Chấp hay tinh tấn kinh! (Bài số 271-272)
Đã gửi: 04/05/10 06:54
Nhận xét trong quyết nghi như sao!
Giáo lý kinh điển không bao giờ sai, Lời Phật nói không bao giờ lầm, Nhưng con người theo đạo, thực hành đạo không đúng mới bị lầm. Lầm mà không biết mình lầm, vì không phân biệt được giữa sự kiến học và tuệ học!
Chúng ta đây cũng vậy, chỉ là lý luận bàn suông về kiến học, cho nên không bàn sâu vào những gì chúng ta không thấy, không biết. Khi hiểu là mình sai thì có sấm hối cũng là sự muộn màng.
Kiến thức của người là do người tự học mà thành. Nên có phân biệt cao thấp.
Còn tuệ học là do sự chứng ngộ từ nơi thiền định. (Trong tướng vô ngã mà có).
Không phân biệt theo sách vở, chữ nghĩa mà người đời diển tả.
Quyết nghi:
Giữa người chấp kinh và người tinh tấn kinh điển!
Người chấp kinh và người tinh tấn kinh điển cã hai đều muốn đời thêm tốt đẹp cùng một ý nghĩa với nhau. Nhưng việc thực hành thì khác nhau, như là mở, úp bàn tay vậy. Nên sự chấp và tinh tấn cũng khó phân biệt là…
Chúng ta cùng là con Phật, cùng nhau biết giới thứ tư trong ngủ giới. Là không được nói dối, hoặc kêu người khác nói dối để lợi mình.
Nhưng người chấp kinh thì cũng gần giống nói dối vậy. (Vì nói sai chánh đề, không khéo dùng phương tiện, Thực hành theo kiến học riêng. Nên thành nói dối mà không biết mình dối. Cũng là một tội lớn sai lầm giống như là phỉ báng giáo lý Phật. Hay nói cách khác cũng giống như người cầm viết thì tội nặng hơn người cầm súng là vậy.)
Còn người tinh tấn kinh điển, Là chỉ mượn giáo lý kinh điển để áp dụng vào đời sống cho mình, cho người kế bên mình và cho đời thì mới thật sự là tu tâm, sửa tánh. Sự thực hành theo giáo lý tương tự như mượn thuyền qua sông. Rồi phải đi tiếp. Đi tiếp từ một người hiền lương, hiền nhân, cho tới thành thánh nhân, bậc la hán, hay tận cùng là quả vị Phật.
Sự sai biệt giữa người chấp và tinh tấn kinh điển!
1. Chấp kinh. 2. Bảo thủ kinh. 3. Sùng kính hay mê tính. 4. Làm mất lòng tin.
1. Chấp kinh. Chấp đây còn gọi là tham. Như người đời sống theo thú vui vật chất. Khi là người kinh danh, thì nói chuyện kinh danh. Người có danh quyền thì nói chuyện danh quyền.v.v. Khi ta nói chuyện gia đình. Thì người cho là không hợp!
Còn người chấp kinh cũng vậy. Tôi theo Tịnh độ, học kinh Tịnh độ. Ai nói kinh Thiền hay mật cũng không hợp.
Lại nửa từ chấp kinh, rồi tới chấp soạn giả & người dịch kinh, nơi xuất xứ. Hoặc chấp luôn cã từ ngữ.v.v.
Mê mờ càn thêm mê mờ. Nặng thêm nửa, xem kinh xong rồi, tưởng đâu là mình đã chứng ngộ. Thành Thánh, Thần. Gặp ai hỏi tới kinh mình, thể như trúng tửu, thì nói như két. Sự thật chỉ biết học thuộc lòng, hoặc sao chép lại rồi đem ra dạy người khác. Chính là người nhép theo từ ngữ kinh, túi đựng kinh không hơn, không kém.
Người tinh tấn kinh điển chỉ khác một ly về trình độ kiến học. Thí dụ: Tôi theo Tịnh độ. Chấp cõi Tây Phương là có thật, chấp lục tự là bất biến không thể thay thế bằng tên Phật khác. Chấp Tín, Hạnh, Nguyện không bao giờ sai. Nhưng họ không thụ động bao nhiêu đó là tu được rồi. Họ truy tìm các nguồn gốc từ nơi Tín, Hạnh, Nguyện. Thế nào là tiêu cực, hay tích cực. Sau đó quay trở vào nhơn ngã tự tâm mà thực hành. Chính là lời Phật dạy. “Biết ta, không hiểu ta, là phỉ báng ta”.
2. Bảo thủ. Trong Phật học. Gọi là Si mê, hay Si. Thí dụ người có tâm chấp ngã do lòng tham, sân không hiểu rõ chánh tà, không đủ kiến học. Giống như lửa rơm. Nếu gặp được minh sư, hay có căn lành tự học được nơi kinh kệ mà tự minh tâm, kiến tánh tự sửa lại thân tâm.
Còn người đã có tâm si, giống như bệnh nội khoa, hết thuốc chửa (Vô minh thức) Tức là họ đã nghĩ. Ý họ đúng, các hành động họ làm hoàn toàn đúng. Nên dù có Tổ hiện xuống dạy, họ cũng không nghe. Ví như lửa than.
Thí dụ: Họ nghĩ pháp môn Thiền đang học là tối cao, kinh họ học là tối thượng. Nhưng căn cơ (trí thông minh) không có. Mà cố chấp theo học, 10 năm, 20,30 hoặc hết cuộc đời. Nặng thêm nửa, người việt không học kinh dịch chữ việt, mà theo kinh với từ ngữ nho, nôm, hán tự, Pali.v.v. Nên có thành công, thì cũng mất hết thời gian.
Nhưng người tinh tấn cũng có tâm si tương tự là. Cho dầu là kinh tối thượng họ cũng không học, vì họ tự biết không đủ trình độ. Chẳng thà học kinh chữ việt, chẳng thà lựa kinh dể mà có lợi ít cho trình độ tu sửa thân tâm.
Cho nên biết mình có tâm này hay không, cần phải xem lại sách, truyện, kinh Thiền Tông nói về phá chấp, và duy thức học để biết nguồn gốc do đâu mà bảo thủ.
2.1 Sự bảo thủ tôi. Thí dụ:Tôi rất thích Thiền Tông, nhưng không thể vì không đủ kiên nhẫn ngồi Thiền, không có thời gian vì cuộc sống nên không học.
Hiện tôi theo Tịnh độ, chuyên về Niệm Phật. Nhưng không thể nào học vô được kinh A Di Đà và các kinh khác tuy rằng rất thích, nhưng không có hợp duyên nên không học. Hàng ngày có thời gian thì. Lạy Phật, Niệm Phật mong thời gian huân tập sẽ từ từ thành thói quen Niệm Phật, sau là Lạy Phật cho bớt đi tâm ngã mạn. Nên có lý do tại sao mà bảo thủ. Không theo lời của các thầy dạy bảo.
Theo bắc tông Phật giáo, lại học kinh Nam Tông Phật giáo tại sao! - Giống như vừa nói ở phần trên. Và tôi cũng không lựa thầy dịch có tiếng tăm. Trong khi mình không học được. Nên nay đã chọn kinh dịch thuật của cư sĩ Thiện Nhựt. Nói đúng hơn là học lấy giáo lý xã hội thời Ngài còn là Thánh Nhân ở cỏi Ta-bà. Để áp dụng vào xã hội, cuộc sống của tôi ở ngày nay.
Cái bảo thủ sau cùng là tự biết mình không có trình độ kiến thức văn hóa mà vẩn làm, vẩn viết. Giống như múa rều qua mắt thợ. Ngốc mà đòi học khôn.
Lý do là hiện tôi chưa gặp được minh sư chỉ dạy! Nên mới ngốc.
Vả lại muốn đem cái hiểu của mình muốn làm sáng tỏ cái sai lầm học đạo của người đời (thường) mới.
Nên đã cố gắng dùng tâm suy nghĩ ra mà viết. Biết ngu mà vẩn làm.
3. Sùng kính hay mê tính: Sùng kính Kinh là người biết các kinh điều có sự lợi ít riêng của kinh. Nên biết mà sùng kính.
Mê tính kinh là người không biết các kinh điều có sự lợi ít riêng của kinh hoặc muốn học nhưng lại không hiểu. Mà vẩn thỉng về đầy nhà để thờ cúng. Có khi còn các ngôn ngữ khác không thể nào đọc được, học được. Thành mê tính vì không biết giá trị của kinh. Giống như nhà có vật quí mà không biết tận dụng vậy.
Nói một cách khác, người sùng kính là biết được nội dung của kinh hợp với mình và theo đó tu tập, chớ không phải tên kinh, người dịch, nơi chốn.
Cái biết của người trí là tâm kinh, cái biết của người mê tính kinh là chữ, tiêu đề, xuất xứ và người dịch kinh.
4. Làm mất lòng tin! -Thí dụ: Về tiểu sử và nguồn gốc kinh, Viết không ràng rẽ, có khi còn sai, nơi thời gian, nơi phát nguồn. (Hoặc nhiều người phiên dịch cùng một kinh tất nhiên có chổ sai biệt. Hoặc không có sự thống nhất kinh nào từ lớp A tới Z hay từ dể tới khó.v.v.)
4.1 Phật giáo chỉ là một, Nhưng đã chia ra nhiều tông phái!
Kinh Pháp cũng vậy. Kinh Bắc Tông không biết kinh Nam Tông, Kinh bên Tịnh độ khác hơn, Kinh bên Thiền Tông khác, Kinh bên Mật độ tông.v.v.
Làm lòng người cũng có sự khác biệt, rồi từ sự khác biệt sanh ra chấp ngã. Từ sự chấp ngã sanh ra mất lòng tin với nhau. Thử hỏi người đời làm sao biết nơi nào là gốc, chốn nào là ngọn.
Tóm lại lòng tin không phải là mê tín. Phải chứng minh bằng thực thể có thật, minh chứng, đem lại sự lợi ít cho đường tu, cho mình, và cho mọi người nói riêng.[/color]
Ý nghĩa của chủ đề?
Cư sĩ:
Chẳng phải vì trì giới nghiêm-túc,
Chẳng phải do kiến-thức thật cao,
Chẳng phải vì thiền-định thâm sâu,
Chẳng phải do sống xa trần-tục,
Mà có thể tự-mãn:
"Ta nay hưởng phước hạnh viễn-ly
Mà các phàm-phu làm gì hưởng được!"
Tỳ-kheo! Chớ xao-lãng
Kiên-trì diệt lậu-hoặc cho xong.
(Kệ số 271 và 272.)
Dịch giả Thiện Nhựt:
Ý nghĩa của bài kệ?
Lời hay ý đẹp?
I. Thêm chi tiết:
Kính gởi Thầy, Cô, Admin, và các bạn hữu.
1. Để đem lại sự lợi ích chung cho diễn đàn và các Phật tử tại gia nói riêng, thỉng cầu quí vị tra xét, phê bình, kiểm chứng các chi tiết sai lầm.
Như là: Sai tiêu đề, chủ đề, kết luận, văn từ đạo/đời, chánh tả.v.v.
2. Giải đáp, bình luận các quyết nghi “Giáo lý học” theo chuyện đời.
3. Giải đáp, luận bàn, vấn đáp các quyết nghi “Giáo lý học” theo chuyện đạo.
II. Ý nghĩa học hỏi:
Thứ nhứt cho người mới.
Thứ hai ôn lại bài,
Thứ ba thêm kiến thức,
Thứ tư học kinh nghiệm.
Thứ năm ứng-dụng đời/đạo.
III. Mục đích thực dụng:
Năng cao đời sống cộng đồng. Và Giáo lý Phật-giáo nói riêng.
IV. Nhớ nhớ:
Bạn tôi nhắn nhủ đôi điều,
Cho người mới học đặng ngay hiểu nhiều.
Trước là Phật Học Phổ Thông,
Sau là Pháp Cú làu thông, thuộc lòng.
Thông này chẳng hiểu liền ngay,
Hai mươi tiểu luận đọc ngay hiểu liền.
Thân ái. TN
http://sites.google.com/site/layphat/
Giáo lý kinh điển không bao giờ sai, Lời Phật nói không bao giờ lầm, Nhưng con người theo đạo, thực hành đạo không đúng mới bị lầm. Lầm mà không biết mình lầm, vì không phân biệt được giữa sự kiến học và tuệ học!
Chúng ta đây cũng vậy, chỉ là lý luận bàn suông về kiến học, cho nên không bàn sâu vào những gì chúng ta không thấy, không biết. Khi hiểu là mình sai thì có sấm hối cũng là sự muộn màng.
Kiến thức của người là do người tự học mà thành. Nên có phân biệt cao thấp.
Còn tuệ học là do sự chứng ngộ từ nơi thiền định. (Trong tướng vô ngã mà có).
Không phân biệt theo sách vở, chữ nghĩa mà người đời diển tả.
Quyết nghi:
Giữa người chấp kinh và người tinh tấn kinh điển!
Người chấp kinh và người tinh tấn kinh điển cã hai đều muốn đời thêm tốt đẹp cùng một ý nghĩa với nhau. Nhưng việc thực hành thì khác nhau, như là mở, úp bàn tay vậy. Nên sự chấp và tinh tấn cũng khó phân biệt là…
Chúng ta cùng là con Phật, cùng nhau biết giới thứ tư trong ngủ giới. Là không được nói dối, hoặc kêu người khác nói dối để lợi mình.
Nhưng người chấp kinh thì cũng gần giống nói dối vậy. (Vì nói sai chánh đề, không khéo dùng phương tiện, Thực hành theo kiến học riêng. Nên thành nói dối mà không biết mình dối. Cũng là một tội lớn sai lầm giống như là phỉ báng giáo lý Phật. Hay nói cách khác cũng giống như người cầm viết thì tội nặng hơn người cầm súng là vậy.)
Còn người tinh tấn kinh điển, Là chỉ mượn giáo lý kinh điển để áp dụng vào đời sống cho mình, cho người kế bên mình và cho đời thì mới thật sự là tu tâm, sửa tánh. Sự thực hành theo giáo lý tương tự như mượn thuyền qua sông. Rồi phải đi tiếp. Đi tiếp từ một người hiền lương, hiền nhân, cho tới thành thánh nhân, bậc la hán, hay tận cùng là quả vị Phật.
Sự sai biệt giữa người chấp và tinh tấn kinh điển!
1. Chấp kinh. 2. Bảo thủ kinh. 3. Sùng kính hay mê tính. 4. Làm mất lòng tin.
1. Chấp kinh. Chấp đây còn gọi là tham. Như người đời sống theo thú vui vật chất. Khi là người kinh danh, thì nói chuyện kinh danh. Người có danh quyền thì nói chuyện danh quyền.v.v. Khi ta nói chuyện gia đình. Thì người cho là không hợp!
Còn người chấp kinh cũng vậy. Tôi theo Tịnh độ, học kinh Tịnh độ. Ai nói kinh Thiền hay mật cũng không hợp.
Lại nửa từ chấp kinh, rồi tới chấp soạn giả & người dịch kinh, nơi xuất xứ. Hoặc chấp luôn cã từ ngữ.v.v.
Mê mờ càn thêm mê mờ. Nặng thêm nửa, xem kinh xong rồi, tưởng đâu là mình đã chứng ngộ. Thành Thánh, Thần. Gặp ai hỏi tới kinh mình, thể như trúng tửu, thì nói như két. Sự thật chỉ biết học thuộc lòng, hoặc sao chép lại rồi đem ra dạy người khác. Chính là người nhép theo từ ngữ kinh, túi đựng kinh không hơn, không kém.
Người tinh tấn kinh điển chỉ khác một ly về trình độ kiến học. Thí dụ: Tôi theo Tịnh độ. Chấp cõi Tây Phương là có thật, chấp lục tự là bất biến không thể thay thế bằng tên Phật khác. Chấp Tín, Hạnh, Nguyện không bao giờ sai. Nhưng họ không thụ động bao nhiêu đó là tu được rồi. Họ truy tìm các nguồn gốc từ nơi Tín, Hạnh, Nguyện. Thế nào là tiêu cực, hay tích cực. Sau đó quay trở vào nhơn ngã tự tâm mà thực hành. Chính là lời Phật dạy. “Biết ta, không hiểu ta, là phỉ báng ta”.
2. Bảo thủ. Trong Phật học. Gọi là Si mê, hay Si. Thí dụ người có tâm chấp ngã do lòng tham, sân không hiểu rõ chánh tà, không đủ kiến học. Giống như lửa rơm. Nếu gặp được minh sư, hay có căn lành tự học được nơi kinh kệ mà tự minh tâm, kiến tánh tự sửa lại thân tâm.
Còn người đã có tâm si, giống như bệnh nội khoa, hết thuốc chửa (Vô minh thức) Tức là họ đã nghĩ. Ý họ đúng, các hành động họ làm hoàn toàn đúng. Nên dù có Tổ hiện xuống dạy, họ cũng không nghe. Ví như lửa than.
Thí dụ: Họ nghĩ pháp môn Thiền đang học là tối cao, kinh họ học là tối thượng. Nhưng căn cơ (trí thông minh) không có. Mà cố chấp theo học, 10 năm, 20,30 hoặc hết cuộc đời. Nặng thêm nửa, người việt không học kinh dịch chữ việt, mà theo kinh với từ ngữ nho, nôm, hán tự, Pali.v.v. Nên có thành công, thì cũng mất hết thời gian.
Nhưng người tinh tấn cũng có tâm si tương tự là. Cho dầu là kinh tối thượng họ cũng không học, vì họ tự biết không đủ trình độ. Chẳng thà học kinh chữ việt, chẳng thà lựa kinh dể mà có lợi ít cho trình độ tu sửa thân tâm.
Cho nên biết mình có tâm này hay không, cần phải xem lại sách, truyện, kinh Thiền Tông nói về phá chấp, và duy thức học để biết nguồn gốc do đâu mà bảo thủ.
2.1 Sự bảo thủ tôi. Thí dụ:Tôi rất thích Thiền Tông, nhưng không thể vì không đủ kiên nhẫn ngồi Thiền, không có thời gian vì cuộc sống nên không học.
Hiện tôi theo Tịnh độ, chuyên về Niệm Phật. Nhưng không thể nào học vô được kinh A Di Đà và các kinh khác tuy rằng rất thích, nhưng không có hợp duyên nên không học. Hàng ngày có thời gian thì. Lạy Phật, Niệm Phật mong thời gian huân tập sẽ từ từ thành thói quen Niệm Phật, sau là Lạy Phật cho bớt đi tâm ngã mạn. Nên có lý do tại sao mà bảo thủ. Không theo lời của các thầy dạy bảo.
Theo bắc tông Phật giáo, lại học kinh Nam Tông Phật giáo tại sao! - Giống như vừa nói ở phần trên. Và tôi cũng không lựa thầy dịch có tiếng tăm. Trong khi mình không học được. Nên nay đã chọn kinh dịch thuật của cư sĩ Thiện Nhựt. Nói đúng hơn là học lấy giáo lý xã hội thời Ngài còn là Thánh Nhân ở cỏi Ta-bà. Để áp dụng vào xã hội, cuộc sống của tôi ở ngày nay.
Cái bảo thủ sau cùng là tự biết mình không có trình độ kiến thức văn hóa mà vẩn làm, vẩn viết. Giống như múa rều qua mắt thợ. Ngốc mà đòi học khôn.
Lý do là hiện tôi chưa gặp được minh sư chỉ dạy! Nên mới ngốc.
Vả lại muốn đem cái hiểu của mình muốn làm sáng tỏ cái sai lầm học đạo của người đời (thường) mới.
Nên đã cố gắng dùng tâm suy nghĩ ra mà viết. Biết ngu mà vẩn làm.
3. Sùng kính hay mê tính: Sùng kính Kinh là người biết các kinh điều có sự lợi ít riêng của kinh. Nên biết mà sùng kính.
Mê tính kinh là người không biết các kinh điều có sự lợi ít riêng của kinh hoặc muốn học nhưng lại không hiểu. Mà vẩn thỉng về đầy nhà để thờ cúng. Có khi còn các ngôn ngữ khác không thể nào đọc được, học được. Thành mê tính vì không biết giá trị của kinh. Giống như nhà có vật quí mà không biết tận dụng vậy.
Nói một cách khác, người sùng kính là biết được nội dung của kinh hợp với mình và theo đó tu tập, chớ không phải tên kinh, người dịch, nơi chốn.
Cái biết của người trí là tâm kinh, cái biết của người mê tính kinh là chữ, tiêu đề, xuất xứ và người dịch kinh.
4. Làm mất lòng tin! -Thí dụ: Về tiểu sử và nguồn gốc kinh, Viết không ràng rẽ, có khi còn sai, nơi thời gian, nơi phát nguồn. (Hoặc nhiều người phiên dịch cùng một kinh tất nhiên có chổ sai biệt. Hoặc không có sự thống nhất kinh nào từ lớp A tới Z hay từ dể tới khó.v.v.)
4.1 Phật giáo chỉ là một, Nhưng đã chia ra nhiều tông phái!
Kinh Pháp cũng vậy. Kinh Bắc Tông không biết kinh Nam Tông, Kinh bên Tịnh độ khác hơn, Kinh bên Thiền Tông khác, Kinh bên Mật độ tông.v.v.
Làm lòng người cũng có sự khác biệt, rồi từ sự khác biệt sanh ra chấp ngã. Từ sự chấp ngã sanh ra mất lòng tin với nhau. Thử hỏi người đời làm sao biết nơi nào là gốc, chốn nào là ngọn.
Tóm lại lòng tin không phải là mê tín. Phải chứng minh bằng thực thể có thật, minh chứng, đem lại sự lợi ít cho đường tu, cho mình, và cho mọi người nói riêng.[/color]
Ý nghĩa của chủ đề?
Cư sĩ:
Chẳng phải vì trì giới nghiêm-túc,
Chẳng phải do kiến-thức thật cao,
Chẳng phải vì thiền-định thâm sâu,
Chẳng phải do sống xa trần-tục,
Mà có thể tự-mãn:
"Ta nay hưởng phước hạnh viễn-ly
Mà các phàm-phu làm gì hưởng được!"
Tỳ-kheo! Chớ xao-lãng
Kiên-trì diệt lậu-hoặc cho xong.
(Kệ số 271 và 272.)
Dịch giả Thiện Nhựt:
Ý nghĩa của bài kệ?
Lời hay ý đẹp?
I. Thêm chi tiết:
Kính gởi Thầy, Cô, Admin, và các bạn hữu.
1. Để đem lại sự lợi ích chung cho diễn đàn và các Phật tử tại gia nói riêng, thỉng cầu quí vị tra xét, phê bình, kiểm chứng các chi tiết sai lầm.
Như là: Sai tiêu đề, chủ đề, kết luận, văn từ đạo/đời, chánh tả.v.v.
2. Giải đáp, bình luận các quyết nghi “Giáo lý học” theo chuyện đời.
3. Giải đáp, luận bàn, vấn đáp các quyết nghi “Giáo lý học” theo chuyện đạo.
II. Ý nghĩa học hỏi:
Thứ nhứt cho người mới.
Thứ hai ôn lại bài,
Thứ ba thêm kiến thức,
Thứ tư học kinh nghiệm.
Thứ năm ứng-dụng đời/đạo.
III. Mục đích thực dụng:
Năng cao đời sống cộng đồng. Và Giáo lý Phật-giáo nói riêng.
IV. Nhớ nhớ:
Bạn tôi nhắn nhủ đôi điều,
Cho người mới học đặng ngay hiểu nhiều.
Trước là Phật Học Phổ Thông,
Sau là Pháp Cú làu thông, thuộc lòng.
Thông này chẳng hiểu liền ngay,
Hai mươi tiểu luận đọc ngay hiểu liền.
Thân ái. TN
http://sites.google.com/site/layphat/