Bệnh HIV và Ung thư là 2 bệnh xuất phát từ Nghiệp. Khoa học hiện tại chưa nghiên cứu phương thuốc hữu hiệu, tôi khuyên bạn áp dụng đồng thời Phật Pháp trong điều trị bệnh Ung Thư.
Bạn có thể tham khảo bài viết về cách trị bệnh HIV dưới đây
http://www.diendanhoasen.com/?frame=pro ... il&id=1256
Nghiên cứu ứng dụng phật pháp trong hỗ trợ điều trị bệnh nhân HIV/AIDS.
(Phan thị Phi Phi, Lê Thị Tâm, Lê Ngọc Anh, Trương Xuân Ngọc, Nguyễn Thị Tuyết Mai, Đào Vọng Đức.)
1./ Đặt vấn đề :
- Y học hiện đại quan niệm rằng “ Bệnh là do sai lệch hay thương tổn về cấu trúc và chức năng của bất kỳ cơ quan, hệ thống nào trong cơ thể biểu hiện bằng một bộ triệu chứng đặc trưng giúp người thầy thuốc có thể chuẩn đoán xác định và chuẩn đoán phân biệt, mặc dù nhiều khi ta chưa rõ nguyên nhân, về bệnh lý học và tiên lượng”( Dorlands 2000)
Nguyên nhân thường do các khiếm khuyết di truyền ( gen) và tác động tương hỗ với gen là các yếu tố môi trường.
- Kinh phật nói rằng : Bệnh tật , số phân con người là do nghiệp gây ra. Nếu tu dưỡng tốt, trì tụng kinh Phật có thể thay đổi Nghiệp, có thể nhiều bệnh sẽ khỏi. Các vị cổ đức khuyên người học Phật, trước tiên phải học các kinh nói về nhân quả, tội phước. Kinh nhân quả ba đời trước khi nghiên cứu các kinh cao ( Thích Thiện Tâm – Giáo hội phật giáo Việt Nam)
- Đấy là cơ sở thứ nhật của đề tài: Trì tụng kinh phật có thể thay đổi nghiệp bệnh. Ở đây là người nhiễm HIV/AIDS đây cũng là nội dung mới chưa có tác giả nào làm được cho đến nay.
- Cơ sở thứ hai của đề tài: Theo S. Freud (1856-1939) thì bệnh là do rối loạn và mất cân bằng giữa ý thức , tiềm thức và bản năng. Trong số các bản năng của sinh vật, bản năng đấu tranh cho sự sống, cho sự tồn tại có sự tự vệ chống “ Bản năng tử vong là một bản năng mạnh, mãnh liệt trong mọi giai đoạn cuộc sống, mọi thời khắc của cuộc sống để sinh khí ( Pneuma) vào cơ thể, tạo ra sinh lực, rồi góp phần tạo ra sự hằng định nội mội. Claude Bernard , nhà sinh lý học thiên tài và y học thực nghiệm của Pháp thế kỷ XVIII, là nhà khoa học đầu tiên gắn liền sự sống với sự hằng định nội môi, yếu tố quyết định đến sự sống. Đến đây, sự sống của sinh vật đã ổn định và tăng cường lên. Sự áp dụng lý thuyết này vào hỗ trợ điều trị bệnh nhân HIV/AIDS chắc chắn là đã có nhiều tác giả áp dụng, nhưng chưa có tổng kết nào.
- Cơ sở thứ ba là long tin yêu của bệnh nhân vào công đồng và chính bản thân của mình.
Từ 3 cơ sở chủ yếu trên, mục tiêu của đề tài là :
1./ Người bệnh hiểu và trình bầy được luật nhân quả ba đời và 12 câu thần chú dùng trong trì tụng hàng ngày hay hàng tuần tại nhà và tổ chức tập trung 01 lần/ tháng tại chùa Văn Điển, Hà nội.
2./ Đánh giá sức đề kháng HIV/AIDS trước và sau 06 tháng trì tụng bằng số lượng các tế bào Tcd3, Tcd4, Tcd8 , tỷ lệ Tcd4/Tcd8, đặc biệt chú trọng số lượng Tcd4.
2./ Đối tượng và phương pháp nghiên cứu :
2.1 Đối tượng nghiên cứu:
28 người tuổi chủ yếu từ 25-33 , sinh hoạt trong câu lạc bộ hoa sen của Chùa Văn điển Hà nội. Trong số này :
- Có 23 người được xét nghiệm đầy đủ 02 lần ( đầu tháng 07/2008- trước trì tụng phật pháp và sau trì tụng, tháng 01/2009).
- Có 03 người mới tham gia xét nghiệm 01 lần ( Trước trì tụng, tháng 07/2008).
Trong số này có 16 người đã dùng thuốc ARV do trung tâm phòng chống AUDV cấp ( có tên trong phụ lục ) và 10 người chưa dùng thuốc.
- Toàn trạng tương đối còn lanh lẹ, khỏe, vui vẻ, hiện tại chưa có biểu hiện bệnh cơ hội, một số có công ăn việc làm.
2.2 Phương Pháp nghiên cứu :
2.2.1: Các chỉ số miễn dịch tế bào được tiến hành ở các trung tâm phòng chống AIDS , viện vệ sinh phòng dịch Quân đội, trên máy FACS count SW version 1,5 4/05 ( Mỹ). Tiến hành so sánh với các gia trị ban đầu và giá trị sinh học người Việt nam bình thường thập kỷ 90- Thế kỷ XX
Xét nghiệm HIV cũng tiến hành tại đây theo 03 kỹ thuật :
- Dertemine HIV ½
- SFD HIV – ½
- Genscreen HIV ½ V2
2.2.2 Tiến trình nghiên cứu:
* Trước trì tụng : Thử hệ miễn dịch tế bào của bệnh nhân HIV(+) hoặc đã chuyển sang AIDS, bao gồm các chỉ số TCD3, TCD4, TCD8 , tỷ lện TCD4/TCD9.
* Trì tụng : trì tụng ở nhà 1 lần/ ngày hay có người 1 tuần mới trì tụng 1 lần , có người nhiều lần/ ngày do tự thấy trì tụng hiệu quả. Ban chủ nhiệm tổ chức 01 tháng trì tụng tập thể 1 lần tại chùa Văn Điển hà nội, trì tụng trước tam bảo. Đôi khi thầy Thích Giác Minh tham dự. Trì tụng tập thể 6 lần/6 tháng.
Phật pháp trì tụng chủ yếu là 12 thần chú:
1/ Nam Mô A Di Đà Phật
2./ Nam Mô Bổn sư Thích ca mâu ni Phật
3./ Nam mô Di lặc Tôn Phật
4./ Nam mô tiêu tai- Diên Thọ- Dược sư Phật
5./ Nam mô Đại bi quán thế Âm Bồ Tát
6./ Nam mô Đại nguyện địa tạng vương bồ tát.
7./ Án Lam
8./ Án Xỉ Lâm bộ lâm
9./ Úm ma ni bát minh hồng
10./ Úm Xỉ lặc hê diêm
11./ Án Chiết lệ chủ lệ chuẩn đề sa bà ha.
12/ Khư tri khư trụ khư tì chi giam thọ, giam tho đa chi bà chi ta bà ha.
* Sau 6 tháng trì tụng: Xét nghiệm lại hệ miễn dịch tế báo với các thông số miễn dịch quy định của ban phòng chống AIDS quốc gia và quốc tế, và xét nghiệm HIV.
2.2.3 Xử lý kết quả : Thống kê y học theo SPSS 14.0
III Kết quả nghiên cứu :
Bảng 1 . So sánh chung kết quả trước sua và hàng số sinh học ( tế bào/mm3 máu)
( Quý độc giả có thể xem bảng ở dưới đây)
Nhận xét:
- Tế bào TCD3 không khác biệt với trị số sinh học dùng là xét nghiệm trước hay sau trì tụng (P>0,05) . Nữ xu hướng có số lượng tế bào miễn dịch cao hơn nam giới nhưng sự khác biệt này chưa có ý nghĩa thống kê (P>0,05).
- Tế bào TCD4 là tế bào đích của HIV, số lượng tuyệt đối của nữ có xu hương cao hơn nam, nhưng cả hai giới đều thấp hơn trị số sinh học với P<0,01. Trước và sau trì tụng không khác biệt (p>0,05) , nghĩa là đều giảm thấp so với trị số sinh học.
- Tế bào TCD8 trước và sau trì tụng đều không khác biệt (p>0,05). So với trị số sinh học cả nam và nữ đều có số lượng TCD8 lớn hơn ( P<0,01) chứng tỏ ở các bệnh nhân được nghiên cứu tế bào miễn dịch chống HIV còn hoạt động tốt.
- Tỷ lện TCD4/TCD8 có rối loạn cân bằng thể hiện ở tỷ lệ thấp đảo ngước so với trị số sinh học, đặc biệt ở nam thấp hơn nữ, và thấp hơn đáng kể so với tỷ lệ sinh học (0,40+-0,21 so với 1,12-1,25) với P,0,01. Trước và sau trì tụng tỷ lệ này chưa tăng lên bao nhiêu mà vẫn duy trì như cũ.
- Một cách tổng hợp, có thể phân loại kết quả thu được ở 23 trường hợp như sau:
Nhận xét : Số có tăng tế bào miễn dịch chống HIV là :
- TCD3 là 16/23 trường hợp chiếm 69,57% , với mức độ tăng là 25,77%
- TCD4 mức tăng là 60,87% ( 14/23 trường hợp) mức độ tăng là 24,02%
- TCD8 mức tăng là 65,22% ( 15/23 trường hợp), mức độ tăng là 27,90%
- TCD4/TCD8 mức tăng là 52,17% ( 12/23 trường hợp, ) mức độ tăng là 17,41%
Ta có thể hình dung được kết quả nghiên cứu tổng hợp trên biểu đồ 1 với các biến đổi tế bào miễn dịch TCD4 trước và sau thử nghiệm.
IV. Bàn luận:
Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS) do virus HIV lần đầu tiên được phát hiện ở Mỹ từ đầu những năm 1980 , đã nhanh chóng được tìm thấy trên mọi khu vực biên giới, kể cả Việt nam. Trường hợp HIV(+) đầu tiên tại Việt nam được phát hiện vào tháng 2/1990. Kể từ đó số bệnh nhân ngày càng gia tăng trên toàn quốc, tính đến 31/08/2008, số người nhiễm HIV còn số là 132.048 người , số AIDS còn sống là 27.597 người và 40.717 người đã thử vong ( Theo cục phòng chống HIV/AIDS Việt nam tháng 10/2008).
Người mắc AID rất ít có dấu hiệu đặc trưng mà chủ yếu là triệu chứng của những bệnh cơ hội do suy giảm số lượng, chất lượng của các tế bào miễn dịch gây ra. Vacsxin HIV-1 biến đổi kháng nguyên rất nhiều và rất nhanh ( theo thời gian và theo vùng địa lý), Quá nhiều các biến thể, các dạng tái tổ hợp mới đã ngăn cản việc sản xuất vacsxin chống HIV.
Năm 1987, CDC ( Trung tâm kiểm soát bệnh tật – Mỹ ) Phân loại tiến triển bệnh dựa vào số lượng tế bào Lympho TCD4 và định nghĩa AIDS khi số lượng TCD4<200 tế bào /mm3 máu. Năm 1993, CDC bổ sung thêm 03 bệnh cơ hội chỉ điểm cho AIDS là lao các loại, ung thư cổ tử cung xâm lấn với viêm phổi tái đi tái lại do vi khuẩn, nâng tổ số bệnh cơ hội đặc trưng cho AIDS lên tới 25 bệnh. Người ta chia nhiễm HIV ra thành 6 giai đoạn
- Nhiễm trùng tiên phát;
- Bệnh HIV-1 sớm ( TCD4>500 tế bào/mm2)
- Bệnh HIV-1 trung gian ( TCD4 từ 200-500)
- Bệnh HIV-1 muộn ( TCD4 từ 50-200)
- Bệnh HIV-1 trầm trọng ( TCD4<50)
- Bệnh HIV-1 giai đoạn cuối.
Như vậy ta thấy số lượng TCD4 là rất quan trọng trong sức đề kháng HIV ( nó nằm trong tổng số tế bào TCD3 và sau TCD4 là TCD8, đại thực bào NK... TCD4 là tế bào đầu tiên và đích pháp hủy chính của HIV-1 , thụ thể TCD4 tiếp nhận GP120 của HIV-1 bộc lộ gp41 của HIV. Sau đó gp41 sẽ hòa màng để giải phóng nhân HIV-1 vào trong bào tương tế bào. Các đồng thụ thể khác cần cho sự xâm nhập HIV-1 vào tế bào như CXCR-4, CXCR-5, CCR-3, CCR-2b, Heparansulfate proteoglycans, ICAM-1, HLA-DR giúp HIV-1 tấn công vào tế bào khác không phải lympho của cơ thể. Trong nghiên cứu lần này chúng tôi gặp 02 bệnh nhậ có HIV(-) đã thử 02 lần cách nhau 06 tháng( dù vợ và con đều có HIV(+)) có thể do thiếu các đồng thụ thể này mà đề tài chưa có điều kiện phân tích 02 trường hợp này.
Các rối loạn điều hòa miễn dịch trong nhiễm HIV-1
Khi HIV-1 vào cơ thể, số lượng tế bào TCD4 bị giảm sút nhanh chóng , khó trở về mức bình thường được nữa. Cùng với TCD4 giảm , tổng lượng Lympho máu giảm, đặc biệt TCD3. Sau đó vào tuần thứ hai, số lượng Lympho tăng dần , trước hết TCD8, để chống HIV-1 nhưng TCD4 vẫn giảm , do đó tỷ lệ TCD4/TCD8 bị đảo ngược. Số lượng TCD4 giảm nhưng chủ yếu là chức năng tế bào này bị tổn thương trầm trọng làm giảm chức năng miễn dịch của các tế bào khách khu Lympho B, đại thực bào, NK..
Qua thử nghiệm dùng Phật pháp trong hỗ trợ điều trị beenhjHIV/AIDS này, ta thấy đa số bệnh nhân đều có tăng các thành phần miễn dịch tế bào, đặc biệt là TCD4 ( 60,8% số trường hợp nghiên cứu và tương tự tăng cả Tcd3, Tcd8 nhiều hơn cả số có tăng Tcd4-69,57% và 65,22%). Tỷ lệ Tcd4/Tcd8 cũng có tăng 52,17% số trường hợp tuy mức độ tăng rất ít, vì trước thời gian trì tụng, tỷ số này cũng đã rất thấp. Ở đây , ta thấy có 03 bệnh nhân thuộc giai đoạn HIV-1 muộn (TCD4 từ 50-200), nhưng sau trì tụng 2 trong 3 trường hợp này đều có tăng nhẹ Tcd4 và 01 trường hợp giữ thấp như cũ. Cả hai trường hợp tuy tăng Tcd4 ít nhưng đều chưa thay đổi giai đoạn của bệnh tức là chưa chuyển sang giai đoạn HIV-1 trầm trọng.
Chưa có tác giả nào nghiên cứu vấn đề áp dụng Phật Pháp trong hỗ trợ điều trị HIV/AIDS. Mặc dù chỉ mới áp dụng trong 06 tháng, dù đã có một số trường hợp tự nguyện trì tụng được hơn 11 tháng. Đây là nghiên cứu đầu tiên của nhóm tác giả này. Hiện nay nhóm bệnh nhân này vẫn duy trì trì tụng theo lịch trình và có thêm nhiều đối tượng mới tham gia dù đề tài đã kết thúc.
V. Kết luận :
Bước đầu chúng tôi có một số nhận xét sau:
1./ Đại đa số thành viên câu lạc bộ hoa sen đều bị nhiễm HIV-1 giai đoạn sớm và giai đoạn trung gian (20/23 trường hợp) và 03/23 trường hợp ở giai đoạn muộn
2./ Các chỉ số nghiên cứu đều tăng được từ 52,17% đến 60,87% trường hợp nghiên cứu , đặc biệt là TCD4 tăng 60,87% số ca nghiên cứu (14/23 trường hợp)
3./ Chưa có bệnh nhân nào ở giai đoạn muộn chuyển sang giai đoạn bệnh nặng hơn hay có biểu hiện là bệnh cơ hội.
Lời cảm ơn: Xin đặc biệt cảm ơn bác Lê Thị Tâm đã tập hợp được số em trong câu lạc bộ hoa sen, hướng dẫn trì tụng. Xin cám ơn ban giám đốc đã ủng hộ cho đề tài, xin cám ơn GS Ngô đạt tam, TS Phạm Thanh Hải, GS Phan Thị Phi Phi, KS Trương Xuân Ngọc, BS Phạm thị Yến , Sư Thầy Thích Giác Minh và bà Nguyễn thị Tuyết Mai đã hỗ trợ kinh phí cho đề tài.