suốt, giải thoát tối hậu. Đó là con đuờng đạo 8 chánh - Bát chánh đạo: 1. Chánh tri kiến: thấy biết chân chánh, 2. Chánh tư duy: suy nghĩ chân chánh, 3. Chánh ngữ: nói năng chân chánh, 4. Chánh nghiệp: hành động chân chánh, 5. Chánh mạng: sinh sống chân chánh, 6. Chánh tinh tấn: siêng năng chân chánh, 7. Chánh niệm: nhớ nghĩ chân chánh, 8. Chánh định: tập trung tư tưởng chân chánh.
Và bốn Thánh đế được Đức Phật giảng tiếp theo, dó là chân lý về sự Khổ (Khổ đế), chân lý về nguyên nhân của sự Khổ (Tập đế), chân lý về sự diệt Khổ (Diệt đế) và chân lý về con đường diệt Khổ (Đạo đế).
Sau khi nghe Đức Thế Tôn giảng bài pháp thứ hai có đầu đề Anttalakkhana Sutta (kinh Vô ngã tướng), bàn về thuyết Vô ngã (không có cái ta), rằng năm uẩn là vô thường, nếu ai thoát khỏi tham ái thì ra khỏi tái sanh, được giải thoát, năm tôn giả Kodanna, Vappa, Bhaddhiya, Mahànàma và Assaji lần lượt chứng quả A La Hán. Bấy giờ là tháng Vesàkha (giữa tháng 4 và 5 dương lịch), đầu mùa kiết hạ. Giáo hội của Đức Thế Tôn an cư mùa mưa đầu tiên tại đây.
Giáo hóa ôngYasa (Ya Xá)
Gần Benarès, có con trai của một người triệu phú tên là Yasa. Chán cuộc đời xa hoa phú quí tầm thường vô vị của thế gian, chàng tìm đến đức Phật; sau khi nghe pháp đã xin xuất gia và chẳng bao lâu chứng quả vị A La Hán. Cha của Yasa trên đường đi tìm con cũng đến vườn Nai thính pháp và xin quy y. Ông trở thành đệ tử tại gia đầu tiên của Đức Phật. Tại nhà của Yasa, mẹ và vợ của chàng cũng quy y Tam bảo. Bốn người bạn thân của Yasa là Vimala, Subhàhu, Punnaji và Gavampati cũng như hơn 50 bạn khác từ các gia đình và địa phương gần xa nghe tin Yasa xuất gia, cũng lạy cha mẹ, từ giã gia đình xin theo chân Đức Phật, và sau một thời gian đều đắc Thánh quả.
Đoàn tăng sĩ thuyết pháp đầu tiên
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn đã có 60 người đệ tử đều là A La Hán. Ngài quyết định đưa họ đi khắp nơi để truyền bá chánh pháp. Trước khi họ lên đường, Ngài đã động viên, kêu gọi các đệ tử rằng:
"Này các Tỳ kheo! Như Lai đã được giải thoát hết mọi ràng buộc thế gian và xuất thế gian (các cõi trời). Các ông cũng vậy... Này các Tỳ kheo, hãy đi vì lợi lạc của nhiều người, vì hạnh phúc của số đông, vì lòng lân mẫn đối với thế gian, vì lợi lạc, vì hạnh phúc của trời và người. các ông hãy đi, nhưng đừng đi hai người cùng một hướng, hãy đi mỗi người một ngã, hãy truyền bá chánh pháp. Này các Tỳ kheo, chánh pháp toàn thiện ở phần đầu, phần giữa cũng như phần cuối, cả trong ý tứ và lời văn. Hãy tuyên bố về cuộc sống toàn thiện và thanh tịnh... Chính Như Lai cũng đi, Như Lai sẽ đi về hướng Uruve là ở Sanànigàma để hoằng dương giáo pháp. Hãy phất lên ngọn cờ của bậc thiện trí, hãy truyền dạy giáo pháp cao siêu, hãy mang lại sự tốt đẹp cho người khác; được vậy, là các ông đã hoàn tất nhiệm vụ" (Mahavagga, 19-20).
Đức Phật không khuyên tất cả mọi người nên rời bỏ đời sống gia đình để xuất gia, trở thành người sống không nhà cửa, không tài sản, sự nghiệp. Một người cư sĩ cũng có thể sống đời cao đẹp thích ứng với giáo pháp và đắc quả Thánh. Cha mẹ và vợ của Yasa là những người tu tại gia đầu tiên bước theo dấu chân của Đức Phật, tất cả đều tiến triển đầy đủ về tinh thần và thành tựu đạo quả Tu Đà Hoàn.
Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, Đức Phật và 60 người học trò chứng quả A La Hán tổ chức thành một tăng đoàn những tu sĩ khất thực không có trú xứ nhất định, không có của cải vật chất nào khác ngoài tấm áo vàng che thân và một bình bát để khất thực nuôi thân. Trong mưa nắng, trong sương gió, làng mạc hay phố thị, rừng núi hay đồng hoang đều có dấu chân của những con người thuyết giảng về đạo lý cứu khổ và đời sống thanh hạnh và tự mình nêu gương sáng về cuộc sống thanh tịnh và giải thoát. Đó là sự nghiệp, là nội dung chủ yếu của Tăng đoàn đầu tiên do Đức thế Tôn đích thân thành lập và chỉ đạo.
Có thể nói, đây là sự khởi đầu của Giáo hội Phật giáo.
II. Hóa độ rộng lớn và cùng khắp
Sứ mạng hóa độ - con đường giáo hóa của Đức Thế Tôn thật vô cùng nặng nề và khó khăn, nhưng với lòng bi mẫn rộng sâu, tinh thần bình đẳng triệt để và một ý chí dũng mãnh vô song, Đức Thế Tôn đã tùy theo căn cơ của mọi người mà dùng nhiều phương tiện thiện xảo giáo hóa, như một bậc y vương đã tùy bệnh mà cho thuốc, đã hoàn thành sứ mạng thiêng liêng một cách viên mãn và đã đề ra một con đường giáo dục thật mới lạ trong lịch sử nhân loại.
Cảm hóa ba anh em ông Kassapa (Ca Diếp) - Giáo chủ thần lửa.
Sau khi sáu mươi vị Tỳ kheo mỗi người đi về một hướng, Đức Thế Tôn cũng đi về hướng Uruvela. Dọc đường, trong một khu rừng nhỏ, Đức Phật đã hóa độ cho 30 thanh niên đang vui đùa cùng vợ của họ và một kỹ nữ ở trong rừng.
Gần Uruvela (Ưu Lâu Tần Loa) có ba anh em Kassapa: Uruvela Kassapa, Nadi Kassapa và Gaya Kassapa. Ba anh em ông là những người có danh vọng lớn ở Magadha, đặc biệt là người anh cả Uruvela Kassapa; ông này thờ thần lửa và tự cho mình đã chứng quả A La Hán trọ qua đêm và bị cố ý thu xếp cho ở căn phòng thờ thần lửa có một con rắn chúa rất độc và dữ tợn, Đức Phật đã hàng phục con rắn thiêng này, ngoài suy nghĩ của ông Uruvela Kassapa. Tin rằng chính Đức Phật là người đã chứng quả Thánh, chứ không phải là mình, ba anh em ông Kassapa và 1.000 đệ tử đều xin xuất gia theo Phật.
Sau đó, Đức Phật đã đến Gàya Sirà, cách Uruvela không xa lắm. Chính nơi đây Đức Thế Tôn đã thuyết giảng kinh Aditthapariyàya Sutta (bài kinh Lửa Cháy, với chủ đề: thế gian là tòa nhà cháy rực bằng ngọn lửa tham, sân, si, sanh, già, bệnh, chết, sầu bi, khổ não và thất vọng). Các Tỳ kheo có mặt đều đắc quả A La Hán.
Khi vừa thoát ly gia đình đi tầm đạo, Đức Phật có lúc đã ngụ tại Pàndavapabbata. Vua Bimbisàra (Tần Bà Sa La - Bình Sa Vương) lấy làm cảm kích trước tướng mạo oai nghi và tư cách trang nghiêm, sang trọng, khiêm tốn, đã cho người dò hỏi lai lịch. Sau khi biết được chí nguyện của vị Thái tử đầy hùng tâm này, đức vua xin Ngài hãy trở lại viếng thăm vương quốc Magadha (Ma kiệt đà) do vua cai trị, khi chứng đạo quả.
Nhớ lời hứa xưa, Đức Thế Tôn cùng trên 1.000 đệ tử A La Hán từ Gàya đến Ràiagaha (Vương xá), thủ phủ của vương quốc Magadha giàu mạnh. Và tại đây, vua Bimbisàra hiểu được giáo pháp cao diệu liền chứng Sơ quả và xin quy y Tâm bảo cùng dân chúng tinh xá rộng lớn có tên là Veluvanaràma (Trúc Lâm tinh xá) gần thành Ràjagaha. Có thể coi đây là tự viện đầu tiên ra đời, và vua Bimbisàra là vị thí chủ đầu tiên trong hàng vua chúa. tại tinh xá yên tĩnh những ày, Đức Phật và đại chúng đã nhập hạ một lần 3 năm liên tiếp và ba hạ khác, xa cách nhau.
Thâu nhận Sàriputta (Xá Lợi Phất) và Moggallàna (Mục Kiền Liên)
Gần Ràjagaha có một làng tên Upatissa, còn có tên là Nàlaka, Sàriputta - một chàng trai thông minh - là người ở làng này. Vì xuất thân ở một gia đình quyền quý nhất làng, nên chàng còn được gọi là Upatissa.
Cùng với người bạn thân ở làng Kolita tên gọi Moggallàna, có chung một nhận thức rằng tất cả những thú vui vật chất đều tạm bợ, trống rỗng và vô vị. Hai chàng trai quyết định từ bỏ gia đình, lang thang đi tìm chân lý và thọ giáo với đạo sĩ Sànjaya, người có rất nhiều đồ đệ. Nhưng do không thỏa mãn với giáo lý của vị thầy hữu danh này và sau đó là nhiều đạo sĩ khác, cả hai chia tay nhau và thề hẹn rằng: Nếu ai tìm ra con đường đạo giải thoát trước, sẽ cho người kia hay.
Trong một dịp bất ngờ, Ngài Sàriputta đã xúc động mạnh trước phong thái giải thoát, trầm tĩnh, siêu phàm đang đi trì bình một cách thong dong để giáo hóa mọi người ở thành Ràjagaha của Ngài Assaji (Mã Thắng, Thuyết Thị). Cho rằng đây hẳn là bậc A La Hán, hay cũng là người đang trên con đường dẫn đến đạo giác ngộ, Sàriputta đã - đợi cơ hội và liền đảnh lễ, thưa hỏi: "Kính bạch Tôn giả! Các căn của Ngài thật bình thản, an tịnh. màu da của Ngài thật trong sáng. Vì sao Ngài thoát ly thế tục? Ai là đạo sư của Ngài? Giáo lý của Ngài là gì?".
Trước những câu hỏi chân thật, khiêm tốn và sự khẩn khoản yêu cầu của Sàriputta, ngài Assaji đã đọc tóm tắt giáo lý mà Ngài đã học ở Đức Thế Tôn bằng bài kệ:
"Các pháp do nhân duyên sanh.
Duyên ấy Như Lai đã chỉ rõ,
và dạy phương pháp để chấm dứt,
đó là giáo pháp của bậc Đại Sa môn".
Là người thông tuệ và trí óc đã thuần thục để thấu triệt chân lý sâu xa, dù nó chỉ được gợi ra một cách vắn tắt, Sàriputta đã chứng Sơ quả (Sotàpatti, Tu đà hoàn, Dự Lưu) khi vừa nghe hai câu đầu.
Theo lời giao hẹn, Sàriputta liền thông tin cho bạn thân. Moggallàna cũng đã chứng Sơ quả. Do lời tha thiết yêu cầu của cả hai, Đức Phật đã nhận hai ông vào Tăng đoàn tại tinh xá Veluvana với câu nói đơn giản: "Etha, Bhikkhave!" (Hãy đến đây, các Tỳ kheo!). Nửa tháng sau, Sàriputta chứng quả A La Hán, nhân nghe bài kinh Vedanà Pariggha mà Đức Phật giảng cho đạo sĩ Dighnakha. Ngài Moggalàna đã chứng quả ấy trước đó một tuần. Với cơ duyên lớn, Đức Phật đã triệu tập Tăng chúng và tuyên bố hai vị là Thượng thủ trong Tăng đoàn.
Từ đấy, hai Ngài thường thay mặt Thế Tôn để hướng dẫn Tăng chúng. Đây là thời điểm đánh dấu sự phát triển lớn mạnh của Giáo hội Phật giáo, dưới sự lãnh đạo của Đức Thế Tôn.
III. Đức Phật và thân quyến
Hay tin người con yêu dấu trí tuệ đã thành đạo và đang thuyết pháp giáo hóa nổi danh tại Ràjagaha, đức vua Suddhodana nóng lòng gặp mặt, liền tức tốc sai nhiều sứ giả đến thỉnh Đức Phật về Kapilavatthu. Nhưng chín lần ra đi là chín lần sứ giả đều ở xin xuất gia với Đức Phật. Vị sứ giả thứ mười là Kàludàyi, vốn là bạn thân của Đức Phật khi còn là Thái tử, đến nơi nghe pháp cũng xin xuất gia và cũng chứng Thánh quả như những vị sứ giả trước, nhưng ông Kàludàyi đã chuyển đến Đức Phật lời yêu cầu được gặp mặt của vị vua già yếu.
Sau 2 tháng, Đức Thế Tôn và đại chúng đã về đến Kapilavatthu. Trước đạo phong của Đức Phật, vua Suddhodana đã cúi đầu kính lễ lần thứ ba. Và sau khi Đức Thế Tôn thuyết pháp lần thứ nhất, đức vua đã chứng Sơ quả, và đạt quả thứ hai (Sakkadagami, Tư đà hàm, Nhất Lai) khi nghe bài pháp kế tiếp. Lần thứ ba khi nghe bài pháp có tên Dhammapala Jàtaka (Trì Pháp Túc Sanh truyện, số 447), đức vua đắc quả Anagami (A na hàm, Bất Lai). Với bài pháp này, di mẫu Pajapati Gotami đã chứng quả Sotapana (sơ quả).
Sau này trên giường bệnh, vua Suddhodana lại được Đức Phật về thăm và giảng pháp cho nghe. Đức vua sau 7 ngày tận hưởng pháp lạc và đắc quả A La Hán, đã băng hà trong định tĩnh. Năm ấy, Đức Phật ở tuổi 40 và đang an cư lần thứ năm. Cũng trong hạ thứ năm này, Giáo hội Ni được thành lập. Và ở hạ thứ bảy, Đức Phật đã lên cung trời Tusita (Đao Lợi) thuyết pháp độ chư Thiên và hoàng hậu Maya.
Công chúa Yasodhara (Da Giu Đà La)
Sau khi Thái tử rời bỏ cung vàng, công chúa Yasodhara cũng bỏ hết đồ trang sức, mặc y vàng của người tu sĩ, và trong khoảng 6 năm trường đã thủy chung, tận tình nuôi dạy đứa con độc nhất Ràhula đến tuổi lớn khôn.
Nghe vua cha tán dương đức hạnh của nàng dâu, Đức Thế Tôn đã giảng kinh Candakinnara Jàtaka và nói thêm rằng: "Không phải chỉ kiếp cuối cùng này, mà trong những tiền kiếp, công chúa cũng đã từng bảo vệ, kính mộ và thủy chung với Như Lai".
Sau khi vua Suddhodana qua đời, di mẫu Pajàpati xuất gia làm Tỳ kheo ni, công chúa cũng được xuất gia và đắc quả A La Hán sau đó. Trong hàng Ni chúng, công chúa là người có thần thông bậc nhất. bà nhập Niết bàn năm 78 tuổi. Trong kinh Apadana còn ghi lại những câu kệ do bà giảng thuyết.
Cậu bé Ràhula (La Hầu La)
Ràhula sinh ra đúng ngày mà Thái tử quyết định thoát ly thế tục. Cậu bé trưởng thành trong cảnh không cha, được ông nội và bà mẹ nuôi dưỡng. Khi lên bảy tuổi, cũng đúng vào ngày thứ 7 Đức Thế Tôn lưu lại quê nhà, Ràhula luôn quấn quýt bên chân Đức Phật, nũng nịu đòi gia tài như lời mẹ dặn. Đức Phật quyết định giao "Thất thánh tài" [1] cho cậu bé bằng cách nhận cậu vào Tăng đoàn và trao cho ngài Sàriputta dạy dỗ.
Thật khó tưởng tượng một cậu bé lên bảy có thể sống đời sống cao thượng của bậc xuất trần thượng sĩ. Nhưng Sa di Ràhula vừa thông minh đặc biệt, vừa biết vâng lời chuyên cần tu học. Kinh ghi rằng mỗi sáng vị Sa Di trẻ này dạy thật sớm, bóc một nắm cát tung lên và nguyện: "Mong rằng ngày hôm nay ta học được nhiều như bao nhiêu cát đây... ".
Một trong những bài kinh nổi tiếng mà Đức Phật đích thân dạy cho Ràhula là bài Ambalatthika Rahulovada Sutta, nhấn mạnh về tầm quan trọng của sự chân thật, phương pháp phản tĩnh để diệt trừ mọi ý niệm, lời nói, hành động bất thiện.
Năm lên 18 tuổi, một lần cùng Đức Phật đi khất thực, phong độ và oai nghi quí phái của hai vị tu sĩ xem tựa như thớt ngự tượng dõng dạc cùng đi với tượng con ngoan hiền, như thiên nga của vua dắt con lội trên mặt hồ trong ngự uyển, như hổ chúa oai phong cùng hùm con lẫm liệt. Cả hai Ngài đều có thân hình đẹp đẽ, cả hai đều thuộc dòng dõi quí tộc từ khước ngai vàng cất bước ra đi. Trong lúc chiêm ngưỡng Thế Tôn, Ràhula nảy lên ý niệm nghĩ về thân hình đẹp đẽ của mình và Đức Phật. Biết được ý tưởng đó, Đức Thế Tôn đã nói bài kệ bất hủ "N'etam mama (cái này không phải của ta); N'eso'ham'asmi (cái này không phải là ta); Na me so attatà (cái này không phải tự ngã của ta)" ( Xem Anattalakkhana Sutta, bài II.)
Và sau khi nghe kinh Cùla Ràhulovàda Sutta, Ràhula chứng quả A La Hán. Ngài nhập diệt trước cả Đức Phật và Ngài Sàriputta. Ngài nổi tiếng là người tôn trọng kỹ luật. Bạn bè thân gọi Ngài "Ràhula may mắn", vì đời Ngài có được hai diễm phúc: là con của Đức Phật và chứng ngộ được chơn lý; như trong kệ Theragàthà (Trưởng Lão kệ), Ngài đã đề cập đến điều ấy.
Ngài Ananda (A Nan)
Con của hoàng thân Amitodana, em trai vua Suddhodana, Ananda là anh em chú bác với Đức Phật. Ông sanh ra mang lại niềm hoan hỉ cho hoàng tộc, nên được đặt tên là Ananda (Khánh Hỷ). Hai năm sau khi Phật thành đạo, ông xuất gia cùng với các thanh niên của dòng họ Sakya là Anurudha, Bhaddiya, Bhagu, Kimbala và Devadatta. Không bao lâu, ông chứng Sơ quả khi nghe bài pháp của Đại đức Puna Mantàniputta.
Năm Đức Thế Tôn 55 tuổi, với 8 điều thỉnh cầu mà ông đưa ra là: 1. Đức Phật không ban cho Ngài những bộ y mà thiện tín dâng cho Đức Phật; 2. Không ban cho Ngài những vật thực mà thiện tín dâng cho Đức Phật; 3. Cho phép không ở chung tinh thất với Đức Phật; 4. Không cho phép Ngài đi theo đến nơi thí chủ chỉ thỉnh Đức Phật; 5. Đức Phật hoan hỷ đến nơi mà thí chủ chỉ thỉnh Ngài đến; 6. Hoan hỷ cho phép Ngài tiếp dẫn những người từ phương xa đến ra mắt Phật; 7. Hoan hỷ cho Ngài thưa hỏi mỗi khi có điều hoài nghi; 8. Hoan hỷ giảng lại bài pháp mà Đức Phật giảng khi Ngài không có mặt.
Được Đức Phật chấp thuận vói ý nghĩa của nó, và giữa đại chúng, ông được cử làm thị giả Đức Thế Tôn suốt 25 năm trường sau đó. Ông làm công việc của mình thật tận tụy. Kinh ghi rằng, đêm đêm Đại đức Ananda tay cầm gậy, tay cầm đuốc đi chung quanh tịnh thất của Đức Phật 9 lần, để Ngài khỏi bị quấy rầy.
Tôn giả Ananda có một trí nhớ tốt lạ lùng; ông ghi nhớ không bỏ sót tất cả các bài pháp của Đức Phật, cũng như của một số các đệ tử lớn của Ngài, mà ông được nghe qua. Khi có một Bà la môn hỏi Tôn giả nhớ được bao nhiêu bài kinh, Tôn giả trả lời là được 82.000 bài của Đức Phật và 2.000 của các Tôn giả khác thuyết.
Đức Phật đã tán thán 5 đức hạnh của Tôn giả Ananda là học uyên bác, trí nhớ tuyệt hảo, kiên định, săn sóc chu đáo và ứng xử tốt.
Mãi sau khi Đức Thế Tôn nhập diệt, Tôn giả Ananda mới chứng quả A La Hán, trước một ngày Đại hội kết tập kinh điển lần thứ nhất xảy ra, trong khi nghiêng mình nằm xuống. Kinh sách ghi rằng, Ngài là vị A La Hán độc nhất đắc quả ngoài lúc đi, đứng, nằm, ngồi. Tôn giả mất năm 120 tuổi.
IV. Dì mẫu Maha Pajapati Gotami xuất gia - Giáo hội Ni giới ra đời
Được gọi là Maha Pajàpati bởi vì các nhà tiên tri thời bấy giờ cho rằng về sau bà sẽ cầm đầu một đám đông người. Con trai bà là Nandà, em một cha khác mẹ với Thái tử Siddhattha, cũng được Đức Thế Tôn độ cho xuất gia khi chàng trai này đang tổ chức 3 đại lễ quan trọng: kết hôn, phong tước và khánh thành cung điện mới.
Tuy công bố rằng nữ giới cũng có thể chứng 4 Thánh quả (bà Maha Pajàpati đã chứng Sơ quả, như đã nói ở trước), nhưng con đường tu hành sống không gia đình, khép mình vào khuôn khổ của giáo pháp và giới luật cũng như sứ mạng hoằng hóa độ sanh thật lắm gian nan, khó nhọc, với bản tánh mềm yếu và dễ cảm xúc, phụ nữ khó đảm đương nỗi trách nhiệm thiêng liêng, cao cả lẫn nặng nề của một sứ giả Như Lai. Vì thế mà sau khi vua Suddhodana băng hà, di mẫu dù 3 lần bạch xin xuất gia, Đức Thế Tôn vẫn từ chối không nêu lý do.
Mãi đến khi bà cùng nhiều mệnh phụ phu nhân của dòng Sakya xuống tóc, đắp y vàng, đi bộ từ Kapilavatthu đến Vesàli, đoạn đường gian khổ dài khoảng 200 cây số, đôi chân sưng phồng, thân thế lấm lem cát bụi, đến bên tinh xá Đức Phật khóc than. Và chính nhờ Tôn giả Ananda thay mặt họ vào cầu thỉnh Đức Thế Tôn đến lần thứ tư, Ngài mới chấp thuận cho di mẫu cùng các bà được sống đời sống xuất gia, với điều kiện phải chấp hành 8 điều qui định cho một người nữ trong Tăng đoàn. Khi nghe Ananda thuật lại 8 điều ấy, bà Maha Pajàpati cùng các vị trong đoàn đều hoan hỷ đồng ý, và thế là Giáo hội Ni giới được thành lập.
Khi ưng thuận cho Ni giới được gia nhập vào Giáo hội. Đức Phật cũng đã lưu ý đại chúng nhiều vấn đề. Ngài dạy rằng: "Này Ananda, trong ngôi nhà nào nhiều nữ giới và ít đàn ông thì ăn trộm dễ lọt vào. Cũng dường như thế, nếu hàng phụ nữ sống trong pháp và luật của Như Lai thì giáo pháp thiêng liêng khó duy trì lâu. Cũng như người đắp đê bên một hồ nước rộng lớn cho nước không tràn qua, ta cũng vậy, chế ra Bát kỉnh pháp cho các Tỳ kheo ni để họ tuân thủ trọn đời".
Trong một tổ chức xã hội quy mô nào, ta cũng thấy vì tôn trọng và bảo vệ quyền lợi của một giới, một đối tượng cá biệt nào đó mà ở trong những nguyên tắc sống, làm việc luôn có những khoản ưu tiên dành riêng cho họ. Đức Phật đã không làm giảm suy giá trị của hàng phụ nữ, mà còn là vị giáo chủ đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã thành lập một đoàn thể, một tổ chức, một giáo hội cho nữ giới với đầy đủ pháp và giới luật. Ấn Độ đương thời với nhiều tôn giáo, nhưng không có một đoàn thể nữ giới nào được sinh hoạt như vậy.
Ít lâu sau, bà Tỳ kheo ni Maha Pajàpati đắc A La Hán. Kinh Therigàthà (Trưởng lão Ni kệ) còn ghi rất nhiều tên và các bài kệ do các Tỳ kheo ni chứng thánh quả sáng tác.
V. Ông Devadatta (Đề bà đạt ta) và những người chống đối
Mặc dầu gia công kiến tạo hạnh phúc giải thoát cho mọi người với một chủ ý tuyệt đối tinh khiết và hoàn toàn bất vụ lợi, cũng như không có một sự phân biệt nào giữa già ngheo, quyền quý, mạt hạng, trí thức hay u mê, Đức Phật luôn phải đương đầu với nhiều sự đối nghịch mãnh liệt trên con đường chu du hoằng hóa. Ngài bị chỉ trích nghiêm khắc, bị đối xử tàn tệ, chửi mắng và tấn công một cách tàn bạo. Kẻ đối nghịch là những người theo các hệ thống tôn giáo chủ trương những nghi thức dị đoan, tạo ra phong tục vô ích, có hại đến xã hội và ngăn chặn sự tiến bộ của tinh thần, hoặc là những kẻ có tham vọng thấp hèn, vị kỉ. Trong ấy, Devadatta là một điển hình lớn nhất.
Ông là con vua Suppabuddha và hoàng hậu Pamità, một người cô của Đức Phật: công chúa Yasodharà là chị ông. Ông xuất gia cùng một lượt với Đại đức Ananda và các thanh niên hoàng tộc Sakya, tuy không chứng quả Thánh nào, nhưng lại giỏi thần thông và được vua Ajàtasattu (A Xà Thế) ủng hộ tối đa về mọi mặt. Thời gian đầu xuất gia, ông có nếp sống gương mẫu, cao thượng đến độ ngài Sàriputta đã ca ngợi tài đức của ông khắp Pajàgaha. Về sau, danh lợi trần thế đã làm ông thối chuyển, trở nên người sống đồi trụy, tà hạnh, tà kiến; dù vậy, ông có rất đông người ủng hộ. Khi niên thọ Đức Phật đã cao, ông yêu cầu Ngài giao quyền lãnh đạo tăng già, nhưng Đức Phật đã từ chối.
Ông tìm cách xúi giục Thái tử Ajàtasattu (A xà thế) giết vua cha là Bimbisàra để nắm toàn quyền bính và cùng âm mưu hãm hại Đức Phật. Sau đó, các xạ thủ được thuê để giết Đức Phật đều được cảm hóa thành đệ tử. Devadatta tự thân ra tay, bằng cách đẩy một tảng đá lớn từ trên sườn núi Gijihakuta (Linh Thứu) xuống ngay Đức Phật khi Ngài đi ngang qua. May thay, tảng đá ấy va vào một tảng đá khác, vỡ ra nhiều mảnh và chỉ một mảnh vụn làm chân Ngài rỉ máu, và lương y Jìvaka (nhà giải phẫu đại tài của thành Rajàgaha, người chăm sóc sức khỏe cho Đức Phật và đại chúng) đã có mặt liền sau đó. Mưu đồ bất thành, Devadatta lại chuốc rượu mạnh cho voi dữ Nàlàgin và xua nó chạy thẳng đến ngay Đức Phật, nhưng voi cũng bị đức từ bi của Thế Tôn cảm hoá.
Dần dần mất hết uy tín, dư luận lên tiếng mạnh mẽ, vua Ajàtasattu bỏ rơi, Devadatta chuyển qua một mưu toan có vẻ hòa bình hơn. Ông nêu ra 5 yêu cầu đối với sự sinh hoạt của Tăng đoàn, với nội dung rằng: Tỳ kheo phải sống trọn đời trong rừng, phải sống dưới gốc cây, mặc vải vụn lượm ở nghĩa địa, sống bằng khất thực và ăn chay trọn đời. Đức Phật đã đưa ra câu trả lời rất tự do dân chủ, không bắt buộc một cá nhân nào phải tuân theo điều ấy.
Cuối đời không còn một ai ủng hộ, Devadatta rơi vào những ngày đen tối. Lâm bệnh trầm kha, với lòng ăn năn vô hạn, ông mong muốn được gặp Đức Thế Tôn lần cuối cùng, nhưng không còn kịp nữa, chỉ thốt ra câu quy y Phật và trút hơi thở sau cùng.
VI. Những đại hộ pháp
Ngài Anathapindika (Cấp cô độc)
Vị thí chủ quan trọng nhất thời Đức Phật tại tiền phải kể đến là ông Sudatta, người Savatthi. Chuyên làm từ thiện xã hội, nuôi dưỡng chu cấp cho những người quan quả cô đơn, nên ông lại được mọi người tặng cho danh hiệu Trưởng giả Anathapindika (Cấp Cô Độc - giúp đỡ, trợ cấp cho những người cô đơn, hiu quạnh). Một lần có việc, ông đến thành Ràjagaha, nghe anh rể đang chuẩn bị hôm sau đón Đức Phật quang lâm. Danh từ Phật - Buddha (người tỉnh giác) khiến ông cảm thấy một sự thay đổi lạ lùng trong lòng. "Văn kỳ thinh" đã lâu, nay lại sắp được "kiến kỳ hình", nhưng không thể chờ đợi đến ngày mai; như có một chuyện gì thôi thúc, ngay đêm khuya, ông băng rừng đến nơi Sitavara ra mắt Đức Phật và được cảm độ từ ấy.
Với lời thách thức nữa đùa nữa thiệt của Thái tử Jeta (Kỳ Đà), ông đã đem những đồng tiền vàng lót đầy mặt đất trong khu vườn của Jeta. Lòng tín thành của ông đã gây được lòng ngưỡng mộ của Thái tử Jeta đối với Đức Phật. Sau đó, hiệp với những tàng cây do Jeta cúng, ông xây dựng tinh xá Jetavana (Kỳ Viên) dâng lên Đức Phật. Chính nơi đây, Đức Thế Tôn trải qua 19 lần an cư kiết hạ. Phần lớn những bài pháp cũng được hình thành ở ngôi tinh xá nằm ở Savatthi này, và nó được nhận biết nhờ qua câu kinh "Xá Vệ, Kỳ Thọ, Cấp Cô Độc Viên..." (nước Savatthi, cây của Jeta và vườn ông Anathapindika). Các bài pháp liên quan đến hàng cư sĩ đều do công của ông thưa hỏi. Trong một bài pháp nói về hạnh bố thí, Đức Phật đã dạy rằng, cúng dường chỗ ăn, chỗ ở cho chư Tăng là tạo nhiều công đức; nhưng quy y Tam bảo có công đức hơn, và cao hơn là nghiêm trì ngũ giới. Công đức cao hơn giữ giới là thiền quán và từ bi tâm. Nhưng công đức tối thượng phải là phát triển tuệ giác, thể nhập chơn như, thấy được thật tướng của các pháp - Vipassanà (Minh sát tuệ) - (Tăng Chi IV).
Cũng từ gia đình ông trưởng giả này, Đức Phật đã giảng dạy pháp phân chia 7 loại vợ trong cuộc sống kiến tạo hạnh phúc gia đình lứa đôi. Một bài pháp rất tinh tế, thiết thực; một bài học giáo dục đầy tâm lý cho cả xã hội ngày nay và mai sau.
Bà Visàkhà
Vị nữ thí chủ lớn nhất phải đề cập đến đầu tiên là bà Visàkhà, con gái triệu phú Dhananjaya và bà Summanà Devi; ông nội bà cũng là triệu phú tên Mendaka. Bà xây cúng tinh xá Pubbasama, cũng ở Sàvathi (6 mùa an cư đã diễn ra ở đây). Là người phụ nữ được 5 điều diễm phúc: tóc, da, xương, vóc dáng và sức khoẻ tuyệt hảo, bà còn là người công, dung, ngôn, hạnh vẹn toàn, sáng suốt trong công việc thế gian cũng như trong phạm vi tinh thần đạo đức. Bà Visàkhà đóng một phần quan trọng trong nhiều lĩnh vực khác nhau liên quan đến sinh hoạt Tăng đoàn. Có lần Phật dạy bà đi hòa giải những mối bất đồng giữa các Tỳ kheo ni. Đôi lúc bà thỉnh cầu Đức Phật khai chế một vài giới cấm cho Tăng Ni.
Cha chồng bà là triệu phú Migàra, vốn là tín đồ thuần thành của Nigantha Nataputta, giáo chủ đạo Jain - đạo lõa thể. Bà đã khuyến dụ cả gia đình bên chồng quy y Tam bảo và nhiều người đã chứng quả. Bà qua đời khi đã thọ 120 tuổi.
Vua Pasenadi (Ba Tư Nặc)
Ngài đại vương Bimbisàra như đã nói đến ở phần trước, và người con kế vị là vua Ajàtasattu, sau khi cải ác tùng thiện đã trở nên một vị đại hộ pháp, một thiện tín lỗi lạc, có công hỗ trợ mọi mặt cho cuộc kết tập Tam tạng lần I. Một đại thí chủ nữa trong hàng vua chúa phải kể đến là vua Pasenadi, trị vì xứ Kosala, có thủ phủ là Savatthi (Xá Vệ). Tu viện Rajakamara là do vua cho xây cúng lên Đức Phật và đại tăng. Hoàng hậu Malika, vợ của vua, là người khéo hướng dẫn phu quân của mình trên con đường đạo đức, quy y Tam bảo. Bà đã khuyên vua nên tham vấn với Đức Phật để hiểu ý nghĩa 16 cơn mộng hơn là giết hại nhiều sinh mạng để tế lễ cầu an theo lời các đạo sĩ Bà La Môn.
Samyutta Nikaya (kinh Tương Ưng) có trọn một chương mang tựa là Kosala Samyutta, là chương Đức Phật giảng cho vua nghe. Trong những bài pháp ấy có những ý được nhấn mạnh như: 1. Đánh giá một người không phải là chuyện đơn giản; 2. Nên coi trọng phụ nữ như coi trọng nam giới: "Itthì hi'pi ekacciyà seyyà" (Trong hàng phụ nữ có người còn tốt hơn nam giới). Với xã hội Ấn Độ thời ấy, phụ nữ không bao giờ được kính nể xứng đáng, lời nói cao quý của Đức Phật thật là một khích lệ lớn lao cho nữ giới; 3. Không nên coi thường giới trẻ (như Thái tử còn trẻ, con rắn còn bé, ngọn lửa nhỏ và Tỳ kheo trẻ); tất cả đều có thể trở thành quan trọng, ý nghĩa sau này; 4. Chiến thắng nuôi dưỡng hận thù:
Thắng trận sanh thù oán
Bại trận niệm khổ đau
Ai bỏ thắng bỏ bại
Tịch tĩnh hưởng an lạc
(Tương Ưng VII)
VII. Những người cùng đinh mạt hạng
Đạo từ bi giải thoát mở rộng cho tất cả mọi người, không phân biệt giàu sang và đẳng cấp xã hội. Một sát nhân như Angulimàla, một dâm nữ như Ambapali, nếu quay về với con đường đạo cũng có thể chứng Than1h quả, như kinh đã ghi lại như sau.
Ông Angulimàla
Có tên là Ahimsaka (người vô tội), con của một quốc sư xứ Kosala, và là một đệ tử lỗi lạc, thân tín của một danh sư ở Trung tâm Giáo dục Taxila nổi tiếng, nhưng do vì lòng ganh tỵ của đồng môn khiến thầy dạy đã hiểu lầm ông và buộc ông phải dâng lên 1.000 ngón tay út để làm lễ cầu pháp.
Ông trở nên là một hiểm họa, một bóng đen thần chết bao trùm lên đất nước Kosala. Sợ quạ ăn những ngón tay kiếm được, ông đành đeo vào cổ nên có hỗn danh là Angulimàla (vòng hoa bằng ngón tay). Đức Phật là người thứ 1.000 ông định sát hại để tròn đủ vòng hoa mà thầy ông yêu cầu. Ông như bừng cơn mơ sát nhân hãi hùng khi nghe người ông đang cố sức rượt đuổi mà không sao đến gần được, thốt lên rằng: "Này Angulimàla, chính ngươi mới phải dừng lại, còn Như Lai đã dừng lại lâu rồi". Ông quăng dao tội lỗi và được xuất gia bởi nhân duyên đó. Bởi tội ác gây ra, ông trở thành một Tỳ kheo luôn bị chửi bới, đánh đập, ném đá ở mọi nơi. Với ông, chuyện đầu cổ tay chân mang nhiều thương tích, máu chảy đầy mình là chuyện cơm bữa. Với tâm ăn năn sám hối cùng với sự nỗ lực tinh tấn thiền định, ông đắc quả A La Hán sau đó.
Bà Ambapàli
Trường hợp kỹ nữ Ambapàli nổi danh tài sắc của thành Vesali là một điển hình khác của sự hóa độ vô phân biệt mà Đức Thế Tôn đang làm.
Trên đường đi Kusinara để nhập Niết Bàn, Đức Phật dừng chân ở vườn xoài của cô gái giang hồ này. Nghe tin, cô liền đến thỉnh Đức Phật và đại chúng về nhà để được cúng dường, dù các nhà quý tộc Licchavi đề nghị đền bù cho cô một số tiền rất lớn để họ có đặc ân làm điều này. Cô phát tâm cúng vườn xoài cho đại tăng, xin xuất gia, và sau sự gia công chuyên cần, cô đạt Thánh quả.
"Như cơn gió lốc thổi dồn tất cả các thứ lá lại một chỗ, Đức Cù Đàm giáo hóa tất cả. Trí thức ngu si, vương giả - bần cùng, nghèo hèn - giàu sang, già cả - niên thiếu, đàn bà - đàn ông, kẻ ác - người thiện, tất cả và hết thảy, Đức Cù Đàm đều mang vào giáo pháp và xem như nhau. Đạo của Đức Cù Đàm là đạo bình đẳng, không phân biệt vậy" (Kinh Đại Báo Ân).
Thật không có lời tán dương nào nói hết được sự vô biên của lòng từ bi, sự bình đẳng trong con đường giáo hóa của Đức Bổn sư.
VII. Đức Phật tuyên bố nhập Niết Bàn
Đức Phật là một nhân vật phi thường, tuy nhiên còn mang thân ngũ uẩn là còn chịu sự hoại diệt của định luật vô thường. Khi 80 tuổi, thấy niên cao sức yếu, con đường giáo hóa đã viên mãn, Đức Thế Tôn quyết định nhập Niết Bàn tại một làng mạc xa xôi, hẻo lánh là Kusinàrà (cách Patna, thủ phủ tiểu bang Bihar ngày nay 180 dặm - khoảng 300 cây số - về hướng Bắc), mà không phải ở những đô thị lớn như Sàvatthi hay Ràjagaha.
Trong thời gian cuối cùng còn lưu lại Magadha, Đức Phật đã giảng cho đại thần của Ajàtavattu nghe 7 điều kiện thịnh suy của một quóc gia, khi ông này tham vấn Thế Tôn về việc chinh phục nước Cộng hòa Vajjian. Nhân đó, Đức Phật cũng giảng 7 yếu tố thịnh suy của Giáo hội.
Rời Ràjagaha, Đức Phật đi về Ambalatthika, và đến Nàlandà, rồi qua Pàtaligàma; nhân Đức Phật đến viếng nơi này, dân chúng đặt tên cổng thành là Gotama. Từ đó, Đức Phật vượt sông Hằng và hướng về Kotigàma đến làng Nàdika và sau đó đi về Vesàli, nhập Niết bàn cuối cùng tại đây. Mỗi nơi chốn Ngài đi qua đều có dấu ấn của sự tế độ mọi người.
Trong năm này, Đức Phật đã tuyên bố giữa đại tăng: "Này Ananda, Giáo hội các đệ tử còn mong mỏi gì nữa ở Như Lai? Như Lai đã truyền dạy giáo pháp không có sự phân biệt nào giữa giáo lý bí truyền và giáo lý công truyền. Về chơn lý, Như Lai không bao giờ có bàn tay nắm lại của một ông thầy..." Và Ngài đã dạy rằng không nên nghĩ là có một ai phải lãnh đạo Giáo hội và Giáo hội phải tùy thuộc một ai, mà mỗi cá nhân phải là một giáo hội, một hiện thân của giáo pháp chân chánh.
Ngài tiếp lời: ".... Như Lai đã già yếu, gần đến ngày lìa trần. Như Lan đã 80 tuổi, không khác nào cỗ xe quá cũ kỹ phải cần có những sợi dây để cột lại các bộ phận, giữ nó khỏi rời ra...". Và Ngài lại kêu gọi sự nỗ lực tinh tấn, giác tỉnh chánh niệm, khước từ mọi tham ái thế gian, quán niệm Bốn niệm xứ [2].... của các Tỳ kheo. Ngài nói thêm rằng: "Các ông hãy xem chính mình là hải đảo của mình, chính mình là nơi nương tựa của mình, không nên nương tựa bên ngoài. Hãy xem giáo pháp là hải đảo của các ông, giáo pháp như chỗ nương tựa, không nên nương tựa bên ngoài". Ngài lại đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của nỗ lực cá nhân.
Mặc dầu tuổi cao sức yếu, Đức Phật luôn vận dụng mọi cơ hội để khuyên dạy các Tỳ kheo bằng nhiều phương thức khác nhau.
Ở Càpalà, Đức Thế Tôn tuyên bố 3 tháng sau nhập Niết Bàn.
Trước đây, Đức Thế Tôn đã tạo cơ hội cho Ananda thỉnh cầu sự trụ thế lâu dài hơn nữa của Ngài, nhưng Ananda đã vô tình bỏ qua; giờ nghe Đức Phật tuyên bố như vậy, Ngài liền khẩn cầu nhưng bị từ chối.
Trước khi cùng Ananda đi về Mahàvana, Đức Phật đã giảng cho đại chúng nghe về tính cách vô thường của cuộc sống khi thấy họ quá u sầu não.
Triệu tập Tăng chúng quanh thành Vesàli, Đức Phật nói lời cuối cùng và đưa mắt nhìn thành phố này lần chót và đi về Kusinara. Trên đường đi, Ngài dừng lại nhiều nơi để hóa độ kẻ hữu duyên. Ở Pava, người thợ rèn Cunda (Thuần Đà) cúng dường cho Đức Phật món sùkasamaddhara (nấm rừng). Ngài hoan hỷ nhận lãnh và dặn kỹ nên chôn phần còn lại. Sau bữa cơm này, Đức Phật bị kiết lỵ rất nặng. Với tinh thần bình thản, Ngài nói những lời chúc phúc để trấn an và thanh minh cho Cunda và từ giã đi về Kusinara cách Pava 6 dặm (khoảng 9 cây số), nơi có dòng tiểu vương của bộ tộc Malla ở.
Đến nơi, giữa hai tàng cây sala, Ngài nằm tĩnh lặng, nghiêng mình về hông mặt, chân trái để trên chân phải duỗi thẳng, đầu quay về hướng Bắc. Cây sala trổ bông trái mùa như để cúng dường cho ngài đại tang. Mọi người mọi cách biểu hiện sự kính lễ. Đức Phật lại dạy cách tỏ lòng kính ngưỡng và tôn sùng Đức Thế Tôn là hãy tuân thủ giáo pháp, tinh tấn tu hành, phẩm hạnh trang nghiêm.
Kế đó, Ngài đề cập đến 4 thánh tích (nơi Đản sanh, Thành đạo, Chuyển pháp luân lần đầu tiên và nơi Nhập diệt) liên quan đến đời sống của một Đức Phật, nếu với lòng thành kính chiêm bái sẽ được nhiều lợi lạc.
Sau khi độ cho tu sĩ ngoại đạo Subhadda và đây là người đệ tử sau cùng, Đức Thế Tôn bảo Ananda báo cho dân chúng người Malla biết rằng Ngài sẽ nhập Niết bàn vào canh cuối đêm nay, cũng như căn dặn Ananda không nên bận tâm với việc phải làm vẻ vang long trọng đối với nhục thể của Như Lai, mà hãy tận lực tinh tấn để chu toàn hạnh phúc cho chính mình.
Được tin qua hàng nước mắt ràn rụa của Tôn giả Ananda, dân chúng Malla thành Kusinara tấp nập kéo về quây quần quỳ bên Đức Phật, cùng rừng cây sala chứng kiến giây phút thiêng liêng duy nhất trong đời và nghe những lời dạy sau rốt của Đức Bổn sư: "Này Ananda, đừng nghĩ rằng chỉ còn lại giáo pháp cao cả mà không còn bậc Đạo sư nữa. Pháp và luật mà ta đã dạy bảo, đó là Đạo sư của các ông. Này Ananda, Tăng chúng nếu muốn có thể bỏ các giới luật phụ và nhỏ, sau khi Như Lai nhập diệt. Có một nghi ngờ, thắc mắc, phân vân gì liên quan đến Phật Pháp Tăng, đến đạo, đến phương pháp, hãy hỏi đi, đừng để sau này hối tiếc". Đức Thế Tôn nói như vậy ba lần, nhưng cả đại chúng đều im lặng.
Và Đức Đạo Sư đã khuyến tấn các đệ tử câu cuối cùng:
"Hỡi các đệ tử, Như Lai khuyên các con, các pháp hữu vi đều vô thường, hãy tận lực, liên tục chuyên cần".
Đó là di huấn tối hậu của Đức Thế Tôn.
Thế rồi Đức Bổn sư yên lặng nhập và xuất sơ thiền. Lần lượt nhị thiền v.v... đến nhập và xuất Diệt thọ tưởng định. Ngài lại nhập và xuất Phi tưởng phi phi tưởng xứ định và lần lượt ngược trở lại đến nhập và xuất sơ thiền. Và khi nhập và xuất lần thứ hai ra khỏi tứ thiền, Đức Thế Tôn nhập Vô dư Niết bàn.
Kim thân của Đức Phật được đưa đến Makutabandhana để cho mọi người chiêm bái, và sau 7 ngày được cử hành lễ trà tỳ dưới sự tổ chức của ngài Maha Kassapa. Xá lợi được chia làm 8 phần theo thỏa thuận của cuộc họp do ngài Maha Kassapa, đại vương Ajàtasattu và ông Dona đứng chủ trì và phân phối cho 8 quốc gia lớn nhỏ cùng dân tộc Malla, xây tháp tôn thờ. Ông Dona xin được thờ phụng cái bình đựng xá lợi khi vừa thiêu xong. Những người Maurya ở Pipphalirana vì đến chậm, xin được lấy tro tàn của giàn hỏa để dựng tháp mà lễ bái.
Hình dáng của Như Lai khuất dạng từ đây. Con đường hoằng pháp lợi sanh của Đức Phật kéo dài hơn 45 năm. Từ lúc thành đạo cho đến lúc nhập Niết Bàn, Ngài không ngừng phục vụ chúng sanh bằng hai lối đời sống của chính bản thân và những lời dạy. Suốt cả con đường, đôi lúc đi một mình, lắm khi cùng đại chúng, từ làng mạc, rừng núi đến thung lũng đồi cao, ở xã thôn nghèo khổ đến phố tứ phồn hoa. Ngài đều có mặt và đưa tất cả trở về với giáo pháp chơn như, giáo pháp của từ bi, tự do, dân chủ, bình đẳng, giải thoát.
Với sự hy sinh cao cả, lòng từ bi rộng lớn và một ý chí độ sanh dũng mãnh của Đức Phật, ta có thể tán dương hay quan niệm Ngài là vĩ nhân trên tất cả những vĩ nhân, siêu nhân đứng trên mọi siêu nhân. Nhưng lời tán dương, việc làm tôn vinh, kính ngưỡng Đức Phật đúng đắn nhất, ý nghĩa nhất phải là như lời dặn dò của Bổn Sư trước lúc Ngài ly trần:
"Này Ananda, không nên tôn trọng, đảnh lễ, tán thán, quý mến Như Lai theo cách như vậy. Bất cứ Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di nào sống đúng với chánh pháp, tự mình ứng xử hợp với đạo, có hành động chân chánh, thì chính người đó, tôn trọng, đảnh lễ, tán thán, quý mến Như Lai một cách tốt đẹp nhất".
Gia Tuệ
from :http://www.buddhanet.net/budsas/uni/1-bai/phap007.htm
_()_
-
- Điều Hành Viên
- Bài viết: 684
- Ngày: 03/10/08 05:48
- Giới tính: Nam
- Phật tử: Tại gia
- Đến từ: HCM
- Đã cảm ơn: 21 time
- Được cảm ơn: 1 time
Re: Nhà riêng của Quang Tâm
8. Ai sống quán bất tịnh,
Khéo hộ trì các căn,
ăn uống có tiết độ,
Có lòng tin, tinh cần,
Ma không uy hiếp được,
Như núi đá, trước gió.
( Pháp Cú )
Nam mô A Di Đà Phật.
http://chantam3.wordpress.com/
http://vn.360plus.yahoo.com/chantam3/
Khéo hộ trì các căn,
ăn uống có tiết độ,
Có lòng tin, tinh cần,
Ma không uy hiếp được,
Như núi đá, trước gió.
( Pháp Cú )
Nam mô A Di Đà Phật.
http://chantam3.wordpress.com/
http://vn.360plus.yahoo.com/chantam3/
_()_
-
- Điều Hành Viên
- Bài viết: 684
- Ngày: 03/10/08 05:48
- Giới tính: Nam
- Phật tử: Tại gia
- Đến từ: HCM
- Đã cảm ơn: 21 time
- Được cảm ơn: 1 time
Re: Nhà riêng của Quang Tâm
CHÙA HOẰNG PHÁP
THÔNG BÁO
V/v Lịch tổ chức các khóa tu và các ngày lễ lớn năm 2011
---oOo---
TU NIỆM PHẬT MỘT NGÀY
Lần 01: 06 - 03 - 2011 (Nhằm ngày 02 - 02 Tân Mão)
Lần 02: 03 - 04 - 2011 (Nhằm ngày 01 - 03 Tân Mão)
Lần 03: 08 - 05 - 2011 (Nhằm ngày 06 - 04 Tân Mão)
Lần 04: 05 - 06 - 2011 (Nhằm ngày 04 - 05 Tân Mão)
Lần 05: 03 - 07 - 2011 (Nhằm ngày 03 - 06 Tân Mão)
Lần 06: 31 - 07 - 2011 (Nhằm ngày 01 - 07 Tân Mão)
Lần 07: 04 - 09 - 2011 (Nhằm ngày 07 - 08 Tân Mão)
Lần 08: 02 - 10 - 2011 (Nhằm ngày 06 - 09 Tân Mão)
Lần 09: 30 - 10 - 2011 (Nhằm ngày 04 - 10 Tân Mão)
Lần 10: 27 - 11 - 2011 (Nhằm ngày 03 - 11 Tân Mão)
Lần 11: 25 - 12 - 2011 (Nhằm ngày 01 - 12 Tân Mão)
KHÓA TU PHẬT THẤT
Khóa 65: Từ ngày 20 đến 27/02/2011 (Từ ngày 18 đến 25-01 Tân Mão)
Khóa 66: Từ ngày 17 đến 24/04/2011 (Từ ngày 15 đến 22-03 Tân Mão)
Khóa 67: Từ ngày 21 đến 28/08/2011 (Từ ngày 22 đến 29-07 Tân Mão)
Khóa 68: Từ ngày 16 đến 23/10/2011 (Từ ngày 20 đến 27-09 Tân Mão)
Khóa 69: Từ ngày 05 đến 12/12/2011 (Từ ngày 11 đến 18-11 Tân Mão)
Thời gian: 07 ngày đêm.
Đối tượng tham dự: Tất cả Phật tử tại gia đều có thể tham dự. (Yêu cầu phải có đủ sức khoẻ, không bị bệnh truyền nhiễm, huyết áp cao, tai biến mạch máu não, bệnh đau thắt ngực). Không nhận người già yếu, đi đứng khó khăn, tai điếc.
Thể lệ đăng ký: Đăng ký trước một ngày của khóa tu. Ghi họ tên, pháp danh, tuổi, địa chỉ.
Yêu cầu: - Phải có giấy CMND photo để đăng ký tạm trú.
- Phải có áo tràng lam và quần áo lam.
KHÓA TU MÙA HÈ
(Dành cho thanh thiếu niên)
Từ ngày 19 đến 26/06/2011 (Từ ngày 18 đến 25-05 Tân Mão)
Khóa Tu Mùa Hè do chùa Hoằng Pháp tổ chức trong những năm qua đã được các bậc phụ huynh tin tưởng và gởi các em đến tham dự ngày càng đông. Khóa thứ I hơn 300 em, khóa thứ II hơn 700 em, khóa thứ III hơn 1700 em, khóa thứ IV hơn 3000 em, khóa thứ V hơn 6000 em. Như vậy, theo tình hình thực tế cho thấy, số lượng các em về tham dự khóa tu mỗi năm lại tăng lên gấp đôi. Vì vậy, Ban Tổ Chức(BTC) thường bị động trong khâu điều hành sắp xếp, nhất là việc sắp xếp nơi năn chỗ ở. Dù đã cố gắng rất nhiều, nhưng vì điều kiện cơ sở có hạn, nhân lực không đủ nên BTC không thể đáp ứng hết được nhu cầu của các em.
Để đảm bảo chất lượng khóa tu, năm 2010 BTC thông báo chỉ nhận 3000 em. Thế nhưng chưa đến ngày đăng ký, các em đã đăng ký vượt qua số lượng quy định (khoảng 6000 em). Với tinh thần ham tu ham học đó của các em, buộc BTC phải chia làm 2 đợt, mỗi đợt 3000 em. Điều này, một lần nữa làm BTC gặp phải nhiều khó khăn.
Do đó, để Khóa Tu Mùa Hè 2011 được tốt đẹp, ổn định và đảm bảo chất lượng tu học, BTC chỉ tổ chức một khóa tu và nhận số lượng 3000 em.
Danh sách những em được tham dự khóa tu năm 2011 sẽ được đăng trên website http://chuahoangphap.com.vn
Thời gian tu học: 7 ngày đêm.
Đối tượng tham dự: Thanh thiếu niên từ 15 đến 25 tuổi.
Yêu cầu:
Phải có bản sao giấy CMND để đăng ký tạm trú.
Nên mặc quần áo lam (không bắt buộc theo kiểu mẫu nhất định).
Nên đem theo áo tràng lam (nếu có).
Tập trung về chùa dự tu từ 7h00 đến 18h00 ngày 17-06 hoặc ngày 18-06-2011. Đến trước hoặc sau thời gian quy định BTC sẽ không nhận.
Không nhận thân nhân đi kèm với các em tham dự khóa tu.
Phải dự tu trọn 7 ngày. Trường hợp về sớm phải có sự đồng ý bảo lãnh của gia đình.
Thể lệ đăng ký:
Một giấy đăng ký Khóa Tu Mùa Hè có dấu xác nhận của BTC sẽ phát tại văn phòng chùa Hoằng Pháp từ ngày 25-04-2011. Khi đã đủ số lượng quy định (3000 em), BTC sẽ ngưng. BTC không nhận đăng ký qua Email và điện thoại.
Nộp 2 hình thẻ 2x3 cm.
Khóa Tu Mùa Hè năm 2011 sẽ là cơ hội quý báu để xây dựng lại những nét đẹp trong tâm hồn son trẻ, là nền tảng vững chắc cho các bạn trẻ trong tương lai khi phải đối diện với đời sống quá nhiều phức tạp bất an; tạo dựng niềm tin và sức mạnh về một lối sống lành mạnh, bảo tồn những giá trị tinh thần cao đẹp của dân tộc, hướng đến đời sống chân thiện mỹ, xa rời các tệ đoan tiêu cực của xã hội.
Với sự tận tâm và nhiệt tình của BTC, hy vọng rằng Khóa Tu Mùa Hè lần thứ VII năm 2011 sẽ để lại dấu ấn khó phai trong lòng mỗi bạn trẻ và các bậc phụ huynh. Kính mong quý Phật tử phụ huynh của các em hoan hỷ tiếp tục tạo điều kiện cho con em mình tham dự.
TM. Ban Tổ Chức
Thích Chân Tính
LỄ QUY Y TAM BẢO
Lần 1: 10-04-2011 (Nhằm ngày 08-03 Tân Mão)
Lần 2: 07-08-2011 (Nhằm ngày 08-07 Tân Mão)
Lần 3: 18-12-2011 (Nhằm ngày 24-11 Tân Mão)
Thể lệ đăng ký:
- Đăng ký trước 7 giờ sáng của ngày tổ chức lễ Quy y.
- Ghi họ tên, năm sinh, giới tính, địa chỉ.
KHÓA TU SINH VIÊN
Lần 1: 20-03-2011 (Nhằm ngày 16-02 Tân Mão)
Lần 2: 22-05-2011 (Nhằm ngày 20-04 Tân Mão)
Lần 3: 24-07-2011 (Nhằm ngày 24-06 Tân Mão)
Lần 4: 18-09-2011 (Nhằm ngày 21-08 Tân Mão)
Lần 5: 20-11-2011 (Nhằm ngày 25-10 Tân Mão)
CÁC NGÀY LỄ LỚN TRONG NĂM
1) Ngày 15-01 Tân Mão: Lễ cầu an đầu năm
2) Ngày 15-04 Tân Mão: Lễ Phật đản
3) Ngày 15-07 Tân Mão: Lễ Vu Lan
4) Ngày 16-10 Tân Mão: Lễ giỗ Tổ
5) Ngày 17-11 Tân Mão: Lễ vía Phật A Di Đà
Mọi chi tiết, xin quý Phật tử vui lòng liên hệ:
Chùa Hoằng Pháp, xã Tân hiệp, huyện Hóc Môn, TP. Hồ Chí Minh.
ĐT: 08. 37130002 – 08. 37133827
Email: [email protected]
hoặc [email protected]
THÔNG BÁO
V/v Lịch tổ chức các khóa tu và các ngày lễ lớn năm 2011
---oOo---
TU NIỆM PHẬT MỘT NGÀY
Lần 01: 06 - 03 - 2011 (Nhằm ngày 02 - 02 Tân Mão)
Lần 02: 03 - 04 - 2011 (Nhằm ngày 01 - 03 Tân Mão)
Lần 03: 08 - 05 - 2011 (Nhằm ngày 06 - 04 Tân Mão)
Lần 04: 05 - 06 - 2011 (Nhằm ngày 04 - 05 Tân Mão)
Lần 05: 03 - 07 - 2011 (Nhằm ngày 03 - 06 Tân Mão)
Lần 06: 31 - 07 - 2011 (Nhằm ngày 01 - 07 Tân Mão)
Lần 07: 04 - 09 - 2011 (Nhằm ngày 07 - 08 Tân Mão)
Lần 08: 02 - 10 - 2011 (Nhằm ngày 06 - 09 Tân Mão)
Lần 09: 30 - 10 - 2011 (Nhằm ngày 04 - 10 Tân Mão)
Lần 10: 27 - 11 - 2011 (Nhằm ngày 03 - 11 Tân Mão)
Lần 11: 25 - 12 - 2011 (Nhằm ngày 01 - 12 Tân Mão)
KHÓA TU PHẬT THẤT
Khóa 65: Từ ngày 20 đến 27/02/2011 (Từ ngày 18 đến 25-01 Tân Mão)
Khóa 66: Từ ngày 17 đến 24/04/2011 (Từ ngày 15 đến 22-03 Tân Mão)
Khóa 67: Từ ngày 21 đến 28/08/2011 (Từ ngày 22 đến 29-07 Tân Mão)
Khóa 68: Từ ngày 16 đến 23/10/2011 (Từ ngày 20 đến 27-09 Tân Mão)
Khóa 69: Từ ngày 05 đến 12/12/2011 (Từ ngày 11 đến 18-11 Tân Mão)
Thời gian: 07 ngày đêm.
Đối tượng tham dự: Tất cả Phật tử tại gia đều có thể tham dự. (Yêu cầu phải có đủ sức khoẻ, không bị bệnh truyền nhiễm, huyết áp cao, tai biến mạch máu não, bệnh đau thắt ngực). Không nhận người già yếu, đi đứng khó khăn, tai điếc.
Thể lệ đăng ký: Đăng ký trước một ngày của khóa tu. Ghi họ tên, pháp danh, tuổi, địa chỉ.
Yêu cầu: - Phải có giấy CMND photo để đăng ký tạm trú.
- Phải có áo tràng lam và quần áo lam.
KHÓA TU MÙA HÈ
(Dành cho thanh thiếu niên)
Từ ngày 19 đến 26/06/2011 (Từ ngày 18 đến 25-05 Tân Mão)
Khóa Tu Mùa Hè do chùa Hoằng Pháp tổ chức trong những năm qua đã được các bậc phụ huynh tin tưởng và gởi các em đến tham dự ngày càng đông. Khóa thứ I hơn 300 em, khóa thứ II hơn 700 em, khóa thứ III hơn 1700 em, khóa thứ IV hơn 3000 em, khóa thứ V hơn 6000 em. Như vậy, theo tình hình thực tế cho thấy, số lượng các em về tham dự khóa tu mỗi năm lại tăng lên gấp đôi. Vì vậy, Ban Tổ Chức(BTC) thường bị động trong khâu điều hành sắp xếp, nhất là việc sắp xếp nơi năn chỗ ở. Dù đã cố gắng rất nhiều, nhưng vì điều kiện cơ sở có hạn, nhân lực không đủ nên BTC không thể đáp ứng hết được nhu cầu của các em.
Để đảm bảo chất lượng khóa tu, năm 2010 BTC thông báo chỉ nhận 3000 em. Thế nhưng chưa đến ngày đăng ký, các em đã đăng ký vượt qua số lượng quy định (khoảng 6000 em). Với tinh thần ham tu ham học đó của các em, buộc BTC phải chia làm 2 đợt, mỗi đợt 3000 em. Điều này, một lần nữa làm BTC gặp phải nhiều khó khăn.
Do đó, để Khóa Tu Mùa Hè 2011 được tốt đẹp, ổn định và đảm bảo chất lượng tu học, BTC chỉ tổ chức một khóa tu và nhận số lượng 3000 em.
Danh sách những em được tham dự khóa tu năm 2011 sẽ được đăng trên website http://chuahoangphap.com.vn
Thời gian tu học: 7 ngày đêm.
Đối tượng tham dự: Thanh thiếu niên từ 15 đến 25 tuổi.
Yêu cầu:
Phải có bản sao giấy CMND để đăng ký tạm trú.
Nên mặc quần áo lam (không bắt buộc theo kiểu mẫu nhất định).
Nên đem theo áo tràng lam (nếu có).
Tập trung về chùa dự tu từ 7h00 đến 18h00 ngày 17-06 hoặc ngày 18-06-2011. Đến trước hoặc sau thời gian quy định BTC sẽ không nhận.
Không nhận thân nhân đi kèm với các em tham dự khóa tu.
Phải dự tu trọn 7 ngày. Trường hợp về sớm phải có sự đồng ý bảo lãnh của gia đình.
Thể lệ đăng ký:
Một giấy đăng ký Khóa Tu Mùa Hè có dấu xác nhận của BTC sẽ phát tại văn phòng chùa Hoằng Pháp từ ngày 25-04-2011. Khi đã đủ số lượng quy định (3000 em), BTC sẽ ngưng. BTC không nhận đăng ký qua Email và điện thoại.
Nộp 2 hình thẻ 2x3 cm.
Khóa Tu Mùa Hè năm 2011 sẽ là cơ hội quý báu để xây dựng lại những nét đẹp trong tâm hồn son trẻ, là nền tảng vững chắc cho các bạn trẻ trong tương lai khi phải đối diện với đời sống quá nhiều phức tạp bất an; tạo dựng niềm tin và sức mạnh về một lối sống lành mạnh, bảo tồn những giá trị tinh thần cao đẹp của dân tộc, hướng đến đời sống chân thiện mỹ, xa rời các tệ đoan tiêu cực của xã hội.
Với sự tận tâm và nhiệt tình của BTC, hy vọng rằng Khóa Tu Mùa Hè lần thứ VII năm 2011 sẽ để lại dấu ấn khó phai trong lòng mỗi bạn trẻ và các bậc phụ huynh. Kính mong quý Phật tử phụ huynh của các em hoan hỷ tiếp tục tạo điều kiện cho con em mình tham dự.
TM. Ban Tổ Chức
Thích Chân Tính
LỄ QUY Y TAM BẢO
Lần 1: 10-04-2011 (Nhằm ngày 08-03 Tân Mão)
Lần 2: 07-08-2011 (Nhằm ngày 08-07 Tân Mão)
Lần 3: 18-12-2011 (Nhằm ngày 24-11 Tân Mão)
Thể lệ đăng ký:
- Đăng ký trước 7 giờ sáng của ngày tổ chức lễ Quy y.
- Ghi họ tên, năm sinh, giới tính, địa chỉ.
KHÓA TU SINH VIÊN
Lần 1: 20-03-2011 (Nhằm ngày 16-02 Tân Mão)
Lần 2: 22-05-2011 (Nhằm ngày 20-04 Tân Mão)
Lần 3: 24-07-2011 (Nhằm ngày 24-06 Tân Mão)
Lần 4: 18-09-2011 (Nhằm ngày 21-08 Tân Mão)
Lần 5: 20-11-2011 (Nhằm ngày 25-10 Tân Mão)
CÁC NGÀY LỄ LỚN TRONG NĂM
1) Ngày 15-01 Tân Mão: Lễ cầu an đầu năm
2) Ngày 15-04 Tân Mão: Lễ Phật đản
3) Ngày 15-07 Tân Mão: Lễ Vu Lan
4) Ngày 16-10 Tân Mão: Lễ giỗ Tổ
5) Ngày 17-11 Tân Mão: Lễ vía Phật A Di Đà
Mọi chi tiết, xin quý Phật tử vui lòng liên hệ:
Chùa Hoằng Pháp, xã Tân hiệp, huyện Hóc Môn, TP. Hồ Chí Minh.
ĐT: 08. 37130002 – 08. 37133827
Email: [email protected]
hoặc [email protected]
_()_
Đang trực tuyến
Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến. và 89 khách