BA LOẠI TU SĨ
Nguyệt Am thường nói:
- Có ba loại tu sĩ. Trước tiên là những người dạy người khác. Thứ hai là những người giữ chùa. Thứ ba là phường giá áo túi cơm. Con cháu Tổ Sư phải hoàn toàn hiểu rõ về tông phái của mình và dạy người khác để huệ mạng của chư Phật được trường tồn. Nếu họ chỉ là những người giá áo túi cơm, họ là tội nhân của Phật pháp.
HÃY NHÌN VÀO TÂM
Giác Tâm
(1) (Kakushin) đến Trung Hoa vào giữa thế kỷ XIII để học thiền. Ở đó, Sư gặp một Thiền sư nổi tiếng, Ngài hỏi Sư:
- Ông tên gì?
Giác Tâm trả lời tên mình.
Nhận rằng tên của Giác Tâm có nghĩa là Tâm tỉnh giác, vị thầy viết một bài kệ cho vị du tăng:
- Tâm là Phật,
Phật là tâm,
Tâm và Phật
Như như thường tại.
Về sau Giác Tâm trở lại Nhật, Thiên hoàng Kameyama nghe Sư hội thiền bèn mời dạy tại một ngôi đền của hoàng cung. Sau đó, Hoàng đế cũng mời Sư đến cung điện để hỏi về thiền.
Những bài pháp sâu xa, sự uyên bác, và tài hùng biện vô ngại gây ấn tượng mạnh cho Hoàng đế Kameyama vượt hẳn những gì mà ông đã được biết.
Nhận biết giá trị phi thường của Thiền Phật giáo, Hoàng đế đã biến cải cung vua thành một thiền viện.
Vị Hoàng đế tiếp theo, Go-Uta, cũng mời Giác Tâm đến một dinh thự đặc biệt thuộc hoàng tộc để dạy thiền. Sư nói:
- Chư Phật ngộ tâm, phàm phu mê tâm. Cội nguồn của tất cả chư Phật là một, lãnh vực của mê và ngộ có hai. Không dựa vào tha lực, ông có thể biết được nhờ bản tánh sẵn có. Nếu ông muốn đạt được quả Phật, phải nhìn vào tâm mình.
(1) Tâm Địa Giác Tâm (1207-1298)
KHÔNG BỊ PHÂN TÂM
Utame được một vị Thiền ni giác ngộ dạy cô cách quán thế nào để nhìn vào thân tâm của mình khi cô mới mười lăm tuổi.
Utame chú tâm thiền định suốt ngày đêm, không để ý đến bất cứ gì khác. Ngay cả khi cô soi gương trang điểm, cô vẫn nhìn vào bản tâm. Đôi khi, cô chăm chú đến nỗi quên mình đang làm gì và chỉ ngồi đó lặng thinh.
Bấy giờ cha mẹ cô, chẳng biết gì về thái độ lạ lùng của con gái, cho rằng cô đang muộn phiền vì sức khoẻ suy yếu hay đang suy nhược thần kinh. Họ cố gắng đưa cô đi xem hát và du ngoạn, nhưng Utame chẳng đam mê bất cứ giải trí nào.
Cuối cùng, một hôm công phu của cô đạt kết quả, tâm khai mở và cô đại ngộ.
Sau đó Utame lấy chồng và sanh được bốn con, hai trai và hai gái. Chồng cô không may bị vỡ nợ, vì thế Utame phải may vá để cứu vớt gia đình. Cô sống đến hơn bảy mươi tuổi, cuối cùng qua đời trong sự an tĩnh thư thái.
ĐÁNH KẺ KHOÁC LÁC
Là con cháu của một chiến sĩ nổi tiếng - Phật Nhai (Butsugai) mạnh bạo và can đảm. Mặc dù Sư gia nhập tăng đoàn khi mới mười hai tuổi, nhưng Phật Nhai rất giỏi về bắn cung, cưỡi ngựa và mọi môn võ nghệ truyền thống khác. Mạnh khủng khiếp, Sư có thể đấm thủng mọi vật. Có sức lực như thế nên Sư được gọi là
Vị tăng với quả đấm mạnh mẽ (Mãnh Quyền).
Giữa thế kỷ XIX, Nhật Bản bị rung chuyển vì các cuộc nội loạn. Vào lúc ấy một nhóm võ sĩ mệnh danh Tinh Túy Mới đến Kyoto, mong tạo thế lực trong chính quyền mới. Loạn động và trụy lạc, nhóm võ sĩ này gây kinh hoàng cho thị dân.
Một hôm, Phật Nhai đang đi dọc theo đường phố trong Kyoto, bất chợt Sư đi ngang qua nơi nhóm Tinh Túy Mới đã chiếm đóng. Tiếng chạm của các thanh kiếm tre lôi kéo Phật Nhai đến bên cửa sổ nhìn vào.
Lập tức một vài võ sĩ bước ra, giận dữ cật vấn Phật Nhai đang làm gì đó. Sư xin lỗi, bảo rằng mình chỉ là một vị tăng vừa xuống núi. Họ định đem vị tăng này làm trò đùa, vì thế họ thách đấu với Sư. Họ nhấn mạnh: "Bất cứ ai dòm ngó chúng ta ở đây, phải biết một chút võ nghệ".
Phật Nhai không thể từ chối. Sư bước vào phòng tập với các võ sĩ, từng người một họ lấy kiếm tre đối mặt với vị tăng rách rưới.
Không tỏ ra một chút hoảng sợ nào, Phật Nhai lấy thiết trượng và đập nát từng thanh kiếm của mỗi đối phương. Chỉ cần vài phút, vị tăng sĩ đã đánh thắng mười hai người.
Bấy giờ, viên chỉ huy nhóm võ sĩ nhặt một cây giáo và bước tới. Ông ta bảo Phật Nhai:
- Anh rất tài tình đối với những kiếm sĩ trẻ này. Nhưng bây giờ đến lượt tôi, Kondò Isamu, sẽ đấu một trận với anh.
Phật Nhai lộ vẻ khiếp hãi. Phủ phục xuống đất với thái độ khiêm tốn tột bực, Sư nói:
- Kondò Isamu! Tôi đã được nghe danh Ngài! Người ta bảo Ngài là một thiên tài về võ thuật. Một du tăng như tôi khó có thể đương đầu với một người như Ngài. Xin cho tôi đi.
Hăng lên, vị võ sĩ không rút lại sự thách đấu của mình. Hắn ép Phật Nhai đến nỗi vị tăng không thể tránh trận đấu lâu hơn nữa, Sư lại cầm gậy sắt và đứng đối diện với viên chỉ huy.
Kondò bảo Phật Nhai:
- Anh cần một vũ khí. Hãy lấy thanh gươm tre, hay cây giáo gỗ, hay bất cứ vật gì anh muốn.
Phật Nhai trả lời:
- Là một tăng sĩ tôi không được phép cầm vũ khí. Cây gậy này được rồi!
Vị võ sĩ không chịu. Ông ta buộc Phật Nhai phải dùng vũ khí.
Rất nhanh trí, Thiền tăng đến bị của mình và lấy ra một cặp bình bát gỗ. Nắm mỗi bình bát một tay, Sư nói với viên chỉ huy:
- Được rồi, tới đi! Hãy gắng đâm tôi nếu có thể!
Sự xấc láo này làm viên chỉ huy tức điên lên. Ông ta quyết định sẽ hạ vị tăng với một mũi đâm mà thôi. Nắm chặt ngọn giáo, ông ta kiếm một chỗ hở trong lối phòng thủ khác thường của vị tăng.
Vị võ sĩ đứng bất động và không chớp mắt gần nửa giờ, không tìm được một lối tấn công. Rồi thì ông ta chắc rằng có một kẽ hở, thình lình ông lao mũi giáo với hết sức mạnh và lòng cuồng nộ, để đâm vỡ lồng ngực của vị tăng.
Tránh đòn tấn công một cách nhanh nhẹn, Phật Nhai chụp ngay ngọn giáo kẹp vào giữa hai cái bình bát, chắc chắn như một gọng kềm.
Cố hết sức, viên chỉ huy vẫn không thể giật ngọn giáo ra khỏi hai bình bát khất thực của vị tăng đang kẹp chặt. Ông ta hết kéo tới lại đẩy lui đủ hướng, đến khi ướt đẫm mồ hôi.
Sau một lúc lâu, Phật Nhai bất chợt thả ngọn giáo ra cùng với một tiếng thét inh tai. Vị chỉ huy té nhào ra sau, ngọn giáo bay xa đến hai mươi, ba mươi tấc sau ông ta.
Sợ hãi và xấu hổ, viên chỉ huy cúi mình trước Phật Nhai và nói:
- Tài nghệ của anh thật siêu việt, chiêu thức hơn hẳn tôi. Anh là ai?
Vị Thiền tăng trả lời:
- Tôi là một du tăng tên Phật Nhai.
Viên chỉ huy kêu lên:
- Thế thì anh là
Vị tăng với cú đấm nổi tiếng?
Và bây giờ ông ta tiếp đãi vị địch thủ trước kia của mình một cách kính trọng tột bực.
Sau đó, tên tuổi Phật Nhai vang đến cố đô.
Khi Phật Nhai hoàn tất việc học thiền, Sư đến nơi vắng vẻ để thuần thục sự giác ngộ. Tuy nhiên, không bao lâu những người nghe danh Sư bắt đầu tụ tập rất đông quanh Sư để học cả thiền lẫn võ thuật.
Có một kiếm sĩ nổi tiếng đã gặp Phật Nhai một lần khi ông ta còn trẻ trong một cuộc hành trình đi học võ. Gặp Phật Nhai, anh chàng võ sĩ đạo kia xin được chỉ dạy.
Phật Nhai hỏi:
- Anh đến đây làm gì?
Chàng thanh niên trả lời:
- Con đến để chết dưới những cú đấm của Thầy.
Phật Nhai nhận thấy đây là một câu trả lời xuất sắc và cho vị kiếm sĩ trẻ ở lại một thời gian. Phật Nhai tặng cho anh ta một bài thơ rằng:
- Ngay cả sức mạnh của một thần nhân vĩ đại
Cũng chỉ là một lớp vải mùng mỏng manh.
Lấy hai câu thơ này làm đề mục quán chiếu, kiếm sĩ sau này, khi đã nổi tiếng khắp miền Tây Nhật Bản, đã kể lại rằng ông ta đạt được ý nghĩa uyên áo về cốt tủy tiềm tàng của Nhu thuật.
Phật Nhai nổi tiếng đến nỗi nhiều lãnh chúa lớn của miền Tây Nhật Bản mời Sư đến dinh thự của mình, cúng dường Sư những ngôi chùa đẹp nhất để Sư cư trú.
Phật Nhai từ chối tất cả, ở lại trong một ngôi chùa nghèo cho đến chết, mặc quần áo cũ và sống tri túc thiểu dục, không bao giờ tìm kiếm thứ gì khác.