Sen và Bùn (Bài 058-059)
Đã gửi: 15/04/10 08:33
Ái ngã luận (bài làm số 20)
1. Dựa đề 1:
Phiền não là Bồ đề
Tất cả những sự lo nghĩ thuộc phạm vi lợi kỷ đều do tâm phát sanh ra việc nghĩ tưởng, những điều lợi ích riêng cho mình, cho thân tộc mình, cho cái ta bẩn thỉu, đó là PHIỀN NÃO. Vì thế nên những điều nghĩ tưởng của nhân loại, chúng sanh trên phạm vi tư lợi, tự giác, Đức Lục Tổ Huệ Năng cho đó là phiền não.
Trái lại, cũng với trí huệ đó con người nghĩ tưởng những điều lợi ích cho toàn thể chúng sanh, vì chúng sanh mà hành động chớ không phải riêng cho cá nhân, thì họ ở trong cảnh trạng BỒ ĐỀ. Thế nên Lục Tổ nói phiền não tức Bồ đề.
Nhập Bồ Đề Tâm tức là học làm Phật và có học Phật mới tiến được đến lãnh vực NHẬP PHẬT TRI KIẾN.
Khi thể hiện Phật tánh liên tục tức là đã thành Phật như Phật. Đó là trạng thái Như Như. Người và chúng sanh đều có thể hiện Phật tánh, nhưng chỉ ở trong tình trạng vô ý thức, trong tình trạng bất ngờ, trong tình trạng vô tri, vô giác. Trạng thái ấy chỉ phát hiện trong lúc tâm tư con người được thanh tịnh và thư thái nhứt trong đời sống.... không bị quay cuồng theo giòng tư kỷ.
Bình luận.1: Sự thật phiền não tức là ngã tánh. Nếu không Thiền-định, thì không có trí huệ, Người đã thông suốt trí huệ, tất nhiên cũng thông suốt các phiền não. Thấy được phiền nào thì mới diệt phiền nảo, khi không còn phiền nảo, tâm thanh tịnh sẽ hiện thị.
Con người thể hiện được Phật tánh là khi nào đã thoát ra ngoài vòng tư kỷ, tư lợi, xa lìa được cái ta bẩn thỉu, xa lìa tư dục.
Nếu con người chưa an trụ được trong cảnh giới Đại Định thì khó có thể hiểu được câu: “Phiền não tức Bồ Đề”.
Bình luận.2: Vậy người mới tu Thiền, thì không nên theo kinh thuyết, mà phá chấp bậy bạ, khi chưa quán triệt được sự phân biệt giữa kiến thức và tuệ thức.
Nếu chưa rõ tột lý câu Phiền não tức Bồ Đề thì chưa “NHẬP BỒ ĐỀ TRI KIẾN”.
Từ chỗ Tri kiến Bồ Đề Tâm đến chỗ “thể hiện Phật tánh” nó chỉ một liên quan mật thiết, mà Thiền gia an trụ trong ĐẠI ĐỊNH mới có thể đọc đuợc sự liên quan đó trong quyển kinh VÔ TỰ của Đạt Ma Sư Tổ mới có thể thấy được điều ấy nơi “Chánh pháp nhãn tạng” mà Phật đã phó chúc cho ông Đại Ca Diếp.
Khi một niệm phát sanh duyên theo đời thì đó là phiền não và niệm niệm như thế liên tục mãi, thì con người cứ luân chuyển mãi theo bánh xe luân hồi. Khi bánh xe luân hồi cứ mãi quay thì con người không sao thoát ly ra được. Con người vì thế bị trói buộc vào bánh xe luân hồi, bằng những sợi dây vô hình. Những sợi dây đó tức là phiền não, là những tư tưởng, những niệm duyên theo ĐỜI.
Muốn dứt sự luân hồi thì phải dứt niệm duyên theo ĐỜI, và đồng thời xoay niệm đó theo ĐẠO.
Bình luận.3: Nếu đã dứt duyên theo đời, tức là không nói, không nghĩ thị phi và cách ly luôn với người. Còn ngược lại. Thì còn cái “Tình”. Nên tu mà không thấy mình tu, mới là tu. Hay “Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn”.
Có nhiều sách viết vắn tắt “muốn dứt phiền não, muốn dứt luân hồi thì phải dứt niệm”. Đó là sai lầm! Nếu dứt niệm tức là xác thân đâu còn hoạt động lúc bấy giờ hành giả đã chết rồi.
Nhiều Thiền gia sơ cơ tưởng dứt niệm là an trụ vào ĐẠI ĐỊNH. Thật ra cái nghĩa đó là chấm dứt tất cả mọi điều nghĩ tưởng tức là tập trung tư tưởng đến chỗ rốt ráo.
Khi tất cả tư tưởng đều vắng lặng chỉ còn một tư tưởng duy nhất thánh thiện, gom nó về một mối gọi là “Nhứt tâm”. Đó là Đại Định. Thiền gia đến giai đoạn này thì sẽ nhận những hậu quả hoặc kết quả như thế này:
Hậu quả:
• Nếu Thiền gia nhứt tâm theo các điều hung dữ, độc ác thì sẽ lọt vào vòng sa đọa muôn kiếp ngàn đời, không còn phương tiện thoát ly cái MÊ của chúng sanh...
• Nếu hành giả nhứt tâm theo tư dục, ba nghiệp “Thân, Khẩu, Ý” không được thanh tịnh tức là nhứt tâm theo Đời thì hành giả sẽ luân chuyển mãi trong vòng luân hồi, trải qua muôn kiếp ngàn đời không làm sao tìm ra lối thoát và cứ thế luân hồi mãi trong biển Phiền Não.
Bình luận.4: Do vậy nếu không thực hành đúng Pháp, thì sẽ rơi vào hậu quả này.
Kết quả:
• Nếu Thiền gia nhứt tâm theo Đạo... Nhứt tâm theo pháp lành như trong câu “Nhứt niệm A Di Đà” thì Thiền gia sẽ tự giải thoát khỏi mọi điều phiền não nơi cõi Ta Bà. Chớ không phải nhứt niệm theo lối hữu vi như nhứt niệm A Di Đà.
Bình luận.5: Lối hữu vi như nhứt niệm A Di Đà là chỉ biết niệm lục tự không có Thiền-định. Bạn là người mới thì theo lối đi hữu vi Niệm Phật rất tốt. Lâu dần, bạn sanh trí lực, từ trí lực đi vào Thiền-định là lối tu “Tiệm trước”. “Đốn sau”.
• Nếu Thiền gia nhứt tâm với Bồ Đề, với Niết Bàn thì Thiền gia sẽ được tự do tự tại ra vào nơi cảnh giới ấy (mặc dầu đang sống trong trần gian).
Khi ra đi muốn đến cõi Ta Bà, hay đến cõi Diêm Phù để thể hiện Tâm Đại Bi, để cứu độ chúng sanh ra khỏi mọi sự khổ đau và tội lỗi (chớ không phải tội nghiệp vì luân hồi mà sanh ra nơi cõi tạm Ta Bà).
Khi vào tức là trở về nơi Niết Bàn (lúc tịch diệt lìa bỏ thân xác) mà an hưởng “Thường, Lạc, Ngã, Tịnh”. Hay là nhập cảnh giới Bồ đề để thọ sự giáo hóa của chư Phật mười phương.
Thế nên, Lục Tổ Huệ Năng nói một câu vắn tắt trong Pháp Bảo Đàn kinh là “Phiền não tức Bồ đề” đều do nơi Trí Bát Nhã mà ra vậy. Và nếu không phải là Thiền gia thì khó mà thể hiện cái Trí Bát Nhã này.
(trích trong Thiền tông đông độ–Lục Tổ Huệ Năng và Phái Lâm Tế)
---o0o---
Dựa đề 2:
Phiền não là Bồ đề
Chi 1.
Tại sao lại có câu " Phiền não là Bồ đề " ? Nói như vậy chẳng phải là nghịch lý lắm sao ?
Vì phiền não (kilesa), cũng như lậu hoặc (asava), là những điều làm vẩn đục tâm thức, đưa tới hành động bất thiện (akusala), là lý do của khổ đau (dukkha). Chúng trói buộc chúng ta đời đời kiếp kiếp trong vòng sanh tử luân hồi (samsara).
Tu là tìm cách dứt bỏ các phiền não đó, từng cái một, như nhổ từng ngọn cỏ dại trong một khu vườn. Nhổ được ngọn này thì ngọn kia lại mọc ! cho đến khi... Cho đến khi không còn một mẩy may phiền não nữa, thì hành giả đã đạt được giác ngộ, hay Bồ đề (bodhi), tức là trở thành Phật, gọi là A La Hán theo truyền thống Nguyên thủy. Đồng thời tự giải thoát (moksha) ra khỏi sanh tử luân hồi, và đạt được Niết Bàn (nibbana).
Như vậy " phiền não " đối ngược lại với " Bồ đề ", và " luân hồi " đối ngược lại với " Niết Bàn ", cũng như " trắng " với " đen ", " thiện " với " ác ", v.v. ; khi có cái này thì không thể có cái kia.
Nếu lấy hình ảnh làm tượng trưng, thì phiền não là bùn lầy, mà Bồ đề là hoa sen, bùn lầy là bùn lầy, mà hoa sen là hoa sen, không thể nào lẫn lộn vàng thau được. Nếu " phiền não là Bồ đề " thì chẳng còn lý do gì để tu Phật nữa : ăn chay, giữ giới, tụng kinh, ngồi thiền làm gì, khi mà phiền não đã tự nó là Bồ đề rồi, chẳng làm gì rồi cũng thành Phật !
Vậy thì, tại sao lại có câu lạ lùng như vậy, đi ngược lại với lời dậy nguyên thủy của đức Phật ?
Thật ra, chúng ta cũng thừa biết rằng ở đời không có gì trắng hoàn toàn, mà cũng không có gì đen hoàn toàn, thiện và ác cũng chỉ là tương đối; tất cả đều là tương đối.
Rồi tất cả đổi thay, từ trắng ra đen, từ tối ra sáng, từ đục ra trong. Sen trong đầm tàn tạ rồi cũng hóa thành bùn, bùn bổ dưỡng rễ rồi cũng hóa thành sen...
Bình luận.6: Lối chấp này, vì bạn chưa đốn ngộ và chưa có tuệ thức. Nếu bạn muốn là bùn (làm ác thì sẽ rơi ngay vào địa ngục thế gian. Muốn là Sen thì phải Tu (thực hành). Hạnh phúc hiện tại hay không chính là do bạn. Lối chấp thiền là dao hai lưỡi đó bạn. Tu theo Thiền Tông Việt-nam theo Trần thái Tông, Tuệ Trung thượng sĩ thì lưỡng toàn.
Chắc các bạn hẳn còn nhớ câu chuyện một gã samourai thắc mắc không biết " thiên đường, địa ngục " là gì, nên mới tìm đến hỏi một vị thiền sư. Nghe xong, vị thiền sư lên tiếng mắng: " - Đồ ngu! Có thế mà cũng không biết ". Gã samourai nổi xung, mặt mày đỏ gay, rút kiếm đưa lên cao. " - Đó là địa ngục ", vị thiền sư thản nhiên nói. Giật mình và sượng sùng, gã samourai nét mặt dịu hiền trở lại, và từ từ hạ kiếm xuống. " - Đó là thiên đường ", vị thiền sư nheo mắt mỉm cười.
Như vậy là chỉ trong một nháy mắt, gã samourai đã xuống địa ngục và lên thiên đường.
Chỉ trong một nháy mắt, tâm thức hắn đã thay đổi, phiền não đã trở thành Bồ Đề. Thật ra, địa ngục hay thiên đường chỉ là ảo tưởng, là huyễn tượng, không hề có thật.
Huyễn tượng là huyễn tượng, cho nên địa ngục cũng là thiên đường, và phiền não cũng là Bồ Đề.
Chi 2:
" Phiền não là Bồ đề " cũng không khác gì " luân hồi là Niết Bàn ". Đó chính là một tôn chỉ của Đại Thừa, một biểu hiện của tinh thần Bát Nhã. Ngài Long Thụ (Nagarjuna) (tk. 1-2), nhà luận sư Ấn Độ đã sáng lập trường phái Trung Quán (Madhyamaka), đã chứng minh điều đó.
Theo ngài, nếu ta lấy khởi điểm là giáo lý căn bản của đức Phật, tức là vô ngã (anatta), duyên khởi (paticca-samuppada), thì ta sẽ đi tới tánh không (sunyata), rồi từ tánh không sẽ tới " luân hồi là Niết Bàn ".
Bình luận.7: Rất đúng! Nói về chơn lý vô ngã “Tánh Không”.
Nếu ngừng ở giáo lý cổ điển (như Tứ Đế, Bát Chánh Đạo, ngũ uẩn, lục căn, lục trần...), thì ta chỉ hiểu sự thật tương đối, qui ước (paramartha-satya), hay tục đế, trong khi sự thật tuyệt đối (samvriti-satya), hay chân đế, vì mang tánh không, không nắm bắt, không diễn tả được, cho nên vượt khỏi khái niệm, ngôn từ.
Tuy nhiên, chỉ cần đọc lại ba câu 277, 278 và 279 của Kinh Pháp Cú (Dhammapada): " Các hành vô thường. Các hành khổ. Các pháp vô ngã " (Sabbe samkhara anicca. Sabbe samkhara dukkha. Sabbe dhamma anatta), là chúng ta cũng thấy tầm quan trọng của các suy diễn theo sau.
Nhà Phật học Walpola Rahula đã nói rõ tại sao hai câu trên dùng chữ " hành ", mà câu cuối lại dùng chữ " pháp ". " Hành " tức là các pháp hữu vi (conditionnés), tức là ngũ uẩn; trong khi đó " pháp " gồm tất cả các pháp, hữu vi và vô vi - Niết Bàn là pháp vô vi -. Như vậy, không phải chỉ có cái ta (ego) là vô ngã, mà Niết Bàn cũng là vô ngã.
Bình luận.8: Nếu ngã đi vào vô ngã tức là chết. Thì người tu đâu còn “Tình” biết suy nghĩ trắng đen. Nên phải chấp ngũ uẩn là thật, các pháp “Hữu vi” là thật. Từ Có mới đi vào Không là vậy.
Vì tất cả các pháp (dhamma) đều hiện hữu do duyên khởi, cho nên mọi sự vật đều không có tự tánh, tức là không (sunya). Như vậy, mặc dù trong kinh điển nguyên thủy không có từ tánh không (sunyata), nhưng theo ngài Long Thụ, tánh không đã có mặt tiềm ẩn trong duyên khởi, và nói tới cái này tức là nói tới cái kia.
Điều đó, ngài đã nói rõ trong Trung Quán luận tụng (Madhyamaka-karika): " Duyên khởi, ta gọi là không " (chương XXIV, câu 18).
Và vì tất cả các pháp không có tự tánh, vì tất cả là không (" vạn pháp giai không "), cho nên tất cả đều như nhau, không khác gì nhau. Bởi vì luân hồi là không, Niết Bàn cũng là không, cho nên luân hồi là Niết Bàn, cũng như lời ngài đã nhắc đi nhắc lại trong Trung Quán luận tụng: " Không có một sự khác biệt nào giữa luân hồi và Niết Bàn " (chương XXV, câu 19). " Ranh giới của Niết Bàn là ranh giới của luân hồi. Giữa hai bên, không thể tìm thấy một sự khác biệt nào, dù vi tế nhất " (chương XXV, câu 20).
Như vậy, " luân hồi là Niết Bàn " đương nhiên trở thành một điểm nòng cốt của giáo lý Đại Thừa, của tinh thần Bát Nhã. Theo ngài Nguyệt Xứng (Candrakirti)(tk. 7), luận sư nổi tiếng thứ hai của phái Trung Quán, tánh không không phải chỉ là một lý thuyết suông, mà còn đóng một vai trò thực tiễn giúp con người tự giải phóng trên con đường giải thoát theo đạo Phật. " Mọi nhận thức về thế giới đều bị ngăn chận bởi tánh không, vì qua đó người ta nhìn thấy rõ cái không của mọi hiện hữu "(Minh Cú luận, Prasannapada).
Thấy rõ cái không của chính mình, làm cho người ta thoát khỏi sự trói buộc. Tánh không làm tan biến đi tất cả các ý tưởng, lời nói, hành động và các điều bất tịnh gắn liền với chúng. " Từ đây, ta gọi không là Niết Bàn, vì nó mang lại sự ngưng nghỉ của tất cả mọi ưu tư ". Thế giới sanh tử (samsara) và Niết Bàn đều là không, cho nên hai bên không có khác gì nhau. Phiền não và Bồ Đề cũng vậy.
Cuối cùng, theo Candrakirti, " bài học của đức Thế Tôn nhằm hướng dẫn chúng ta tới sự thật chân thật, an tịnh, không lệ thuộc vào một điều gì, không bị cản trở bởi ý tưởng, suy tư, không còn một mẩy may phân biệt ".
Nguyên Phước
(20/01/2010)
Bình luận.9: Tóm tắc lại các bài bình luận: Thuyết kinh Bát-nhã đại thừa, và Kinh kim-cang là pháp đốn ngộ. Trực chỉ, kiến Tánh thành Phật. Còn Tứ diệu đế. Là Pháp Tiệm-ngộ (Từ chận, từ gốc của khổ mà diệt bằng dao trí tuệ (Đạo-đế).
Kiến tánh thành Phật không dùng trí thế gian luận bàn chỉ là giả thuyết (Dù bạn là giản-sư hay nhà tâm lý học hoặc Triết học gia cũng không thấy được tánh “Không”. Bạn chỉ là người Thuyết-giả).
Bạn là người Thuyết-giả hay Hành-giả thì hãy luận bàn vào cho tới tận gốc của nó trong sự phân biệt giữa Hành-giả và Thuyết-giả, thì mới hy vọng tìm được tánh “Không”. Tức là Hành-giả thật sự (Gọi là thực hành Thiền-định).
Trong các xã hội nào trên thới giới này, Sự chứa đựng của bùn thì nhiều hơn Sen. Cho nên người đời khó phân biệt chánh tà, trắng đen. “Giống như câu: Sen tàn sẽ làm phân cho bùn, còn bùn sẽ nuôi sen”. Chính là “Phiền não là bồ đề” vậy. Nếu bạn muốn là Sen thì sẽ Tu, Tu tất phải sửa. Sửa trong xã hội hiện tại này. Nhân Phiền não ở đâu! – Là tất cã trong chữ “Tình” của ngôn từ ngày nay. Hãy suy nghĩ rồi hãy tiếp tục, thấy sai thì mới biết sửa đúng. Sửa đúng mới gọi là Tu.
Chú thích: Nhân của Khổ là Tập đế (10 Kiết sử chánh gọi chung lại là "Tham,Sân,Si".
Nhân của Tập đế là ái (Sắc,Thanh,Hương,Vị,Xúc,Pháp).
Nhân của ái là gì?
Ý nghĩa của chủ đề?
Cư sĩ:
Giữa hố rác dơ bên đại-lộ,
Hoa sen thơm nở, đẹp lòng người.
Cùng thế ấy, giữa chợ đời phàm-tục,
Kẻ mê-mù còn nhung-nhúc nơi nơi.
Nhô lên cao, với trí-huệ sáng ngời,
Người đệ-tử chơn-thành của Đức Phật.
(Kệ số 058 và 059)
Dịch giả Thiện Nhựt:
Ý nghĩa của bài kệ?
Lời hay ý đẹp?
I. Thêm chi tiết:
Kính gởi Thầy, Cô, Admin, và các bạn hữu.
1. Để đem lại sự lợi ích chung cho diễn đàn và các Phật tử tại gia nói riêng, thỉng cầu quí vị tra xét, phê bình, kiểm chứng các chi tiết sai lầm.
Như là: Sai tiêu đề, chủ đề, kết luận, văn từ đạo/đời, chánh tả.v.v.
2. Giải đáp, bình luận các quyết nghi “Giáo lý học” theo chuyện đời.
3. Giải đáp, luận bàn, vấn đáp các quyết nghi “Giáo lý học” theo chuyện đạo.
II. Ý nghĩa học hỏi:
Thứ nhứt cho người mới.
Thứ hai ôn lại bài,
Thứ ba thêm kiến thức,
Thứ tư học kinh nghiệm.
Thứ năm ứng-dụng đời/đạo.
III. Mục đích thực dụng:
Năng cao đời sống cộng đồng. Và Giáo lý Phật-giáo nói riêng.
IV. Nhớ nhớ:
Bạn tôi nhắn nhủ đôi điều,
Cho người mới học đặng ngay hiểu nhiều.
Trước là Phật Học Phổ Thông,
Sau là Pháp Cú làu thông, thuộc lòng.
Thông này chẳng hiểu liền ngay,
Hai mươi tiểu luận đọc ngay hiểu liền.
Thân ái. TN
http://sites.google.com/site/layphat/
1. Dựa đề 1:
Phiền não là Bồ đề
Tất cả những sự lo nghĩ thuộc phạm vi lợi kỷ đều do tâm phát sanh ra việc nghĩ tưởng, những điều lợi ích riêng cho mình, cho thân tộc mình, cho cái ta bẩn thỉu, đó là PHIỀN NÃO. Vì thế nên những điều nghĩ tưởng của nhân loại, chúng sanh trên phạm vi tư lợi, tự giác, Đức Lục Tổ Huệ Năng cho đó là phiền não.
Trái lại, cũng với trí huệ đó con người nghĩ tưởng những điều lợi ích cho toàn thể chúng sanh, vì chúng sanh mà hành động chớ không phải riêng cho cá nhân, thì họ ở trong cảnh trạng BỒ ĐỀ. Thế nên Lục Tổ nói phiền não tức Bồ đề.
Nhập Bồ Đề Tâm tức là học làm Phật và có học Phật mới tiến được đến lãnh vực NHẬP PHẬT TRI KIẾN.
Khi thể hiện Phật tánh liên tục tức là đã thành Phật như Phật. Đó là trạng thái Như Như. Người và chúng sanh đều có thể hiện Phật tánh, nhưng chỉ ở trong tình trạng vô ý thức, trong tình trạng bất ngờ, trong tình trạng vô tri, vô giác. Trạng thái ấy chỉ phát hiện trong lúc tâm tư con người được thanh tịnh và thư thái nhứt trong đời sống.... không bị quay cuồng theo giòng tư kỷ.
Bình luận.1: Sự thật phiền não tức là ngã tánh. Nếu không Thiền-định, thì không có trí huệ, Người đã thông suốt trí huệ, tất nhiên cũng thông suốt các phiền não. Thấy được phiền nào thì mới diệt phiền nảo, khi không còn phiền nảo, tâm thanh tịnh sẽ hiện thị.
Con người thể hiện được Phật tánh là khi nào đã thoát ra ngoài vòng tư kỷ, tư lợi, xa lìa được cái ta bẩn thỉu, xa lìa tư dục.
Nếu con người chưa an trụ được trong cảnh giới Đại Định thì khó có thể hiểu được câu: “Phiền não tức Bồ Đề”.
Bình luận.2: Vậy người mới tu Thiền, thì không nên theo kinh thuyết, mà phá chấp bậy bạ, khi chưa quán triệt được sự phân biệt giữa kiến thức và tuệ thức.
Nếu chưa rõ tột lý câu Phiền não tức Bồ Đề thì chưa “NHẬP BỒ ĐỀ TRI KIẾN”.
Từ chỗ Tri kiến Bồ Đề Tâm đến chỗ “thể hiện Phật tánh” nó chỉ một liên quan mật thiết, mà Thiền gia an trụ trong ĐẠI ĐỊNH mới có thể đọc đuợc sự liên quan đó trong quyển kinh VÔ TỰ của Đạt Ma Sư Tổ mới có thể thấy được điều ấy nơi “Chánh pháp nhãn tạng” mà Phật đã phó chúc cho ông Đại Ca Diếp.
Khi một niệm phát sanh duyên theo đời thì đó là phiền não và niệm niệm như thế liên tục mãi, thì con người cứ luân chuyển mãi theo bánh xe luân hồi. Khi bánh xe luân hồi cứ mãi quay thì con người không sao thoát ly ra được. Con người vì thế bị trói buộc vào bánh xe luân hồi, bằng những sợi dây vô hình. Những sợi dây đó tức là phiền não, là những tư tưởng, những niệm duyên theo ĐỜI.
Muốn dứt sự luân hồi thì phải dứt niệm duyên theo ĐỜI, và đồng thời xoay niệm đó theo ĐẠO.
Bình luận.3: Nếu đã dứt duyên theo đời, tức là không nói, không nghĩ thị phi và cách ly luôn với người. Còn ngược lại. Thì còn cái “Tình”. Nên tu mà không thấy mình tu, mới là tu. Hay “Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn”.
Có nhiều sách viết vắn tắt “muốn dứt phiền não, muốn dứt luân hồi thì phải dứt niệm”. Đó là sai lầm! Nếu dứt niệm tức là xác thân đâu còn hoạt động lúc bấy giờ hành giả đã chết rồi.
Nhiều Thiền gia sơ cơ tưởng dứt niệm là an trụ vào ĐẠI ĐỊNH. Thật ra cái nghĩa đó là chấm dứt tất cả mọi điều nghĩ tưởng tức là tập trung tư tưởng đến chỗ rốt ráo.
Khi tất cả tư tưởng đều vắng lặng chỉ còn một tư tưởng duy nhất thánh thiện, gom nó về một mối gọi là “Nhứt tâm”. Đó là Đại Định. Thiền gia đến giai đoạn này thì sẽ nhận những hậu quả hoặc kết quả như thế này:
Hậu quả:
• Nếu Thiền gia nhứt tâm theo các điều hung dữ, độc ác thì sẽ lọt vào vòng sa đọa muôn kiếp ngàn đời, không còn phương tiện thoát ly cái MÊ của chúng sanh...
• Nếu hành giả nhứt tâm theo tư dục, ba nghiệp “Thân, Khẩu, Ý” không được thanh tịnh tức là nhứt tâm theo Đời thì hành giả sẽ luân chuyển mãi trong vòng luân hồi, trải qua muôn kiếp ngàn đời không làm sao tìm ra lối thoát và cứ thế luân hồi mãi trong biển Phiền Não.
Bình luận.4: Do vậy nếu không thực hành đúng Pháp, thì sẽ rơi vào hậu quả này.
Kết quả:
• Nếu Thiền gia nhứt tâm theo Đạo... Nhứt tâm theo pháp lành như trong câu “Nhứt niệm A Di Đà” thì Thiền gia sẽ tự giải thoát khỏi mọi điều phiền não nơi cõi Ta Bà. Chớ không phải nhứt niệm theo lối hữu vi như nhứt niệm A Di Đà.
Bình luận.5: Lối hữu vi như nhứt niệm A Di Đà là chỉ biết niệm lục tự không có Thiền-định. Bạn là người mới thì theo lối đi hữu vi Niệm Phật rất tốt. Lâu dần, bạn sanh trí lực, từ trí lực đi vào Thiền-định là lối tu “Tiệm trước”. “Đốn sau”.
• Nếu Thiền gia nhứt tâm với Bồ Đề, với Niết Bàn thì Thiền gia sẽ được tự do tự tại ra vào nơi cảnh giới ấy (mặc dầu đang sống trong trần gian).
Khi ra đi muốn đến cõi Ta Bà, hay đến cõi Diêm Phù để thể hiện Tâm Đại Bi, để cứu độ chúng sanh ra khỏi mọi sự khổ đau và tội lỗi (chớ không phải tội nghiệp vì luân hồi mà sanh ra nơi cõi tạm Ta Bà).
Khi vào tức là trở về nơi Niết Bàn (lúc tịch diệt lìa bỏ thân xác) mà an hưởng “Thường, Lạc, Ngã, Tịnh”. Hay là nhập cảnh giới Bồ đề để thọ sự giáo hóa của chư Phật mười phương.
Thế nên, Lục Tổ Huệ Năng nói một câu vắn tắt trong Pháp Bảo Đàn kinh là “Phiền não tức Bồ đề” đều do nơi Trí Bát Nhã mà ra vậy. Và nếu không phải là Thiền gia thì khó mà thể hiện cái Trí Bát Nhã này.
(trích trong Thiền tông đông độ–Lục Tổ Huệ Năng và Phái Lâm Tế)
---o0o---
Dựa đề 2:
Phiền não là Bồ đề
Chi 1.
Tại sao lại có câu " Phiền não là Bồ đề " ? Nói như vậy chẳng phải là nghịch lý lắm sao ?
Vì phiền não (kilesa), cũng như lậu hoặc (asava), là những điều làm vẩn đục tâm thức, đưa tới hành động bất thiện (akusala), là lý do của khổ đau (dukkha). Chúng trói buộc chúng ta đời đời kiếp kiếp trong vòng sanh tử luân hồi (samsara).
Tu là tìm cách dứt bỏ các phiền não đó, từng cái một, như nhổ từng ngọn cỏ dại trong một khu vườn. Nhổ được ngọn này thì ngọn kia lại mọc ! cho đến khi... Cho đến khi không còn một mẩy may phiền não nữa, thì hành giả đã đạt được giác ngộ, hay Bồ đề (bodhi), tức là trở thành Phật, gọi là A La Hán theo truyền thống Nguyên thủy. Đồng thời tự giải thoát (moksha) ra khỏi sanh tử luân hồi, và đạt được Niết Bàn (nibbana).
Như vậy " phiền não " đối ngược lại với " Bồ đề ", và " luân hồi " đối ngược lại với " Niết Bàn ", cũng như " trắng " với " đen ", " thiện " với " ác ", v.v. ; khi có cái này thì không thể có cái kia.
Nếu lấy hình ảnh làm tượng trưng, thì phiền não là bùn lầy, mà Bồ đề là hoa sen, bùn lầy là bùn lầy, mà hoa sen là hoa sen, không thể nào lẫn lộn vàng thau được. Nếu " phiền não là Bồ đề " thì chẳng còn lý do gì để tu Phật nữa : ăn chay, giữ giới, tụng kinh, ngồi thiền làm gì, khi mà phiền não đã tự nó là Bồ đề rồi, chẳng làm gì rồi cũng thành Phật !
Vậy thì, tại sao lại có câu lạ lùng như vậy, đi ngược lại với lời dậy nguyên thủy của đức Phật ?
Thật ra, chúng ta cũng thừa biết rằng ở đời không có gì trắng hoàn toàn, mà cũng không có gì đen hoàn toàn, thiện và ác cũng chỉ là tương đối; tất cả đều là tương đối.
Rồi tất cả đổi thay, từ trắng ra đen, từ tối ra sáng, từ đục ra trong. Sen trong đầm tàn tạ rồi cũng hóa thành bùn, bùn bổ dưỡng rễ rồi cũng hóa thành sen...
Bình luận.6: Lối chấp này, vì bạn chưa đốn ngộ và chưa có tuệ thức. Nếu bạn muốn là bùn (làm ác thì sẽ rơi ngay vào địa ngục thế gian. Muốn là Sen thì phải Tu (thực hành). Hạnh phúc hiện tại hay không chính là do bạn. Lối chấp thiền là dao hai lưỡi đó bạn. Tu theo Thiền Tông Việt-nam theo Trần thái Tông, Tuệ Trung thượng sĩ thì lưỡng toàn.
Chắc các bạn hẳn còn nhớ câu chuyện một gã samourai thắc mắc không biết " thiên đường, địa ngục " là gì, nên mới tìm đến hỏi một vị thiền sư. Nghe xong, vị thiền sư lên tiếng mắng: " - Đồ ngu! Có thế mà cũng không biết ". Gã samourai nổi xung, mặt mày đỏ gay, rút kiếm đưa lên cao. " - Đó là địa ngục ", vị thiền sư thản nhiên nói. Giật mình và sượng sùng, gã samourai nét mặt dịu hiền trở lại, và từ từ hạ kiếm xuống. " - Đó là thiên đường ", vị thiền sư nheo mắt mỉm cười.
Như vậy là chỉ trong một nháy mắt, gã samourai đã xuống địa ngục và lên thiên đường.
Chỉ trong một nháy mắt, tâm thức hắn đã thay đổi, phiền não đã trở thành Bồ Đề. Thật ra, địa ngục hay thiên đường chỉ là ảo tưởng, là huyễn tượng, không hề có thật.
Huyễn tượng là huyễn tượng, cho nên địa ngục cũng là thiên đường, và phiền não cũng là Bồ Đề.
Chi 2:
" Phiền não là Bồ đề " cũng không khác gì " luân hồi là Niết Bàn ". Đó chính là một tôn chỉ của Đại Thừa, một biểu hiện của tinh thần Bát Nhã. Ngài Long Thụ (Nagarjuna) (tk. 1-2), nhà luận sư Ấn Độ đã sáng lập trường phái Trung Quán (Madhyamaka), đã chứng minh điều đó.
Theo ngài, nếu ta lấy khởi điểm là giáo lý căn bản của đức Phật, tức là vô ngã (anatta), duyên khởi (paticca-samuppada), thì ta sẽ đi tới tánh không (sunyata), rồi từ tánh không sẽ tới " luân hồi là Niết Bàn ".
Bình luận.7: Rất đúng! Nói về chơn lý vô ngã “Tánh Không”.
Nếu ngừng ở giáo lý cổ điển (như Tứ Đế, Bát Chánh Đạo, ngũ uẩn, lục căn, lục trần...), thì ta chỉ hiểu sự thật tương đối, qui ước (paramartha-satya), hay tục đế, trong khi sự thật tuyệt đối (samvriti-satya), hay chân đế, vì mang tánh không, không nắm bắt, không diễn tả được, cho nên vượt khỏi khái niệm, ngôn từ.
Tuy nhiên, chỉ cần đọc lại ba câu 277, 278 và 279 của Kinh Pháp Cú (Dhammapada): " Các hành vô thường. Các hành khổ. Các pháp vô ngã " (Sabbe samkhara anicca. Sabbe samkhara dukkha. Sabbe dhamma anatta), là chúng ta cũng thấy tầm quan trọng của các suy diễn theo sau.
Nhà Phật học Walpola Rahula đã nói rõ tại sao hai câu trên dùng chữ " hành ", mà câu cuối lại dùng chữ " pháp ". " Hành " tức là các pháp hữu vi (conditionnés), tức là ngũ uẩn; trong khi đó " pháp " gồm tất cả các pháp, hữu vi và vô vi - Niết Bàn là pháp vô vi -. Như vậy, không phải chỉ có cái ta (ego) là vô ngã, mà Niết Bàn cũng là vô ngã.
Bình luận.8: Nếu ngã đi vào vô ngã tức là chết. Thì người tu đâu còn “Tình” biết suy nghĩ trắng đen. Nên phải chấp ngũ uẩn là thật, các pháp “Hữu vi” là thật. Từ Có mới đi vào Không là vậy.
Vì tất cả các pháp (dhamma) đều hiện hữu do duyên khởi, cho nên mọi sự vật đều không có tự tánh, tức là không (sunya). Như vậy, mặc dù trong kinh điển nguyên thủy không có từ tánh không (sunyata), nhưng theo ngài Long Thụ, tánh không đã có mặt tiềm ẩn trong duyên khởi, và nói tới cái này tức là nói tới cái kia.
Điều đó, ngài đã nói rõ trong Trung Quán luận tụng (Madhyamaka-karika): " Duyên khởi, ta gọi là không " (chương XXIV, câu 18).
Và vì tất cả các pháp không có tự tánh, vì tất cả là không (" vạn pháp giai không "), cho nên tất cả đều như nhau, không khác gì nhau. Bởi vì luân hồi là không, Niết Bàn cũng là không, cho nên luân hồi là Niết Bàn, cũng như lời ngài đã nhắc đi nhắc lại trong Trung Quán luận tụng: " Không có một sự khác biệt nào giữa luân hồi và Niết Bàn " (chương XXV, câu 19). " Ranh giới của Niết Bàn là ranh giới của luân hồi. Giữa hai bên, không thể tìm thấy một sự khác biệt nào, dù vi tế nhất " (chương XXV, câu 20).
Như vậy, " luân hồi là Niết Bàn " đương nhiên trở thành một điểm nòng cốt của giáo lý Đại Thừa, của tinh thần Bát Nhã. Theo ngài Nguyệt Xứng (Candrakirti)(tk. 7), luận sư nổi tiếng thứ hai của phái Trung Quán, tánh không không phải chỉ là một lý thuyết suông, mà còn đóng một vai trò thực tiễn giúp con người tự giải phóng trên con đường giải thoát theo đạo Phật. " Mọi nhận thức về thế giới đều bị ngăn chận bởi tánh không, vì qua đó người ta nhìn thấy rõ cái không của mọi hiện hữu "(Minh Cú luận, Prasannapada).
Thấy rõ cái không của chính mình, làm cho người ta thoát khỏi sự trói buộc. Tánh không làm tan biến đi tất cả các ý tưởng, lời nói, hành động và các điều bất tịnh gắn liền với chúng. " Từ đây, ta gọi không là Niết Bàn, vì nó mang lại sự ngưng nghỉ của tất cả mọi ưu tư ". Thế giới sanh tử (samsara) và Niết Bàn đều là không, cho nên hai bên không có khác gì nhau. Phiền não và Bồ Đề cũng vậy.
Cuối cùng, theo Candrakirti, " bài học của đức Thế Tôn nhằm hướng dẫn chúng ta tới sự thật chân thật, an tịnh, không lệ thuộc vào một điều gì, không bị cản trở bởi ý tưởng, suy tư, không còn một mẩy may phân biệt ".
Nguyên Phước
(20/01/2010)
Bình luận.9: Tóm tắc lại các bài bình luận: Thuyết kinh Bát-nhã đại thừa, và Kinh kim-cang là pháp đốn ngộ. Trực chỉ, kiến Tánh thành Phật. Còn Tứ diệu đế. Là Pháp Tiệm-ngộ (Từ chận, từ gốc của khổ mà diệt bằng dao trí tuệ (Đạo-đế).
Kiến tánh thành Phật không dùng trí thế gian luận bàn chỉ là giả thuyết (Dù bạn là giản-sư hay nhà tâm lý học hoặc Triết học gia cũng không thấy được tánh “Không”. Bạn chỉ là người Thuyết-giả).
Bạn là người Thuyết-giả hay Hành-giả thì hãy luận bàn vào cho tới tận gốc của nó trong sự phân biệt giữa Hành-giả và Thuyết-giả, thì mới hy vọng tìm được tánh “Không”. Tức là Hành-giả thật sự (Gọi là thực hành Thiền-định).
Trong các xã hội nào trên thới giới này, Sự chứa đựng của bùn thì nhiều hơn Sen. Cho nên người đời khó phân biệt chánh tà, trắng đen. “Giống như câu: Sen tàn sẽ làm phân cho bùn, còn bùn sẽ nuôi sen”. Chính là “Phiền não là bồ đề” vậy. Nếu bạn muốn là Sen thì sẽ Tu, Tu tất phải sửa. Sửa trong xã hội hiện tại này. Nhân Phiền não ở đâu! – Là tất cã trong chữ “Tình” của ngôn từ ngày nay. Hãy suy nghĩ rồi hãy tiếp tục, thấy sai thì mới biết sửa đúng. Sửa đúng mới gọi là Tu.
Chú thích: Nhân của Khổ là Tập đế (10 Kiết sử chánh gọi chung lại là "Tham,Sân,Si".
Nhân của Tập đế là ái (Sắc,Thanh,Hương,Vị,Xúc,Pháp).
Nhân của ái là gì?
Ý nghĩa của chủ đề?
Cư sĩ:
Giữa hố rác dơ bên đại-lộ,
Hoa sen thơm nở, đẹp lòng người.
Cùng thế ấy, giữa chợ đời phàm-tục,
Kẻ mê-mù còn nhung-nhúc nơi nơi.
Nhô lên cao, với trí-huệ sáng ngời,
Người đệ-tử chơn-thành của Đức Phật.
(Kệ số 058 và 059)
Dịch giả Thiện Nhựt:
Ý nghĩa của bài kệ?
Lời hay ý đẹp?
I. Thêm chi tiết:
Kính gởi Thầy, Cô, Admin, và các bạn hữu.
1. Để đem lại sự lợi ích chung cho diễn đàn và các Phật tử tại gia nói riêng, thỉng cầu quí vị tra xét, phê bình, kiểm chứng các chi tiết sai lầm.
Như là: Sai tiêu đề, chủ đề, kết luận, văn từ đạo/đời, chánh tả.v.v.
2. Giải đáp, bình luận các quyết nghi “Giáo lý học” theo chuyện đời.
3. Giải đáp, luận bàn, vấn đáp các quyết nghi “Giáo lý học” theo chuyện đạo.
II. Ý nghĩa học hỏi:
Thứ nhứt cho người mới.
Thứ hai ôn lại bài,
Thứ ba thêm kiến thức,
Thứ tư học kinh nghiệm.
Thứ năm ứng-dụng đời/đạo.
III. Mục đích thực dụng:
Năng cao đời sống cộng đồng. Và Giáo lý Phật-giáo nói riêng.
IV. Nhớ nhớ:
Bạn tôi nhắn nhủ đôi điều,
Cho người mới học đặng ngay hiểu nhiều.
Trước là Phật Học Phổ Thông,
Sau là Pháp Cú làu thông, thuộc lòng.
Thông này chẳng hiểu liền ngay,
Hai mươi tiểu luận đọc ngay hiểu liền.
Thân ái. TN
http://sites.google.com/site/layphat/