Kỷ Yếu Hội Thảo Tổng Vụ Cư Sĩ

Mời mọi người cùng nhau đem đạo vào đời, thảo luận chia sẻ học hỏi kinh nghiệm tu tập và áp dụng Phật pháp vào đời sống hằng ngày

Điều hành viên: Thanh Tịnh Lưu Ly, binh

Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Kỷ Yếu Hội Thảo Tổng Vụ Cư Sĩ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Hình ảnh

GIÁO HỘI PGVN THỐNG NHẤT HẢI NGOẠI - HOA KỲ
VĂN PHÒNG II VIỆN HÓA ĐẠO
KỶ YẾU HỘI THẢO
TỔNG VỤ CƯ SĨ

2547 - 2003
TỔ ĐÌNH TỪ ĐÀM HẢI NGOẠI
THỰC HIỆN

LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời công phu sáng mỗi ngày, chúng Tăng luôn luôn trì tụng để huân tập đại nguyện của ngài A Nan và từ đó trưởng dưỡng sơ tâm xuất gia của mình trong hạnh nguyện hoằng Pháp độ sanh:
  • "...Tương thử thâm tâm phụng trần sát
    Thị tắc danh vi báo ân Phật
    Phục thỉnh Thế Tôn vị chứng minh
    Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập
    Như nhứt chúng sanh vị thành Phật
    Chung bất ư thử thủ Nê hoàn...
    "
Lập nguyện là như thế. Nhưng muốn hoàn thành hạnh nguyện ấy, cần phải có sự trợ lực của những thuận duyên quan trọng bên ngoài.

Như lời đức Phật dạy qua ý đạo từ của Hòa thượng Thích Hộ Giác, Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành trong buổi lễ khai mạc Đại Hội Cư Sĩ, đã nhắn nhũ về hình ảnh của con chim Đại Bàng. Chim Đại Bàng thiếu đi một cánh, dù cánh trái hay cánh phải cũng không thể bay được. Giáo pháp của Phật cũng vậy, thiếu một trong hai đại bộ phận xuất gia hay tại gia thì cũng không thể nào xiển dương, hoằng truyền. Tổng Vụ Cư Sĩ là một thực thể nồng cốt, quan trọng của Giáo Hội cũng như ngoài nước. Hàng Cư sĩ Phật Tử đóng vai thiết yếu cho vấn đề hộ đạo.

Trong công án Ngưỡng Sơn hỏi Tam Thánh, khi Tuyết Đậu tụng bài kệ:
  • Vừa thu vừa buông tông chỉ đâu?
    Cỡi cọp cần phải có tuyệt kỹ
    Cỡi rồi chẳng biết đi về đâu
    Chỉ là thiên cổ đọng bi phong.
Dường như chỉ một câu đầu là vạch ra rõ ràng cái ý hỗ tương của Tăng sĩ và Cư sĩ để hoàn tất Tông chỉ của đức Thế Tôn. Phải có người thu, người buông. Một người không thể vừa thu vừa buông. Và nếu tất cả mọi người đều cùng thu hoặc cùng buông thì còn đâu là Tông chỉ của đức Phật! Cỡi cọp cần phải có tuyệt kỹ là vậy! Và cỡi rồi cũng phải biết đi về đâu cũng vậy!

Suốt gần mười năm thành lập Giáo Hội nơi hải ngoại, đây là lần đầu tiên Tổng Vụ Cư Sĩ mới có cơ duyên để cho hàng Cư sĩ Phật tử khắp Hoa Kỳ ngồi lại với nhau qua khóa Hội thảo trong những ngày 25, 26 và 27 tháng 4 năm 2003, tại Tổ Đình Từ Đàm Hải Ngoại, dưới sự chứng minh của chư Tôn đức Giáo phẩm. Trong những ngày hội thảo, quý vị cư sĩ đã nhiệt tình đóng góp những suy nghĩ, thao thức và kinh nghiệm của mình để phát triển sự tu học và sinh hoạt của giới Cư sĩ. Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ, Tổng Thư Ký kiêm Đệ Nhất Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo từ trong nước cũng gởi ra một bài viết để chào mừng và đóng góp những ý kiến quý báu với Đại hội.

Để ghi lại những suy tư, kinh nghiệm, sinh hoạt và hình ảnh trong những ngày hội thảo của một cánh của "con chim Đại Bàng", Tổng Vụ Cư Sĩ thực hiện tập Kỷ Yếu Tổng Vụ Cư Sĩ, mong là những viên gạch lót đường đầu tiên dẫn đến những sinh hoạt tu học, hộ pháp đa dạng và phong phú của giới Cư sĩ.

Ngưỡng mong chư tôn đức Giáo phẩm, quý Thiện tri thức Phật tử gần xa, không phân biệt tông phái, hệ phái, giáo phái, hoan hỷ đón nhận và tùy duyên.
    • Trân trọng
    Phật lịch 1547 - 2004
    Hoa Kỳ, ngày cuối Đông
    Tỳ kheo Thích Tín Nghĩa
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Kỷ Yếu Hội Thảo Tổng Vụ Cư Sĩ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

DIỄN VĂN CHÀO MỪNG

Của Thượng Tọa Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Cư Sĩ
Giáo Hội PGVN Thống Nhất Hải Ngoại - Hoa Kỳ
Văn Phòng II Viện Hóa Đạo
Trong Buổi Hội Thảo Do Tổng Vụ Tổ Chức
Ngày 25, 26 và 27-04-2003
  • Kính bạch chư Tôn Giáo Phẩm,
    Kính thưa quý vị lãnh đạo các Cộng Đồng Phật Giáo,
    Kính thưa quý vị Thuyết Trình Viên, Tham Luận Viên, quý vị tham dự buổi Hội Thảo
    Kính thưa toàn thể quý liệt vị hiện diện.
Thực là một ân huệ lớn được chư Tôn Giáo Phẩm đến chứng minh, tham dự buổi Hội Thảo do Tổng vụ chúng tôi tổ chức. Thực là một khích lệ lớn lao cho Tổng Vụ chúng tôi được quý vị lãnh đạo Cộng đồng Phật giáo, quý vị thiện tri thức, quý Phật tử nặng lòng với Đạo pháp đến san sẻ kinh nghiệm quý báu của quý vị, giúp chúng tôi, giúp Phật giáo trong nhiệm vụ duy trì đức tin, phát tâm hạnh Bồ tát, bảo vệ, phát triển, hoằng truyền Phật đạo.

Ước vọng duy nhất của chúng tôi khi được Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống Nhất, Văn phòng II Viện Hóa Đạo giao trọng trách điều hành Tổng vụ Cư sĩ là làm thế nào để Phật tử Cư sĩ Việt Nam nói chung sát cánh cùng với chư Tăng Ni không phân biệt Hệ phái, Giáo phái, tìm phương thức chỉnh đốn hành trang, trau dồi đức tin vững chắc, kiện toàn trí tuệ, tăng trưởng Bồ tát tâm trong hạnh nguyện tự độ, độ tha, tự giác, giác tha.

Phật giáo nói chung sau thế kỷ thứ 16 đã dần dần xuống dốc. Không còn nữa thời đại hoàng kim thời A Dục, thời Kaniska, thời Lương Võ Đế, thời Lý Trần. Trước những chớp nhoáng của Tây phương về quân sự, chánh trị, kinh tế, chư Tăng cũng như Phật tử, nhất là chư Tăng, Phật tử Trung Hoa, tìm cách hội nhập văn hóa Tây phương để ứng phó với những nhu cầu cấp bách của con người. Nhưng hội nhập như thế nào? Cần phải phá cái nhà cũ hay chỉnh lại hoặc xem thường nó? Trần Tú Toàn, một đệ tử của Max, chủ trương phá cái nhà cũ để làm cái nhà mới, Lương Khải Siêu, một Phật tử chủ trương tu chỉnh, Tagore Ấn Độ chủ trương lòng gạt bỏ ham muốn có nhà cửa.

Trong khi các nhà trí thức, học giả Trung Hoa, Ấn Độ cùng nhau tìm kiếm một hướng đi trước thời đại Phục Hưng, Cải Cách, Tân Tiến, Khai Sáng, Hậu Tân Tiến, trước cao trào dành độc lập, tự do, dân chủ, toàn cầu hóa, thì Phật giáo Việt Nam, nhân dân Việt Nam làm gì?

Suốt trên năm trăm năm, kể từ ngày Nho học chiếm địa vị độc tôn vào cuối đời Trần, thời Trần Hiến Tông (1321), Phật giáo Việt Nam hình như đã ngủ một giấc dài, đến nỗi các vị Tổ sư hoằng đạo tại Việt Nam thời Nam Bắc phân tranh chỉ có ngài Chân Nguyên ở Bắc, ngài Liễu Quán ở Nam, còn tất cả là các vị sư Trung Hoa. Hình bóng Ba mươi ngàn chư Tăng đời Trần biến đâu mất?

Phật giáo Việt Nam bắt đầu chuyển mình qua ảnh hưởng của Thái Hư đại sư, của Dharmapala, của Y Đằng Bát Vân, của Olcott, để rồi khi tỉnh dậy thì phải đương đầu với hai trọng trách: Bảo vệ quê hương và xây dựng, phát triển nội bộ. Nhưng nội bộ bây giờ bị chia ra từng mảnh vụn trước cơn lốc chánh trị thời đại.

Tình trạng phân hóa như thế nào? Hiện tình Cư sĩ trong nước cũng như hải ngoại ra làm sao? Đó là Chủ Đề I trong buổi Hội thảo này. Nói đến hiện tình Cư sĩ Phật tử là nói đến số lượng Phật tử đi chùa lễ Phật, học Phật, hành trì Phật đạo, là nói đến sự tương quan giữa chùa và Phật tử, giữa Phật tử và Tăng Ni.

Chủ Đề II của buổi Hội thảo là nhận định, vị thế và vai trò của hàng Cư sĩ Phật tử trong nhiệm vụ hộ pháp, duy trì và phát triển chánh pháp. Liên quan Đến Chủ Đề II, chúng ta cần quan tâm đến tư lương cần thiết cho một Phật tử tại gia, đó là tín tâm đối với Tam Bảo, đối với nỗ lực học Phật, tu Phật, đó là kiến thức thế gian cần thiết cho việc bảo vệ, xây dựng xứ sở, bảo vệ, xây dựng phát triển đạo pháp; đó là cái biết chân chánh, tư duy chân chánh, hành động chân chánh, nếp sống chân chánh, không phe nhóm, không cố chấp, không tiêu cực, yếm thế. Có vài trạng huống cần được chú ý:

1. Yếm thế: Quan niệm yếm thế dần dần xâm nhập vào nếp sống của hàng Cư sĩ tại gia. Phản ứng chống lại quan niệm nhập thế của Phật giáo vào thế kỷ thư 15 trở về sau làm cho chúng ta khó xóa nhòa thành kiến tiêu cực, yếm thế bám sát vào đạo Phật. Những cố gắng tại Việt Nam của Mâu Bác, của cư sĩ Trương Thượng Anh, của Trí Viên đại sư tại Trung Quốc, v.v... vẫn chưa đủ để đánh tan những nếp sống và tư duy của đại đa số Phật tử.

2. Vai trò đổi ngược: Trong khi tín đồ Bà la môn, Hồi giáo, Cơ Đốc giáo đóng đúng vai trò tín hữu, Phật tử tại gia Việt Nam lại muốn đóng vai trò của hàng tu sĩ. Giải thoát trở thành trốn đời, Ta Bà bây giờ không còn là Tịnh Độ. Tăng già thay thế cư sĩ bao xuyến tất cả, từ đạo sự đến thế sự, biến người Phật tử tại gia trở thành phần tử phụ thuộc và thứ yếu trong mọi lãnh vực.

Xác định vị thế và vai trò Phật tử tại gia trong cộng đồng Phật giáo, trong sinh hoạt Phật sự và thế sự là chủ yếu trong Chủ Đề II. Vị thế và vai trò của hàng Phật tử tại gia thật sự quá lu mờ, cần được kiện toàn, phát triển hơn, Sau đây là những yếu tố cần lưu ý:

1. Hàng Phật tử tại gia là đệ tử của Phật nằm trong Tứ chúng, phải sát cánh cùng Tăng Ni trong nhiệm vụ hộ đạo, phát triển đạo, đặc biệt trên lãnh vực thiệp thế.

2. Hàng Phật tử tại gia không để bị ru ngủ bằng lý thuyết giải thoát tách rời thế gian pháp. Ánh sáng giải thoát phải được chói rọi bằng đại bi tâm, bằng trí huệ Bát nhã, trong đại hùng, đại lực.

3. Hàng Phật tử tại gia không thể núp sau lưng hàng Tăng Ni, trốn tránh nhiệm vụ để hàng Tăng Ni gánh vác mọi trách nhiệm, rồi phê phán cho Tăng Ni đã đi sâu vào thế sự.

4. Hàng Phật tử tại gia phải yểm trợ Tăng Ni tăng trưởng tiềm năng lãnh đạo, nâng cao phẩm hạnh và trí huệ để hướng dẫn Phật tử ở thế hệ này và thế hệ mai sau.

5. Hàng Phật tử tại Việt Nam tại hải ngoại phải cổ võ, hỗ trợ Tăng Ni trong nhiệm vụ truyền thừa đạo pháp với dân bản xứ. "Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không đặt sự tồn tại của mình nơi nguyên vị cá biệt mà trên sự tồn vong của nhân loại và dân tộc". (Lời Mở Đầu của Hiến Chương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất).

6. Tinh thần đa nguyên là xu thế của thế kỷ 21. Hàng Phật tử tại gia Việt Nam phải kết hợp lại, kiện toàn đức tin, kiện toàn trí tuệ, kiện toàn đức hạnh, lắng nghe tiếng nói của kẻ khác, chấp nhận sự khác biệt, không thành kiến, không bảo thủ trong tinh thần Trung đạo, tương duyên, cộng sinh, cộng tồn.
  • Kính bạch chư Tôn Đức,
    Kính thưa quý Thiện hữu Tri thức,
Dù đầy đủ hành trang, dù biết rõ vị thế và vai trò người Phật tử Việt Nam vẫn không thể chu toàn bổn phận, nếu không có cơ cấu tổ chức, định chế sinh hoạt. Đây là những vấn đề được nêu ra trong Chủ Đề III. Chúng tôi hy vọng chư Tôn đức, quý Thiện hữu Tri thức tham dự buổi Hội hảo đem kinh nghiệm quý báu của mình san sẻ cho chúng tôi, để chúng tôi có thể dựa vào đó đưa ra những chủ án hoạt động Phật sự trong lãnh vực Cư sĩ.

Trong việc tổ chức đón tiếp, sắp đặt nơi ăn, chốn ở, chương trình Hội thảo không làm sao tránh khỏi những khuyết điểm. Kính mong chư Tôn đức và quý Thiện hữu Tri thức niệm tình tha thứ.

Một lần nữa, chúng tôi xin thành kính tri ân chư Tôn đức và hàng Thiện hữu Tri thức hoan hỷ đến tham dự buổi Hội thảo này. Cầu nguyện hồng ân Tam Bảo, phò trì và cầu chúc Hội thảo thành công viên mãn.
  • Trân trọng kính chào quý liệt vị.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Kỷ Yếu Hội Thảo Tổng Vụ Cư Sĩ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

ĐẠO TỪ
CỦA HÒA THƯỢNG THÍCH HỘ GIÁC

Chỉ Tịch Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTNHN-Hoa Kỳ
Văn Phòng II Viện Hóa Đạo

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
  • Kính thưa chư Tôn Đức,
    Kính thưa quý vị Đại Biểu Cư Sĩ Phật Tử.
Kể từ ngày thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ năm 1992, đây là lần đầu tiên, Giáo hôi có một Đại hội Cư sĩ Phật tử toàn quốc. Xin thành thật cám ơn và tán thán công đức, trước hết là Thượng Tọa Tổng vụ Trưởng Tổng vụ Cư sĩ, kiêm Trưởng ban Tổ chức.

Thưa Thượng Tọa, trọng trách mà Giáo hội giao phó cho Thượng Tọa quả thật vô cùng nặng nề. Nhưng Giáo hội tin tưởng, khi chấp nhận ra khơi thì Thượng Tọa không ngại sóng to gió lớn. Vì niềm tin sắt son đối với Tam Bảo, vốn là giọt máu, hơi thở, là nhịp tim, là tế bào của sự sống trong cơ thể. Mặc dù biết rằng những vấn đề hành hoạt của giới Cư sĩ Phật tử có liên quan đến đất nước, đạo pháp và vận mệnh tương lai của dân tộc Việt Nam. Gánh nặng đó, đã được Thượng Tọa hy sinh chấp nhận gánh vác trong khả năng hữu hạn và điều kiện khả thi của mình. Chính thông cảm như vậy, cho nên chúng tôi xin nói với Thượng Tọa: "Trên con đường hành hoạt dù Thượng Tọa có bị khổ như thế nào, gặp nghịch cảnh làm sao, hãy có diện mạo bình thản, để gương mặt mình yên như bàn thạch, và tiết lộ một khí sắc trầm lặng phi thường của cõi lòng bất động. Đó là những gì chúng tôi hoài bảo, tin tưởng và trao gởi nơi bản thân của Thượng Tọa".
  • Kính thưa toàn thể quý Đại Biểu
Chư đại Tăng hôm nay có mặt là để yểm trợ tinh thần phục vụ Quốc gia, Dân tộc và Đạo pháp của quý vị. Thuở đức Phật còn tại thế, tất cả chúng ta ai cũng biết rằng, Ngài là con chim Đại bàng, mà chư Tăng là cánh mặt và Cư sĩ là cánh trái. Để Giáo pháp của Ngài được tiếp tục hoằng trì, tác thành phúc lạc cho dân tộc và nhân loại, đòi hỏi hai giới xuất gia và tại gia phải đóng vai trò tương thuận, tương tác trong điều kiện dung thông tích cực, đồng bộ như cặp cánh Đại bàng.

Nói rõ hơn, phương tiện tuy khác nhưng cứu cánh vẫn là một. Tách rời cánh mặt hoặc cánh trái ra khỏi Đại bàng, thì vĩnh viễn Đại bàng sẽ mất chức năng chủ đạo và chuyển hóa. Do vậy chúng tôi nghĩ, cặp cánh đó không thể lớn, nhỏ, dài, ngắn, nhiều hay ít, mà phải như nhau.

Theo cái nhìn của đức Thế Tôn thì bốn chúng, con của Ngài, giống như hoa sen trong bùn, còn trong nước hay đã vượt hỏi mặt nước, thời gian và không gian nở có khác, nhưng tánh chất, màu sắc và hương vị của hoa sen vẫn đồng nhất. Chúng tôi quả thật tin tưởng, tin tưởng một cách trọn vẹn nơi tư cách hàng ngũ Cư sĩ Phật tử qua hình ảnh quý Đại Biểu có mặt tại đây hôm nay. Quý vị đều biết, Nhật Bản sau đệ nhị thế chiến, tan nát như thế nào, nhục nhã ra sao. Thế mà Nhật Bản có ngày hôm nay là nhờ Phật giáo. Họ biến Phật giáo thành sức mạnh hành động, thành phương tiện đoàn kết, keo sơn gắn bó dân tộc Nhật Bản thành một khối bất khả phân. Tăng sĩ và Cư sĩ là một. Chính cái nhất thống đó, đã là sức mạnh kỳ diệu đưa Nhật Bản trở thành một trong những siêu cường kinh tế. Vậy thì tất cả chúng ta nghĩ gì? Đối với đạo Phật, sức mạnh tình thương mới là quan trọng. Vì tình thương là lẽ sống, là điệu kiện cộng sinh, cộng tồn và cộng hưởng. Trong khi Cộng Sản thì chủ trương hận thù là sức mạnh, mà sức mạnh hận thù thì chỉ đưa đến thỏa mãn hận thù. Vì lẽ đó, cho nên tất cả chúng ta, giờ phút này phải nghĩ đến một ngày mai, một vận hội mới, và hàng Cư sĩ phải làm gì? Quý vị vốn biết rõ, hàng ngũ Tăng già chúng tôi không trực tiếp dóng góp đại sự cho đất nước mai hậu được, mà chỉ đóng góp vai trò cố vấn, góp ý và hướng dẫn tinh thần cho quý vị mà thôi. Về phần trực tiếp xây dựng đất nước, dân tộc và dạo pháp là gánh nặng trên đôi vai của quý vị. Chúng tôi xin gởi gấm tất cả những niềm tin của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong nước, và hải ngoại nơi quý vị.

Người Cư sĩ Phật tử phải thể hiện trọn vẹn tư cách của mình, đó chính là cánh trái của con chim Đại bàng. Nếu được vậy, chúng tôi có thể về nước, hoặc gởi xương nơi xứ người, chúng tôi cũng hài lòng mãn nguyện.

Chúng tôi cầu ơn trên mười phương chư Phật gia hộ cho Đại hội Cư sĩ được thành công viên mãn. Quý vị cố tiến hành hàng ngũ hóa, thiết cập định chế, và tổ chức, không riêng Hoa Kỳ, mà khắp năm châu bốn biển. Đó là điều mong ước trước hết của Thượng Tọa Tổng vụ Trưởng Tổng vụ Cư sĩ, của quý vị, và trên bình diện lớn là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Kỷ Yếu Hội Thảo Tổng Vụ Cư Sĩ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

NGƯỜI CƯ SĨ TẠI GIA
Hòa thượng THÍCH TRÍ QUANG
  • (Bài này được trích tử quyển Người Tại Gia của Hòa thượng Thích Trí Quang, viết và xuất bản vào tháng Chạp 2506. Nhân Tổng Vị Cư sĩ mở khóa Hội thảo được tổ chức tại Tổ đình Từ Đàm Hải ngoại vào các ngày 25, 26 và 27 tháng 4 - năm 2003. Con xin đê đầu đảnh lễ và sám hối lên Hòa thượng cho phép con mạo muội, được rút ra một vài phần đặc biệt để làm tài liệu cho cuốn Kỷ Yếu. Kính bái, đệ tử Tín Nghĩa).
1. Địa Vị Của Người Tại Gia:

Ngày nay cũng vẫn có những người tại gia nghĩ rằng mình chỉ là những kẻ tùy thuộc trong Phật giáo. Nhưng đó chỉ là ý nghĩ tự ti phát sinh bởi tinh thần vô trách nhiệm.

Trong Phật giáo, tại gia cũng như xuất gia vốn là một tổ chức cố hữu, do đức Phật quy định. Điều đáng chú ý là trong sự quy định đó, càng cao địa vị người tại gia càng quan trọng.

Trong giáo lý Tiểu thừa, người tại gia chỉ được Dự lưu quả. Từ Thánh quả Nhất lai lên đến Bất lai và Vô sanh thì phải xuất gia mới tu chứng được. Tuy vậy, địa vị người tại gia cũng vẫn không phải không quan trọng, vì dầu ở trong dục lạc mà cũng có thể "thấy được dấu vết của giáo lý". Cũng trong giáo lý Tiểu thừa, người tại gia giúp đỡ cho người xuất gia đủ điều kiện để truyền bá chánh pháp. Pháp bảo và Tăng bảo tồn tại được là nhờ người tại gia hộ trì. Như vậy, hiển nhiên, địa vị người tại gia là địa vị cần thiết và quan trọng đối với giáo lý Tiểu thừa.

Đối với giáo lý Đại thừa, sự quan trọng ấy lại càng rõ rệt, vì nếu một người tại gia như Giáo lý Tiểu thừa trên mà có phát Bồ đề tâm thì tức gọi là tại gia Bồ tát. Chỗ khác nhau sâu sắc nhất giữa Tiểu thừa và Đại thừa, là Tiểu thừa quan niệm sự xuất gia tự nó là một cứu cánh rồi, nó thoát ly hẳn những tâm niệm và những hành vi liên hệ với thế gian, nên kết quả, được địa vị La hán là đã thấy hoàn toàn. Đại thừa khác; Giáo lý Đại thừa quan niệm rằng Phật đà mới là giai đoạn tuyệt đích của sự giác ngộ, nên đạt đến đó, tại gia hay xuất gia là những phương tiện đều quan trọng trong mỗi trường hợp của nó. Cho nên xuất gia hướng thượng, tại gia thiệp thế, tuy bên trọng bên khinh hiển nhiên như thế, nhưng cái tâm chí mong cầu Đại Bồ Đề và cái trách nhiệm giữ gìn Chánh pháp vẫn như nhau. Vì vậy, nếu người Tại gia mà phát Bồ đề tâm, xác nhận và phục vụ trách nhiệm "Hộ pháp" của mình thì cũng được gọi là tu tập Bồ tát hạnh và sẽ trở thành quả vị Phật đà. Trong trường hợp nầy, địa vị của người tại gia mới thật quan trọng với tất cả cái nghĩa của chữ ấy đúng như ý muốn của đức Phật.

Giờ ta quay lại toàn bộ Phật pháp để một lần nữa, nhận thức tính cách hệ trọng của địa vị tại gia. Toàn bộ Phật pháp có thể phân chia ra hai phần: phần "Căn bản" và phần "Hướng thượng". Phần căn bản là dùng Tam quy Ngũ giới để hoàn thành một tư cách Phật tử đối vói bản thân, đối với gia đình và đối với xã hội. Phần hướng thượng là từ căn bản trên, hướng lên trên đường giải thoát và giác ngộ cho đến tuyệt đích là địa vị Phật đà. Hai phần của toàn bộ Phật pháp, như vậy không những cần thiết cho mỗi người Phật tử mà cón hoàn thành thể Phật pháp, nếu lý luận thế nầy thì chứng tỏ địa vị tại gia cũng quan trọng như địa vị xuất gia; nhưng nếu lý luận rằng trong hai phần của toàn bộ Phật pháp, nếu phần "Căn bản" không được nâng cao và chú ý trước hết thì phần "Hướng thượng" không thành, toàn bộ Phật pháp cũng mất cơ bản, nếu lý luận như vậy thì lại thấy trong bước đầu của Phật pháp, địa vị người tại gia, quan trọng hơn một cách rõ rệt.

Tất cả lý lẽ trên đây chứng tỏ cho ta thấy địa vị người tại gia không phải kẻ tùy thuộc trong Phật giáo. Cho mình là kẻ tùy thuộc, tâm lý ấy không phải tâm lý khiêm nhượng mà thật là tâm tâm lý tự ti và vô trách nhiệm. Phật pháp đã suy tàn vì tâm lý đó. Và rồi đây, cũng vì tâm lý đó, Phật pháp khó mà tồn tại. Vì vậy, nêu lên tính cách quan trọng của địa vị người tại gia là cho họ thấy cái nhiệm vụ của mình đối với Phật pháp. Người tại gia đã thấy được nhiệm vụ của họ thì tâm lý tự ti và vô trách nhiệm sẽ được trừ bỏ và thay thế vào, họ sẽ thành tâm làm tròn nhiệm vụ của họ. Nhiệm vụ của họ làm tròn thì con người của họ đổi mới, gia đình của họ hạnh phúc và xã hội của họ an lạc, nói tóm, Phật pháp sẽ sáng tỏa, sẽ tồn tại ngay trong cuộc đời. Nhiệm vụ đó là những căn bản cần thiết và cần làm như sự trình bày đại cương sau đây.

2. Người Tại Gia Là Thế Nào?

Việc đầu tiên, Người Tại Gia phải biết cái ý nghĩa của từ ngữ mình đã mang vào đời mình, vì từ ngữ ấy nó rẽ hai đời mình ra và định đoạt cho mình một lý tưởng cùng một cuộc sống theo lý tưởng đó.

Tại gia tức là không thoát ly gia đình, không thoát ly hình thức sinh hoạt của thế gian mà thật hiện cơ bản của Phật pháp vào ngay trong hình thức sinh hoạt đó. Định nghĩa như vậy thật chưa phải đã bao gồm tất cả những điều cần phải biết và cần phải làm của một người tại gia, nhưng, người tại gia, cũng đủ để thấy không phải với những tâm lý hời hợt mà làm một người tại gia được.

Cơ cấu của xã hội loài người là gia đình. Nhưng không phải chỉ một lý do ấy mà đức Phật quy định có một tổ chức tại gia trong hàng Phật tử. Gia đình cũng chỉ là một hình thức sinh hoạt của thế gian. Chính hình thức sinh hoạt hình thức của thế gian mới là vấn đề đức Phật chú ý. Hình thức sinh hoạt nầy, căn bản là con người, nhưng phạm vi của nó cố nhiên bao gồm cả gia đình và xã hội của con người nữa. Hình thức sinh hoạt nầy, đối với đức Phật, ghét bỏ hay ưa thích đều không thành vấn đề; vấn đề là hình thức sinh hoạt đã có mà cái có ấy lại cần phải hóa cải và có thể hóa cải được. Mà người tại gia là những người trực tiếp trong việc hóa cải đó. - Người xuất gia, đối lại, cao hơn, lãnh đạo công việc hối cải của người tại gia. Vì vậy, trong khi đức Phật quy định Phật tử có tổ chức tại gia thì phải có tổ chức xuất gia. – Và chính đó, không tránh bỏ một hình thức dĩ nhiên là hình thức sinh hoạt mà ngược lại, đem Phật pháp để hóa cải hình thức sinh hoạt, đó là cái ý nghĩa của từ ngữ tại gia và là cái lý do tại sao có ra tổ chức nầy.

Hình thức sinh hoạt của đời người (xin nhớ là cả con người và gia đình, xã hội của con người), theo Phật pháp, có hai chiều: Sinh hoạt xuôi chiều theo dục vọng và bản năng mà không có một chút chỉ huy gì của lương tâm và lương tri thì chính đó là tất cả nguyên nhân phá sản sự sinh tồn của con người. Ngược lại, sống một cuộc sống có ý thức, biết tự nghĩ hạnh phúc của mình và nghĩ đến hạnh phúc chung, thì đó chính là sự sinh hoạt đúng với nguyên lý của nó.

- Sống theo chiều thứ nhất thì dầu có dán nhãn hiệu Phật tử vào đời mình cũng vẫn là "người thế gian".

- Sống theo chiều hướng thứ hai thì sự sống đó tức là đem Phật pháp hoán cải sự sinh hoạt, sống như vậy là một "người tại gia".

Cho nên khi làm một người tại gia trong hàng Phật tử là ta làm một cuộc tái sanh cho đời ta, rẽ hai đời ta ra, từ bỏ cuộc đời xuôi dàng manh muội, bước vào cuộc sống có lý tưởng chân thật và hữu ích.

Trong Phật pháp không kể vấn đề tuổi tác. Điều kiện cần phải có là hiểu rõ đời mình, hiểu rõ lý tưởng nào đời mình phải có và quan trọng hơn hết là quyết chí sống theo lý tưởng đó. Điều kiện nầy có là có thể làm một người tại gia. Lắm khi mới trên mười lăm tuổi mà đã có thể có đủ điều kiện đó, nhưng trái lại, cũng có lúc điều kiện đó ta không thấy ở một người tuổi tác. Giữa đàn ông và đàn bà cũng vậy. Điều kiện trên không hiếm ở người phụ nữ trong khi phía đàn ông vị tất ai cũng có cả. Cho nên muốn làm một người tại gia, không kể tuổi tác mà cũng không phân biệt đàn ông hay đàn bà. Có đủ điều kiện cần thiết là có thể sống đời sống một người tại gia của hàng Phật tử. Bởi vậy, trong tổ chức người tại gia (tức hàng Cư sĩ Phật tử), đức Phật đã không hạn chế tuổi tác mà cũng không quy định đàn ông hay đàn bà, giai cấp hay chủng tộc. Tổ chức của người tại gia (tức tổ chức hàng Cư sĩ Phật tử), vì vậy, có hai phần: Đàn ông gọi là Ưu bà tắc, đàn bà gọi là Ưu bà di.

Tuy nhiên, điều kiện rộng rãi như trên đây vẫn không dung những kẻ nầy:
  • (1) Những kẻ tặc trú", tức những kẻ trá hình làm người tại gia, lẫn vào Phật pháp để xoay xở, quấy rối hay dò xét.

    (2) Những kẻ "đạo pháp", tức những kẻ trá hình làm người tại gia để lợi dụng Phật pháp, ăn cắp lý thuyết của Phật pháp để trang sức cho tư tưởng của mình hay dùng ngay lý thuyết ấy phản công lại Phật pháp.[/i]
Ngoài hai hạng mà từ ngữ trong kinh gọi là "người địa ngục trong Phật pháp" trên đây, trong tổ chức tại gia cũng không thể có những kẻ trẻ tuổi, chưa hiểu biết lý tưởng của người tại gia, chưa đủ năng lực sống theo lý tưởng ấy, hay tệ hơn nữa là tuổi chưa biết nói. Cho nên ngày nay có những người đem con mới đẻ đến chùa quy y, hành động đó thật là vô ý thức và chỉ là bắt chước theo tà ma ngoại đạo. Thâm tâm của họ chỉ vì thương con, nghĩ quy y như thế là bán gởi con cho Ngài để nó được sống còn và đời nó hạnh phúc. Nhưng muốn được như vậy thì chính mình phải cố gắng sống đúng lý tưởng một người tại gia, nghĩa là duy nhất với tam quy, kiên chí trong ngũ giới, chứ đâu phải làm như thế.

3. Mục Đích Của Người Tại Gia.

Hiểu được do ý nghĩa nào và điều kiện gì gọi là một người tại gia (một Cư sĩ Phật tử) thì đã biết được đại cương mục đích của người tại gia rồi. Mục đích ấy thực là điều mà mọi người tại gia không thể lơ mơ, vì chẳng có một cuộc sống lý tưởng nào mà không có mục đích và sự nhận thức mục đích ấy.

Đại cương mục đích của người tại gia (tức Cư sĩ Phật tử), như trên đã nói, là "hóa cải sự sinh hoạt", sự sinh hoạt của con người và gia đình, xã hội của con người. Trước khi đích chỉ thực tế của mục đích nầy, điều cần nhất là người ta phải xác nhận để mà tin tưởng rằng sự sinh hoạt "cần phải hóa cải và có thể hóa cải được".

Ai muốn nói gì thì nói và đưa chủ nghĩa gì ra để bịp người ta thì đưa, cho ngay đến cả con người đi nữa, có muốn tự lừa dối mình thì lừa dối, nhưng thực trạng của cuộc sống vẫn là một thực trạng hiển nhiên nhất trong các thực trạng, thực trạng ấy là khổ não. Thực trạng nầy phủ nhận đi được thì nước mắt và thở dài đã chẳng có và con người cũng đã chẳng xuất toàn lực ra chống chõi, thế hệ nầy kế tiếp thế hệ khác. Nhưng cũng thế hệ nầy kế tiếp thế hệ khác, cuộc sống của con người cứ ngập chìm trong khổ não. Sanh lão bệnh tử đã làm cho con người được xem như một quá trình của khổ não rồi, cuộc đời ấy lại còn ân ái mà phải biệt ly, oán thù mà phải gặp gỡ, mong cầu mà không thỏa mãn, và ngay nơi nội bộ của bản thân, những gì mà có nó mới gọi là con người có, nhưng chúng thật như những tên giặc lợi hại bậc nhất, quy tụ lại một nơi và tung hoành nơi ta như tàn phá một làng xóm điêu tàn. Khổ vì mưu sanh, khổ bởi lừa đảo, khổ vì nhục nhã, vì oan ức, vì hàng vạn lý do, hầu như cuộc sống đụng đến đâu là nguyên nhân của khổ não ở đấy. Sung sướng? Danh từ ấy chỉ có trong khi đau khổ trá hình mà kẻ đương cục không tự biết, thế thôi.

Trước thực trạng khổ não như vậy, có những người thật tình là thiếu can đảm hơn ai hết, trong khi nước mắt họ ứa ra mà họ lại cười cái cười "lạc quan" để, trước hết, tự lừa dối mình được từng nào qua ngày từng ấy, trong cuộc sống khổ não của họ, của mọi người. Họ còn đi xa hơn nữa; họ cười khoái trá trước nước mắt đau đớn của đồng loại, bất chấp cái khổ não cho chính họ, họ sống khoái lạc bằng nỗi khổ não của mọi người. Đó là những kẻ lạc quan. Khác với những kẻ nầy, có những kẻ trước khổ não họ chỉ biết cam phận chịu đựng, sống khổ não mà vẫn xuôi dòng theo nguyên nhân gây thêm khổ não. Những kẻ nầy không thể gọi là gì nữa. Không thể gọi là "bi quan". Danh từ nầy phải để dành cho những người cầu khẩn nơi duy vật, vì họ tuy khác nhau đến chống nhau trong quan niệm, tín ngưỡng, nhưng thật đều giống như những kẻ mở to mắt ra để đi tìm con mắt của chính mình, cuống lên chỗ nầy, hoảng lên chỗ khác, mà lại tự gọi là biết hơn ai cả, và gây thêm sóng gió nhiều nhất trên bể khổ vô biên của người đời.

Người tại gia (tức hàng Cư sĩ Phật tử) không có những thái độ như vậy, dầu chỉ là những thái độ tương tự. Việc trước hết đối với thực trạng khổ não là họ phải tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng ấy. Nguyên nhân ấy họ không trao quyền cho thần linh hay đổ lỗi cho vật chất. Người tại gia xác nhận rằng cái gì của con người là do con người tạo ra. Khổ não của con người cũng vậy, do hành động của con người mà có. Ai làm tội tình nhau? Ai giết nhau? Ai làm cho nhau đổ nước mắt, oán hận và trả thù? Ai, nếu không phải chỉ con người với con người? Nhưng, những gì đã do con người với con người gây ra thì những cái ấy con người với con người có thể diệt sạch đi được. Hiểu rõ như vậy tức xác nhận rằng khổ não của cuộc sống là do hành vi manh động, hành vi ấy cần phải hóa cải và có thể hóa cải được. Mọi việc đều do con người sắp thì cũng do con người xóa. Và con người có thể xóa được để thay vào đó những thứ mà cuộc sống con người cần thiết và mong mỏi, nếu con người can đảm nhận kẻ thù chính của đời mình là khổ não và quyết chí chiến đấu để diệt trừ khổ não đó.

Nói tóm, hóa cải đời sống bằng cách diệt nguyên nhân của khổ não, đó là mục đích mà tất cả tổ chức Phật tử đều theo đuổi, trong đó tổ chức tại gia (tức hàng Cư sĩ Phật tử) là một. Mặt phải của mục đích nầy, chúng ta cần nói thêm là để làm cho đời sống an lạc, đồng thời, chiều cao của mục đích nầy chúng ta cần phải nói rõ là muốn làm cho đời sống được giác ngộ và cuối cùng, đạt đến địa vị Vô thượng giác.

Mục đích trên đây, người tại gia (tức hàng Cư sĩ Phật tử) nhắm nó một cách thực tế vào con người của mình. Phải làm sao tạo cho mình một nhân cách xứng đáng với danh nghĩa của con người, phải làm sao cho nhân (gia đình) và đồng loại (xã hội) của mình cũng như mình, đó là mục đích cơ bản của người tại gia (tức hàng Cư sĩ Phật tử). Mục đích nầy mà đạt được – và chỉ do mục đích nầy mà thôi - mới hóa cải được hình thức sinh hoạt của mình, thực hiện cho mình, cho cả gia đình và xã hội của mình nữa, một hạnh phúc đúng nghĩa của nó và không bao giờ tan rã, hạnh phúc do diệt trừ nguyên nhân khổ não mà có chứ không phải là cái bánh vẽ của bàn tay tàn ác và gian ngụy.

4. Nhiệm Vụ Hộ Pháp Của Người Tại Gia.

Con người là căn bản của gia đình và xã hội loài người, tất cả mọi vấn đề đều do con người phát sanh và đều phát sanh vì con người, bởi vậy, muốn đổi mới tất cả, căn bản là con người không thể không tự đổi mới trước hết bằng Phật pháp. Đó là một kết luận. Kết luận đó làm một lý do chắc chắn chứng minh một kết luận nữa: Như vậy, con người tuyệt đối phải có trong gia đình và xã hội loài người thì với con người ấy, Phật pháp tuyệt đối phải có và tuyệt đối phải được bảo vệ. Vấn đề "Hộ pháp" được nêu lên trong trường hợp nầy. Nó là vấn đề tự lợi lợi tha mà muốn sống có ý nghĩa và muốn phổ biến ý nghĩa ấy trong mọi tầng lớp và mọi thế hệ, bổn phận chúng ta buộc chúng ta phải có.

Muốn "Hộ pháp" – duy trì Phật pháp – thì người tại gia (tức hàng Cư sĩ Phật tử) phải làm gì?
  • (1) Phải áp dụng Phật Pháp vào đời sống của mình.
Đó là công việc căn bản. Vì Phật pháp gọi là còn, không phải còn ở ngoài chúng ta mà phải ở chính trong con người của mình. Đó là chưa kể rằng muốn duy trì Phật pháp thì phải phổ biến ra cho mọi tầng lớp và cho tất cả thế hệ mai hậu, mà muốn vậy thì vấn đề "phải làm để làm gương mẫu" là một nguyên tắc không thể thiếu được. Cái thành kiến quái gỡ cho rằng "tôi phải hy sinh sự tự lợi của tôi cho sự lợi tha" cũng sẽ phải tan rã vì nguyên tắc nầy, bởi vì không có sự lợi tha nào đúng nghĩa từ ngữ ấy mà thiếu tự lợi tức sự áp dụng Phật pháp trước hết, hay đối lại, cũng chẳng có một sự tự lợi nào đúng nghĩa của danh từ ấy mà không vì mục đích lợi tha tức vì lợi ích chung mà áp dụng Phật pháp.
  • (2) Phải luôn luôn tỏ ra mình là người Phật tử.
Thật là một lỗi lầm đáng khinh bỉ khi một người đã sống trong Phật pháp vô thượng mà không thẳng thắn bộc lộ ra. Họ bảo như thế để mọi người thấy mình không cố chấp tín ngưỡng của mình, nhưng họ biết đâu rằng cố chấp là một việc mà thành thực lại là một việc khác. Không thành thực bộc lộ tư cách Phật tử của mình ra thì làm sao cảm hóa người được. Họ lại còn đi hợp tác với ngoại đạo tà ma. Họ bảo để tỏ tư cách quảng đại của Phật tử, nhưng lời ấy chỉ là che đậy những lý do lấy Đạo làm bàn đạp cho lợi lộc cá nhân của mình mà thôi, chứ Phật tử sao đi hợp tác với ngoại đạo? Như thế, Tam quy mà họ đã thọ, làm sao còn được? Họ lại càng ngây ngô mà trở lại công kích trong nhà không biết tổ chức, trong khi đó họ đem năng lực đáng lý phải góp vào công việc tổ chức đó mà hợp tác với tổ chức khác. Bởi vậy, khi xác nhận Phật pháp là Vô thượng và chỉ hoạt động cho Phật pháp mà thôi mới là công cuộc hữu ích cho con người đúng với cái nghĩa của danh từ ấy, thì họ phải luôn luôn tỏ ra mình là Phật tử trong tất cả mọi trường hợp, bằng mấy cách bắt buộc sau nầy:
    • a. Thường đeo tượng Phật và kính trọng, thân mến với người đồng đạo.

      b. Thường phải ăn chay và đi chùa mỗi tháng hai ngày, dầu gặp tiệc tùng hay lý do sanh sống cũng không được tạm bỏ.

      c. Góp của và góp sức vào trong các tổ chức của Phật pháp để làm những công việc hữu ích.

      d. Khước từ thực sự những sự hợp tác với ngoại đạo tà ma và trừ khử những cử chỉ rụt rè thái độ chạy chối và thụ động.
Mọi người tại gia (tức hàng Cư sĩ Phật tử) phải nhớ rằng xã hội nào người ta cũng chỉ dung và hơn nữa, chỉ cảm hóa vì những người thành thực trong tín ngưỡng của mình. Trái lại, không ai mà không khinh bỉ và nghi kỵ những kẻ kém thành thực. Phải nhớ như vậy để - trút bỏ đi những ý nghĩ vơ vẫn về những sự nguy hiểm tưởng tượng. Nói tóm, tỏ ra mình là Phật tử chính là duy trì Phật pháp rồi đó. Ngược lại, sự tỏ ra đó thiếu đi thì ý thức Phật tử đã không còn nữa mà ý thức nầy không thì luôn theo đó, tất cả những gì của Phật tử phải có, họ sẽ quên mất hết.
  • (3) Phải có tinh thần chịu trách nhiệm và trừ bỏ sự tự ti mặc cảm.
Tự ti mặc cảm là tự nghĩ mình thấp kém, tùy thuộc, chứ không phải chủ động. Nhưng trái lại, thực tế chứng tỏ sự duy trì Phật pháp trong gia đình và xã hội, người tại gia (tức hàng Cư sĩ Phật tử) là người chủ động mà lại là chủ động trực tiếp. Bởi vậy, Phật pháp còn hay không còn trong gia đình và xã hội là trách nhiệm trực tiếp của người tại gia. Thực tế nầy nó kêu gọi người tại gia hãy bỏ cái thành kiến cho rằng Phật pháp quan trọng ở các Thầy và bắt buộc người tại gia (tức hàng Cư sĩ Phật tử) phải có tinh thần chịu trách nhiệm, cái trách nhiệm duy trì Phật pháp để hóa cải bản thân, hóa cải gia đình và xã hội. Trách nhiệm ấy cũng không riêng gì đối với Phật pháp; vì sự hóa cải cần phải có nên mọi tầng lớp, mọi thế hệ đòi hỏi người tại gia (tức hàng Cư sĩ Phật tử) cái tinh thần trách nhiệm ấy.
  • (4) Phải hành động tích cực và thực tế.
Vấn đề "Hộ pháp" quan trọng và hợp lý như vậy nó bắt buộc người tại gia (tức hàng Cư sĩ Phật tử) phải có những hoạt động tích cực, thực tế, một cách tế nhị. Phải chống trả với mọi mưu mô ở ngoài và mọi xu hướng ở trong nếu những mưu mô và những xu hướng ấy không làm hại Phật pháp trong hiện tại cũng như làm hại về sau. Và tự mình, mình phải thắng những gì ở mình mà chính nó có thể lôi kéo mình vào những hành động phản bội Phật pháp. Phải tự giác mãnh liệt và đừng lòa mắt vì mối lợi nhãn tiền hay lo sợ vu vơ cái hại trong tư tưởng. Phải chống trả với những gì mà mình biết không trực tiếp cũng gián tiếp, không ngày nay cũng ngày mai, không có thiện ý đối với sự sinh tồn của Phật pháp. Tất cả những lý lẽ trên nầy nó thiết tha kêu gọi sự hoạt động tận lực của chúng ta, to từ việc xả bỏ thân mạng, nhỏ đến việc bỏ ra từng đồng xu, tất cả tiềm lực nào mình có, mình không từ. Do ý thức nầy, người tại gia (tức hàng Cư sĩ Phật tử) phải bỏ cái thành kiến hiện giờ vẫn còn vương trong tư tưởng một số đông, rằng việc Đạo phải có tài và có sức. Nhưng cái tài hưởng ứng cũng cần thiết như cái tài hướng đạo, cái sức tùy hỷ lại cần hơn cái sức đồ sộ, bởi vì một bên chỉ có một thiểu số mà một bên là một hậu thuẩn hùng hậu. Cho nên những công việc vặt và những đồng bạc nhỏ, đối với Đạo, lúc nầy, mới thật là quý giá; chúng nó là những tấm lòng thành thực và sẽ góp thành một lực lượng to lớn. Và chỉ có vậy mới thật là hoạt động thực tế của tín đồ và cố nhiên cũng chỉ có vậy mới duy trì Phật pháp được trong tất cả mọi tầng lớp.

Nói tóm, vấn đề "Hộ pháp" nó quan trọng ở chỗ người tại gia (tức hàng Cư sĩ Phật tử) thành thực bộc lộ tín ngưỡng của mình và có tinh thần gánh vác trách nhiệm, phối hợp với những hoạt động dù nhỏ nhưng thực tế, dũng mãnh. Chính đó, Phật pháp sẽ càng ngày càng sáng lạn huy hoàng, không những với những hình thức đồ sộ mà còn với những sự cải hóa tốt đẹp đối với toàn diện của đời sống con người.

(Trích trong tập Người Tại Gia của Hòa thượng Thích Trí Quang)
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Kỷ Yếu Hội Thảo Tổng Vụ Cư Sĩ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

THƯ GỞI CHÀO MỪNG
ĐẠI HỘI CƯ SĨ HẢI NGOẠI

Thượng Tọa THÍCH TUỆ SỸ
Tổng Thư Ký kiêm Đệ Nhất Phó Viện Trưởng
Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
  • Kính bạch chư Tôn Trưởng Lão,
    Kính thưa các Đạo hữu Phật Tử.
Từ trong nước, chúng con đê đầu đảnh lễ chư Tôn Trưởng Lão, hiện tiền chứng minh cho ngày Đại hội Cư sĩ hôm nay. Tôi cũng xin gởi đến tất cả Phật tử hiện diện ở đây lời chào thân thuộc giữa những người con Phật, mà hoặc vì lý do căn tánh dị biệt, hoặc do môi trường sinh hoạt không đồng, nên thường có những mâu thuẫn tư tưởng. Dù vậy, tất cả đều hiểu rằng Phật tử tại gia, xuất gia đều chỉ có một con đường duy nhất để đi, là cùng đi chung trong Thánh đạo mà dức Thế Tôn đã chỉ; và cũng chỉ một mục đích phải đạt đến là giải thoát và giác ngộ mà đức Thích Tôn đã khai thị.

Trong vòng ba mươi năm nay, tôi không rõ có bao nhiêu Đại hội Cư sĩ được tổ chức ở hải ngoại. Ở trong nước, nếu co, tôi cũng không có cơ duyên để tham dự. Như thế cũng đủ để nói rằng trong một thời gian rất dài tôi không có những giao tiếp rộng rãi với các Phật tử tại gia. Trong điều kiện như vậy, thật khó cho tôi để viết một bài tham luận cho Đại hội Cư sĩ được tổ chức như hôm nay.

Trong chỗ hiểu biết thiếu cơ sở của tôi như hôm nay, thì Đại hội được tổ chức bởi Tổng Vụ Cư sĩ hải ngoại tất nhiên trong tính chỉ đạo, đề xuất các chương trình tu học cụ thể, trong điều kiện xã hội phương Tây, giữa nền văn chất phồn vinh hiện đại mà các Phật tử đang sinh hoạt.

Thêm nữa, Phật tử hải ngoại, cũng như bộ phận lớn khác của dân tộc, vì những lý do hoặc kinh tế, hoặc chánh trị, mà phải rời bỏ quê hương, trở thành công dân nước khác, với đày đủ nghĩa vụ và quyền lợi của đất nước đang cưu mang mình, nhưng trong huyết quản, trong tâm thức, các Phật tử Việt Nam hải ngoại không thể quên bẵng cội nguồn, do đó luôn luôn vẫn cảm thấy nghĩa vụ thiêng liêng của mình không chỉ đối với quá khứ tổ tiên, mà còn cả với nhiều thế hệ hiện tại và tương lai, vẫn thao thức với tam niệm nào đó về tiền đồ của Tổ quốc. Đây không phải là nghĩa vụ hai tầng, một vai hai gánh nặng. Vì sao vậy? Ngày nay, thế giới càng được mở rộng, khoảng cách giữa các dân tộc càng trở nên gần gũi, do đó, mọt con người hiện đại không chỉ có nghĩa vụ với đất nước của mình, mà còn có nghĩa vụ nhân loại nữa. Ở nơi nào đó có thiên tai, tật dịch, phần còn lại của thế giới tự thấy có nghĩa vụ cứu tế. Nơi nào đó một dân tộc bị áp bức, phần còn lại của nhân loại lên tiếng can thiệp. Như thế, điều được gọi là nghĩa vụ dân tộc, cùng với nghĩa vụ nhân loại, là hai hoạt dụng của một thể tánh. Trước hết, đó là thể tánh người. Thứ đến, nói trong ý nghĩa chân thật, đó là thể tánh Phật. Người Phật tử sống giữa đời thường, hàng ngày như bị cuốn chìm trong thế giới xa hoa và hưởng thụ, vẫn thấy tự mình có thể học đạo và hành đạo, và hành một cách tự nhiên như thở, vì tự thể của mỗi chúng sanh là thể tánh Phật.

Trên căn bản giáo lý, thì ai cũng có thể nói được như vậy. Nhưng còn vấn đề khế lý và khế cơ, thì tôi không thể nói cụ thể hơn được nữa. Tuy vậy, tôi cũng muốn góp một chút công đức với Đại hội, nên cxung xin góp một vài điều suy nghĩ.

Chúng đệ tử của Phật, do xu hướng sinh hoạt đời thường khác nhau, nên phân thành hai, tại gia và xuất gia. Rồi lại do tính phái dị biệt nên chia thành bốn. Dù hai chúng, hay dù bốn chúng, các đệ tử đều có chung một Thánh đạo để đi, có chung một cứu cánh Niết bàn để đạt đến.

Thủa xưa, khi thế giới này mới thành hình, khi mặt đất này chưa xuất hiện sinh vật, tổ tiên của loài người là những chúng sanh sống trong cõi Quang Âm thiên, hay Cực Quang thiên. Các chúng sanh ấy phi hành trong không gian theo tốc độ ánh sáng, tồn tại với thức ăn hỷ lạc do tần số dao động của ánh sáng tạo nên. Cho đến khi chúng bị hút xuống mặt đất, mất khả năng di chuyển theo ánh sáng, phải nếm vị của đất làm thực phẩm, để rồi thân thể càng lúc phì đại. Thoạt kỳ thủy, chưa có sự phân biệt tính phái.

Sinh vật nguyên thủy ấy nếm vị đất làm thức ăn; quá trình tiêu hóa, hấp thụ, bài tiết, diễn thành những chu kỳ tiếp nối, dần dần tổng hợp thêm nhiều loại thức ăn mới. Giai đoạn tổng hợp cuối cùng, đó là lúa gạo Và cũng sé còn nhiều tổng hợp tương lai nữa. Phù hợp với quá trình tổng hợp thức ăn, thân thể của chúng sanh cũng theo đó mà tiến hóa. Cho tới một lúc, sự phân biệt tính phát xuất hiện, Từ phân biệt tính phái dần dần tiến tới phân biệt chủng loại, chủng tộc, dân tộc, và đẳng cấp. Đó là hình thái tiến hóa tất nhiên của xã hội loài người.

Khi Phật thuyết kinh này, chỉ lại quá trình tiến hóa và phát triển xã hội. Ngài muốn giải thích ch các đệ tử hiểu rõ rằng mọi phân biệt trong thế gian, những mâu thuẩn tranh chấp giữa các cộng đồng xã hội, và dân tộc, chỉ là hệ quả do tác động bởi các môi trường sống, môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội. Nói cách khác là do những tương tác giữa các biệt nghiệp và cộng nghiệp. Điều đó không chỉ khai thị ý nghĩa rằng tất cả mọi dân tộc, bất kể khác nhau trong quá trình tích lũy sở hữu vật chất như thế nào, thảy đều bình đẳng trong phẩm chất như là con người; thêm nữa, điều đó còn khai thị ý nghĩa rằng tất cả chúng sanh đêu bình đẳng trong thể tánh.

Qua nội dung lược thuật từ một đoạn kinh như trên, ở đây tạm thời chúng ta có thể nói rằng, trên căn bản tư tưởng và nhận thức như vậy, Phật tử hành đạo giữa đời thường mà không hề tự thấy mình cách ly và mâu thuẫn với người đời. Nhận xét này có lý do của nó. Từ trước, trong xã hội Việt Nam, tu Phật đồng nghĩa với xa lánh mọi sinh hoạt thế gian. Nhiều người bà con lớn tuổi của tôi, rất tin Phật và thường xuyên đi chùa lễ Phật, nhưng lại nói, chưa dám quy y Phật, vì còn ham uống rượu và còn ham nhiều thứ khác nữa. Nói thế thì các chúng đệ tử của Phật đều là các vị Thánh hết, vì chẳng còn ai tham, sân, si, chẳng còn ham muốn vật chất gì nữa. Nhưng, kinh nói, Phật pháp như thuốc. Tùy bệnh mà cho thuốc. Hết bệnh không còn cần đến thuốc. Cho nên, không một ai nói rằng chờ tôi lành bệnh rồi tôi sẽ vào nằm bệnh viện. Trong ý nghĩa đó, chúng ta hẳn không ngạc nhiên khi phải nhận xét răng, giáo lý của Phật cao siêu như thế mà sao các đệ tử Phật sống chẳng cao siêu chút nào. So sánh một cách tượng hình, nói thế thì cũng như nói rằng, bệnh viện kia hay thế, nhiều bác sĩ giỏi thế, mà sao con bệnh lại càng ngày càng đông, không ít đi chút nào. Chúng ta có ngụy biện quá chăng, khi so sánh như vậy? Về nghĩa lý thì không ngụy biện, nhưng trong thực tế thì có ngụy biện đấy. Thực tế có ngụy biện, vì qua thực tế có một bộ phận tại gia cũng như xuất gia tự nhận là đệ tử Phật nhưng sống bê tha, thác loạn, tiêu chuẩn đạo đức còn dưới những người không tin Phật; hoặc viện dẫn kinh điển để biện hộ cho sự suy thoái nhân cách của mình. Trường hợp này có thể so sánh con bệnh đến bệnh viện mà không chịu tuân theo qui tắc điều trị của bác sĩ; tự mình ăn uống, ngủ nghỉ, làm theo ý thích của mình, nhưng lại chê trách bệnh viện chữa trị không hiệu quả, bệnh càng tăng chứ không hề thuyên giảm. Tuy vậy, bệnh viện cũng vẫn thấy có phần trách nhiệm, vì đã không chăm sóc bệnh nhân đúng mức, và nhất là không có biện pháp nghiêm khắc khi cần thiết phải nghiêm khắc.

Điều cũng nên lưu ý ở đây là, các thí dụ nêu trên chỉ có ý nghĩa tùy theo chỗ áp dụng, hoặc cho chúng xuất gia, hoặc cho chúng tại gia. Trong sự hành trì giới luật, chúng xuất gia nếu phạm giứi thì có thể bị phạt, hoặc có thể bị tẩn xuất. Điều khoản giới luật của người xuất gia khá nhiều, không có điều vi phạm nào mà không có những qui định phạt kèm theo. Giới tại gia ít hơn, chỉ năm hoặc tám giới thôi. Thực tế so với người xuất gia thì tại gia vi phạm học giới của mình rất thường xuyên hơn, nhưng chỉ được khuyên bảo là nên sám hối để nghiệp chướng mỏng dần đi thôi, chứ không có hình thức trừng phạt nào cả. Trong liên hệ này, chúng ta có thể nhắc lại thí dụ về bệnh viện. Một bệnh viện hay bác sĩ có lương tâm, không từ chối bất cứ con bệnh nào. Ngay cả khi không còn hy vọng cứu chữa, bác sĩ vẫn cố tạo cho bệnh nhân hy vọng sẽ được cứu chữa. Đó là tình yêu trong chức nghiệp. Đức tính từ bi được thể hiện trong những lời dạy của Phật cũng vậy.

Tất nhiên ở đây chúng ta không nói quá lời để bênh vực các Cư sĩ tại gia tin Phật nhưng thiếu nghị lực, giải đãi, sống phóng đãng mà không hề có chút phản tỉnh.

Dù sao, nhìn trên bề mặt, người tại gia hành đạo có khó hơn xuất gia, bởi vì phải sống ngay giữa dòng xoáy ô trược, thường xuyên bị vị ngọt của thế gian hấp dẫn. Sự khó khăn này nói theo khoảng thời gian để thành tựu cứu cánh, sớm hay muộn khác nhau. Khó, vì thời gian thành tựu quá dài. Trên đại thể, sống tại gia hay xuất gia, chỉ do căn tánh dị biệt, cơ duyên sai biệt, chớ không vì chỗ này khó tu hơn chỗ kia. Trong thời Phật, nhiều vị xuất gia, kể cả ngài A Nan, tất nhiên có rất nhiều thuận duyên để tu tập, nhưng chỉ mới chứng được sơ quả, là quả Thánh mà các Cư sĩ như ông Cấp Cô Độc, bà Tỳ Xá Khư và nhiều Cư sĩ khác nữa chứng đắc không mấy khó khăn. Còn những người tại gia như Thủ trưởng giả ở Tỳ Da Ly, hay Úc giả ở Tượng thôn, tuy sống tại gia, lại đắc quả trong thánh đạo còn cao hơn ngài A Nan.

Vậy thì, vấn đề không phải ở chỗ khó hay dễ, giới nhiều hay giới ít, mà chính là thành tựu mục đích cứu cánh. Trong ý nghĩa đó, tại gia hay xuất gia đều bình đẳng trong Thánh đạo. Xuất gia nếu để mất tâm Bồ đề, thì dù về hình thức có nói là đang hành Phật sự, nhưng thực chất là đang tu theo ma nghiệp. Tại gia tuy sống và làm việc theo thế gian, nhưng với tâm Bồ đề, thì tất cả thế gian pháp đều là Phật pháp. Kinh chữ Hán nói: "Vong thất Bồ đề tâm, tu chư thiện pháp, tức thành ma nghiệp".

Nhưng làm thế nào để phát khởi được tâm Bồ đề, và rồi làm sao để an trụ tâm ấy? Đó là những câu hỏi mà ngài Tu Bồ Đề đã hỏi Phật trong kinh Kim Cang. Điều khó khăn nhất để hiểu Phật pháp đối với học Phật và tu Phật, đoạn đường khó khăn nhất, dài nhất phải vượt qua mà thường là dài đến một a tăng kỳ kiếp, đó là làm sao để thấy biết một cách như thực rằng, trong tự thế, trong tự tánh, ta là Phật tử, là con chân thật của Như Lai, sanh ra từ kim khẩu của Như Lai, hóa sanh từ chánh pháp của Như Lai, là kẻ thừa tự gia tài chánh pháp của Như Lai. Như người cùng tử trong kinh Pháp Hoa, không phải dễ dàng một sớm một chiều để thấy ngay rằng thân phận của mình không phải là kẻ tôi tớ hèn hạ, chỉ xứng đáng với công việc quét dọn các hầm xí.

Vậy thì, tâm Bồ đề, tức ước nguyện thành Phật, là nền tảng tâm địa cho Phật tử học đạo và hành đạo.

Tuy nhiên, khởi đầu không phải tất cả mọn người tìm đến Phật pháp chỉ với ước nguyện duy nhất là thành Phật. Rất nhiều người tìm đến Phật pháp để tìm nguồn an ủi tinh thần, để làm vơi đi thống khổ đang phải chịu đựng. Đó là phương diện cứu thế của Phật pháp. Yếu tính của Phật pháp là sự vận hành diệu dụng của từ bi và trí tuệ. Cho nên, Phật pháp trước hết là ngôi nhà dưỡng lão, là viện cô nhi, là trại tế bần. Điều này được theo cả ý nghĩa tượng trưng, và cả sinh hoạt thực tiễn. Như khi trưởng lão Tu Bồ Đề hỏi Phật, Bồ tát làm thế thế nào để phát khởi tâm Bồ đề, và làm thế nào để an trụ tâm ấy, thì Phật chỉ ngay phương pháp thực tiễn, đó là tu tập bố thí. Chính sự bố thí khi đang tu tập đến mức thành tựu tuyệt đối thì cũng dẫn đến thành tựu các Ba la mật khác. Trong các kinh điển nguyên thủy, hạnh bố thí của người tại gia được thuyết minh rất nhiều. Nhiều đệ tử Phật nổi tiếng về hoạt động từ thiện của mình như trưởng giả Cấp Cô Độc ở thành Xá Vệ, hoặc trưởng giả Cù Sa ở Kiều Thưởng Di. Nhiều đại lễ tế đàn, hiến máu súc vật cho thần linh, được Phật giải thích lại ý nghĩa chân thực của cầu nguyện và hiến tế, để rồi những đại lễ tế đàn ấy chuyển hướng thành đại hội cứu tế xã hội.

Bố thí hay hoạt động từ thiện, theo lời dạy của Phật, bao gồm cả hai mặt tích cực và tiêu cực, nói theo nghĩa tốt, là chỉ xuất tài sản của mình để chẩn tế những người cô khổ. Chi xuất nhiều như ông Cấp Cô Độc, cho đến hồi tài sản khánh kiệt. Sau đó, do chỉ giáo của Phật, và khuyến cáo của Tăng, ông phục hồi lại sản nghiệp. Và lại tiếp tục sự nghiệp cứu tế nữa.

Rõ ràng, theo lời dạy đó, Phật tử tại gia làm giàu, tích lũy tài sản không phải chỉ để hưởng thụ cho mình hay thân thuộc của mình, mà còn để chia xẻ cho nhiều người, những kẻ hoặc thiếu may mắn, hay thiếu năng lực để tự cấp dưỡng. Cho nên, trong rất nhiều kinh, Phật dạy một Phật tử tại gia phải biết tích lũy sản nghiệp thế nào cho đúng pháp, và rồi chi dụng sản nghiệp ấy một cách hữu ích, cho mình và cho nhiều người, cho đời này và cho nhiều đời sau nữa.

Đằng khác, về mặt tích cực, hành vi bố thí của Phật tử tại gia chính là nhân tố để duy trì sự an lạc hiện tại cho xã hội. Như khi một Bà la môn đến hỏi Phật về nghi thức tổ chức đại tế đàn hiến tế và cầu nguyện thàn linh sao cho có hiệu quả. Phật đã chỉ cho những điều nên làm trước hết để cho sự tế tự có hiệu quả thiết thực. Đó là, nếu cần đủ công quỹ cho tế đàn mà phải bắt dân đóng thêm thuế, và động viên sưu dịch, thì chỉ khiến cho dân đã nghèo khó lại nghèo khó thêm mà thôi. Điều nên làm bây giờ là, vua hãy xuất thóc giống trong kho cho người làm ruộng gieo trồng, mở công trường cho người muốn làm thợ, mở trường dạy nghề cho nhưng người muốn học nghề v.v..., nghĩa là làm sao cho dân chúng có an cư lạc nghiệp, sau đó mới nói đến chuyện tế tự. Như vậy, nghĩa vụ tô giáo chỉ có thể mang lại hiệu quả thiết thực, chỉ khi nào xã hội tương đối sung túc và an lạc. Nếu trong một nước có nhiều người theo đạo Phật, mà nhân dân nước ấy không an lạc, xã hội không trật tự an ninh, đại bộ phận dân chúng còn sống trong nghèo khó, thế thì ở đó không thể gọi là đạo Phật hưng thịnh.

Nói tóm lại, chỉ trên căn bản thực hành bố thí mà Phật tử tại gia tự nâng cao phẩm chất đạo đức của mình, thành tựi giới Ba la mật. Rồi sau đó dần dần tiến tới thành tựu các Ba la mật khác, như thiền định và trí tuệ. Đó là quá trình tu tập mà Phật đã chỉ dạy một cách rất rõ ràng, cụ thể. Còn hành trì như thế nào tùy theo căn tánh dị biệt. Bởi vì, không phải tất cả mọi chứng bệnh đều có thể chữa trị hiệu quả bằng nhân sâm duy nhất.

Đến đây tôi xin phép kết thúc mà không đề nghị một kết luận cụ thể nào cả. Bởi vì, những điều mà Phật tử cần biết, thì ở đây tôi không đủ điều kiện để cung cấp. Còn những gì Phật tử cần làm, tôi lại không có đủ cơ duyên để góp ý. Duy chỉ có tâm nguyện rằng, hạt giống Bồ đề trong tất cả chúng ta không bao giờ hư hoại đẻ có ngày nảy nở hoa trái giác ngộ.

Xin hồi hướng công đức đến hết thảy chúng sanh, hằng sống an lạc trong chánh pháp.
  • TUỆ SỸ
VÔ ĐỀ 1
  • Chúng thanh điểm tam hồi
    Ngư ông điểm sổ bôi
    Thiền sư nhập đại định
    Oanh đề liễu thượng khai.
Tạm dịch:
  • Chuông khuya vừa điểm ba hồi
    Ngư ông ngồi uống một vài ba chum
    Thiền sư nhập định vừa xong
    Trên cây dương liễu chim oanh hát hò.
Seattle, Sept. 28th. 2003
Tín Nghĩa

Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Kỷ Yếu Hội Thảo Tổng Vụ Cư Sĩ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

HỌC PHẬT VÀ NUÔI DƯỠNG TÍN TÂM
Thượng tọa THÍCH TỊNH TỪ
Viện trưởng Tu viện Kim Sơn
  • Ý NIỆM HỌC PHẬT
Học Phật không phải là học lý thuyết của một bộ môn tư tưởng, cũng không phải cố gắng hoàn tất những pho giáo lý được biện giải bởi những nhà trí thức đa văn và có tài diễn đạt, cũng không phải như những pháp sư thông làu các tạng kinh, luận và giới luật. Học Phật ta có thể tạm thí dụ như học ngành bác sĩ chuyên khoa, chữa trị bệnh tật có hiệu lực và cứu sống được nhiều người. Học Phật mà không chú trọng đến việc thực hành theo lời Phật dạy để chuyển hóa phiền não, khổ đau thì chúng ta đã bị rơi vào tình trạng của người học Phật để khoe khoang, biện bác và tự hào trong mớ kiến thức Phật học. Người học Phật như vậy, dù có thông suốt ba tạng kinh điển cũng chỉ uổng phí một đời người, không có lợi ích gì trong mục đích giải thoát khổ đau, không hướng tới sự giác ngộ bản thân, nói chi là hoàn thiện cho kẻ khác. Học Phật như vậy không khác nào một sinh viên học ngành y khoa, trị liệu bệnh tật và săn sóc sức khỏe cho con bệnh mà không ra trường, không có kinh nghiệm, không thành công trong nghề nghiệp.

Mục đích học Phật là để sáng tỏ chân lý và nắm rõ pháp môn để thực hành, giác ngộ chân lý, vượt thoát khổ đau. Giác ngộ chân lý nào? Chân lý về sự khổ, nguyên nhân sự khổ, trạng thái thoát khổ và con đường thoát khổ.

Thông thường ta thấy khổ, nhưng không thấy đích thực nguyên nhân tạo ra nổi khổ, nên cứ lấy nhân khổ để xây nên sự sống. Ví như sát hại, hận thù, gây chiến tranh là mần nhân của đau khổ, song khi ta thỏa mãn được ít nhiều nhu yếu ấy, ta cho là vui, là thành công, là chiến thắng. Trong cái vui, thành công và chiến thắng ấy hóa ra là một động cơ tàn hại ta và hạnh phúc của nhiều người. Học Phật, trước hết là để hiểu rõ tường tận về lý nhân quả và biết thay đổi nhân quả để niềm vui, hạnh phúc được nuôi dưỡng, phát triển. Hạnh phúc, niềm vui có mặt là do ta không tạo ra suy nghĩ, lời nói và hành động xấu ác. Khi hiểu rõ giáo lý nhân quả rồi, ta cũng sẽ thông suốt về giáo lý duyên sinh:
  • Cái này có nên cái kia có
    Cái này không nên cái kia không
    Cái này sinh nên cái kia sinh
    Cái này diệt nên cái kia diệt.
Thông suốt về giáo lý nhân quả và duyên sinh, ta cũng sẽ nhận thức thấu đáo về giáo lý vô thường, khổ, không và vô ngã.

Ta biết rằng, vô thường ngoài cái nghĩa thay đổi, chuyển biến, hoại diệt, không tồn tại lâu dài, vĩnh viễn với thời gian, nhưng cũng bằng vào hiện tượng vô thường mà ta có thể chuyển đổi được nhân quả, nghiệp xấu, hóa giải được những khổ đau và thành tựu được phẩm chất từ bi, trí tuệ hoàn hảo của một đức Phật. Nguyên lý vô ngã có liên hệ mật thiết với giáo lý duyên sinh. Tất các các pháp từ sắc tướng đến hiện tượng của tâm lý đều rỗng suốt, vắng lặng. Mỗi pháp nương gá vào nhau để sinh hóa và sinh tồn, mà không đứng riêng rẽ, biệt lập. hữ Không trong tư tưởng Bát nhã nó chứa đựng và bao hàm cả tâm, cảnh, thế giới, chủ thể, khách thể và đối tượng, nhưng nó tuyệt nhiên bình đẳng và không là gì cả trong cá thể biệt lập. Bằng vào tự tánh không, tương duyên và sự chuyển biến thuần thục, tiến hóa của nhân quả mà khổ đau rơi rụng, trạng thái Niết bàn, an lạc có mặt trong sự sống, trong lòng thực tại.

Lời dạy của đức Phật nhằm đối trị sự mê chấp và vướng mắc danh, sắc, bản ngã của chúng sanh. Vì vậy, giáo pháp không phải là định pháp, mà giáo pháp là những nguyên tắc soi sáng linh động và mầu nhiệm. Một lời dạy của đức Phật hàm chứa vô lượng nghĩa, vô lượng pháp môn thực hành. Khi đức Phật nói vui là đối với khổ mà nói, khi nói có là đối với không mà nói, khi nói tới Niết bàn là đối với sinh tử mà nói. Lời dạy của đức Phật là pháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói và hành động trên chiều hướng thượng. Học Phật là học khoa thực nghiệm, nhằm thiết lập sự bình an, liên hệ giữa cá nhân và cá nhân, giữa tập thể và tập thể. Học Phật, do đó, không phải là để thâu thập kiến thức, lý thuyết và kinh văn, mà học Phật là học nguyên tắc khai mở tuệ giác và khả năng thương yêu đang ngủ chìm trong tiềm thức, trong nội tâm sâu kín của mỗi người. Đức Phật có đủ những đức tánh cao đẹp, ta cũng có đủ, không thiếu và không khác. Tánh của đức Phật có năng lực từ bi rộng lớn, có khả năng hóa giải những tâm lý sân hận, oán thù và tranh chấp. Ta cũng có đủ các đức tánh đó. Tánh của đức Phật hàm chứa trí tuệ siêu việt, có khả năng phá trừ những tâm lý tham chấp, mê lầm và soi thấu tận gốc rễ hạnh phúc, khổ đau. Ta cũng có đủ các đức tánh đó. Đức Phật có khả năng nhẫn nại, kiên trì để tu tập, dứt trừ khổ đau, chứng quả cảnh giới Niết bàn tịch diệt, không còn vướng mắc trong nghiệp báo luân hồi. Ta cũng có đủ khả năng để lập nguyện tu tập, đoạn trừ đau khổ.

Một cá nhân, một gia đình, một tập thể được học Phật là cá nhân, gia đình và tập thể đó có niềm vui lớn, có sự hòa hợp lớn, có sự tương kính với nhau hết mực. Đó là kết quả bước đầu của người học Phật. Phẩm chất cao đẹp hơn của người học Phật là thành tựu giới đức thanh tịnh, thành tựu được định lực kiên cố và thành tựu được trí tuệ viên mãn. Nhìn vào cách sống, biểu tướng qua lời nói, và sự hành xử của một người mà ta có thể biết được người ấy có phẩm chất học Phật hay thiếu phẩm chất học Phật. Một người học Phật thế nào, tu tập thế nào mà không chuyển hóa được tri giác sai lầm, không thay đổi được tập khí giận hờn, hấp tấp, nóng nảy, ganh ghét, ích kỷ, đố kỵ, tham chấp, háo thắng, tị hiềm, nhỏ mọn, đầy phiền não, hệ lụy và đau khổ thì việc học Phật và thực tập của ta đã sai lầm rồi, ta hãy trầm tĩnh, quán chiếu trở lại để tu chỉnh việc học Phật và công phu hành trì của ta.
  • Học Phật để quán chiếu
    Tỏ ngộ lý chân như
    Chuyển hóa nhân đau khổ
    Tới lui cõi Niết bàn
    Ba nghiệp hằng thanh tịnh
    Giới, định, huệ viên dung
    Vượt qua bờ sanh tử
    Rộng độ khắp muôn loài.


    NIỀM TIN VÀ TUỆ GIÁC
Kho tàng văn hóa và thông điệp từ bi của đức Phật là một cống hiến to lớn cho nhân loại và đặc biệt là cho các quốc gia tiến bộ, văn minh cơ khí, vật chất trên thế giới. Một số các xã hội Tây phương, mà đặc trưng là đất nước và chánh sách Hoa Kỳ, đạo Phật có vai trò soi sáng, dẫn đạo hướng đi cho con người và xã hội này, hướng đi tìm lại giá trị nhân bản, hòa bình và an lạc cho con dân, cho nhân loại toàn cầu. Người Phật tử, người cư sĩ Phật giáo trong xã hội và thời đại phải sống như thế nào, tu tập như thế nào, hành xử như thế nào để có năng lực từ bi, trí tuệ, đại hùng và đại nguyện hoằng dương Phật pháp?

1. Thứ nhất, đối với bản thân:

Người Phật tử cư sĩ khi thấy chiến tranh, nghe chiến tranh, bình luận chiến tranh, và than thở về sự tàn bạo, tội ác của chiến tranh, chưa đủ, người Phật tử cư sĩ phải tham gia vào sự nghiệp tái lập hòa bình, và giải giới chiến tranh. Tham gia như thế nào vào sự nghiệp tái lập hòa bình và giải giới chiến tranh?
  • (1) Ăn uống không điều độ, không theo phép dinh dưỡng để thân, tâm lành mạnh là ta đang trực tiếp, gián tiếp tham dự những tác hại của chiến tranh. Nguyên nhân sâu xa của sự tàn sát, hoại diệt sinh mệnh, thiêu hủy mầm sống là bắt nguồn từ việc ăn và uống của mỗi cá nhân. Người Phật tử cư sĩ phát nguyện giữ giới không sát sanh, giảm thiểu tối đa việc ăn thịt, uống rượu là sự thực tập, là nguyên tắc quán chiếu sâu sắc nhất trong sự nghiệp tái lập hòa bình, giải giới chiến tranh.

    (2) Chơi bài bạc, đánh cá, làm nghề không lương thiện, lợi dụng công sức và làm giàu trên niềm đau, nỗi khổ của kẻ khác là ta đang trực tiếp, gián tiếp tham dự những tác hại của chiến tranh. Nguyên nhân sâu xa của sự tranh chấp, hoại diệt bản chất hòa bình và hạt giống yêu thương bắt nguồn từ trộm cướp, làm nghề bất lương của mỗi cá nhân. Người Phật tử cư sĩ phát nguyện giữ giới không trộm cướp, không tham quyền lợi trên sự tước đoạt danh vị, tài sản của kẻ khác, là sự thực tập, là nguyên tắc quán chiếu sâu sắc nhất trong sự nghiệp tái lập hòa bình, giải giới chiến tranh.

    (3) Vợ chồng không tín cẩn, không trung thành, không kính yêu nhau, sinh tâm ngoại tình, dan díu sắc dục với người ngoài là ta đang trực tiếp, gián tiếp tham dự những tác hại của chiến tranh. Nguyên nhân sâu xa của sự đổ vỡ hạnh phúc gia đình, kiện tụng, ly than, ly dị, gieo nỗi sợ hãi, cô dơn, bức xúc lên đầu con trẻ, là bắt nguồn từ hành động tà dâm, ngoại tình của vợ chồng và các bậc làm cha mẹ. Người Phật tử cư sĩ phát nguyện giữ giới không tà dâm, không ngoại tình là sự thực tập, là nguyên tắc quán chiếu sâu sắc nhất trong sự nghiệp tái lập hòa bình, giải giới chiến tranh.

    (4) Nói lời gian dối, nói lời đường mật, nói lời chia rẻ, đấu tranh; nói lời vu khống, mạ lỵ, nói lời thô bạo và độc ác là ta đang trực tiếp, gián tiếp tham dự những tác hại của chiến tranh. Nguyên nhân sâu xa của sự chia rẻ, thiếu tình kết hợp giữa người thân, trong doàn thể là bắt nguồn từ sự không thành thật, bôi bác, tranh chấp hơn thua bằng bút chiến, khẩu chiến. Người Phật tử cư sĩ phát nguyện giữ giới không nói lời gian dối, không nói lời gạt gẫm, không nói lời đường mật, chụp mũ, thị phi, không nói lời độc ác, chia rẻ và đấu tranh là sự thực tập, là nguyên tắc quán chiếu sâu sắc nhất trong sự nghiệp tái lập hòa bình, giải giới chiến tranh.
Ngoài sự ngăn ngừa, chấm dứt nguyên nhân và mầm móng của chiến tranh, qua bốn yếu tố thực tập, quán chiếu căn bản: Không sát sanh, trộm cướp, không tà dâm và không gian dối, người Phật tử cư sĩ phải phát nguyện thực tập sự tỉnh thức liên tục, bền bỉ để phát triển hạt giống hiểu biết, yêu thương, thanh tịnh và hòa hợp nội thân trong nội thân. Ngày đầu nhập đạo, phát khởi tín tâm quy y Tam Bảo, người Phật tử cư sĩ tự phát nguyện: "Con xin nguyện trọn đời nơi tự tánh Phật bảo". Tự tánh Phật bảo là tự quy y nơi tánh giác của mình để tìm hạnh phúc, chứ không phải đi tìm cầu một nơi nào khác. Quán chiếu nội thân trong nội thân là trong thân Phật có thân ta, trong thân ta có thân Phật. Nhận biết "tánh Phật và tánh chúng sanh vốn bình đẳng", đó là niềm tin chân chánh, niềm tin có tuệ giác của người Phật tử cư sĩ.

Thọ giới và thực hành giới pháp là bước đầu công phu tu tập thiền quán của người Phật tử cư sĩ. Bước thứ hai, người Phât tử cư sĩ phải lưu ý thực tập pháp môn tham thiền trong đời sống để có cự tỉnh giác thường xuyên. Tham thiền để an tâm. Mỗi ngày ta ăn cơm để nuôi thân, thì mỗi ngày ta cũng phải thọ "thiền duyệt thực" để nuôi tâm. Thiền duyệt thực là tu thiền để nuôi lớn sự tỉnh thức và niềm vui tâm hồn. Tu tập thiền định như thế nào, ta sẽ đề cập ở một chủ đề khác. Ở đây, xin nói ra vài lợi ích và công năng của thiền định. Thiền định dẫn tới:
  1. Tâm an ổn, vui tươi và trừ sự căng thẳng tinh thần.
  2. Hóa giải tâm lý nóng giận, muộn phiền, trách móc và ganh tỵ.
  3. Làm chủ được hơi thở và cảm giác.
  4. Rủ bỏ lo âu, mặc ảm và cô đơn.
  5. Biết cách cảm thông với chính mình.
  6. Trừ được bệnh trầm cảm và bạo hành.
  7. Dễ làm hòa với người thân, bằng hữu và những người chung quanh.
  8. Có khả năng lắng nghe người khác.
  9. Thường nói lời ái ngữ và xây dựng.
  10. Không nói năng, hành động vụng dại để làm đổ vỡ hạnh phúc gia đình.
  11. Khéo làm hòa và khéo tái lập tình yêu thương với người thân.
  12. Vững chãi và tự tin trong cuộc sống.
  13. Từ bỏ được những thói quen nghiện ngập, bài bạc, sắc dục, ma túy.
  14. Sống đơn giản, khiêm cung, cởi mở và từ ái.
  15. Không gây đau khổ cho bản thân và tha nhân.
  16. Phát triển được các thiện tâm sở dễ dàng.
  17. Hoàn mãn được tâm từ bi, tâm hỷ xả rộng lớn.
  18. Thành tựu được giới đức, oai nghi thanh tịnh.
  19. Không đua đòi vật dục theo đám đông.
  20. Thành tựu được chánh hạnh giải thoát.
  21. Có dủ nghị lực, uy tín để dấn thân phụng sự.
  22. Không khuất phục uy quyền, bạo lực.
  23. Giác ngộ được lý tánh vô sanh.
  24. Tâm Bồ đề bất thối chuyển.
  25. Đem an lạc, hạnh phúc đến cho nhiều người và nhiều thế hệ.
  26. Thành tựu được Phật thân và Phật quả.
  27. Thuần thục đại nguyện độ sanh của Bồ tát.
  28. Tự tại vào ra trong ba cõi và sáu nẻo luân hồi.
2. Thứ hai, đối với tha nhân:

Trong hai yếu tố thực tập giới pháp và thiền định của người Phật tử cư sĩ đã mang đủ phẩm chất về hai phương diện vừa tự lợi và lợi tha. Tự lợi và lợi tha là hành động tích cực để nuôi dưỡng, xây dựng hạnh phúc, bản thân, đem lại niềm vui, hạnh phúc cho nhiều người trong xã hội và qua nhiều thế hệ.

Làm thế nào để xây dựng một gia đình có hạnh phúc và làm thế nào để xây dựng một tổ chức từ thiện xã hội lâu dài, có tầm cỡ để cứu tế những xã hội chậm tiến và nghèo đói? Đó là hai vấn đề rất cụ thể, thiết cần mà người Phật tử cư sĩ nên hết lòng lưu tâm thảo luận và thực hiện ngay bây giờ, không hứa hẹn ở tương lai.
  • (1) Xây Dựng Một Gia Đình Có Hạnh Phúc
Trong kinh Thương Yêu, đức Phật dạy: "Một gia đình muốn có an lạc, hạnh phúc ngoài việc mỗi người có học, có một nghề tốt và không làm tổn hại đến sinh mạng của kẻ khác. Mỗi người trong gia đình còn nên học hạnh thẳng thắng, khiêm cung, biết sử dụng ngôn ngữ từ ái, những kẻ ấy biết sống đơn giản, từ hòa, điềm đạm, ít ham muốn và không đua đòi theo đám đông. Họ luôn luôn thực tập và nuôi dưỡng tâm niệm:
    • a. Nguyện cho mọi người và mọi loài được sống trong an toàn và hạnh phúc, tâm tư hiền hậu và thảnh thơi.

      b. Nguyện cho đừng loài nào sát hại loài nào, đừng có ai coi nhẹ tánh mạng của ai, đừng ai vì giận hờn hoặc ác tâm mà mong cho ai bị đau khổ và khốn đốn.

      c. Như một bà mẹ đang đem thân mạng mình che chở cho đứa con duy nhất, chúng ta hãy đem lòng từ bi mà đối xử với tất cả mọi người.
Người Phật tử cư sĩ vì nhiều lúc vì đời sống cơm áo, vì bổn phận đối với Phật pháp (chùa chiền), đoàn thể và quốc gia dân tộc, mà vô tình lãng quên việc nuôi dưỡng, tưới tẩm hạnh phúc cá nhân và gia đình. Đây là điều ta cần xét lại và quán chiếu để đừng rơi vào tình trạng "xây nhà trên bãi cát". Vì hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc gia đình không có thì làm sao ta có thể phục vụ dân tộc, đạo pháp? Chúng ta khách quan đề ra một số câu hỏi và bản thân của mỗi Phật tử cư sĩ cần thẩm xét, chiêm nghiệm cho thật chu đáo những sinh hoạt tâm linh trong gia đình của mình:
    • a. Ta và người thân trong gia đình (chồng, vợ, các con và các cháu) đã chính thức làm lễ phát nguyện quy y Tam Bảo và hành trì năm giới căn bản của người Phật tử cư sĩ chưa?

      b. Thầy bổn sư, thầy y chỉ, thầy giáo thọ của ta là những bậc Tăng, Ni nào? Ta thường thân cận để được hướng dẫn pháp môn tu tập hay không?

      c. Trong ba pháp quay về nương tựa Phật, Pháp, Tăng, ta đã thực tập được những điều nào sau đây:
      • (a) Đã quay về nương tựa Phật, con đang thực tập pháp môn thiền định tinh cần để phát huy khả năng Phật tánh trong con mỗi ngày một thêm sáng đẹp.
        (b) Đã quay về nương tựa Pháp, con đang thực tập giới luật tinh cần để phát huy khả năng từ bi trong con mỗi ngày thêm sâu sắc rộng lớn.
        (c) Đã quay về nương tựa Tăng, con đang được Tăng thân bảo hộ, soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường tu tâm, dưỡng tánh.
      d. Nếu có thực tập, ta đã thực tập được mấy mươi phần trăm?

      e. Những người trong gia đình có cùng nhau ôn tập, tụng đọc năm giới và sám hối nửa tháng một lần hay không?

      f. Những người trong gia đình có thực tập bữa cơm chay tịnh, chánh niệm với sự có mặt đông đủ người thân mỗi tuần hai lần vào dịp cuối tuần hay không?

      g. Cha mẹ, chồng vợ và các con có thực tập thói quen lễ Phật, niệm Phật mỗi ngày năm phút đến mười lăm phút mỗi buổi sáng và buổi tối hay không?

      h. Những người trong gia đình, mỗi khi khởi tâm buồn giận, nóng nảy, bức xúc có thực tập phép "Trở về hơi thở và theo dõi hơi thở trong chánh niệm" chưa, hay mạnh ai nấy nói, mạnh ai nấy tranh cãi?

      i. Cha mẹ, chồng vợ và người thân trong gia đình có thực tập phép "hối lỗi" với nhau trước bàn thờ Phật, bàn thờ ông bà và tổ tiên sau mỗi lần xảy ra chuyện bất hòa, khẩu chiến hay không?

      j. Ta phát nguyện tham gia đều đặn với một trung tâm tu học, một tăng thân, một ngôi chùa để thảo luận và thực hành Phật pháp, ứng dụng trong đời sống hay không?

      k. Con em của chúng ta có tham gia sinh hoạt với một gia đình, một đoàn thể có mục dích trau dồi đạo đức, tâm linh nào không?

      l. Chúng ta và con cái thường giải trí các loại phim ảnh, sách báo nào? Có lành mạnh hay mang nhiều tính bạo động, khơi dậy tình dục, chiến tranh?

      m. Chúng ta có thường nhau thảo luận việc sử dụng phim ảnh, sách báo, Tivi, E-mail, Internet, Website để đưa những yếu tố học hỏi, giải trí lành mạnh vào tâm thức mỗi người trong gia đình ta hay không?

      n. Chúng ta có ý thức và thiết lập thời khóa mỗi tháng ít nhất là một lần để cha mẹ, vợ chồng, con cái thảo luận, duyệt xét với nhau về việc thực tập năm giới, nền tảng hạnh phúc của gia đình mình hay không?
    (2) Xây Dựng Một Tổ Chức Từ Thiện: Người Phật tử cư sĩ nên lưu tâm xiển dương công đức từ thiện. Nơi xây dựng một tổ chức từ thiện thì quá lớn, nên ta có thể bắt đầu bằng cách thiết lập một nhóm từ thiện, để vừa khiêm tốn và vừa dễ thực hiện. Trong cộng đồng Phật tử Việt Nam ở Hoa Kỳ và hải ngoại đang có khá nhiều "Nhóm Từ Thiện" hướng về Việt Nam, giúp người mù, mổ mắt bị cườm và xây lại nhà cửa hư sập bởi thiên tai, cứu đói, bảo trợ người khuyết tật ở các làng phong cùi, các viện cô nhi; làm trường học dạy trẻ ở các vùng quê, mở các trạm y tế cho thuốc đến người bệnh; trùng tu và xây dựng lại những ngôi chùa bị chiến tranh tàn phá...
Vấn dề từ thiện, cứu tế gắn liền với giáo lý từ bi, vị tha của đạo Phật. Song ta biết rõ là khi làm từ thiện xã hội nó sẽ bị ảnh hưởng ít nhiều với hoàn cảnh chánh trị, chinh biến của đất nước, nhưng không vì thế mà ta phó mặc, làm ngơ trước niềm đau, nỗi khổ của dân chúng đói nghèo, bệnh tật, thiên tai xay ra khắp nơi trên mặt đất. Kế thừa truyền thống "vô duyên đại từ, đồng thể đại bi" của đức Bồ tát Quán Thế Âm, ngày 14 tháng 4 năm 1966, một nữ tu sĩ Phật giáo ở Đài Loan, có pháp danh Chứng Nghiêm cùng năm học trò xuất gia và ba mươi bốn Phật tử cư sĩ phát nguyện trước Tam Bảo thành lập "Hội Công Đức Từ Tế". Hội bắt đầu làm ra những đôi giày em bé để gây quỹ, kêu gọi bà con thiện tâm tiết kiệm năm xu (05) mỗi ngày, với ý chí tụ cây thành rừng, tụ cát thành núi đã xây dựng nên một sự nghiệp từ thiện xã hội thật to lớn ngày nay. Tính đến năm 2002, Hội đã tập họp trên hai mươi lăm ngàn ủy viên điều hành và hàng triệu người thiện tâm tham gia làm việc, đóng góp ngân quỹ để cứu khổ người nghèo và dân chúng lâm nạn khắp nhiều quốc gia trên thế giới.

Suốt ba mươi lăm năm dấn thân làm việc, nhà tu mảnh khảnh Thích nứ Chứng Nghiêm nay đã sáu mươi lăm tuổi vẫn vui tươi, mạnh khỏe, nói năng khiêm tốn, mạch lạc, thực tế, phóng khoáng như lúc mới bắt đầu vào đời làm công tác từ thiện năm ba mươi tuổi. Thống kê con số mới nhất của Hội Công Đức Từ Tế dưới sự lãnh đạo của bà mẹ Từ thiện Chứng Nghiêm từ ngày Rằm tháng tư âm lịch năm 2002, là Hội đã thâu nạp trên bốn triệu hội viên, tức hơn một phần trăm dân cư của quốc gia Đài Loan. Trong thời gian trên ba thập niên "xuống đường" và "dấn thân" làm hạnh Bồ tát, Ni sư Thích nữ Chứng Nghiêm đã biến đổi vai trò Phật giáo Thiền định, truy tầm nội tâm trở thành vai trò của đại hạnh và đại nguyện của Bồ tát cứu khổ tích cực giữa cõi đời trầm luân.

Người Phật tử cư sĩ Việt Nam đang cư trú và sinh hoạt tại Hoa Kỳ cùng khắp nơi tại hải ngoại cũng có đầy đủ kiến thức, kinh nghiệm, ý chí, đạo lực và tâm nguyện dân thân cứu tế, làm công tác từ thiện xã hội không thua bất cứ nhân sự của một Hội Từ Thiện nào của các tổ chức, đoàn thể và các tôn giáo. Quý thầy, quý sư cô trẻ Việt Nam đang tu học tại xã hội Tây phương hôm nay cũng có thể trở thành một hay nhiều Ni sư Chứng Nghiêm trong sứ mạng tập họp các giới Phật tử cư sĩ đóng góp công sức,tài lực, bàn tay trong phần vụ "Từ Thiện Cứu Tế" thực tiển cho trẻ con, quần chúng bất hạnh trên quê hương Việt Nam và các cơ sở nghèo đói.
  • (1) Xây dựng nhà nguyện, tập họp trẻ con và người nghèo trên các vùng nông thôn, sơn cước để truyền bá đức tin.

    (2) Mở các bệnh xá chữa bệnh, cho thuốc người già, người bệnh và người tàn tật.

    (3) Xây dựng trường học để dạy trẻ con biết đọc, biết viết và biết cám ơn người đã ban ơn.

    (4) Bố thí thức ăn, áo mặc, quà kẹo, bánh trái để bảo dưỡng, an ủi, khích lệ việc học hành của con em.

    (5) Phát tiền cho mỗi đầu người để sửa sang, xây dựng lại chỗ ở cho kẻ bần hàn và "cấy đức tin" vào tâm hồn họ.

    (6) Mua lại điền thổ của nhà nghèo để xây nhà và bán rẻ lại cho dân vào đạo hoặc cải đạo.

    (7) Dạy cho tuổi trẻ có nghề khâu may, thủ công nghệ, chằm nón, dóng giày, sửa máy móc, sử dụng các hệ thống điện toán.

    (8) Cấp phát học bổng để các em được vào các chương trình giáo dục và học vấn cao cấp.

    (9) Cấp phát học bổng và vận dụng phương cách để đưa sinh viên đi học nước ngoài.

    (10) Đào tạo nhân sự có khả năng chuyên môn về các ngành tôn giáo, giáo dục, tâm lý, giảng thuyết để thu hấp dân chúng.

    (11) Dùng tài nguyên và sách lược thu phục, ngoại giao với các cấp chánh quyền để mở mang "thiên quốc" trong chốn địa ngục trần gian.
Trong bài tham luận này, chúng tôi chỉ đưa ra một tấm kính để nhìn, nhằm gợi cảm thêm những thao thức và đóng góp chút kinh nghiệm giới hạn trong hạnh nguyện tu tập để tạo niềm an lạc cá nhân, xây dựng hạnh phúc gia đình của người Phât tử cư sĩ. Thêm vào đó là vai trò lợi tha tức là công tác từ thiện xã hội, cứu tế nhân gian mà hầu hết những người Phật tử cư sĩ hằng lưu tâm tới, nhưng vì thiếu khích lệ, huy động hoặc không biết bắt đầu từ đâu. Ta hãy bắt đầu bằng ý thức, rồi sẽ cùng nhau hành động.

Thời đại đức Phật có nam Phật tử cư sĩ Cấp Cô Độc, có nữ Phật tử cư sĩ Visakha, là hai người tiêu biểu cho những Phật tử cư sĩ nhiệt tâm hộ trì Tam Bảo, dấn thân làm công tác từ thiện xã hội nhằm giáo dục, cứu khổ người nghèo. Ngày nay trong cộng đồng Phật giáo khắp nơi trên thế giới cũng không thiếu những Phật tử cư sĩ có đại hạnh đóng góp bàn tay, khối óc, tài vật và dấn thân phụng sự chánh pháp, quần sanh. Người Phât tử cư sĩ Việt Nam ở Hoa Kỳ và các nước ngoài hãy đoàn kết, tập hợp nhau lại để tu tập cứu người và giải khổ.
  • Hãy thắp lên ngọn đèn ý thức
    Cho tình gầy lớn dậy tin yêu
    Hãy nhiếp niệm trở về hơi thờ
    Cho nụ cười ướp ngọt sân si
    Là lửa ấm cõi lòng băng giá
    Phủ thân côi chiếc áo nhân từ
    Hãy lau khô nước mắt nghèo đói
    Bằng bát cơm thơm ngát diệu thường
    Hãy nhỏ xuống quê hương thù hận
    Giọt cam lồ rửa sạch oan khiên
    Hãy quên đi khối sầu dỉ vãng
    Cho mùa xuân hoa nở muôn nhà
    Hãy gieo xuống giống lành thiện mỹ
    Cho thiên đường hiện xuống trần gian
    Em và tôi hóa thân dòng sông "Vô Niệm".

    • THÍCH TỊNH TỪ
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Kỷ Yếu Hội Thảo Tổng Vụ Cư Sĩ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

BỔN PHẬN CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ TẠI GIA
Hòa thượng THÍCH THẮNG HOAN
Phó Chủ Tịch Đặc Trách Liên Lạc Các Châu
I. VÀO ĐỀ
Tất cả chúng sanh lớn như loài người, nhỏ như các loài động vật đều có bổn phận để sanh tồn, như con người có bổn phận của con người, con kiến có bổn phận của con kiến, con ong có bổn phận của con ong, con chim, con sâu đều có bổn phận của con chim, của con sâu..v..v.... Nguyễn Công Trứ thường ca ngợi về bổn phận của các loài động vật như : "Ta xem loài vật nhỏ, trong lòng ta tưởng mộ, ong kiến biết hợp đoàn, chim sâu còn luyến tổ, có nước không biết yêu, không bằng chim cùng sâu, có đoàn không biết hợp, ong kiến hơn ta nhiều v.v..." Các động vật thuộc loài hạ đẳng còn biết bổn phận đoàn kết và biết luyến tổ để sống còn để tồn tại thì huống hồ là loài người, nguyên vì các nhà hiền triết cho rằng loài người có trí khôn hơn loài vật. Cho nên vấn đề Bổn Phận là nguyên động lực lẽ sống của tất cả chúng sanh để hiện hữu và tồn tại trong cộng đồng duyên sanh của từng chủng loại.
II. VẤN ĐỀ BỔN PHẬN
1. Bổn Phận: Là những điều kiện mà nhiệm vụ của con người cần phải làm, như bổn phận làm cha, bổn phận làm mẹ, bổn phận làm con, bổn phận làm thầy, bổn phận làm trò v.v...

Trong cộng đồng duyên sanh của xã hội loài người, mỗi người đều có bổn phận như nhau để thăng tiến cuộc đời và bổn phẩn đó của loài người tùy theo danh nghĩa tùy theo chức năng của họ mà định mức giá trị. Vị tổng thống thì có bổn phận của vị tổng thống, vị tỉnh trưởng thì có bổn phận của vị tỉnh trưởng, người công nhân thì có bổn phận của người công nhân v.v..., Phật Tử xuất gia thì có bổn phận của Phật Tử xuất gia và Phật Tử tại gia thì có bổn phận của Phật Tử tại gia.

2. Phật tử: (Tiếng Phạn Budha-putra) là người tin thuận theo giáo pháp của Phật và thừa kế gia nghiệp của Phật, tức là người muốn thành Phật và có bổn phận làm cho hạt giống Bồ Đề của Phật được truyền thừa mãi trong nhân gian không cho mất. Theo Kinh Bồ Tát An Lạc Bản Nghiệp, quyển thượng giải thích: "Tất cả chúng sanh thuận theo Phật, nhớ nghĩ đến Phật, cũng có thể thành Phật nên gọi là Phật Tử". Theo Kinh Pháp Hoa, Phẩm Phương Tiện và Kinh Phạm Võng, quyển hạ cho rằng: "Phật Tử là những tín đồ Phật Giáo thọ giới Bồ Tát Đại Thừa".

3. Phật tử Tại gia: (Tiếng Phạn Grha-pati, tiếng Pali là Gaha-pati), là thánh chúng tại gia của Phật Giáo. Giáo đoàn của Phật Giáo thời kỳ đức Phật còn tại thế ở Ấn Độ gồm có bốn chúng: Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di. Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni là hai chúng xuất gia làm biểu tượng trang nghiêm cho giáo đoàn Phật Giáo và Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di là hai chúng tại gia nhập thế hỗ trợ cho giáo đoàn hiện hữu và tồn tại trong thế gian. Phật tử tại gia đã là đệ tử của đức Phật, muốn trở thành những đứa con xứng đáng thì phải làm tròn bổn phận như sau:
  • (1) Phải đi theo con đường của Phật đã đi. Đức Phật là bậc đã hoàn toàn giác ngộ, đầy đủ năng lực phi phàm, trí tuệ siêu việt, đức hạnh viên mãn. Với ý nguyện cứu độ chúng sanh, ngài đã làm những việc mà chúng sanh không thể làm, ngài đã bỏ ngai vàng làm kẻ ăn xin, năm năm tầm sư học đạo, sáu năm tu khổ hạnh, bốn mươi chín ngày nhập định nơi cội cây Bồ Đề và nhờ những công hạnh này ngài trở thành bậc đại giác Thế Tôn. Từ đó suốt năm mươi năm ngài tuyên dương chánh pháp để cứu độ chúng sanh và vạch cho chúng sanh con đường giác ngộ và giải thoát. Chúng ta hãy nên đi theo con đường mà ngài đã vạch sẵn, đừng chạy theo những con đường nào mới lạ không qua sự kinh nghiệm của ngài để khỏi bị lầm đường lạc lối trước muôn nẻo ảo tưởng giả tạo được trang trí đầy hoa thơm cỏ lạ.

    (2) Chúng ta phải làm theo những việc của Phật đã làm, phải làm theo những lời chỉ dạy của Phật, phải chứng thành đạo quả như Phật đã chứng. Để báo đáp công ơn sâu dầy và cao cả của đức Thế Tôn ra tay tế độ chúng sanh trong đó có chúng ta, Phật tử xuất gia cũng như Phật tử tại gia phải làm tròn những bổn phận nêu trên mà đức Phật đã trao truyền. Đối với những bổn phận nói trên, riêng Phật tử tại gia cần phải thể hiện những điều kiện cần thiết như dưới đây:
III. BỔN PHẬN HỘ TRÌ PHẬT PHÁP
Phật tử xuất gia phải có bổn phận hoằng truyền Phật Pháp thì Phật tử tại gia phải có bổn phận hộ trì Phật Pháp để cho tàng cây Bồ Đề của Phật che mát khắp thế gian, để cho hương thơm Bồ Đề của ngài lan tràn khắp thế giới và để cho tất cả chúng sanh nhờ ân đức của ngài gội nhuần mưa pháp tăng trưởng căn lành. Trong giáo đoàn truyền giáo của đức Phật thiết lập, hai chúng xuất gia và tại gia mặc dù nếp sống khác nhau, hành sử khác nhau, nhưng quan hệ chặt chẽ lẫn nhau và hỗ trợ cho nhau trên con đường tu tập cũng như hoằng truyền chánh pháp.

Như Kinh Như Thị Ngữ 107 đã nói lên sự quan hệ giữa chúng xuất gia và chúng tại gia như sau: "Chúng xuất gia nhờ chúng tại gia giúp đỡ những đồ dùng như: quần áo, thức ăn, chỗ ở v.v...; chúng tại gia nương chúng xuất gia mà tiếp nhận giáo pháp và phạm hạnh. Cả hai bên nương nhau tu hành theo chánh pháp".

Trước khi ý niệm bổn phận của mình, chúng ta nên ôn lại những gương sáng ngời của các bậc tiền nhân đã đóng góp công trình hộ trì Phật Pháp vô cùng lớn lao mà lịch sử Phật Giáo ghi son đậm nét.

1. NOI GƯƠNG CÁC BẬC TIỀN NHÂN:

Theo Lịch Sử Phật Giáo, những gương sáng của các bậc tiền nhân thuộc Phật tử tại gia đã đóng góp hết mình cho công cuộc truyền bá chánh Pháp đến được khắp chốn cùng nơi trên thế giới. Những điểm son đó được ghi lại danh tánh như sau:
  • (1) Tại Ấn Độ:
Sau khi đức Phật Thích Ca Thành đạo nơi cội Bồ Đề, những Phật tử tại gia thuộc Ưu Bà Tắc và Ưu Bà Di hộ trì Phật Pháp giúp cho đức Phật truyền bá chánh pháp cứu độ chúng sanh. Phật tử Ưu Bà Tắc đầu tiên hộ trì Phật Pháp chính là vua Tần Bà Sa La, nước Ma Kiệt Đà, vua đã thành lập Tịnh Xá Trúc Lâm giúp cho đức Phật làm trung tâm truyền đạo cứu đời. Từ trung tâm này nhờ sự tận lực hỗ trợ của vua Tần Bà Sa La, đức Phật Thích Ca phát huy tư tưởng của mình đã chứng ngộ soi sáng và giải thoát mọi khổ đau cho chúng sanh.

Kế đến Phật tử Tu Đạt, biệt hiệu Cấp Cô Độc cũng thuộc Ưu Bà Tắc phát nguyện hộ trì Phật Pháp xây dựng một trung tâm thứ hai tên là Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên để hỗ trợ đức Phật mở rộng chánh pháp tại nước Kiều Tát La (Kosala). Điều đặc biệt trong nước này, có tín nữ thuộc Ưu Bà Di tên là Mạt Lợi Phu Nhân (Mallikā), biệt hiệu là Thắng Man Phu Nhân, vợ của vua Ba Tư Nặc (Pasenadi), bà phát nguyện tứ sự cúng dường cho đức Phật và chư Tăng thời bấy giờ. Hơn nữa một tín nữ khác không thua kém Mạt Lợi Phu Nhân tên là Visākhā thuộc nước Ương Già Tộc (Anga) con nhà triệu phú Dhananjaya, bà phát Bồ đề tâm trợ duyên cho đức Phật và Tăng Đoàn trong sự nghiệp hoằng dương chánh pháp cứu độ chúng sanh. Từ đó tư tưởng giác ngộ của đức Phật Thích Ca trong năm mươi năm truyền bá nhờ các Phật tử tại gia nồng cốt tận tâm hỗ trợ cho nên được soi sáng khắp cả vùng Trung Ấn. Điều đó được thấy trong các kinh, như Kinh Duy Ma Cật, Kinh Thắng Man, Kinh Hoa Nghiêm v.v... giới thiệu rất nhiều Phật tử nam nữ cư sĩ tại gia Bồ Tát hộ trì chánh pháp quang đại khắp nơi trên thế giới.

Cách ba trăm năm Phật Thích Ca nhập diệt trở về sau cũng có rất nhiều hàng Bồ Tát tại gia đứng ra truyền bá đạo giác ngộ của đức Thế Tôn. Điển hình như vua A Dục đứng ra tổ chức đại hội kiết tập kinh điển Phật Giáo lần thứ ba và thành lập tám phái đoàn truyền giáo các quốc gia trong và ngoài nước. Theo Lược Sử Phật Giáo Ấn Độ của Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm, trang 92-93, những quốc gia mà tám phái đoàn đến truyền giáo gồm có: Hy Lạp, Ai Cập, Syria, Aparāntaka, Kamboja, Pulinda, Bhoja, Pitinika, Andhra, Cola, Pāndya, Tambapanni (Tích Lan). Sau khoảng 600 năm Phật nhập diệt, tức là khoảng thế kỷ thứ I Tây Lịch, vua Ca Nị Sắc Ca (Kaniska) thuộc nước Tukhāra (Nhục Chi) sau khi thống nhất Ấn Độ tiếp tực sự nghiệp của A Dục Vương đứng ra tổ chức đại hội kiết tập kinh điển Phật Giáo lần thứ tư và hổ trợ các nhà truyền giáo mở rộng qua các nước như: Parthia (An Tức thuộc Ba Tư), Kashgar (Sớ Lặc), Yarkand (Xa Sa), Khotan (Vu Điền) v.v... gây ảnh hưởng đến Trung Quốc.
  • (2) Tại Trung Quốc:
Những Phật tử tại gia trọng yếu trong sự hộ trì Phật Pháp qua các lãnh vực như: phiên dịch kinh luận, ấn hành kinh sách, tổ chức hội đoàn học Phật v.v... gồm có các vị: An Huyền, Chi Khiêm, Nhiếp Thừa Viễn, Tâm Thái, Bành Thiệu Thăng, Dương Văn Hội v.v... đã từng phát huy chân lý Phật Giáo sáng rực cả vòm trời Trung Quốc.
  • (3) Tại Nhật Bản:
Vị Phật tử tại gia đầu tiên hộ trì Phật Pháp là Thái tử Thánh Đức cùng hoàng thất, quý tộc nỗ lực đưa Phật Giáo phát triển mọi mặt như: kiến trúc, mỹ thuật, văn học v.v... và truyền mãi đến ngày nay.
  • (4) Tại Việt Nam:
Những Phật tử tại gia có công không nhỏ hộ trì Phật Pháp trong sự nghiệp truyền thừa Phật Giáo Việt Nam gồm có:
    • a. Theo Đạo Phật Và Dòng Sử Việt trang 20-21 của Hoà Thượng Thích Đức Nhuận, vào khoảng năm 435 trước Tây Lịch kỷ nguyên, Phật tử đầu tiên mang Phật Giáo từ Ấn Độ vào Việt Nam gieo giống Bồ Đề nơi mảnh đất quê hương làm chất liệu sống và ý nghĩa sự sống cho con Lạc cháu Hồng chính là Phò Mã Chữ Đồng Tử và Công Chúa Tiên Dung Mỵ Nương cháu của Hùng Vương đời thứ ba. Kế đến vào khoảng thế kỷ thứ IX TL, Đinh Tiên Hoàng Đế là vị vua hộ trì Phật Pháp đắc lực yểm trợ Thiền sư Ngô Chân Lưu hết mình phát huy chánh pháp bằng cách tổ chức hệ thống Tăng Cang và thừa nhận đạo Phật là quốc giáo của toàn dân. Kế đến triều đại đời Lý (1010- 1225), suốt 215 năm, các vua chúa, cũng như các quần thần thi đua xây dựng chùa tháp, tổ chức đạo tràng khắp nơi giúp cho các tu sĩ xuất gia giảng kinh thuyết pháp, hoằng hoá chúng sanh. Có thể nói, trong 215 năm của triều đại nhà Lý, Phật Giáo Việt Nam lại càng được phát triển lớn mạnh vào đời sống xã hội, mở mang khắp cả quốc gia và tô bồi nền văn hoá Việt Tộc sáng ngời đến tuyệt đỉnh vinh quang. Từ đó về sau, có rất nhiều Phật tử tại gia lỗi lạc tiếp nối gương tốt của tiền nhân hộ trì Phật Pháp hổ trợ tu sĩ đem mạch sống pháp nhũ vào đời biến thành nền đạo của tổ tiên ông bà.

      b. Đến năm 1930 trong giai đoạn phục hưng Phật Giáo Việt Nam, các Phật tử tại gia lỗi lạc xuất hiện như: Thiều Chửu, Nguyễn Hữu Kha ở Bắc Việt, Tâm Minh Lê Đình Thám, Chơn An Lê Văn Định ở Trung Việt, Bác sĩ Nguyễn Văn Khoẻ, Chánh Trí Mai Thọ Truyền, Bác sĩ Lê Văn Cầm v.v... ở Nam Việt. Những vị này đã đóng góp rất lớn công đức trong sự nghiệp làm sống dậy và sáng ngời tinh thần Phật Giáo dân tộc.
    2. BỔN PHẬN ĐỐI VỚI TỰ THÂN:

    Phật tử tại gia muốn hộ trì Phật pháp trước hết tự thân phải hộ trì tự giác, nghĩa là phải hộ trì những pháp để tiêu diệt Kiến Hoặc và Tư Hoặc. Những pháp để tiêu diệt Kiến Hoặc và Tư Hoặc của Tự giác gồm có:
    • (1) Đối với tự thân:
      • a. Phải hộ trì pháp Tam Quy, nghĩa là phải hành ba pháp quy y cho thuần thục. Phải ý thức mình và chư Phật đồng một Phật Tánh sáng suốt, đồng một pháp tánh từ bi bình đẳng, đồng một thể tánh thanh tịnh hoà hợp.

        b. Phải hộ trì Ngũ Giới cho thuần thục, để thể hiện được giới đức vuông tròn chỉ đạo cho cuộc sống làm người đầy đủ ý nghĩa nhân cách. Nguyên vì Ngũ Giới là pháp hành nhằm đào luyện nhân cách và phẩm hạnh của con người trên phương diện tự giác với mục đích hoá giải những mầm mống bất thiện đã nằm sẵn trong tâm thức của mỗi con người.

        c. Phải hộ trì Thập Thiện cho thuần thục để giới thân huệ mạng viên thành và tạo nên đạo lực sung mãn đủ sức hoá giải tất cả phiền não của Kiến Hoặc và Tư Hoặc trong tâm thức của mình. Thập Thiện cũng là pháp hành ngoài sự hoá giải những mầm mống bất thiện trong tâm thức con người và còn bồi dưỡng giới thân huệ mạng đã lãnh thọ cho được nẩy nở trưởng thành.

        d. Phải chuyên cần hộ trì Bát Quan Trai Giới được tinh nghiêm để thiết lập con đường giác ngộ và giải thoát nối liền cõi Niết Bàn tịch tịnh của chư Phật an trụ nhằm mục đích giúp cho tâm linh của mình quan hệ đến với chư Phật trên cuộc hành trình chứng đắc.
    Đây là những pháp căn bản của Phật tử tại gia cần phải tu tập để làm hành trang cho sự tự giác và chỉ đạo chúng sanh trong nhiệm vụ giác tha.
    • (2) Đối với vợ chồng:
    Về mặt hình thức, gia đình là một đơn vị của xã hội và nhiều gia đình hợp lại thành xã hội. Cho nên xã hội có được sự an lạc hay không chính là do tất cả gia đình tạo nên và muốn cải thiện xã hội trước hết, chúng ta phải nhắm vào đơn vị gia đình để tu chỉnh. Còn gia đình là một xã hội nhỏ bao gồm chồng vợ con cái sống chung và quan hệ với nhau. Gia đình có được hạnh phúc hay không chính là do chồng vợ con cái có được hoà hợp thật sự hay không. Gia đình không được hạnh phúc chính là do cá nhân của mỗi người trong gia đình tạo nên. Muốn gia đình được hạnh phúc chân thật, trước hết mỗi người trong gia đình đó phải có tinh thần tự giác và chính họ phải ý thức bổn phận trong sự sống chung.

    Về mặt tâm linh, gia đình là đơn vị biểu tượng đạo đức của dòng họ của tông môn. Dòng họ tông môn có được hiển vinh hay không chính là do gia đình đó có đạo đức hay không. Để tô bồi nền đạo đức làm người, vợ chồng trong gia đình phải có những bổn phận như sau:
      • a. Phải kính trọng lẫn nhau,
        b. Phải áp dụng Pháp Lục Hoà trong việc sống chung,
        c. Phải hoà hợp trong việc xây dựng gia nghiệp,
        d. Phải kính trọng cha mẹ hai bên, không có cha mẹ hai bên thì không có vợ chồng để mình thương yêu.
        e. Phải nhớ công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ, không có cha mẹ thì không có mình và cha mẹ không hy sinh cá nhân thì mình không thể trưởng thành và đứng vững trong xã hội.
        g. Về tinh thần phải thấy mình quan hệ bảy đời với cha mẹ và dòng họ, nguyên vì cha mẹ bảy đời chỉ quá vãng về thân thể vật chất mà không phải quá vãng về tâm linh và còn quan hệ gần xa với con cháu về lãnh vực tâm linh này.
        h. Phải tế tự chu toàn khi cha mẹ qua đời để đền ơn một phần nào công sanh thành dưỡng dục của cha mẹ như núi Thái Sơn, như nước trong nguồn.
      (3) Bổn phận đối với Phật sự:
    Nhằm diệt trừ Trần Sa Hoặc của chúng sanh và Vô Minh Hoặc của ba cõi về phương diện giác tha, hàng Phật tử tại gia phải có bổn phận cắt đứt mọi sự ràng buộc phiền não qua sự quan hệ với cộng đồng nhân loại và thoát ly mọi sự mê hoặc của vô minh qua nguyên lý trùng trùng duyên khởi trong ba cõi với phương thức (mượn chúng sanh để diệt chúng sanh tâm). Để cắt đứt mọi sự quan hệ của phiền não và thoát ly mọi sự mê hoặc của vô minh, hàng Phật tử tại gia phải thực hiện những điều kiện sau đây làm hành trang trên đường tu tập:
      • a. Phải hộ trì An Cư, nghĩa là chúng xuất gia có tổ chức đạo tràng an cư bất cứ ở đâu, chúng Phật Tử tại gia phải có bổn phận đến đó góp phần công đức đóng góp vào pháp an cư cho được hoàn mãn. Nên biết rằng, đạo tràng An Cư càng được duy trì thì mạng mạch của Như Lai càng được trường tồn trong thế gian.

        b. Phải hộ trì cơ sở Tổ Chức: Những cơ sở tổ chức, như Chùa Chiền, Niệm Phật Đường v.v... là những trung tâm do các bậc Tăng Già xuất gia đứng ra thành lập với mục đích phát huy chánh pháp phục vụ chúng sanh để báo đền ân đức của Phật. Chúng Phật tử tại gia phải hết lòng hộ trì bằng cách đến những nơi đó góp phần công đức chia xẻ Phật sự cùng với các bậc tôn túc Tăng Già.

        c. Phải vận động quần chúng ý thức trách nhiệm của mình là con của Phật và hướng dẫn họ tham gia vào các tổ chức Phật giáo để cùng nhau đắp xây ngôi nhà chánh pháp của Như Lai càng thêm huy hoàng, đồng thời khuyến khích họ hưởng ứng vào các đoàn thể Phật học chuyên nghiệp để phát huy đạo pháp theo sở trường ngành nghề, nhờ sở trường ngành nghề sự tu học của họ mới được tiến triển và đạo nghiệp của họ mới được viên thành.

        d. Phải hộ giáo, nghĩa là chỗ nào có thiết lập đạo tràng thuyết pháp do các bậc cao Tăng thạc đức đảm trách, phải vận động quần chúng cùng nhau đến đó nghe pháp để trí tuệ được khai thông trên lãnh vực văn huệ; tuy nhiên chúng ta mặc dù đã thông bác giáo lý, nhưng cũng phải tham gia đến nghe giảng pháp và sự nghe giảng pháp của chúng ta với nhiệm vụ là hộ trì Phật Pháp để khuyến khích những người mới bước chân vào đạo tăng thêm tín tâm. Những điều kiện nói trên cũng là phương pháp độ tha của hạnh Bồ Tát.
      (4) Bổn phận đối với Phật sự hải ngoại:
Sau biến cố năm 1975, Phật tử Việt Nam vượt biên ra nước ngoài đi tìm tự do và đã được định cư khắp nơi trên thế giới. Nhưng các quốc gia mà Phật tử Việt Nam định cư không cùng một loại văn hoá và đạo đức với dân tộc Việt Nam cũng như với Phật Giáo Việt Nam. Cho nên dân tộc Việt Nam nẩy nở và phát triển trên những mảnh đất mới khác văn hoá khác đạo đức thì nhất định sẽ bị biến thái cũng giống như những loài hoa nhiệt đới được gieo trồng trên những mảnh đất hàn đới, dù có chăm sóc kỹ lưỡng đi nữa cũng khó khăn trong việc trưởng thành. Ý thức được những thực trạng nói trên, các bậc tôn túc Tăng Già tâm huyết kêu gọi các Phật tử tại gia khắp nơi vì tiền đồ đạo pháp và dân tộc ở xứ người, hợp tác nhau lại góp phần xây dựng nền móng văn hoá và đạo đức làm người để con cháu nương tựa trưởng thành trong sự hạnh phúc an vui chân thật. Mỗi chủng tộc đều có một tôn giáo để hổ trợ tinh thần cho chủng tộc đó, như chủng tộc Do Thái thì có tôn giáo của Do Thái, chủng tộc Mormon thì có tôn giáo của Mormon, chủng tộc Tây Tạng thì có tôn giáo của Tây Tạng v.v..., chủng tộc Việt Nam thì cũng phải có tôn giáo của Việt Nam mà trong đây Phật Giáo chính là một trong những tôn giáo của chủng tộc Việt Nam. Điều đáng chú ý, người Tây Tạng cũng tỵ nạn như chúng ta, nhưng họ biết đưa chủng tộc và tôn giáo của họ hiển vinh tuyệt đỉnh mà các quốc gia trên thế giới đều quan tâm đến họ. Còn chúng ta vì thiếu sự kết hợp nhất trí cho nên không tạo được thế đứng như người Tây Tạng. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Tại Hoa Kỳ Văn Phòng II Viện Hoá Đạo mong mõi các Phật tử tại gia khắp nơi trên thế giới ý thức trách nhiệm của mình cố gắng hợp tác cùng với Giáo Hội góp phần xây dựng đạo pháp và dân tộc để chuyên chở giống nòi trưởng thành và tồn tại muôn đời trên những mảnh đất tự do quê hương mới lập. Sự họp tác này của quý Phật tử tại gia hải ngoại chính là nghĩa cữ vô cùng trọng đại trên con đường phụng sự đạo pháp và dân tộc nơi xứ người.
IV. KẾT LUẬN
Những bổn phận vừa trình bày ở trước không phải của hàng Phật tử xuất gia hành sử mà những bổn phận đây chỉ dành riêng cho hàng Phật tử tại gia hộ trì. Những pháp hành về bổn phận đây không những lợi ích trên phương diện tự giác giác tha, tự độ độ tha mà còn đánh giá được tinh thần vị tha cứu đời của người con Phật. Muốn mình xứng đáng là đệ tử chân chánh của Phật, muốn gia đình của mình được hạnh phúc thực sự, muốn cho đạo hạnh của mình được vuông tròn, hàng Phật tử tại gia phải trải qua sự hành sử thuần thục những bổn phận căn bản nói trên. Nhất là tất cả cộng đồng Việt Nam hải ngoại hiện đang sống trong những nơi xứ sở hoàn toàn khác văn hoá, khác đạo đức, thì nhất định cần phải xây dựng đạo đức dân tộc làm nền tảng tâm linh cho giống nòi nương tựa. Tục ngữ có câu (Hoa thơm nhờ nhụy, người có giá trị nhờ đạo đức). Con người được may mắn là nhờ có đạo đức và đạo đức nếu như ra đi thì con người bị tai hoạ, đạo đức không có hình tướng cho nên không thể nắm bắt, nó đến với con người lúc nào không biết và ra đi lúc nào con người cũng không hay, nhưng có một điều là đạo đức được phát sanh từ nơi những bổn phận căn bản của con người. Hàng Phật tử tại gia, nhất là những Phật tử hải ngoại đã chọn đức Phật làm cha lành, đã chọn giáo lý của đức Phật làm lẽ sống cho nên phải có bổn phận phát huy chánh pháp phụng sự quần sanh trước hết là báo đáp công ơn sâu dầy của đức Phật và sau là tạo dựng đạo đức cho con cháu nương nhờ. Để hoàn thành nghĩa vụ cao cả của con Phật ở xứ người, toàn thể Phật tử tại gia hải ngoại phải nhất trí dấn thân, phải hết mình đoàn kết trong lãnh vực hộ trì Phật Pháp và nếu được như thế chí nguyện mới viên thành. (Một cây làm chẳng nên non, ba cây dụm lại nên hòn núi cao), cầu mong toàn thể Phật tử tại gia gần xa hãy quan tâm đến những điều tâm sự này với ý niệm thiết tha đạo pháp.
  • Ngày 17.4.2003
    THÍCH THẮNG HOAN
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Kỷ Yếu Hội Thảo Tổng Vụ Cư Sĩ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

HỘ TRÌ TAM BẢO
Thượng Tọa THÍCH MINH ĐẠT

Tọa chủ chùa Quang Nghiêm - Stockton, CA.
  • ĐỊNH NGHĨA
Hộ là che chở, giúp đỡ, cũng có nghĩa là bảo hộ, bảo bọc, làm cho vững chãi, bền lâu.

Trì là nắm giữ, giữ gìn.

Từ kép của hộ trì chúng ta có thể hiểu nghĩa rộng là phát tâm giúp đỡ, bảo hộ làm cho lớn mạnh, vững chãi, dài lâu một việc mà mình tin rằng tốt đẹp, xét ra thấy lợi mình, lợi người hiện tại và tương lai.

Tam Bảo thì ai cũng hiểu là Phật, Pháp, Tăng.

Trong một Đại hội Cư sĩ Phật tử Trí thức mà định nghĩa Tam Bảo quả là một điều không nên làm. Tuy nhiên, biết đâu Thượng Tọa Tổng Vụ Trưởng lại chẳng quảng phát đến mọi giới "Phật tử", nên thêm một vài dòng chắc cũng không sao.

Phật bảo là một quả vị cao nhất trong đạo Phật. Ai tu đạt được đến quả vị này gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nghĩa là ba đời, mười phương chư Phật giác ngộ đến mức tột cùng cũng chỉ có như vậy chứ không có cao hơn được. Đây là một quả vị do sự tu tập, phát triển trí tuệ đến chỗ cùng cực mà được thành tựu chứ không phải một tước vị do ai đó phong tặng. Quả vị này là quý báu (bảo) vì không thể tìm cầu, mua bán, trao đổi ở bất cứ nơi nào có thể được, mà chỉ gia công, miệt mài thanh lọc phiền não, tham sân si cho đến khi nào các đức tánh Từ bi (vô sân), Dũng mãnh (vô tham), Trí tuệ (vô si) hiển lộ toàn diện thì được xưng tán là Phật, Như Lai, Thế Tôn v.v... Vì không phải là một tước vị nên chúng ta không thể tìm cầu từ bên ngoài mà chỉ có thể chứng đạt nơi tự tâm.

Pháp bảo là những phương pháp, những phép tắc do chính đức Phật, người đã cật lực áp dụng trong khi tu tập và nhất là những phương pháp, phép tắc ấy đã dẫn đến một kết quả toàn hảo phi thường đúng như hoài bảo khao khát lúc ban sơ. Được gọi là "Bảo", hay vi diệu, nhiệm mầu vì lẽ bất cứ người nào quyết chí áp dụng, thực tập những phương pháp do chính bậc Giác ngộ chế tác, một cách liên tục không gián đoạn trong suốt cuộc sống hàng ngày, sẽ thấy kết quả tức thì, ngay trong lúc thực tập, ngay trong kiếp sống này mà không phải chờ đợi một kiếp lai sanh.

Tăng bảo là một đoàn thể, trước hết là từ bỏ gia đình đơn lẻ, sống không gia đình riêng tư và kế đến là phải hội đủ các điều kiện tối thiểu, sống dúng giới luật Phật chế, sống hòa hợp, sống thanh tinh từ thân đến tâm. Lấy việc trau dồi và phát triển trí tuệ làm sự nghiệp chính của đời mình. Luôn khắc ghi trong lòng rằng tất cả mọi người, mọi loài đều là thân bằng quyến thuộc của mình, đều có liên hệ chặt chẽ trong sự nghiệp trí tuệ của mình; và do vậy, khi thành tựu trí tuệ nguyện sẽ chia xẻ đồng đều. Nguyện như vậy, sống như vậy quả là một điều khó tìm, khó thấy giữa đời này nên gọi là hiếm quý hay là "bảo".

Vì nhận thấy ba điều quý báu (Tam Bảo) trên có thể trực tiếp làm lợi lạc cho mình, cho người trong mọi thời, ở mọi nơi nên mình phát tâm bảo hộ, giúp đỡ che chở để được trường tồn, không bị mai một (hộ trì), nên gọi là Hộ trì Tam Bảo.
  • DANH CHÁNH
Để có sự chánh danh trong việc Hộ trì Tam Bảo, trước hết bạn phải là một "hội viên" trong Tam Bảo, tức là bạn nên Quy y Tam bảo.

Quy y là một từ Hán Việt. Quy có nghĩa là xoay trở lại, thức tỉnh lại, kịp thời dừng lại.

Xoay cuốc sống gàn dở, bê bối của mình trở lại để tập thành một cuộc sống tốt đẹp, hiền lành, thánh thiện. Thức tỉnh những hành động, những lời nói, những ý nghĩa của mình đừng để bị chi phối triên miên bởi ba độc (tham, sân, si). Dừng lại kịp thời, những điều tai hại cho mình và cho người, tức không làm, không nói, không toan tính bất cứ điều gì mang tính hại mình, hại người.

Y có nghĩa là nương tựa vào. Xoay lại, dừng lại hay thức tỉnh chưa đủ, chúng ta còn phải nương tựa, y cứ vào một nơi, mà nơi đó phải có khả năng giúp đỡ, chở che, bảo hộ chúng ta thăng tiến những điều thánh thiện mà chúng ta hằng khao khát. Nơi đó là Ba Nơi Quý Báu đã được định nghĩa ở trên, tức là Tam Bảo. Quy y Tam Bảo là trở về nương tựa với Tam Bảo hay nương tựa với Phật, với Pháp, với Tăng.

Cũng cần nhắc thêm là Tam Bảo có sự và có lý. Sự là có người xuất gia, tu hành thành Phật, có chư vị Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni theo gót Phật tu tập thành tựu Thánh quả; có giáo pháp hay phương pháp thực hành để thành tựu quả vị ấy. Lý tức là nơi mỗi chúng ta có đầy đủ năng lực thành tựu những điều trên, miễn theo đúng phương pháp (chánh pháp) của Người Đi Trước, mà không phải van xin từ một đấng siêu nhiên hay thần linh nào.

Sau khi Quy Y Tam Bảo rồi, bạn được gọi là Phật tử, tức con của Phật. Con của Phật thì ở nhà Phật, mặc áo Phật, ngồi chỗ Phật. Ở nhà Phật thì phải "sạch sẽ, gọn gàng, ngăn nắp" như Phật. Mặc áo Phật thì phải "tươm tất, thẳng tắp, thơm tho" như Phật. Ngồi chỗ Phật thì phải "chánh thân, chánh tâm" như Phật. Nói rõ hơn là tập nói lời Phật nói, không nói những gì Phật không nói. Tập làm những gì Phật làm, không làm những gì Phật không làm. Tập tư duy những gì Phật tư duy, không tư duy những gì Phật không tư duy.

Trong giới vức của một Phật tử tại gia, bạn đã chọn đức Phật Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác làm chỗ nương tựa rồi, bạn không cần phải nương tựa vào ai khác nữa. Bạn đã chọn giáo pháp của ngài đẻ làm khuôn phép tu thân sửa tánh rồi, bạn không cần phải chọn một phương pháp nào khác. Bạn đã chọn đoàn thể Thanh tịnh Tăng để làm nơi nương tựa rồi, bạn không cần phải chọn một đoàn thể nào khác nữa. Để bảo trí sự nương tựa của bạn cho được vững chãi, đức Phật trao cho bạn những "chiếc gậy thần", bạn cần phải luôn giữ bên mình để được hộ vệ. Gọi là "gậy" vì để bạn "chống" đi cho được vững chãi. Gọi là "thần" vì bạn sẽ không sợ hãi bất cứ điều gì. Những chiếc gậy thần đó là Năm Giới Cấm dành cho người tu tập ngay trong gia đình với vợ với con, với cháu, với mọi người một cách đầm ấm giữa một cuộc sống đầy lo âu và thất vọng.
  • NĂM GIỚI CẤM
Năm giới cấm mà đức Phật danh cho hàng Phật tử chúng ta, gồm có:
  • 1. Không sát sanh:
Tức là không giết hại sanh linh, dặc biệt là không giết hại đồng loại với nhau. Không tự mình giết, không xúi dục người khác giết, không tán đồng việc giết hại. Chúng ta không giết người thì chúng ta có được tự do vì không có những niềm lo nỗi sợ bị trả thù hay bị luật pháp chi phối. Đó là chỉ mới đề cập đến nhân quả hiện đời giữa thế gan này; trong khi đó, khi đề cập đến nhân quả, đức Phật nhấn mạnh đến nhân quả báo ứng ba đời hay nhiều đời.
  • 2. Không trộm cắp:
Tức không lấy làm tư hữu bất cứ vật gì, dù lớn hay nhỏ, dưới bất cứ hình thức nào khi chưa có hay không có sự đồng ý của sở hữu chủ. Không tự mình trộm cắp, không xúi dục người khác trộm cắp, không tán đồng việc trộm cắp. Chúng ta không tham lam trộm cắp thì nhân cách của chúng ta được bảo tồn, danh dự của chúng ta không bị hoen ố. Đó chỉ mới đề cập đến việc trộm cắp vặt, nếu chúng ta dùng đến sức mạnh, uy quyền hay vũ lực để cưỡng lấy (cướp hay biển thủ) thì niềm lo, nỗi sợ không kém gì giới sát vừa kể.
  • 3. Không tà dâm:
Tức là không được ăn nằm với những người không phải là vợ hay chồng của mình. Không được dùng mưu mô, thủ đoạn hay quyền hành để xâm phạm đến tiết hạnh của người khác. Không xúi dục việc tà dâm, không tán đồng việc tà dâm. Về mặt đạo dức, nếu chúng ta có những hành động như vậy, mọi người kể cả vợ con, sẽ ghê tởm xa lánh chúng ta trong bất kỳ trường hợp nào. Và như vậy là chúng ta đã tự xây cho mình một ngục tù chung thân. Đó là chưa kể trường hợp cưỡng dâm tức phải bị luật pháp truy lùng, bấy giờ chúng ta cũng sẽ "sống" mà không được tắm ánh nắng mặt trời.
  • 4. Không nói dối:
Bao gồm cả không được nói thêm bớt, nói đâm thọc, nguyền rủa, chửi bới tục tiểu cộc cằn, kể cả khuếch đại hay dựng đứng những tin đồn không căn cứ. Không xúi dục, không tán đồng các điều trên. Người nào hay nói những điều trên là người ấy tự đánh mất sự thành tín của mình. Người mà không đặt chữ tín làm đầu là người, nói theo ngôn ngữ của Phật dạy, không biết tàm quý, tức không biết hổ thẹn.
  • 5. Không uống rượu say sưa:
Bao gồm cả không sử dụng cần sa, ma tùy. Không xúi dục hay tán đồng khi thấy người khác uống rượu say sưa hay sử dụng cần sa ma túy. Rượu và ma túy có khả năng làm suy nhược thần kinh, đánh mất trí nhớ, đưa đến bệnh hoạn cả thể xác lẫn tinh thần. Tuy là giới thứ năm, nằm sau cùng, nhưng nếu không nghiêm mật với giới này thì bốn giới trước đó đều có thể phạm hết. Bạn uống rượu say có thể dẫn đến tình trạng giết người. Bạn uống rượu say có thể trộm cắp, tà dâm, nói dối một cách dễ dàng.

Trong năm giới trên, giới thư tư và thứ năm thuộc khai giới, nghĩa là có trường hợp mở (khai) cho chúng ta được sử dụng. Chẳng hạn như khi bạn cần dùng thuốc rượu để trị bệnh; trường hợp phải nói dối để giúp đỡ hoặc hàn gắn một câu chuyện hay vấn đề, tuyệt đối không vì dục vọng hay tư lợi.

Trên đây là mới trình bày một cách hết sức sơ lược, mang tính tiêu cực mà chưa đề cập đến phần tích cực. Tích cực tức là thể hiện bằng hành động trong cuộc sống hàng ngày. Ví dụ: chúng ta không những không sát sanh, mà còn khen ngợi tùy hỷ với việc không sát sanh. Ngoài ra tự thân mình phải làm việc phóng sanh, phóng thích, giảm khinh tội nhân. Không trộm cắp mà lại thực hành bố thí; không tà dâm mà lại tập hạnh thanh tịnh trong các ngày trai giới; không nói dối là lại tập nói lời ái ngữ, hiền lành, thánh thiện.

Ngoài ra, mỗi nửa tháng hay hàng tháng, hoặc ít ra cũng trong vòng hai đến ba tháng là tối đa, phải tham gia các buổi tụng giới, để không những được ôn tụng giới tướng đã lãnh thọ, mà còn được nhắc nhở và sách tấn thường xuyên thì giới luật mới trở nên sâu sắc và việc hành trì mới được vững chãi.

Chỉ bao nhiêu đó thôi, chúng ta cũng đã tham gia hộ trì Tam Bảo, hay làm được phần nào Phật sự một cách trực tiếp rồi.

Chúng ta có thói quen, mỗi khi nói đến làm Phật sự hay tham gia Phật sự thì yên chí nghĩ rằng về chùa công quả, giúp quý thầy, quý sư cô việc này việc nọ. Điều đó không sai, nhưng bảo rằng đúng thì cũng chưa hẳn hoàn toàn là đúng. Đó là chưa kể đôi khi (nhiều khi) chúng ta làm những việc trên mà còn mang theo tâm hơn thua, bỉ thử hay vì sự khen thưởng, tán thán "công đức" thì lại càng cẩn phải xét lại thật cẩn trọng.

Phật sự là việc Phật. Mà Phật thì ai cũng biết là thanh tịnh, giải thoát, không dính mắc, không phiền não, rỗng rang, vô tướng v.v... Nếu làm công quả trong chùa hay về chùa giúp quý thầy, quý cô làm "Phật sự" mà còn đầy đủ những thứ "bòng bong": bất tịnh, triền phược, dính mắc, não phiền, ngã tướng thì đó là ma sự chứ không còn là Phật sự nữa. Làm ma sự thì không là ma vương thì cũng là ma dân hay thân bằng quyến thuộc của ma. Nhân đã là ma thì quả nhất định phải là ma.

Chúng ta đã từ vô thủy vô minh, nhận giặc (tham, sân, si) làm con, nên lang thang trong ba nẻo sáu đường, ngày nay được gặp Tam Bảo là một hạnh duyên thù thắng mà không chịu trân quý gìn giữ mà hời hợt, thờ ơ quả là kẻ "cùng tử" trong những kẻ cùng tử. Cùng tử là tại chúng ta không chịu tập theo những điều Phật làm (Phật sự), tức là không thuận hạnh.
  • THUẬN HẠNH
Thuận hạnh là làm những gì Phật đã làm hay cho làm, và không làm những gì Phật không làm hay cấm chúng ta làm; như năm giới vừa kể trên chẳng hạn. Năm giới toàn vẹn mới chỉ là "giáo điều", người Phật tử còn phải học "giáo lý" nữa. Người Phật tử cần phải học hỏi giáo lý, thực hành giáo lý và cuối cùng là thân chứng giáo lý.
    • a. Học hỏi giáo lý:
Giáo lý là những lời dạy của đức Phật khi ngài còn tại tiền. Giáo lý, sau khi Phật tịch được hàng đại đệ tử kết tập lại phân ra làm Kinh, Luật và Luận. Kinh bao gồm văn xuôi hay văn kệ tụng, nói những việc đã xảy ra, đang xảy ra, sẽ xảy ra, lắm khi diễn tả những sự việc rất ư hy hữu, kỳ đặc mà trí năng hạn hẹp của con người không thể nào suy luận được. Luật là những điều khoản được Phật chế ra để giúp cho người có chí nguyện hướng thiện và hương thượng kiểm thúc thân tâm trong việc "chỉ ác, tác thiện" mọi thời hầu thăng tiến trên đường tu tập. Luận phần nhiều là do chư đệ tử tu tập đạt ngộ chân lý hay thâm nhập lời Phật dạy rồi triển khai những chỗ thâm diệu trong kinh cho người sau "dễ" nhận. Cả ba phần, tùy theo giới vức của chúng ta mà cần phải học hỏi cẩn trọng. Học hỏi giáo lý là phần quan trọng đầu tiên. Thiếu phần này giống như người đi đường không được hướng dẫn, hoặc không có bản đồ trong tay. Giáo là chỉ giáo, dạy bảo, khai thị và cũng có thể hiểu là tôn giáo. Lý là lý thuyết, là triết lý của tôn giáo đó, tức là phần uyên thâm trên mặt ngôn ngữ, văn tự. Lý không thông thì sự không thành. Sự tức là phần thực hành, sẽ nói ở phần kế sau. "Triết lý" trong Phật giáo hoàn toàn không mang ý nghĩa thuần túy triết học, tức là chỉ phân tích, chia chẻ vấn đề một cách tỉ mỉ để thỏa mãn phần kiến thức của con người; mà triết lý trong Phật giáo là giúp chúng ta thông suốt vấn đề trước khi bắt tay vào việc. "Bắt tay vào việc" là dịch từ thiền ngữ "hạ thủ công phu". Bắt tay vào việc hay hạ thủ công phu, nói nôm na là thực hành giáo lý.
    • b. Thực hành giáo lý:
Tức là áp dụng phần lý thuyết, phần triết lý mà chúng ta đã "thông suốt" vào cuộc sống thường nhật của chúng ta. Nói đến cuộc sống thường nhật tức nhấn mạnh đến mọi sinh hoạt, mọi động tác, mọi cách sống hàng ngày và suốt đời. Phần này cố nhiên là phần khó nhất trong toàn bộ giáo lý của đức Phật. Thiếu phần này là bắt hỏng toàn bộ giáo lý "thậm thâm vi diệu" của ngài. Toán bộ giáo lý của đức Phật xây dựng trên thuyết duyên sanh. Do vì duyên sanh nên vô thường. Do vì vô thường nên là vô ngã. Do vì vô ngã nên đức Phật bảo chúng ta thực tập không nắm bắt, không chấp thủ, không dính mắc... Giáo lý duyên sanh này có khi được gọi dưới một tên khác là giáo lý nhân quả. Nhân là nguyên nhân, quả là kết quả. Người "thông suốt" giáo lý Phật đà không bao giờ hời hợt dừng lại trên kết quả để đánh giá vấn đề, mà phải tìm về nguyên nhân của nó. Nguyên nhân lắm khi rất sâu xa và rối rắm. Nguyên nhân càng rối rắm bao nhiêu, kết quả càng phức tạp bấy nhiêu. Do vậy, một khi có vấn đề xảy ra, chúng ta phải đủ bình tỉnh (tỉnh thức" quán chiếu nguyên nhân. Bạn không cần phải ngồi treo chân kiết già trước bàn thờ Phật mới có thể quán chiếu nguyên nhân được. Bạn chỉ cần dừng lại kịp thời các hoạt động của thân, khẩu, ý, danh từ thiền học gọi là Chỉ. Sau khi đình chỉ được sự hoạt động của ba nghiệp (thân, khẩu, ý) rồi, bạn tiếp tục duy trì sự lắng dịu ấy, cho đến khi bạn cảm thấy nhẹ, khỏe, không còn bị chi phối bởi phiền não, bấy giờ bạn bắt đầu tìm về nguyên nhân của vấn đề, danh từ thiền học goi là Quán. Có người bảo tu Chỉ trước, tu Quán sau là như vậy. Trên trình tự ngôn ngữ trình bày có trước có sau như vậy; kỳ thật là khi bạn dừng được kịp thời một hành động tức trong ấy đã có ngầm chứa Quán rồi. Trong việc bạn tìm về nguyên nhân, tìm đến đâu bạn có Chỉ đến đó. Nếu không vậy thì bạn không bao giờ tìm được nguyên nhân sâu xa của vấn đề. Đó là mới nói đến nguyên nhân sâu xa chứ chưa nói đến nguyên nhân rối rắm. Thời gian đình chỉ mọi hoạt động của ba nghiệp và thời gian tìm về nguyên nhân từ gần đến xa của vấn đề đã giúp bạn giải quyết được phần nào khó khăn của vấn đề. Nói cách khác là trong thời gian đó bạn đã không làm cho vấn đền rối rắm, khó khăn hơn. Cứ như vậy thực tập trong mọi hoàn cảnh, mọi trường hợp từ trong công sở, việc làm ăn đến hoàn cảnh vợ chồng, con cái... nhất định bạn sẽ được an bình. Giáo lý của đức Phật là giáp lý từ bi, trí tuệ, an lạc, giải thoát, Ai cũng biết điều đó. Ấy thế mà đã nhiều năm chúng ta bơi lội trong biển giáo lý ấy mà chúng ta không dính dấp gì đến bốn phạm trù vừa nêu trên, quả là chúng ta tự cô phụ lấy chúng ta. Suốt bốn mươi lăm năm thuyết giáo của đức Phật, theo tôi, ngài không thuyết gì hơn là thuyết những phương pháp để chúng ta phát triển từ bi, khai mở trí tuệ, đạt được an lạc và thành tựu giải thoát. Từ đó chúng ta có thể không ngần ngại kết luận rằng: Hộ trì Tam Bảo hay xiển dương Phật pháp không hoàn toàn nằm gọn trong việc tô tượng, đúc chuông, xây chùa, in ấn kinh sách, công quả phụ giúp chư Tăng Ni những công việc thường nhật, mà phải được đánh giá cao trong việc áp dụng giáo lý hành trì vào đời sống thường nhật. Chính đức Phật đã làm như vậy, trải qua ba A tăng kỳ kiếp, chúng ta, học đồ của ngài, không thể làm khác đi được. Bất kỳ việc gì, đã không làm thì thôi, mà làm nhất định phải có kết quả. Bạn thực hành lời Phật dạy, bạn phải có kết quả trên lời Phật dạy. Kết quả đó gọi nôm na là Thân chứng Giáo lý.
    • c. Thân chứng giáo lý:
Chúng ta cũng có thể gọi là Đạt ngộ Giáo lý. Nghe nói đến thân chứng hay đạt ngộ giáo lý, chúng ta có cảm giác như việc này phải nhường cho chư vị Bồ tát, còn chúng ta chỉ "tu gieo duyên" thôi. Giáo lý của đức Phật trong phần giác ngộ có chia ra ít nhất là hai phần. Một là Phần giác, hay là Toàn giác. Đức Phật là bậc Toàn giác, tất cả chúng sanh không phân biệt, tu theo giáo lý của ngài, tùy theo sự nỗ lực tu tập mà có sự giác ngộ cao thấp khác nhau. Những sự giác ngộ khác nhau đó gọi là Phần giác. Do vậy, chúng ta không thể nói là việc giác ngộ, thân chứng hay đạt ngộ giáo pháp là phần vụ của chư vị Bồ tát. Đã vào biển, bất kỳ loại chúng sanh nào cũng phải biết hương vị của biển. Đức Phật đã bảo giáo pháp của ngài có cùng một hương vị Giải thoát, chúng ta không thể mặc cảm là chúng sanh với đầy dẫy nghiệp chướng này, không thể đạt ngộ hay thân chứng giáo lý được. Không đi thì thôi, mà đã đi nhất định phải tới nơi mình đến "bước chân" cuối cùng, mà cái "tới" đến trên từng bước chân đi. Xin bạn đừng quên điều đó.
  • KẾT LUẬN
Lời sau cùng, thay cho lời kết, xin được thưa là, quý vị đừng tưởng là những gì tôi nói là những gì tôi đã thành tựu tốt đẹp, thưa không. Những gì tôi nói là những gì tôi đang thực tập. Lắm khi thành tựu, nhưng cũng nhiều lúc thất bại. Thất bại không phải vì giáo lý không hay mà vì nội lực, tức sức mạnh Trí tuệ của chúng ta chưa thâm hậu, chí nguyện chưa kiên cường, sự quyết tâm còn lỏng lẻo.

Tôi khao khát mọi người cùng nắm tay nhau, cũng sách tấn nhau thực tập lời Phật dạy một cách miên trường để thay cho những phiền muộn, những trách móc, những hờn dỗi hay sát phạt lẫn nhau. Đó mới là, theo tôi, Hộ trì Tam Bảo một cách nghiêm mật và miên trường.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Kỷ Yếu Hội Thảo Tổng Vụ Cư Sĩ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

THAM LUẬN
MỘT VÀI NÉT BIỂU TRƯNG
CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ NƠI HẢI NGOẠI

Thượng Tọa THÍCH NGUYÊN SIÊU
Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Văn Hóa
Tinh thần tu chứng, cũng như phụng sự tha nhân, xây dựng quê hương đất nước, Phật giáo Việt Nam đã khẳng định sự hiện hữu của mình hơn hai ngàn năm trên suốt dòng lịch sử của dân tộc Việt. Sự hiện hữu đó đã gây giống nẩy mầm từ khi các Thiền sư đặt bước chân đầu tiên lên mảnh đất Lạc Việt, hay từ thời Trung Tâm Luy Lâu được khởi xướng. Xuôi theo dòng lịch sử mở nước, dựng nước và giữ nước ấy, Phật giáo Việt Nam đã không ngừng tài bồi, kiện toàn và phát huy những nét cao đẹp, trong sáng tinh ba của đất nước dân tộc. Lý tưởng giác ngộ giải thoát của đạo pháp được hưng khởi, giá trị của lòng Từ bi, thương người cứu vật, tinh thần trong sáng của trí tuệ vượt thoát được nêu cao và hoằng dương một cách sâu rộng đến mỗi người, mỗi nhà hay phổ cập chung cho cộng đồng xã hội. Trong công cuộc "Hoằng Pháp Thị Gia Vụ, Lợi Sanh Vi Sự Nghiệp" - Hoằng pháp là việc nhà, lợi sanh làm sự nghiệp - đó có tấm lòng trung kiên với Đạo, có đôi tay cần mẫn hộ trì Phật pháp của người Cư sĩ Phật tử các giới.

Nếu nói rằng, từ thời đức Thế Tôn còn tại thế đã có bao nhiêu vị đại thí chủ, bao nhiêu thiện nam tín nữ Phật tử đã phát tâm hộ trì Tam Bảo, bất luận là vua chúa, trưởng giả hay thần dân... xây dựng tinh xá, phát tâm tứ sự cúng dường, học hỏi giáo pháp, và ngay cả tinh thần tu tập và chứng đắc quả thánh đương thời cho đến hôm nay thì lịc sử Phật giáo Việt Nam hơn hai ngàn năm qua cũng đã có rất nhiều các cư sĩ Phật tử hy hiến đời mình cho đạo pháp, bảo vệ ngôi nhà Phật giáo được vững bền và thăng tiến cùng góp mặt chung với Phật giáo thế giới.

Người cư sĩ Phật tử đã giữ một vai trò quan trọng trên dòng lịch sử Phật giáo nước nhà, và dòng lịch sử Phật giáo đó đã tạo thành niệm tin đạo pháp truyền thống, tiếp nối nhau từ đời này sang đời khác bất tuyệt. Và cũng chính truyền thống Phật giáo đó đã giữ gìn người cư sĩ Phật tử sống trọn vẹn trong niềm tin Tam Bảo.

Thế nhưng hôm nay Phật giáo Việt Nam đã được hoằng truyền qua các quốc gia trên thế giới mà chúng ta gọi là Phật giáo Việt Nam Hải ngoại, không phân biệt Mỹ châu, Úc châu... thì người cư sĩ Phật tử có cái nhìn tổng quan Phật giáo Hải ngoại và đặt mình đúng vị trí trong vai trò hộ pháp.

1. KHẲNG ĐỊNH TÍN TÂM ĐỐI VỚI TAM BẢO

Khi chúng ta còn sống nơi quê nhà, theo nề nếp tập tục, theo giáo dục lễ nghi và có thể nói là theo truyền thống lâu đời gia đình theo đạo Phật, thì con cháu cứ như vậy mà thừa truyền tiếp nối đạo pháp trong gia đình và ít có ai đổi đạo. Đó là niềm tin cố hữu của người Phật tử Việt Nam từ nghìn xưa. Nhưng hôm nay, chúng ta là người Phật tử Việt Nam sống nơi hải ngoại - một môi trường mới, một sinh hoạt mới, một văn hóa, một quan niệm mới - chúng ta có còn giữ được niềm tin truyền thống hay chúng ta phải thấy bằng như thật rằng: Tam Bảo là ba ngôi báu, cao quý trong thế gian mà kiên định tín tâm nơi ba ngôi báu ấy để không bị lung lay hay cuốn hút theo những hình ảnh, màu sắc phù phiến của các ngoại lực và rồi phản bội lại lý tưởng cao đẹp lâu đời của cha ông.

Tín tâm Tam Bảo là bước đầu học Phật của người cư sĩ Phật tử. Nếu chúng ta không có tín tâm kiên cố đối với Tam Bảo, thì dù cho chúng ta có sưu tra, nghiên cứu Phật pháp giỏi đến đâu cũng không thể gọi là Phật tử và sẽ bị thối tâm khi niềm tin không định hướng.

2. THÍCH NGHI VỚI MÔI TRƯỜNG HIỆN SỐNG MÀ TÙY DUYÊN HỘ PHÁP

Con người sống trong một xã hội mà nhu cầu đời sống quá cao, thời gian không đủ để phân bố công việc, như thế giới Tây phương ngày nay. Một người có thể làm hai công việc toàn thời một ngày thì chắc hẳn không còn thời gian cho chính mình để suy tư, nghĩ ngợi về đời sống tâm linh. Vì nhu cầu đời sống vật chất, vì sự ràng buộc công việc sở làm mà chúng ta có thể lãng quên hay đánh mất nét đẹp cao quý của tinh thần. Nhưng, nơi đây chúng ta có thể đem những bài học uyên áo giá trị của thế giới Đông phương, áp dụng ngay vào đời sống bận rộn của thế giới Tây phương, nhằm giải tỏa phần nào áp xuất những lo âu của cuộc sống cá nhân để tránh bị cuốn hút bởi những nhu cầu vật chất quá cao.

Đó chính là ý thức được giá trị đích thực của sự sống an lành, của niềm bình yên trong tâm hồn, của sự thanh thản trong bận rộn, của sự tri túc trong ý nghĩa thường lạc tự thân. Tinh thần của đạo Phật là tùy duyên để thích nghi với hoàn cảnh, môi trường mà không bị chướng ngại khi mình hiện hữu. Tinh thần của đạo Phật là hòa tan, là uyển chuyển - ở bầu thì tròn, ở ống thì dài - là dung hợp như nước với sữa không có sự ngăn chia.

Người Phật tử có được một cái nhìn và một nhân sinh quan như vậy, thì đích thực đã kiện toàn cho sự thích nghi môi trường sống, để từ đó mà tùy duyên hộ trì Tam Bảo trong ý thức tự tồn và nhiệt tâm phụng sự.

3. PHÁT HUY TINH THẦN TU HỌC PHẬT PHÁP QUA CÁC PHƯƠNG TIỆN
  • (1) Tham gia các khóa tu học được tổ chức tại các Tự Viện.
    (2) Nghe băng thuyết giảng.
    (3) Học Phật pháp trên Interrnet - Paltalk.
Tham học Phật pháp là bước đầu của người tu Phật. Người Phật tử thông hiểu Phật pháp rồi tu tập Phật pháp tức là làu thông pháp học rồi tiến tới pháp hành thì sự tu tập mới đạt được nhiều kết quả tốt đẹp. Do vậy, sự nghiên tầm giáo điển là năng lực tài bồi, là tiềm năng đẩy người Phật tử đi xa hơn trên con đường thể nghiệm tinh thần giác ngộ. Có thâm hiểu giáo lý thì mới thâm tín Tam Bảo, mà có thâm tín Tam Bảo thì mới phát huy được những giá trị thù thắng Phật ngôn.

Người Phật tử có thấm được hương vị giải thoát của giáo pháp thì mới giữ được lòng trung kiên đối với đạo. Vì giáo pháp là chiếc bè đưa người qua sông, là hóa thành để chúng ta dừng chân trên con đường dài từ phàm đến thánh, là phương tiện thiện xảo đưa chúng ta tới cứu cánh của thành Niết bàn rốt ráo, hay là những gì đem lại sự lợi ích an vui cho đời sống thường nhật. Là chất liệu xây dựng mái nhà hạnh phúc, chân thật của gia đình. Là ý niệm từ hòa tĩnh lặng trong tận cùng thâm tâm của người học Phật. Vậy sự phát huy tinh thần tu học Phật pháp là điều thiết yếu, là mối quan tâm hàng đầu, là trách vụ chung của mọi người Phật tử chúng ta. Trong những điều kiện khả thể đó, chúng ta có thể:
  • (1) Tham gia các khóa tu học được tổ chức tại các Tự Viện.
Trong quá khứ đã có các khóa tu học Phật pháp được tổ chức tại các Tiểu bang hay các Châu. Số lượng Phật tử tham gia tu học rất đáng kể. Trong những khóa tu học này, chúng ta thấy tinh thần tu học Phật pháp của Phật tử rất cao và rất chân thành để nghe giáo pháp. Do vậy, các khóa tu học Phật pháp được tổ chức tại các Tự viện tại địa phương để cho các Phật tử được thuận tiện tham gia mà không phải mất nhiều thời gian di chuyển. Từ đó người Phật tử được gần gũi với đạo tràng, với chùa viện mà thể hiện tính chất bất khả phân, cũng như có được tài sản giáo pháp cho công trình khai triển đời sống tâm linh ngày thêm hoàn thiện.
  • (2) Nghe băng thuyết pháp.
Trở về nhiều thập niên trước, chúng ta có bao giờ thấy các bậc tôn túc thuyết giảng và được ghi âm, hay có những bộ kinh được đọc và thâu lại để phân phát cho Phật tử nghe? Chắc hẳn là không? Nhưng ngày nay việc thu băng thuyết pháp đã được phổ biến rất rộng rãi trong giới cư sĩ. Hầu hết các buổi thuyết giảng, Phật tử đều có băng ghi riêng và sau đó về nhà nghe lại, truyền bá đến bạn bè thân quyến. Đây là cách tham học Phật pháp rất tiện lợi cho tất cả mọi giới, vì có thể nghe thuyết giảng ở nhiều nơi, nhiều chỗ: trong lúc lái xe, khi làm việc trong công sở, hay khi nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa v.v... thường xuyên nghe thuyết giảng bằng cách này, lâu ngày chầy tháng, tâm hồn người Phật tử được thấm đậm hương vị giáo pháp và thuần hậu trong suối nguồn tĩnh lặng.
  • (3) Hệ thống Interrnet - Paltalk.
Đây là phương tiện của kỷ nguyên khoa học tiến bộ, rất thích hợp với giới trẻ, và cũng là phương tiện truyền thông rất nhanh.

Qua những kinh nghiệm thuyết giảng trên hệ thống Internet, chúng tôi nhận thấy có rất nhiều Phật tử thuần thành, rất kính trọng giáo pháp và tha thiết muốn nghe lời Phật dạy. Khi giảng trên Interrnet, không riêng gì Phật tử Hoa Kỳ mà khắp thế giới đều có thể nghe được.

Chúng tôi đã nhiều lần được tiếp xúc với các anh chị em trẻ, họ rất nhiệt tình và chân thành trong công việc truyền bá Phật pháp trên Internet. Những người bạn trẻ này với kiến thức khoa học kỹ thuật sẵn có, họ có thừa khả năng hoạt dụng Phật pháp phổ biến rộng rãi đến mọi người nếu chúng ta cũng biết cách cộng tác làm việc.

Sự tiến bộ về khoa học truyền thông ngày nay đã đưa mọi người trên thế giới gần lại với nhau hơn, dễ cảm thông hiểu biết nhau hơn, và trao đổi với nhau những điều cần thiết vượt khỏi giá trị thời gian của nhiều thập niên trước. Vậy thì, với những phương tiện truyền thông thuận lợi như thế, chúng ta có thể dễ dàng hơn trong công việc hằng truyền Phật pháp. Chúng ta cần quan tâm, nghiên cứu phương tiện kỹ thuật và cập nhật hóa thường xuyên theo đà tiến bộ của nền khoa học hiện đại để khỏi bị lùi dần lạc hậu. Nhất là phổ biến rộng rãi tư tưởng siêu phàm, thanh thoát giác ngộ của đức Thế Tôn đến thế giới Tây phương.
  • (4) Các Tự viện tại địa phương là ngôi nhà (Tâm linh) Phật pháp của chính mình.
Một ngôi chùa nhỏ có thời khóa tụng kinh thường nhật, thuyết giảng định kỳ, niệm Phật công cứ, thọ bát quan trai đúng ngày trong tháng, vẫn có Phật tử tham gia tu học các thời khóa. Dẫu biết rằng có thể không được đông đảo, nhưng với số lượng người cố dịnh, tham gia sinh hoạt đều đặn, chừng mực, thì cũng đủ để thấy rằng người Phật tử đã tự cho rằng ngôi chùa nhỏ tại làng mình là ngôi nhà tâm linh chung cho những người cùng xóm hay trong cùng một khu vực, thành phố. Tâm linh của người Phật tử được thể hiện qua rổ khoai đầu mùa đem cúng chùa; chục cam mới hái trong vườn đem dâng cúng Phật, hay dĩa rau lang mới luộc vội bưng qua mời Thầy trụ trì, quả cà, trái ớt đều tưởng nghĩ đến chùa, sốt sắng không quên. Ân nghĩa là nói theo tình đời, còn công đức là nói theo tình đạo. Một tấm lòng đơn sơ cũng đủ nói lên bao nhiêu phước đức đó. Một ngôi chùa nhỏ tại thôn xóm, xa cách thành thị mà duy trì được phải do sự bao dung ấp ủ bằng tấm lòng son của những người Phật tử này. Sự hiểu biết về Phật pháp của họ rất giản dị, mộc mạc: "để đức cho con cháu về sau", bằng tâm tính thuần hậu, đơn sơ, nhưng rất trung kiên vì ngôi chùa làng cũng được xem như ngôi nhà "tinh thần" chung cho xóm làng. Ngôi chùa đó có từ bao đời, dường như không ai để ý, chỉ biết lớn lên đã thấy sự hiện diện của chùa. Mái chùa đó đã che chở, dìu dắt đời sống tâm linh của nhiều đời cha ông của họ cho đến hôm nay và còn nhiều đời con cháu sau này. Cứ thế, người Phật tử mặc nhiên thấy mình có bổn phận trông coi, thăm viếng, sớm hương khói cúng Phật, chiều đánh chuông công phu bái sám xem như là công việc gia đình. Ấy chính là tinh thần hộ pháp, được hòa quyện trong tâm sự người Phật tử thân thương qua bao thế hệ thăng trầm, thịnh suy, thất đắc. Nhưng niềm tin với ngôi chùa làng được gắn liền, bất di bất dịch, từ đời nọ sang đời kia.
  • Mái chùa che chở hồn dân tộc
    Nếp sống muôn đời của tổ tông
    .

    (5) Gây ý thức và tạo dựng niềm tin Phật cho con em - Thế hệ kế thừa.
Con em của chúng ta được sanh ra và trưởng thành trong nền văn hóa Tây phương, hấp thụ và học hỏi phong tục tập quán Âu Tây từ người bản xứ. Do vậy, sự hiểu biết về cội nguồn, quê hương, dân tộc của các thế hệ trẻ này rất là hạn hẹp, nếu không được các bậc phu huynh gia tâm chăm sóc.

Vì nhu cầu đời sống, nhiều bậc phụ huynh cũng tất bật với công việc, không đủ thời giờ chăm sóc dạy dỗ con cái. Đây cũng là một trong những lý do, các em đánh mất tình cảm gia đình, quên dần cội nguồn dân tộc. Lâu ngày chầy tháng, khó lòng uốn nắn, giảng dạy các em ý thức về nguồn, gần gũi với cộng đồng Việt Nam. Tuy nhiên chúng ta cũng chưa tuyệt vọng, vì cũng có nhiều gia đình vẫn giữ được kỹ cương giềng mối. Là một bậc phụ huynh Phật tử, chúng ta lại càng gia tâm giáo huấn con em hơn nữa, hướng dẫn và gây ý thức cho con em chúng ta có niềm tin Phật pháp. Tạo điều kiện thuận tiện cho những thế hệ sau này gần gũi với ngôi Tam Bảo. Tập làm Phật sự nơi các Tự viện, để quen dần với không khí nhà chùa mà không cảm thấy xa lạ, ngại ngùng khi hữu sự.

Chúng ta có nhiều phương cách gây ý thức và tạo niềm tin cho con em Phật tử như sinh hoạt Gia Đình Phật Tử, dẫn con em đi chùa tụng kinh, niệm Phật, tham dự các khóa lễ, tham dự các khóa tu học Phật pháp cuối tuần, tìm đưa cho con em đọc những kinh sách song ngữ... để từ đó, gieo vào tâm thức các em, những chủng tử Phật pháp để ý thức Phật pháp được nẩy nở phong phú trong tâm tư các em. Có được như vậy, thì thế hệ mai sau mới hy vọng tiếp tục hộ trì Phật pháp. Hơn thế nữa, các bậc phụ huynh phải khuyến tấn, khích lệ con em mình xuất gia. Khi đề cập đến vấn đề này có nhiều người sẽ cười và bảo: "Xứ Mỹ này khó có người đi tu". Hay cha mẹ thì trả lời: "Tùy nó", hay khi nào "đủ duyên". Đây là những lý luận để đưa đến kết quả là hơn hai thập niên qua ở hải ngoại, có bao nhiêu phần trăm giới trẻ đi tu? Và các Giáo hội đã đào tạo được bao nhiêu Tăng tài để tiếp nối giềng mối đạo pháp? Đây cũng có thể là một vấn đề lớn mà chúng ta không thể không quan tâm.
  • (6) Quan hệ mật thiết giữa người tu sĩ xuất gia và người cư sĩ tại gia.
Thời đức Phật còn tại thế, người cư sĩ Phật tử luôn gần gũi với dức Thế Tôn, cũng như hàng Thánh chúng. Sự gần gũi này đúng theo tinh thần và ý nghĩa Ưu Bà Tắc và Ưu Bà Di. Một nam cư sĩ gần gũi với Phật pháp, để hộ trì Phật pháp. Đó là ý nghĩa cao đẹp và đạo tình thuần hậu của người cư sĩ Phật tử được nuôi dưỡng trưởng thành trong ngôi nhà Phật pháp. Đời sống của người cư sĩ Phật tử thì không thể tách khỏi chốn chùa viện, và cũng không thể phân ly với đời sống của chư Tăng. Không khí chùa viện được sung túc là nhờ bổn đạo Phật tử, khách thập phương lui tới thường xuyên, cúng dường, phát tâm hộ pháp. Từ đó người Phật tử mới cảm thấy có nhu cầu tham dự tu học, lễ lạc, chư Tăng trau dồi kiến thức Phật học để thuyết pháp giảng kinh.

Người cư sĩ Phật tử phải quan hoài đến vị thầy Bổn sư của mình, để thể hiện tấm lòng của người đệ tử biết cung kính, tôn trọng nhờ ơn người hóa độ. Và ngược lại, vị Thầy đã truyền trao giáo pháp, đã thâu nhận đệ tử thì cũng phải có lòng thương tưởng mà khuyến tu, trợ duyên để cho người đệ tử tại gia đó không thối tâm hộ pháp mà luôn luôn tăng tiến trên con đương phụng hành Phật sự. Hai nếp sống, hai mối tương quan giữa đạo và đời, chẳng hề phân ly.

Đạo Phật có mặt trong thế gian và từ nơi thế gian tu tập để được giác ngộ giải thoát. Phật pháp không thể xa rời khỏi thế gian mà có. Nếu đi tìm giác ngộ giải thoát ngoài thế gian thì giống như đi tìm lông rùa sừng thỏ. Đạo Phật hiện hữu với đời là vì con người, cho con người hay của con người. Con người vì cầu tiến trên lộ trình giác ngộ giải thoát, mà con người thừa tự giáo pháp để làm nhân duyên hoán chuyển địa vị phàm phu thành Thánh giả. Đời sống của tục đế được quyện vào lòng chân đế để được vận dụng mà thành đạt ý vị nhiệm mầu, siêu nhiên, bất nhị.
  • Thượng Tọa THÍCH NGUYÊN SIÊU
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Kỷ Yếu Hội Thảo Tổng Vụ Cư Sĩ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

BỔN PHẬN CỦA NGƯỜI CƯ SĨ TẠI GIA
ĐỐI VỚI GIÁO HỘI

Thượng Tọa THÍCH NHƯ ĐIỂN
Tổng Thư Ký GHPGVNTN - Âu Châu
Tọa chủ chùa Viên Giác - Đức Quốc
Kể từ khi đức Phật thành đạo cho đến ngày nay đã hơn hai ngàn năm trăm lịch sử truyền thừa; đạo Phật đã đi từ Đông sang Tây, từ Tây sang Úc, đến Phi, Mỹ v.v... và có lẽ rồi đây đạo Phật cũng sẽ không dừng lại ở đó, mà còn đi mãi vào tương lai của nhân loại, của những thiên niên kỷ kế tiếp nữa.

Sau khi độ năm anh em Kiều Trần Như, giáo doàn đầu tiên mà đức Phật thành lập gồm có sáu mươi vị Tăng sĩ và sau một thời gian huấn luyện, đức Phật đã dạy rằng: Mỗi vị nên đi một ngả nhằm mang giáo pháp từ bi trí tuệ ấy đi truyền khắp đến muôn phương cho những người Ấn Độ lúc bấy giờ, và kể từ đó cho đến nay chư Tăng đã thừa hành trọng trách này liên tục trong gồm hai mươi sáu thế kỷ qua.

Ngày xưa chúng ta không có Giáo hội mà chúng ta chỉ có Giáo đoàn. Chữ Giáo đoàn đa phần dùng để ám chỉ nơi tập họp của những người Tăng sĩ. Còn chữ Giáo hội ngày nay hay dùng là tập họp của những người cư sĩ tại gia và tu sĩ xuất gia. Vậy sự khác biệt như thế nào giữa hai danh từ và hai tổ chức này?

Nhìn vào toàn bộ giáo lý nguyên thỉ, chúng ta thấy rằng đức Phật đầu tiên chỉ đặc biệt lưu ý đến người xuất gia. Do vậy mà những lời dạy lúc ban đầu trong kinh điển thường hay chỉ đề cập đến người xuất gia nhiều hơn là người cư sĩ. Mặc dù thuở ấy các vị cư sĩ tại gia như vua Tần Bà Sa La, vua Ba Tư Nặc, cùng những vị quan lại cũng như công chúa, hoàng hậu và thứ dân cũng đã hỗ trợ cho Giáo đoàn như xây dựng tự viện cho Tăng chúng ở, cúng dường trai phạn hàng ngày cho chư Tăng, nhưng lúc ấy dường như vị trí của người cư sĩ chưa được lưu tâm mấy.

Sau bốn mươi chín năm thuyệt pháp độ sanh của đức Phật, ta thấy rằng ngài đã chú trọng đến người cư sĩ càng nhiều hơn, nhất là tinh thần này được giới thiệu cũng như dạy dỗ qua các kinh điển như Bát Nhã, Đại Bát Niết Bàn, Pháp Hoa v.v... Một điều đặc biệt, đức Phật đã giao nhiệm vụ phụng thờ xá lợi của ngài sau khi hỏa thiêu cho người cư sĩ chứ không phải cho người tu sĩ. Điều này chứng tỏ rằng, đức Phật đã lưu tâm đến sự hộ đạo của người cư sĩ một cách rõ ràng và có hệ thống hơn.

Kể từ đó, chúng ta thấy rõ ràng có hai tổ chức cùng trong một Giáo đoàn hay Giáo hội. Đó là tổ chức của người Tăng sĩ và tổ chức của người Cư sĩ. Đức Phật dạy rằng: nhiệm vụ của người Tăng sĩ là hoằng pháp lợi sanh và nhiệm vụ của người Cư sĩ tại gia là hộ trì Tam Bảo. Như vậy chúng ta thấy có hai nhiệm vụ rất rõ rệt. Người xuất gia lo vấn đề tinh thần, còn người tại gia lo phương tiện vật chất để chư Tăng có cơ hội phát triển giáo lý của dức Phật ở nhiều bình diện trong xã hội.

Ngày nay nếu ai đó đến Thái Lan, chúng ta sẽ thấy rõ ràng được vai trò của hai tổ chức này. Hằng người cư sĩ mang cơm gạo, vật thực đến chùa để cúng dường cho chư Tăng. Đồng thời họ cũng làm chùa hay tinh xá cho chư Tăng trú ngụ. Song song đó chư Tăng lo vấn đề trì kinh, hành thiền, trau dồi giáo lý và trong nhiều chùa của Tích Lan ngày nay, cư sĩ xây dựng những trường học rất lớn để chư Tăng có nơi chốn giảng dạy ngôn ngữ, văn hóa và Phật pháp cho con cái của các vị cư sĩ tại gia. Như vậy ta có thể thấy được ở đất nước này tinh thần hỗ tương nhau trong hai lãnh vực mà đức Phật đã dạy dỗ trong hai mươi lăm thế kỷ trước mãi cho đến hôm nay tại Tích Lan và một vài dân tộc các xứ Phật giáo Nam Tông vẫn còn hành trì để tiếp tục duy trì cũng như phát triển mạng mạch của Phật giáo.

Đó là ngày xưa, còn ngày nay thì như thế nào? Dĩ nhiên là thời gian và năm tháng có đổi thay thì phương pháp thực hành giáo lý của đức Phật cũng như sự hội nhập vào mỗi xã hội của Phật giáo được truyền vào cũng phải có sự thay đổi để thích nghi với bổn phận của người Phật tử trong từng gai đoạn. Riêng lãnh vực của chư Tăng Việt Nam theo tinh thần Đại thừa được hiểu như sau: "Hoằng pháp thị gia vụ, lợi sanh vi sự nghiệp", nghĩa là hoằng pháp chính là nhiệm vụ của người xuất gia và làm lợi ích cho mọi loài chúng sanh, chính là một sự nghiệp của người Tăng sĩ vậy. Sự nghiệp của người tu không phải là chùa to, Phật lớn, đệ tử cho đông mà là sự nghiệp của người tu là vì lợi ích của mọi người.

Sự hoằng truyền giáo pháp của đức Như Lai, nó không giới hạn ở một thời gian và địa dư nào cả, mà nó được thể hiển như sau:
  • Con là trương tử Như Lai
    Phát nguyện trọn đời hy sinh cho đạo
    Chỗ nào chúng sanh cần, con đến
    Chỗ nào đạo pháp gọi, con đi
    Chẳng nệ gian lao, chẳng từ khó nhọc.
Đó là bổn phận hoằng pháp lợi sanh của người Tăng sĩ vậy. Còn người cư sĩ Đại thừa hộ đạo cho Tam bảo ngày hôm nay như thế nào đối với Tăng đoàn và Giáo hội?

Dĩ nhiên là cũng không khác ngày xưa mấy, nhưng ngày nay thì người cư sĩ bận rộn hơn để có vật chất nhằm hỗ trợ cho chùa viện. Do vậy mà một số công chuyện của chùa chiền đôi nơi các vị Tăng sĩ cũng kiêm nhiệm luôn. Nếu với đà phát triển này chúng tôi e rằng chúng ta sẽ đi vào một khúc quanh mới. Đó là nhiệm vụ chính của người Tăng sĩ bị quên lãng, còn người tại gia lại ít quan tâm về nhiệm vụ của mình thì e rằng sự phát triển của Giáo hội bây giờ và trong tương lai phải cần đến đánh giá và suy nghĩ lại.

Tam bảo được định nghĩa có ba ngôi và ba loại Tam Bảo. Đó là Phật, Pháp và Tăng và Tự tánh Tam bảo, Đồng thể Tam bảo cũng như Thế gian Trụ trì Tam bảo.
  • - Thế nào là Tự tánh Tam bảo? Nghĩa là Phật vô khứ, vô lai, không còn, không mất, không được, không thua. Mọi chúng sanh đều có tự tánh là Phật. Còn tự tánh Pháp bảo? Nghĩa là ai tu theo giáo lý ấy cũng được giải thoát cả. Tự tánh Tăng Bảo? Nghĩa là sự thiện hiện của chư vị Bồ tát trong cõi đời ngũ trược này.

    - Thế nào là Đồng thể Tam bảo? Đồng thể Phật bảo có Pháp thân và Hóa thân. Đồng thể Pháp bảo là Tánh Không và Bát Nhã. Đồng thể Tăng bảo có các vị Thanh văn, A la hán ngộ ngay giáo lý của đức Phật trong đời sống ô trược này.

    - Ngày nay nhất là ở đời mạt pháp này, chúng ta chỉ còn lại Thế gian Trụ trì Tam bảo; dó là Phật bảo gồm tượng Phật bằng đồng, bằng vàng, bằng gỗ, đá v.v... mà người Phật tử hay tôn thờ lễ lạy. Pháp bảo nghĩa là những kinh sách được viết hoặc in lên lá bối, lên giấy, đóng thành quyển, thành pho v.v.... Tăng bảo đó là những phàm Tăng đang ở trong cõi đời ngũ trược này phát tâm xuất gia để xiển dương giáo lý Phật đà.
Trở lại phần trước, đối với việc hộ trì Tam bảo của người cư sĩ tại gia có nghĩa là ngày nay, người cư sĩ chỉ hỗ trợ gìn giữ ba ngôi báu qua hình thức Thế gian Trụ trì Tam bảo.

Chúng tôi thường hay ví dụ về nhiệm vụ của người cư sĩ cũng như tu sĩ không khác gì hai cánh của một con chim. Nếu như con chim dù là con chim Đại bàng đi chăng nữa thì cũng không thể bay được, nếu chim ấy chỉ có một cánh và nếu có cố gắng bay cũng chỉ là đà trên mặt đất mà thôi.

Người Tăng sĩ là những nhà mô phạm, đạo đức là kẻ dẫn đường tiền phong cho chính mình và cho hàng ngũ cư sĩ tại gia. Thế nhưng có nhiều khi vì nghiệp duyên chưa rửa sạch nên cũng đã xảy ra nhiều chuyện lủng củng trong cửa thiền. Thế nhưng chúng ta quên rằng như tinh thần trong Đại Trí Độ Luận mà đức Phật đã dạy cho người tại gia cũng như người xuất gia như sau:
  • "Ví như một cái túi dơ, trong ấy có đựng vàng ròng. Dĩ nhiên là ta chọn vàng ròng chứ không chọn cái túi dơ ấy; nhưng nếu không nhờ cái túi dơ ấy thì làm sao ta có được vàng. Vàng ròng là Phật tánh. Túi dơ ấy tượng trưng cho những cái thường tình trong cuộc sống hàng ngày"
Cũng trong Đại Trí Độ Luận, đức Phật dạy rằng: "Nếu ta lỡ gặp đêm tối, có một người hủi trao ngọn đuốc cho ta. Nhưng nếu không có người hủi thì làm sao ta có được ngọn đuốc để soi sáng trong đêm tối mờ mịt kia".

Hai ví dụ trên đây ai cũng hiểu và ai cũng biết rằng chúng ta phải chọn gì, cũng như bỏ gì rồi, nhưng để chấp nhận nó cũng không phải là chuyện đơn giản. Vậy ta phải làm gì đây khi mà giáo pháp của đức Phật càng ngày càng yếu và cái thế lực của ma vương càng ngày càng mạnh.

Có nhiều nơi trên thế giới ngày nay, người cư sĩ không còn nhiệm vụ hộ trì Tam bảo nữa mà đi chi phối Tam bảo, khiến Tăng Ni trở thành kẻ thừa hành cho những vọng tưởng điên đảo của người xuất gia, thì quả là diều đáng trách. Ở đây phải trách cả hai, chứ không phải chỉ có người cư sĩ. Lỗi ấy vì lẽ Tăng sĩ thiếu xót nhiệm vụ hành trì của mình và không đủ khả năng để lãnh đạo quần chúng nữa, nhưng vẫn nghĩ rằng mình vẫn là mô phạm của mọi người. Từ đó, người cư sĩ lạm quyền và trở thành ngông nghênh nơi cửa Phật, trông thấy mà chướng tai, chướng mắt vô cùng. Có nhiều nơi Tăng Ni thì ở nhà ngoài, còn cư sĩ thì ở trong chùa và làm chủ lễ cũng như thuyết giảng Phật pháp. Quả là một chuyện ngược đời.
  • Ngựa đua dưới nước, thuyền chèo trên non".
Do vậy mà mọi người nên trở về lại vị trí của mình vậy. Người bác sĩ không thể đi cày ruộng bằng người nông dân được và cũng thế, người cư sĩ không thể thay thế nhiệm vụ của người Tăng sĩ được. Mọi người nên định rõ lại vị trí của mình như bên trên đã định nghĩa thì mới mong Phật giáo cũng như Giáo hội mới được phát triển một cách vững vàng.

Khi ra làm việc, chúng ta phải biết chấp nhận mọi điều có thể xảy đến và dấn thân để công việc Phật sự được thành công. Khi một luồng gió mạnh thổi qua, chắc chắn là cây cao phải bị dập vùi trước. Lúc ấy chỉ có thái độ chấp nhận là đủ rồi. Chúng ta phải là như những chùm cây cỏ dại mọc khắp nơi và rải rác đó đây. Tuy là phận bọt bèo nhưng chúng biết châu đầu lại với nhau để bảo vệ, thì gió dầu mạnh đến mấy chúng cũng không thể làm cho cỏ cây tróc gốc được. Đó là chưa kể tám loại gió Nghiệp của chúng sanh mà Tô Đông Pha đại cư sĩ cũng đã bị động trước lời nói của thiền sư Phật Ấn tự thuở nào!

Giáo hội cả cư sĩ lẫn Tăng sĩ phải có bổn phận bảo vệ chứ không phải có bổn phận chê trách và đổ lỗi cho nhau. Nếu tất cả giới xuất gia và tại gia đều lập một đại nguyện cao cả như lời Phật dạy từ ngàn xưa thì không mong gì đạo Phật không có ngày hưng thịnh.

Riêng tôi đã hai mươi lăm năm làm việc với Giáo hội qua bao thử thách của cuộc đời, tôi đã tự phát nguyện cho đời mình rằng:
  • "Con nguyện làm một dòng sông để chuyên chở hết tất cả những trong dục của cuộc đời. Phát nguyện mình là mặt đất để hứng chịu những sạch nhơ của nhân thế".
Tôi như hạt bụi bên đường chỉ nguyện làm được một chút gì có lợi cho thế nhân là hạnh phúc lắm rồi.

Năm nay là 2002, tôi đến Hoa Kỳ lần thứ hai mươi mốt sau hai mươi sáu năm ở Đức, đã gặp Thượng tọa Thích Tín Nghĩa, Viện chủ Tổ đình Từ Đàm Hải ngoại ở Dallas, Texas, đương kim Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Cư Sĩ của Văn Phòng II Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ, có nhờ tôi viết mỗi bài cho tập Kỷ Yếu nói về nhiệm vu của người Phật tử đối với Giáo Hội trong giai đoạn hiện tại. Nên tôi với tư cách là Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên Gia Đình Phật Tử Đặc Trách Các Châu, đương kiêm Tổng Thư Ký của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu đã chấp bút viết bài này trên chuyến bay của hãng Continental bay từ Houston đến Minneapolis vào ngày 31 tháng 12 năm 2002 và mong quý là ngày cuối năm dương lịch của năm này.

Hy vọng với một chút đóng góp nhỏ nhoi này sẽ làm cho vườn hoa Giác ngộ tâm linh càng có thêm khởi sắc và nếu chẳng may có việc gì không hợp với các vị Tôn túc và các vị đại cư sĩ cũng xin chấp tay và mong quý vị niệm tình hỷ thứ cho.
    • Thượng Tọa THÍCH NHƯ ĐIỂN

    Hình ảnh


    Trả lời

    Đang trực tuyến

    Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.63 khách