ĐA VĂN ĐỆ NHẤT
- 1. NHÂN DUYÊN XUẤT GIA
- Tướng như thu mãn nguyệt
Nhãn tợ thanh liên hoa
Phật pháp như đại hải
Lưu nhập A Nan tâm.
Dịch:
Tướng như trăng thu đầy
Mắt biếc tợ sen xanh
Phật pháp rộng như bể
Đều rót vào tâm A Nan.
Tôn giả có một cuộc đời thật phi thường, đối với giáo đoàn đương thời và cho đến Phật pháp hôm nay, đều có ảnh hưởng rất sâu xa.
A Nan Đà cũng như La Hầu La, đều là đồng nhân vào đạo. Khi A Nan gia nhập tăng đoàn, không biết vào khoảng mấy tuổi, điều này khó bảo chứng. Nhưng căn cứ vào truyền thuyết, trong nhóm các vương tử A Na Luật, Bạt Đề... đồng xuất gia thì A Nan nhỏ tuổi nhất tham dự trong ấy.
Phụ thân của A Nan là Bạch Phạn Vương, còn Đề Bà Đạt Đa là anh ruột. Sở dĩ A Nan gia nhập tăng đoàn trong tuổi đồng niên, vì đó là điều trông mong của đức Phật. Khi đức Phật trở về quê thuyết pháp, Bạch Phạn Vương sợ A Nan chịu ảnh hưởng về tư tưởng xuất thế của Phật, cho nên sau khi gặp Phật không lâu, nhà vua bèn đưa A Nan sang nước Tỳ Xá Ly, không để có cơ hội thường tiếp xúc với Phật. Khi Phật đi sang nước Tỳ Xá Ly, Bạch Phạn Vương lại đưa A Nan trở về thành Ca Tỳ La.
Nói đến chỗ này thật là duyên bất khả tư nghị, trong số các vương tử, đức Phật hy vọng nhất là A Nan theo ngài xuất gia. Buổi tương kiến đầu tiên vừa thấy A Nan, đức Phật đã thầm nghĩ: "Nếu như A Nan xuất gia, thì tương lai có thể giữ gìn mối đạo khiến Phật pháp lưu truyền vĩnh viễn ở hậu thế". Một nhân vật vĩ đại thì điều quan trọng là chọn người có thể nối tiếp sự nghiệp của mình, xây dựng cho người ấy, đề cử người ấy thêm lên. Phật thành đạo không bao lâu, ngài bèn chọn A Nan, thật là ngài nhìn xa thấy rộng.
Phật biết A Nan đã trở về thành Ca Tỳ La, bèn lập tức quay về và đến ngay cung điện của Bạch Phạn Vương, ngự tại phòng kế cận của phòng A Nan.
A Nan mở cửa ngó qua, thấy đức Phật bèn cung kính đảnh lễ, và lấy quạt quạt cho đức Phật. Qua thái độ này chúng ta có thể thấy rằng tâm hồn thơ bé của A Nan, đã sớm khởi lòng tin tưởng, cung kính đối với đức Phật.
Do đó, khi gặp cơ hội, A Nan bèn cùng với các vương tử Bạt Đề v.v... thí phát xuất gia, gia nhập tăng đoàn.
- 2. GIÚP CHO NỮ GIỚI XUẤT GIA
Nếu không có A Nan, ngày nay trong tăng đoàn cho phép hay không cho phép người nữ xuất gia làm Tỳ kheo ni điều ấy thật là khó biết.
Nói về duyên khởi cho nữ giới được hứa khả xuất gia theo chánh pháp, hoàn toàn do công lao của Tôn giả A Nan.
Số là hoàng hậu Kiều Đàm Di, em gái của thánh mẫu Ma Gia, là dưỡng mẫu của Phật. Bà thấy sau khi Phật thành đạo trong vòng năm năm, trong dòng họ Thích có các vương tử Bạt Đề, A Na Luật, A Nan... đầu tiên quy y Phật và xuất gia, vương tôn La Hầu La cũng đã là Sa di, vua Tịnh Phạn đã băng hà, bà nghĩ trước sau muôn phần cảm khái. Do thiện căn bắt đầu nẩy mầm, bà bèn đến xin Phật cho phép được ở trong tăng đoàn xuất gia tu tập.
Bà yêu cầu lần thứ nhất, Phật liền từ chối, bà lại yêu cầu đôi ba phen, cũng không được Phật chấp nhận. Sau Phật sợ bà Kiều Đàm kèo nài phiền phức, bèn dẫn đồ chúng đi sang nước Tỳ Xá Ly, ngụ tại tịnh xá Ma Na Đề Ni.
Bà Kiều Đàm vẫn không nản lòng, bà tập họp năm trăm người nữ dòng họ Thích cùng đồng ý nguyện, cắt bỏ tóc, đi chân đất, rời thành Ca Tỳ La đuổi theo Phật đến Tỳ Xá Ly. Ca Tỳ La cách Tỳ Xá Ly hai ngàn dặm đường, các vị phu nhân như tiểu thư này, từ trước tới giờ quen ở thâm cung, lên xe xuống lầu, không hề động đến móng tay. Hôm nay biến thành các ni cô, ba y một bát, đầu trần chân đất, lội bộ suốt hai mươi ngày đường, dân chúng hai bên đường, phần cảm động, phần hiếu kỳ, họ rủ nhau đi xem chật ních, có người còn dự bị thức ăn đem theo đoàn người cầu pháp. Và rốt cuộc các bà các cô cũng đến được tịnh xá Ma Na Đề Ni.
Lúc ấy trời đã xế chiều, vì không quen đi đường, ai nấy đều thở chẳng ra hơi, hình dung tiều tụy, mệt nhọc, cả đoàn cứ lẩn quẩn trước cửa tịnh xá, chẳng dám bước vào. Thời may A Nan trong tịnh xá đi ra, thấy bà Kiều Đàm và năm trăm người nữ dòng họ Thích, đều mặc y phục Tỳ kheo ni, bụi bậm lấm lem, nước mắt đầm đìa. A Nan vốn giàu tình cảm, đã ngạc nhiên kêu lên:
- Các bà làm gì ở đây?
Bà Kiều Đàm đáp:
- Chúng tôi vì muốn cầu đạo, cắt ái từ thân, bỏ nhà đến đây cầu xin được thế độ, nếu như lần này Phật không cho phép, chúng tôi nguyện liều chết tại đây chớ không chịu về.
A Nan nghe bà Kiều Đàn nói cảm động rơi nước mắt, bèn an ủi:
- Các vị hãy yên tâm! Tôi thấy tình cảnh các vị như thế này trong lòng hết sức áy náy. Các vị hãy chờ ở đây một lát, tôi sẽ vào xin đức Thế Tôn dùm cho.
Thầy A Nan trẻ tuổi lại đa cảm, vội vả trở vào tịnh xá, đem hết nguyện vọng của bà Kiều Đàm và bọn người thưa lên đức Phật, khẩn cầu Phật thương xót họ, cho phép được xuất gia.
Phật từ chối:
- Ta cũng thương cho họ đấy, nhưng vì sự truyền thừa chánh pháp không thể chấp nhận được. Ông ra bảo họ rằng ta không đồng ý.
A Nan không chịu đi ra, còn nài nỉ với Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu là ai khác thì con có thể từ chối được, nhưng đàng này là bà Kiều Đàm Di, nếu nói thẳng chắc là sẽ có chuyện không hay. Họ đã nói chẳng thà chết chớ không chịu về.
- Này A Nan! Hứa khả cho người nữ xuất gia trong tăng đoàn thiệt chẳng tiện chút nào.
- Bạch Thế Tôn! Chẳng lẽ Phật pháp lại phân biệt nam và nữ hay sao?
A Nan cố xin dùm cho phái nữ, nên ở trước Phật ra sức vận động.
- Này A Nan! Pháp của ta thì dù ở cõi người cõi trời đều một vị, ta không lựa riêng nam hay nữ, tất cả đều là chúng sanh đáng thương, ta đều đối xử bình đẳng. Người nữ có thể tin theo pháp của ta như bên nam giới, tu hành như nhau, chứng quả như nhau, chỉ không nhất định họ phải xuất gia. Đây là vấn đề pháp chế, không phải vấn đề nam nữ bình đẳng. Người nữ xuất gia như đám ruộng tốt sanh sản nhiều cỏ dại, không gặt hái được bao nhiêu.
Đức Thế Tôn nhìn xa thấy rộng nên lời nói của ngài hàm chứa ý nghĩa đặc biệt. Đương nhiên nếu chiếu theo tình người thì nên cho phép nữ giới xuất gia, nhưng nếu đứng về mặt pháp lý, thì nam hay nữ cùng tu học chung một trụ xứ, là một việc rất khó giải quyết. Trí tuệ và tình cảm là hai đường đối nghịch nhau. Phật không cho phép người nữ xuất gia chính vì điểm đó. Người nữ rất nặng tình cảm, họ có thể vì tình mà bỏ đạo, thôi tu, đó là điều không thể chấp thuận. Hoặc có thể vì nữ nhân tâm ngã mạn, ham danh nặng hơn nam giới, nên ngài không hứa khả cho xuất gia là muốn dạy cho họ một bài học.
Thấy Phật kiên quyết từ chối đến mấy, A Nan bản tính vốn ôn hòa chưa từng cãi đức Phật một câu, mà phen này cũng rơi lệ sụt sùi đảnh lễ thưa đức Phật:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng lẽ ngài nhẫn tâm để họ chết, mà không đưa tay từ bi cứu độ?
Phật thấy rằng trên đời này pháp lý và tình cảm cũng có khi không thể vẹn toàn. Ngài cũng biết rõ mối quan hệ nhân duyên, không thể có một pháp nào trên đời này mà thanh tịnh, thường trú bất biến mãi mái, bất đắc dĩ bảo A Nan:
- Chẳng còn cách nào hơn. Thôi! Ông hãy ra kêu họ vào đây.
Từ mệnh của Phật ban ra, A Nan vui mừng chạy ra báo tin vui. Bà Kiều Đàm và năm trăm người nghe tin cũng mừng rỡ đến rơi nước mắt.
Họ theo nhau vào diện kiến đức Phật, ngài thản nhiên như không quan tâm đến, ôn hòa cho phép họ xuất gia làm Tỳ kheo ni, nhưng yêu cầu phải giữ gìn Bát Kỉnh pháp.
Với sự hỗ trợ của A Nan, rốt cuộc giáo đoàn ni được thành lập, bà Kiều Đàm rất cảm kích đối với ơn của A Nan, bà thành khẩn nói lên sự vui mừng của mình:
- A Nan! Chúng tôi vâng giữ Bát kỉnh pháp cũng như người đẹp mà được mặc y phục mỹ lệ vậy.
Ngày nay trong tăng đoàn cho phép nữ giới xuất gia, đều nhờ sự ủng hộ đầu tiên của A Nan. Do duyên ấy, phái nữ đối với Tôn giả có duyên đặc biệt, Tôn giả là người rất được họ kính ngưỡng.
- 3. CÂU CHUYỆN VỀ MA ĐĂNG GIÀ
Hôm ấy, sau mùa an cư, A Nan bưng bát đi vào thành Xá Vệ khất thực. Trên đường đi ngang qua một giếng nước, có một cô gái dòng Thủ Đà La đang lui cui xách nước, A Nan cảm thấy khát, bèn đến bên giếng và nói:
- Cô nương! Xin bố thí cho tôi miếng nước.
Cô gái ngẩng đầu lên, thấy một vị Tỳ kheo trẻ tuổi trang nghiêm, và nhận ra đó là A Nan Đà, cô vội nhìn xuống phục sức của mình và thẹn thùng nói nhỏ:
- Thưa Tôn giả! Tôn không tiếc chi với ngài, nhưng tôi thuộc dòng hạ tiện, làm sao có thể cúng dường cho ngài?
A Nan nói:
- Này cô nương! Tôi là Tỳ kheo không có tâm phân biệt cao thấp sang hèn đâu!
Cô gái bèn vui vẻ đem gáo nước trong trẻo đưa cho A Nan, A Nan uống xong, thốt lời cảm ơn và lặng lẽ tiếp tục đi.
Mối tình đầu chớm nở trong lòng cô thiếu nữ, cô không ngăn nổi tia nước mắt lưu luyến đưa theo hình ảnh A Nan. Dáng dấp quý phái cao sang của dòng vua ấy, lời lẽ ôn hòa ấy, như một nét mực đậm in trên tâm hồn trong trẻo của cô, vĩnh viễn không thể xóa nhòa, thậm chí cô lại vọng tưởng mơ mộng rằng, giá mà được kết hôn với A Nan, thì hạnh phúc biết mấy mà kể.
Cô gái về nhà, bơ phờ như người mất hồn, không thiết gì ăn uống, làm công chuyện qua loa rồi nằm vật trên giường suy tư miên man. Bà mẹ thấy vậy, gạn hỏi duyên cớ, ban đầu cô không chịu nói, hỏi đôi ba phen, cô mới yêu cầu mẹ mời A Nan về nhà, cô muốn A Nan làm chồng cô. Bà mẹ nghĩ hoài không ra. A Nan đã đi tu làm thầy Tỳ kheo, mà thuộc dòng hoàng tộc làm sao cưới cô được? Nhưng vì lòng thương con gái, dù khó đến đâu cũng tìm cách thực hiện, bà đi thỉnh một đạo bùa của ngoại đạo, đợi A Nan đi khất thực ngang nhà, sẽ dùng chú thuật mê hoặc A Nan.
Ma chú linh nghiệm hay không, điều đó chẳng rõ. Khi A Nan đi ngang qua nhà, nàng đứng trước cửa, nhìn A Nan cười chúm chím và đưa tay vẫy. A Nan mê mẫn bước vào trong nhà. Cô gái vừa mừng vừa thẹn lýnh quýnh cả lên, ngay lúc ấy A Nan sực nhớ ra mình là một Tỳ kheo, A Nan liên tưởng đến đức Phật, đồng thời đức Phật dùng oai thần gia hộ cho Tôn giả, trí huệ sáng suốt trở lại, giống như ngài nổi luồng gió đưa A Nan về tịnh xá Kỳ Viên.
Ngày hôm sau A Nan bình tĩnh lại, cũng đi vào thành khất thực, lạ thay cũng có cô gái ấy, nàng mặc áo mới đeo tràng hoa, đứng bên đường như chờ đợi A Nan. Cô vừa thấy Tôn giả, liền lẽo đẽo theo sau một bên, như con thiêu thân bu theo ánh đèn không chịu rời một bước. Trước tình trạng này, A Nan chẳng biết tính sao, phải quay trở về tịnh xá bạch với đức Phật. Đức Thế Tôn bảo A Nan gọi cô ta đến, ngài sẽ đích thân nói chuyện với cô. A Nan vừa ra đến cổng, thấy cô nàng còn đứng đó Tôn giả bèn nói:
- Tại sao cô cứ theo tôi mãi như vậy?
- Thầy thiệt là ngốc mới đi hỏi một câu lẩn thẩn như thế.
- Đức Thế Tôn muốn gặp cô, mời cô theo tôi về tịnh xá!
Nge nói đến đức Phật, cô gái đã lo sợ một phen, nhưng vì muốn đoạt được A Nan, cô lấy hết can đảm đến gặp ngài. Phật thấy cô bèn nói:
- A Nan là người tu, nếu muốn làm vợ A Nan, điều kiện cần yếu trước tiên là phải xuất gia tu đạo một năm, cô có chịu không?
- Phật Đà! Con bằng lòng.
Cô gái không ngờ đức Phật lại từ bi quá đổi, đưa điều kiện hết sức dễ dàng để tác thành cho cô, nên cô chấp nhận một cách mau lẹ.
- Theo phép xuất gia của ta, phải có cha mẹ bằng lòng, cô có thể mời cha mẹ đến chứng minh được không?
Đức Phật không làm khó dễ ai, điều kiện của ngài cũng dễ thôi, cô gái liền về nhà dắt mẹ đến, mẹ cô cũng vui mừng đối trước Phật, để cô gái xuất gia tu hành rồi sau sẽ kết hôn với A Nan.
Cô nàng vì muốn làm vợ A Nan, rất cao hứng mà cạo tóc, mặc áo nhuộm làm Tỳ kheo ni. Cô đem hết nhiệt tâm nghe Phật thuyết pháp, và rất tinh tấn y theo lời chỉ dạy của Phật tu tập, ở trong giáo đoàn Tỳ kheo ni, nàng hòa hợp với các sư tỷ, sư muội sinh hoạt theo Phật pháp.
Biển ái tình si của cô dần dần lắng dịu, xuất gia chưa được nửa năm, cô đã thức tỉnh rằng thái độ của mình trước đây thật đáng hổ thẹn.
Đức Phật thường giảng nói ngũ dục là pháp bất tịnh, là nguồn gốc của mọi khổ đau. Loài thiêu thân ngu si tự ném mình vào lửa để bị thiêu rụi, con tằm vô tri làm kén tự trói mình, nếu như trừ bỏ được ngũ dục, nội tâm mới thanh tịnh, cuộc sống mới an ổn được.
Giờ đây nàng tự biết mình mê đắm A Nan là một ý tưởng bất thiện, bất tịnh, nàng hối hận vô cùng. Một hôm, nàng quỳ dưới chân Phật, khóc sám hối:
- Bạch Thế Tôn! Con đã tỉnh mộng, con không dè lúc trước con ngu si đến mức như vậy. Hôm nay con chứng được thánh quả, được xem như qua mặt A Nan, con rất cảm ơn Thế Tôn. Ngài vì hóa độ bọn chúng sanh ngu muội như con, đã dùng hết phương tiện và nhọc lòng dạy dỗ. Từ nay về sau, con nguyện suốt đời làm Tỳ kheo ni, theo chân đức Thế Tôn làm sứ giả cho chân lý.
Sự giáo hóa khẩn thiết của đức Phật, cuối cùng đã thấm đọng vào tâm hồn mẫn cảm của thiếu nữ, nàng tỉnh ra thấy đời rất thanh lương, thành một bậc Tỳ kheo ni mẫu mực.
Tên nàng đã nổi danh là Ma Đăng Già. Đức Phật giúp cho một cô gái dòng hạ tiện xuất gia, điều ấy đối với giai cấp thâm nghiêm của Ấn Độ, khiến cho nhiều người nghe được phê bình, phản đối, nhưng bậc đại thánh Phật Đà, đã nêu lên chủ trương bình đẳng, như trăm sông chảy về biển, bốn chúng tộc xuất gia đều là Thích tử. Nàng Ma Đăng Già vì yêu mến dung mạo của A Nan mà sau cùng chuyển họa thành phước, giai thoại ấy đã lưu lại trong tăng đoàn, những lời bàn tán đẹp ngàn năm.
- 4. THUYẾT PHÁP CHO TỲ KHEO NI
A Nan đối với Ni giới thật là tận tình giúp đỡ thêm vào đó có những duyên đặc biệt, nên nữ giới, ngay cả các Tỳ kheo ni đối với Tôn giả cũng đặc biệt cung kính. Có lúc A Nan cùng Đại Ca Diếp trên đường hành hóa, ghé ngang một lan nhã của các Tỳ kheo ni, các cô đều đồng thỉnh A Nan khai thị trước, sau mới mời Đại Ca Diếp. Luận về tuổi tác, hạ lạp, giới hạnh thì Đại Ca Diếp hơn A Nan xa, nhưng các vị Tỳ kheo ni không kể đến chuyện ấy.
Cuộc sống của người xuất gia, về mặt tâm lý, như một bãi chiến trường. Lý trí và tình cảm thường giao tranh với nhau trong lòng người tu. Lý trí thắng thì thành Phật, đắc Tổ, tình cảm thắng thì đương nhiên phàm phu tục tử. Nếu nói rằng, yêu cầu mỗi vị xuất gia đều lạnh lùng như cây khô, xác chết không còn một chút ái tình của người đời, thì chắc là khó được.
Ở Kỳ Viên tịnh xá, có một Tỳ kheo ni trẻ tuổi, thấy phong tư A Nan thanh nhã, độ lượng, cô ôm mộng ngày đêm không quên. Nhưng cổ ngữ Trung Hoa có nói: "Nam nữ thọ thọ bất thân" huống chi đây là chốn tăng đoàn trang nghiêm cách biệt? Cô Tỳ kheo ni ấy tuy thầm thương trộm nhớ A Nan, nhưng không thể đột xuất vào phạm vi giới cấm, trừ những lúc nhìn lén A Nan, ngoài ra không cách gì khác hơn.
Một hôm, Tỳ kheo ni ấy mang bệnh, cô nhờ người thưa với A Nan một lời: "Thưa Tôn giả, hiện giờ con đang bệnh nặng, không còn hy vọng bao nhiêu, xin Tôn giả từ bi đến thăm một phen".
Lời yêu cầu đáng thương ấy khiến A Nan động tâm, sáng sớm hôm sau, Tôn giả đắp y mang bát trước khi đi khất thực thuận tiện ghé thăm. Tỳ kheo ni bệnh y phục không được chỉnh, nằm tại giường thấy A Nan đến gần dùng đôi mắt đa tình nhìn A Nan trân trối. A Nan thấy thái độ lãng mạn của cô, biết được chuyện không tốt, liền quay lưng bỏ đi, không hỏi han gì cả. Cô ni nọ thấy A Nan đến gần, đột nhiên không nói một lời mà quay ra chuyển thân bước đi, nhất định Tôn giả bất mãn hành vi của mình, cô sinh lòng hổ thẹn vội vàng ngồi dậy, đắp y, trải tọa cụ và thỉnh A Nan trở lại, mời ngồi tòa. A Nan liền khai thị:
- Này cô! Không nên dùng vật bất tịnh nuôi thân, không nên dùng kiêu mạn nuôi tâm, không nên chứa chấp tư tưởng tham ái, ý niệm dâm dục. Này cô, khi đau bệnh nên để thân tâm an trụ nơi cảnh giới vô sở cầu, thì mới mau lành bệnh.
Tỳ kheo ni trẻ tuổi lúc này chừng như quên đi thân phận xuất gia của mình, đưa mắt nhìn A Nan một cách tình tứ và nói:
- Chẳng phải tôi không biết đạo lý mà Tôn giả vừa nói, nhưng đối với tôi, không được ăn ngon hay mặc đẹp, tôi cũng chịu nổi, chỉ vì tình cảm của tôi với Tôn giả, tôi đã hết sức chế ngự mà không được. Người ta ai cũng muốn yên thân, yên tâm, ai cũng có một điều mong ước chứ!
- Này cô! Không nên nghĩ như vậy, chúng ta đi xin thức ăn, áo mặc là để giữ gìn thân mạng để tu đạo, tu đạo mới có thể an tâm. Bỏ quên đạo lý chạy theo tìm cầu những dục lạc giả dối cho thân mình là một điều lầm lẫn. Người khách buôn thoa dầu vào bánh xe, là để cho xe dễ chạy, người bệnh ghẻ xức dầu trên mình không phải để trang điểm, cũng không phải vì dục lạc, chỉ với mục đích trị bệnh mà thôi! Chúng ta dưỡng thân an tâm, cần yếu đoạn trừ ý niệm ái dục, lìa tâm ham vui, xa rời tâm hữu lậu, cầu đạo chân thật, đừng để cho các pháp vô thường hư huyễn làm mê hoặc.
Tỳ kheo ni nghe rồi cảm động sâu xa, liền dứt sạch tâm niệm ái dục, chứng được pháp thanh tịnh.
(Còn tiếp)
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.