CUỘC HÀNH TRÌNH DIỆU VỢI VỀ NHÀ
Tư chất khác thường của Đại Hưu
(1) (Daikyù) được chứng tỏ ngay khi còn bé. Nhiều thầy ở mọi tông phái Phật giáo tìm để kết nạp chú làm đệ tử, nhưng cha mẹ chú không cho phép.
Tuy nhiên, Đại Hưu cuối cùng cũng xuất gia làm thiền sinh khi mới năm tuổi.
Khi Đại Hưu mười lăm tuổi, một hôm chú chợt nghe thầy mình nói chuyện với một người về cái mà ông gọi là
Tình trạng trước khi cha mẹ sanh. Điều này làm Đại Hưu lạ lùng, và chú thường ngồi thiền bất cứ khi nào rảnh rỗi.
Sau đó, Đại Hưu đến gặp thiền sư Tạng Hải (Zòkai) ở Kyoto, để hỏi về tinh yếu của sự định tâm. Trên đường đến đó, chú để tâm vào chót mũi, vì thế chẳng thấy sự náo nhiệt và kèn trống của cố đô, khi đi ngang qua. Chú thâm nhập vào sự định tâm đến nỗi đâm sầm vào nhiều cỗ xe ngựa trên đường, đám phu xe la hét trong khi chú vẫn tiếp tục đi không để ý gì cả.
Gặp được Tạng Hải, Đại Hưu xin phép ở lại học thiền. Tạng Hải bằng lòng và giao Đại Hưu nhiệm vụ chăm sóc thuốc men cho Thầy. Lúc đó Đại Hưu mười tám tuổi.
Một hôm, Đại Hưu đi ném bã thuốc, chú đạt được định Vong thân khi đến bờ sông. Mặc dù mùa này cây phong trổ lá vàng đỏ như gấm thêu, chú cũng chẳng trông thấy. Đó là cao điểm của sự chú tâm của chú. Mọi người thường gọi chú là "Thị giả ngây ngô".
Năm hai mươi ba tuổi, Đại Hưu đến gặp Thiền sư nổi tiếng - Cổ Nguyệt và trình bày sở ngộ. Cổ Nguyệt nói:
- Kiến giải của anh rốt cuộc là của người ngoài cửa, hoàn toàn vô dụng với việc sanh tử. Hãy dồn hết tâm lực một cách dũng mãnh, một ngày nào đó tự nhiên anh sẽ đạt được nhất thể.
Rồi Cổ Nguyệt dạy Đại Hưu mười hai bài thơ của một Thiền sư Trung Hoa thuở xưa, và bảo chú theo đó tu tập thiền định đêm ngày.
Một ngày vào mùa hạ năm sau, khi Đại Hưu đang đem bình trà xuống nhà kho, thình lình chú thấy như thể đang đi trong không, tâm đông cứng như sắt. Khi chú dừng lại và đứng đó, một ngọn gió mát thổi đến ngực. Tiếp tục đi, chú tông vào cột và thình lình có tỉnh.
Đại Hưu đến thiền sư Cổ Nguyệt và nói:
- Hôm nay, cuối cùng con đã phá được vật ngại trong tâm.
Cổ Nguyệt mỉm cười.
Sau nhiều năm học thêm với Cổ Nguyệt, Đại Hưu nghĩ rằng chú đã hội thiền hoàn toàn. Tưởng rằng không còn ai ở bất cứ đâu có thể dạy mình thêm điều gì được nữa, Đại Hưu quyết định tìm một nơi ẩn dật để thuần thục sở ngộ.
Tuy nhiên, trong cuộc hành trình Đại Hưu tình cờ đọc một bài thơ của đại thiền sư Bạch Ẩn. Bài thơ phi thường đến nỗi Đại Hưu quyết định diện kiến Bạch Ẩn.
Khi Đại Hưu gặp Bạch Ẩn, chú nhận thấy ở Đại sư một nhân cách Thiền thật mạnh bạo. Đại Hưu liền xin phép tiếp tục học thiền với Bạch Ẩn.
Đã làm người tầm đạo dài lâu, Đại Hưu có một sổ tay ghi chép những thiền ngữ mà chú đã tâm đắc. Quyết định khởi công lại từ đầu dưới sự giáo dưỡng của Bạch Ẩn, chú đốt quyển sổ quý của mình. Lúc đó Đại Hưu hai mươi sáu tuổi.
Một hôm, Đại Hưu theo Bạch Ẩn đến thăm Vân Sơn (Unzan), một Thiền sư khác. Trong buổi chuyện trò, đề tài Bích Nham Lục được nêu lên. Vân Sơn hỏi Bạch Ẩn chọn bài thơ nào hay nhất. Bạch Ẩn nói tên bài thơ, và Vân Sơn đồng ý.
Đại Hưu ngồi nghe hai trưởng lão nói chuyện, vô cùng bối rối. Chính Sư đã học thiền hơn hai mươi năm vẫn chưa đủ sức biện rõ như các trưởng lão.
Trên đường về, Đại Hưu muốn thưa với Bạch Ẩn những gì mình nhận được, nhưng thấy khó trình bày. Theo Thầy dọc đường, Đại Hưu sấn tới nhiều lần, cố gắng làm Bạch Ẩn dừng lại để thưa chuyện. Nhận thấy Đại Hưu chín muồi để đạt ngộ, Bạch Ẩn cố tình phớt lờ và tiếp tục rảo bước.
Quá buồn nản, Đại Hưu đến ngồi dưới hiên nhà bên đường. Sau khi thiền định một lúc, Đại Hưu thình lình tỏ ngộ. Mở mắt ra Sư thấy Bạch Ẩn đã đi một đỗi xa.
Chạy về chùa, Đại Hưu trình bày kiến giải lên Bạch Ẩn. Lão sư ấn chứng cho Sư.
Không bao lâu, Đại Hưu rời Bạch Ẩn. Lúc lên đường, Sư hỏi Đại sư:
- Cái gì là cơ đệ nhất?
Bạch Ẩn đáp:
- A, B, C.
Đại Hưu hỏi:
- Cái gì là cơ thứ hai?
Bạch Ẩn đáp:
- M, N, O.
Đại Hưu cúi lạy và ra đi.
Phụ tá của Bạch Ẩn là thiền sư Đông Lãnh
(2) (Tòrei), nghe chuyện này. Sau Sư nói với đệ tử mình:
- Gã Đại Hưu đó thật sự chưa thuần thục, hắn không hỏi về cơ thứ ba. Ta mong hắn có dịp đến đây để ta tháo chốt cho hắn.
Khi Đại Hưu hai mươi chín tuổi, Sư trở về săn sóc vị thầy đầu tiên bây giờ đã quá già.
Một đêm Đại Hưu ngồi đến khuya, chợt nghe tiếng chó tru, ngay lúc đó tâm Sư bừng mở, và Sư đại ngộ, buông sạch mọi kiến thức, quan điểm cũ của mình lập tức.
Ngày kế Sư đến gặp Thanh Sơn (Seizan), một vị thầy đã học lúc trước. Trước khi Đại Hưu mở lời, Thanh Sơn nói:
- Ta biết ông có khả năng chứng ngộ từ lâu. Ta đã đợi một thời gian dài để ông tự khai ngộ cho mình. Dường như phải đủ thời tiết nhân duyên mới được. Ta chẳng giấu giếm gì ông, bây giờ ta trao cho ông Chánh Pháp Nhãn Tạng.
Đại Hưu chỉ biết cúi lạy.
Tất nhiên Đại Hưu trở thành Thiền sư. Sư rất nghiêm minh. Sư hỏi đệ tử:
- Pháp thân hiển bày ngay trước mắt, tại sao các ông không thể đạt đến giải thoát?
Thật là đáng tiếc, vì không ai trong tăng chúng hiểu ý Sư.
Vào mùa xuân năm Sư sáu mươi chín tuổi, Sư lâm bệnh. Biết gần tịch, Sư trao cho đệ tử nối pháp chứng tín truyền thừa gồm pháp y tượng trưng cho sự tiếp truyền giới luật của Phật và tư liệu về hệ thống chánh truyền của các Tổ sư.
Khi bệnh đến hồi nghiêm trọng, đệ tử vây quanh xin lời di huấn.
Ngồi thẳng lên một cách uy vũ, Đại Hưu nét mặt hân hoan, nụ cười trên môi, Sư mở mắt, biết chắc mọi người đều thấy, và an nhiên thị tịch.
(1) Đại Hữu Huệ Phảng nối pháp Bạch Ẩn.
(2) Đông Lãnh Huệ Từ (1721-1792)
- hình7.jpg (121.73 KiB) Đã xem 1177 lần