Luật Nhân Quả !

Giải đáp thắc mắc giáo lý Phật-đà, hỏi nhanh đáp gọn, đi thẳng vào vấn đề.

Điều hành viên: Thanh Tịnh Lưu Ly, binh

Hình đại diện của người dùng
Hồng Thái
Bài viết: 7
Ngày: 23/07/10 19:55
Giới tính: Nam
Đến từ: Nghệ An

Luật Nhân Quả !

Bài viết chưa xem gửi bởi Hồng Thái »

Kính chào các Sư Phụ, Sư Huynh!
Khi Quy Y chắc hẳn ai trong chúng ta đều biết đến luật Nhân Quả, gieo Nhân nào thì gặp Quả ấy. Nhưng trong đời sống Đệ thấy có một số ( không phải ít) trường hợp sống rất lương thiện, nhân hậu, yêu thương, giúp đỡ mọi người và thành tâm cúng dường Tam Bảo nhưng lại luôn gặp phải tai họa, ốm đau, bệnh tật hoặc phải đoản sinh trong khi đó có rất nhiều người sống rất ác nghiệt, cay độc, gây nghiệp chướng nặng nề nhưng họ lại được sống sung sướng, giàu có. Có người cho rằng có thể những người hay gặp họa đó là do cha mẹ, ông bà gieo hạnh ác để bây giờ đến đời con cháu phải gánh chịu Quả báo nhưng theo như Đệ được biết thì đời trước của những người đó sống cũng rất lương thiện.

Đệ mới Quy Y nên còn u mê, chưa thấu hiểu được nhiều điều, Đệ luôn trăn trở không biết họ đã gây hạnh gì mà phải chịu như thế. Vậy kính mong các Sư Phụ, sư huynh hoan hỷ chỉ giúp cho.


Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật


[color=#FF0000][b]Muốn ra khỏi biển luân hồi
Quả kia phải hái xong rồi đừng gieo
Dừng chân là bóng chẳng theo
Dừng tay là nghiệp chẳng đeo thân mình.[/b][/color]
nguynlinhtam
Bài viết: 1141
Ngày: 07/06/10 04:08
Giới tính: Nam

Re: Luật Nhân Quả !

Bài viết chưa xem gửi bởi nguynlinhtam »

MONG BẠN ĐỌC ĐỪNG THẤY DÀI MÀ NẢN CHÍ KHÔNG ĐỌC VÌ BÀI NÀY HƠI DÀI ĐỌC XONG BẠN SẼ HIỂU TẤT CẢ
http://quangduc.com/tinhdo/78longthotinhdo9.html
BẬC CHÍ NHÂN NÓI THUYẾT SỐNG LÂU

Ông Vương Nhựt Hưu nói Tôi từng nghe bậc chí nhân nói Người đời áo cơm tài lộc, chốn âm ti (cân nhân quả) đều có định số.

Nếu cần kiệm không tham, thời được lâu dài, xa xí quá tham cầu, hưởng hết thời mạng chung. Ví như người có tiền một ngàn, mỗi ngày xài một trăm, thời được mười ngày, mỗi ngày xài năm chục thì hai mươi ngày. Nếu buông lung xa xí, liền thấy bại vong, còn như số một ngàn, một ngày xài hết, khá chẳng sợ ư. Kinh Dịch nói

Thiên địa chi số, ngũ thập hựu ngữ.

Sở dĩ thành biến hóa, nhi hành quỷ thần.

Nghĩa là

Số trời đất, năm mươi lẻ năm.

Thành số biến hóa, mà làm quỷ thần.

Thế là trời đất rất lớn, biến hóa rất hay, quỷ thần rất nhiệm, còn không trốn được kiếp số huống nữa người ư.

Kẻ hoặc hỏi Người thanh liêm cần kiệm sao mạng chết yểu, kẻ tham lam xa xí sao lại được sống lâu?

Ông Vương Nhựt Hưu Kẻ thanh liêm cần kiệm mà mạng chết yểu là số đương đời ít vậy. Nếu tham lam xa xí thời càng mau hơn nữa. Người tham lam xa xí mà được sống lâu là Số đương đời nhiều vậy, nếu lại thanh liêm cần kiệm thì càng lâu hơn nữa.

Vả chăng trời đất không riêng cho ai, lẽ nào lại nói số đương đời có nhiều có ít ư?

Đó chẳng qua là đều chỉ cho lý (cân) nhân quả đời trước của mỗi người gây tạo vậy thôi.

Cho nên kinh nói

Yếu tri tiền thế nhân kim sinh thọ giả thị.

Yếu tri lai thế quá, kim sinh tác giả thị.

Nghĩa là

Muốn biết nhân đời trước, coi đời nay ta thọ những gì.

Muốn biết quả đời sau, xem ngay cái nhân hiện đời.

Nhưng hiện đời làm nhiều điều lành tốt, cũng có thể tăng thêm phước thọ. Nên có câu Thần chi thính chi, giới nhĩ cảnh phước. Nghĩa là Thần nghe đó, ban cho nguồn phước lành.

Song hiện đời làm nhiều điều tội ác, thì cũng có thể giảm bớt phước thọ nên nói Đa hành bất nghĩa, tất tự tệ. Nghĩa là Làm nhiều việc bất nghĩa, ắt phải chết non.

Vả như người tu Tịnh độ, vẫn chẳng những số nhiều phước thọ nói trên. Song việc tổn phước thọ, thời là ít đức vậy, đâu khá chẳng răn ư! Còn việc tăng thêm phước thọ, thời là nhiều đức vậy, đâu khá chẳng gắng ư!


http://niemphat.net/Luan/bonnguyen_np/bon_nguyen_np.htm
b. Chuyển phàm thành thánh -- Hạ thủ công phu từ tâm niệm.

Các vị đại thánh hiền dạy chúng ta nhận thức chân tướng sự thật bằng phương pháp chuyển biến: ‘chuyển ác thành thiện, chuyển mê thành ngộ, chuyển phàm thành thánh’, đây là tổng cương lãnh của những phương pháp này. Chúng ta cũng đã học nhưng làm cách nào cũng chuyển không nổi! Ðã từng nghe câu ‘Trồng nhân thiện thì được quả thiện’ nên cũng học theo và làm chuyện thiện; cũng đã làm chẳng ít chuyện thiện nhưng vẫn chưa chuyển ‘nghiệp báo’ được; như vậy là tại sao? Thiệt ra đây cũng giống như câu chuyện ‘Ông Du Tịnh Ý gặp Thần Táo (Ông Táo, Thần Bếp)’ ghi ở phần cuối của quyển Liễu Phàm Tứ Huấn, mọi người hãy xem thì sẽ biết.

Ông Du Tịnh Ý nghèo khổ, thường chẳng may mắn, gặp đại nạn, vô cùng bất hạnh; ông cũng làm việc thiện hằng ngày, cũng là người có học và hiểu lý. Tại sao ‘chuyển nghiệp’ không được? Vì vậy nên ông cứ oán trời trách người – [tôi] đã làm nhiều chuyện tốt lành như vầy nhưng không có quả báo lành! Thần Táo dạy: ‘Những chuyện thiện mà ông đã làm hoàn toàn ở bề ngoài không hà, chỉ có miệng thiện, thân thiện, nhưng ý chẳng thiện, tâm chẳng thiện, cho nên ông chuyển không nổi!’. Những lời thần Táo giảng giải cho ông như vậy rất đáng cho chúng ta nghiên cứu, đọc tụng, kiểm điểm bản thân chúng ta.

Các đại đức thời xưa dạy người tu hành phải tu từ căn bản. Căn bản là gì? Căn bản là tâm niệm. Chỉ cần tâm của bạn thiện, ý niệm thiện, thì không có nghiệp báo gì chẳng thể chuyển biến được, và không có tai nạn gì chẳng thể hoá giải được. Cũng như một cây cổ thụ, tâm là rễ, ý niệm là gốc; thân là cành, miệng là lá, nếu bạn tu sửa trên cành lá nhưng gốc rễ của bạn đã hư hoại thì không thể nào cứu chữa được. Nếu cứu được gốc rễ [trước] thì cứu cành lá sẽ rất dễ dàng! Chúng ta thấy rất nhiều người bề ngoài có vẻ làm lành tích đức nhưng nghiệp lực vẫn chuyển không nổi nên thường oán trời trách người, và nói Phật, Bồ Tát không linh, thần không linh, hết thảy đều có lỗi với họ, họ hoàn toàn chẳng khác ông Du Tịnh Ý!. Thế nên ‘chuyển’ phải chuyển từ trong tâm, phải chuyển từ ý niệm, chuyển thành ‘thuần thiện’.

Thiền Tông Lục Tổ Huệ Năng đại sư dạy rất hay: ‘Nếu là người tu đạo thì chẳng nhìn lỗi của thế gian’. Ðây mới đúng là chuyển biến từ tâm, từ ý niệm. ‘Chỉ nhìn thấy lỗi của mình, không nhìn thấy lỗi của người’ nên họ có thể ‘chuyển mê thành ngộ, chuyển phàm thành thánh’, đạo lý là ở chỗ này. Ngày nay miệng chúng ta thiện, thân cũng thiện nhưng thường nhìn thấy người khác chẳng thiện mà họ lại có quả báo tốt nên trong tâm mình không phục, bất mãn! Bạn phải biết thân của bạn thiện, khẩu thiện nhưng gốc rễ của bạn đã hư hết rồi, phải làm một cuộc thay đổi hoàn toàn từ gốc rễ -- trong tâm luôn luôn nghĩ đến chuyện tốt của mọi người, đừng nghĩ về chuyện xấu của người khác; Người ta không có gì xấu hết, xấu là nơi gốc rễ của chúng ta xấu. Chúng ta thấy chuyện xấu của người khác thì liền biết gốc rễ của chúng ta đã hư hoại rồi; tại sao vậy? Phật thấy hết thảy chúng sanh đều là Phật, Bồ Tát thấy hết thảy chúng sanh đều là Bồ Tát. Gốc rễ của họ tốt, chẳng có bịnh tật.

http://niemphat.net/Luan/phathoctinhyeu/thien3_8.htm
Như trên đã nói khái quát về phần Nhân, kế lại xin bàn tổng quát về phần Quả. Quả báo tuy nhiều, song có thể tóm tắt trong mười hai điểm:

1. Hiện-báo: Ðây là quả báo trong kiếp hiện tại; có nghĩa hiện thế gây nhân thì hiện đời chịu quả. Quả báo nầy có tánh cách mau, ví như trồng loại cà, ớt hay gieo giống lúa, chỉ trong vòng một mùa, một năm đã thu được kết quả. Hiện-báo còn gọi là Hoa-báo, danh từ nầy hàm ý nghĩa mau lẹ, ảnh hưởng không đợi đến thời kỳ sanh trái, mà đã phát lộ trong thời kết bông. Tục ngữ có câu: “Ðời xưa trả báo thì chầy. Ðời nay trả báo một giây nhãn tiền”. Hai câu nầy chỉ cho tánh cách của Hiện-báo hay Hoa-báo.

2. Sanh-báo: Sanh-báo là gây nhân kiếp nầy, đời kế sau mới chịu quả báo. Quả báo nầy có tánh cách hơi lâu, ví như trồng mụn chuối con, hạ thổ năm nay, sang năm mới có trái. Trong kinh có câu: “Muốn biết nhân kiếp trước, hãy xem sự thọ hưởng đời nay. Muốn rõ quả kiếp sau, nên xét sự tạo tác trong hiện tại”. Hai câu nầy có thể chỉ cho ảnh hưởng của Sanh-báo.

3. Hậu-báo: Ðây là nói sự gây nhân trong đời nầy, đến ba, bốn, trăm, ngàn hay vô lượng kiếp sau mới thọ quả báo. Hậu-báo có tánh cách lâu hơn, ví như trồng những loại cây trong năm nay, đến năm, mười hay đôi ba mươi năm sau mới kết quả. Thuở xưa, khi Phật còn ở đời, có ông Thi-Lợi-Bật-Ðề đến một trăm tuổi mới cầu xin xuất-gia. Các vị Trưởng-lão như Ca-Diếp, Xá-Lợi-Phất, nhập định quán sát trong vòng 84000 kiếp về trước thấy ông thiếu căn lành nên không cho. Ðến khi Như-Lai đi khất thực trở về, thấy ông khóc lóc cầu xin, liền chấp thuận. Các vị Trưởng-lão hỏi duyên cớ. Ðức Thế-Tôn đáp: “Thi-Lợi-Bật-Ðề trước 84.000 kiếp, tiền thân là lão tiều phu, bị cọp đuổi gấp leo lên cây niệm một câu “Mô Phật”. Do thiện căn ấy đến nay mới gặp ta, và sẽ được đắc độ. Vì nhân lành kiếp trước của người nầy quá lâu xa, nên sức đạo nhãn của các ông không thể thấy biết được”. Trong kinh có bài kệ: “Giả sử trăm ngàn kiếp. Nghiệp đã tạo không mất. Khi nhân duyên gặp nhau, lại tự chịu quả báo”. Ðại ý bài kệ nầy chỉ cho trường hợp Hậu-báo.

4. Ðịnh-báo: Ðịnh-báo là quả báo nhất định phải chịu, không thể chuyển biến được, bởi sức nghiệp đã quá thuần thục, trong mười phần thành tựu cả mười. Ví như cái nhà hư hao chút ít hay nửa phần, còn có thể sửa chữa được; nếu kèo cột tường nóc đều hư mục, tất phải chờ cho nó hư hoại để làm ngôi khác. Và như bịnh ung thư trong thời kỳ nhẹ còn có thể chữa được, sang lúc quá nặng duy có phương chờ đến mãn phần. Cổ ngữ có câu: “Dược y bất tử bịnh. Tửu bất giải chân sầu”. (Thuốc chỉ trị những bịnh không chết. Rượu không thể giải mối buồn hiện thật). Mấy câu nầy có thể tượng trưng phần nào cho sự việc trên.

Thuở xưa vua Lưu-Ly cử binh đến đánh dòng họ Thích, Ðức Thế-Tôn can ngăn ba lần mà không được. Tôn-giả Mục-Kiền-Liên bạch hỏi sao Phật không cứu độ hàng tộc thuộc, thì ngài bảo đó là định nghiệp. Tôn-giả không tin, dùng thần thông đem giấu năm trăm người họ Thích trên cung trời. Nhưng khi Lưu-Ly-Vương dẹp xong hàng Thích-Chủng, thì năm trăm người ấy cũng đều thành huyết mà chết. Ðây là một sự kiện chứng minh sức định nghiệp có công năng tuyệt đối mạnh mẽ. Cho nên chư Phật có ba việc làm được, ba việc làm không được, gọi là “Tam năng tam bất năng”. Các điều ấy là: chư Phật có thể không tất cả tướng, thông suốt tất cả pháp, nhưng không thể diệt được định nghiệp; có thể biết cùng tận nghiệp tánh của chúng-sanh, rõ thấu tất cả việc trong vô biên kiếp quá khứ và vị lai, song không thể độ những chúng-sanh vô duyên; có thể độ vô lượng chúng-sanh, song không thể độ hết chúng-sanh giới. Bởi thế, sức người cố nhiên là hữu hạn, nhưng sức Phật vẫn chưa phải toàn năng. Nếu chúng-sanh không tín hướng Ðức Như-Lai, không thực hành đúng theo lời Ngài dạy, thì chư Phật, Bồ-Tát cũng không thể hóa độ được.

5. Bất-định-báo: Ðây là nghiệp báo có thể chuyển biến sửa đổi được. Như có người trước đã tạo nghiệp lành, đáng lẽ phải hưởng phú quý trọn đời. Nhưng trong lúc làm quan, nếu kẻ ấy tham mê tài sắc, ăn của lót, cưỡng hiếp, hãm hại người, thì phước lộc lần lần tiêu giảm, có thể bị tù ngục, ô danh, hoặc chết bất đắc kỳ tử. Và như kẻ kiếp trước kém nhân lành, nên đời nầy thân phận nghèo khổ, hèn hạ. Song nếu người ấy biết xét lẽ nhân-quả-tội-phước, gắng sửa đổi tâm tánh, hết sức làm việc phước thiện, thì tội chướng lần tiêu giảm, phước đức lần tăng thêm, có thể trong hiện tại chính mình hay con cháu sẽ tiến đến cảnh vinh quang. Ví như trong đời, người tước vị cao mà ỷ thế làm quấy, thì có thể bị cách chức; kẻ có tội nhưng gắng lập công, có thể đem công chuộc tội, và nếu lập công thêm mãi tất sẽ được tấn chức thăng quan.

Nghiệp quả của chúng-sanh phần nhiều đều có tánh cách bất định. Nếu chúng ta biết gắng sức dùng tâm lực để chuyển nghiệp lực, thì cảnh Thiên-cung, Phật-quốc nào phải không nẻo tiến lên. “Bụi hồng có lối về hương quốc. Cửa tội không tâm mở dạ đài”, chính là ý nầy vậy.

6. Cộng-báo: Cộng-báo là quả báo chung. Như thuở Ðức Thế-Tôn còn ở đời, ba mươi hai người con của bà Tỳ-Xá-Ly đều bị vua Ba-Tư-Nặc nghi lầm mà giết. Xét theo hiện thời thì dường như đó là hàm oan. Song thật ra trong tiền kiếp vua Ba-Tư-Nặc là con trâu, ba mươi hai người kia đều là kẻ trộm. Trong khi con trâu biết mình sắp bị giết, quỳ xuống rơi nước mắt tỏ ý van xin, nhưng ba mươi hai kẻ trộm quyết tâm sát hại để ăn thịt. Lúc ấy lại có một bà lão tán thành giúp cho phương tiện nấu nướng. Bà lão ấy chính là tiền thân của cận sự nữ Tỳ-Xá-Ly. Bà Tỳ-Xá-Ly và ba mươi hai người con vì đồng gây cộng-nghiệp, nên ba mươi hai đứa con bị giết; còn bà mẹ bởi kiếp trước tùy hỷ việc ấy, nên hiện tại cũng vương nỗi buồn lây. Ðiều nầy do Đức Phật thuật lại tiền nhân, nên mối oan kết đôi bên mới được giải thích.

Lại nữa, trong thời kỳ chiến tranh nầy, có nhiều người tuy không ra trận tuyến, nhưng cũng bị bom đạn, sự kinh khủng, cảnh nghèo đói, hoặc nỗi buồn khổ về tử biệt sanh ly. Ðó đều là ảnh hưởng nặng nhẹ thuộc Cộng-báo, do việc tự mình giết, bảo người giết, hoặc tùy hỷ sự giết của nghiệp sát sanh từ nhiều kiếp về trước.

7. Biệt-báo: Ðây cũng gọi Bất-cộng-báo, là quả báo riêng của mỗi cá loại trong loài người hay loài vật. Chẳng hạn như đồng là chim, nhưng có loại chim quý đẹp như bạch hạt, anh võ, trĩ, thanh tước, phượng hoàng; có loại chim thường như quốc, cò, sẻ, én; và loại xấu như chim heo, chim ụt. Lại cũng đồng là loài người, mà có kẻ xấu, người đẹp, kẻ giàu sang, người nghèo khổ, kẻ ngu tối, người thông minh. Hoặc như trong cảnh khói lửa tang tóc lan tràn, mà có người vẫn sống đoàn tụ an vui, hầu như không biết chiến tranh là gì cả. Ðó là những trường hợp thuộc về Biệt-báo.

8. Cận-tử-báo: Cận-tử-báo là quả báo lúc sắp chết. Con người khi già yếu sắp chết, những nghiệp thiện ác từ kiếp nầy hoặc kiếp trước dồn lại, ảnh hưởng mạnh mẽ hơn lúc bình thường. Nếu là nghiệp thiện thì khiến cho người ấy vui vẻ hòa nhã hiền lương, mắt tai không lờ lãng, khi lâm chung xả báo an lành. Như thuộc về nghiệp ác, thì kẻ đó trở nên nóng nảy, ưa buồn giận khó khăn, tâm trí lờ lẫn, lúc sắp chết đau yếu mê man. Trong đời kẻ tu thiện thì ít, làm ác lại nhiều, nên đa số người đến lúc lớn tuổi thường đổi tánh; những vị không hiểu lý nầy cho là “già hay sanh tật”.

Thuở bút giả còn ở chùa Linh-Thứu, tại xã Thạnh-Phú, tỉnh Ðịnh-Tường, có biết ông hương ấp Nghé. Ông nầy ưa ăn thịt chó, mỗi tháng trung bình độ sáu con, nên khi ông đi đâu thì chó sủa dồn đến đó, ai cũng đều biết. Khi ông đau sắp chết, thì tự chui xuống gầm giường nằm khoanh một góc, lâu lâu lại tru lên như chó. Lúc ấy có người đồng bạn là chú năm Thiện đến thăm, hỏi: “Anh hương ấp làm chi lạ vậy? Thôi anh lên giường nằm, đừng để cho bà con chê cười!” Nói chưa xong, thì ông thình lình nhảy ra táp chú, hình trạng như con chó giận dữ cắn người, may nhờ chú năm lẹ làng tránh khỏi. Ðây là một việc tượng trưng cho Cận-tử-báo thuộc về nghiệp ác.

9. Thục-vị-thục-báo: Ðiều nầy là trạng thái của nghiệp báo lúc chưa thuần thục và đã thuần thục. Tiên đức nói: “Người mang nghiệp ví như người mắc nợ, mối nào mạnh thì nó kéo lôi trước”. Khi xưa, một hôm Đức Phật bảo ngài A-Nan: “Có người trọn đời làm lành mà khi chết bị đọa vào ác đạo, bởi nghiệp lành đời nầy chưa chín muồi, song nghiệp dữ kiếp trước đã đến lúc thuần thục. Có kẻ trọn đời làm ác nhưng khi chết sanh lên Thiên-cung, bởi nghiệp ác đời nầy chưa thuần thục mà nghiệp lành kiếp trước đã đến thời kỳ chín muồi. Việc nhân-quả rất phức tạp, tùy theo thế lực mạnh yếu mà đến trước hoặc sau. Cho nên các đệ-tử của ta chớ nên thờ ơ, phải gắng chuyên tu cho đạo nghiệp được tinh thuần. Vì biết đâu, có kẻ tuy đời nay yên ổn hưởng lạc làm lành, nhưng nghiệp ác những kiếp về trước đã sắp đến thời kỳ thuần thục!”

Bởi chưa hiểu rõ lý trên, nhiều vị thấy người làm lành mà chết xấu, kẻ hung dữ lại chết tốt, vội phê bình cho rằng không có việc nhân-quả-tội-phước, chẳng cũng là sai lầm lắm ư?

10. Chuyển-báo: Chuyển-báo là những biến trạng khổ vui, do sức tu thiện hay làm ác của đương nhơn. Biến trạng nầy là sự dồn dập để chuyển đổi những quả báo sắp đến. Như có người làm đủ những điều ác, song đời sống hiện tại càng thêm an ổn vinh quang. Trong đây có hai nguyên nhân: Một là do túc phước của họ quá nhiều, tuy có phần tổn giảm bởi làm ác, nhưng dư phước hãy còn. Hai là do thế lực của nghiệp ác quá mạnh, khiến cho bao nhiêu phước đời nầy và đời trước đều phát hiện cho kẻ ấy hưởng, để rồi sẽ chịu quả báo ác đạo ở kiếp sau. Sự kiện Chuyển-báo nơi đây, chính thuộc về trường hợp thứ hai nầy. Nói theo các cụ bình dân ta, đây gọi là trạng thái “dồn phước”. Lại có những vị chí tâm tu hành, nhưng lại thường gặp những việc thất bại, đau yếu, tai nạn, mang tiếng thị phi. Theo tiên đức, đó là do sức tu thiện, khiến cho chuyển quả báo nặng ác đạo ở đời sau, thành ra quả báo nhẹ trong hiện tại, để kẻ ấy khi mạng chung sẽ hưởng phước nhơn thiên, hay sanh về Phật-quốc. Và đây gọi là trạng thái dồn nghiệp.

Nhiều Phật-tử không hiểu lẽ nầy, khi gắng tu mà gặp việc không may, vội sanh tâm sợ sự niệm Phật tụng kinh, hoặc thối chí bảo: càng tu nhiều càng có lắm việc phiền phức, rồi lần lần đi đến sự giải đãi, xin đem một thí dụ để trần thích: như người có bịnh phong hay ban, uống thuốc vào chất độc bị giải tán, làm cho nước tiểu vàng hoặc cả mình nổi mẩn đỏ, đó là trạng thái bịnh sắp lành. Việc ấy nên đáng mừng hay là lo sợ? Kẻ tu hành cũng thế, do công đức tụng kinh niệm Phật, khiến cho nghiệp chướng phát hiện để tiêu trừ. Nếu có chút ảnh hưởng khổ báo, trong mười phần ta chỉ còn chịu đôi ba phần, cho nên hành giả đừng lấy việc đó làm nản chí. Và điều nầy, trong kinh Kim-Cang, Đức Phật cũng đã bảo: “Tu-Bồ-Ðề! Nếu Thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn thọ trì đọc tụng kinh nầy mà bị người khinh rẻ, nên biết kẻ ấy đời trước tội chướng rất nhiều, đáng lẽ phải đọa vào ác đạo. Do sức tụng kinh, khiến đời nay bị người chê bai, nên tội chướng đời trước được tiêu diệt, kẻ đó sẽ đắc quả A-Nậu-Đa-La-Tam-Miệu-Tam-Bồ-Ðề”.

Trong Tịnh-Ðộ-Thánh-Hiền-Lục có thuật chuyện ông Ngô-Mao tu hành chân chánh, lúc sắp chết bị giặc đâm bảy thương. Khi người anh đến, ông bỗng tỉnh lại bảo: “Ðời trước tôi tạo nhiều nghiệp ác, đáng lẽ phải còn đầu thai làm heo bảy kiếp nữa. Nhưng nhờ đời nầy tôi biết ăn chay niệm Phật, nên phải chịu bảy vết thương để trả bảy kiếp làm heo ấy. Hiện thời tôi sắp sanh về Tịnh-độ”. Cứ theo việc ông Ngô-Mao, kẻ không biết cho là tu hành mang họa. Nhưng chỉ chịu bảy vết thương trả xong bảy kiếp làm heo, để rồi được sanh về Cực-Lạc; nếu so lại thì việc tu hành đâu phải luống uổng, và công đức niệm Phật chính thật không thể nghĩ bàn! Nhưng tu hành không phải mỗi người đều bị chuyển-báo, nếu kẻ có căn lành từ kiếp trước thì càng tu càng được an vui. Hành giả đừng in trí theo một phương diện trên mà sanh lòng e ngại.

11. Thế-gian-báo: Ðây là những quả báo khổ vui trong ba cõi: Dục, Sắc và Vô-sắc. Nguyên nhân chánh của sự lưu trệ trong tam giới, là vì khi gây nhân chúng-sanh còn chấp ngã. Chẳng những thế gian và ngoại-đạo mà các vị tu theo chánh giáo, nếu chưa dứt hết tâm chấp ngã, còn tham nhiễm lục trần, cũng vẫn còn ở trong vòng luân-hồi sáu nẻo. Tuy nhiên, những sở hành theo Phật-pháp đều gây nhân duyên đắc độ về sau, nhưng kiếp tương lai trong khi tu, điểm chánh yếu của sự giải thoát vẫn là điều kiện dứt ngã chấp. Trong truyện ký nhà Phật có chép việc một ni-cô tụng kinh Pháp-Hoa ba mươi năm, nhưng tâm còn nhiễm thanh sắc, nên kiếp sau chuyển làm nàng kỹ nữ thanh sắc vẹn toàn; nơi miệng thường bay ra mùi thơm hoa sen. Tại Việt-Nam, đời nhà Lê, một vị sư tu Tịnh-độ ở chùa Quang-Minh, bởi tâm lợi danh chưa sạch, nên kiếp sau chuyển sanh làm vua Khang-Hy bên Trung-Hoa. Khi được biết tiền nhân, nhà vua viết mấy bài thi hoài cảm, trong ấy có hai câu: “Ngã bản Tây-phương nhất Phật-tử. Vân hà lạc tại đế-vương-gia?” (Ta vẫn là con của Phật A-Di-Ðà ở Tây-phương. Tại sao nay lại lạc vào giòng vương thất?)

Ðời Tống bên Trung-Hoa, Giới-Diễn và Quang-Huệ đại-sư đồng tu thiền, song Giới-Diễn vì còn chút tâm niệm luyến sắc, nên kiếp sau đầu thai làm nhà văn hào lỗi lạc, đa tài mà cũng đa tình, là Tô-Ðông-Pha. Sau khi được ngài Quang-Huệ chuyển kiếp làm Phật-Ấn thiền-sư để hóa độ Tô-Ðông-Pha trở lại đường tu; có lẽ nhớ biết những kiếp về trước, nên lúc lớn tuổi, trong cuộc tái du thăm viếng chùa Kim-Sơn, ông đã viết mấy câu thi:

Kim-Sơn chùa núi gần mây nước

Tóc bạc Ðông-Pha lại đến đây.

Tiền kiếp Ðức-Vân, nay chính tớ

Mơ màng còn nhớ Diệu-Cao-đài!

12. Xuất-thế-gian-báo: Thế-gian-báo là quả báo thuộc lục-phàm. Trái lại, xuất-thế-gian-báo là quả báo của tứ-thánh: Thanh-Văn, Duyên-Giác, Bồ-Tát và Phật. Quả báo tứ-thánh do bởi khi tu lìa ngã-chấp mà được thành tựu. Trong hạnh vô-ngã nầy, hàng Nhị-thừa hãy còn hẹp, song Bồ-Tát thừa thì rất rộng rãi nhiệm mầu. Bồ-Tát chẳng những tu tam-vô-lậu-học của pháp xuất-thế-gian, mà còn làm tất cả việc từ thiện của thế gian. Tâm của Bồ-Tát không thấy có sở đắc sở chứng; không có tướng ngã, nhơn, chúng-sanh, thọ giả; tuy độ vô lượng hữu-tình nhưng không thấy mình là người hóa độ, chúng-sanh là kẻ được độ; tuy quanh mình thị hiện vô biên quyến thuộc, nhưng lòng hằng vắng lặng không thấy có quyến thuộc; tuy tu vô lượng phước đức, nhưng không thấy mình có phước đức. Ðây là hạnh vô tướng. Người biết thực hành hạnh vô tướng, dù là làm việc thiện thế gian, song đều thành kết quả giải thoát. Bằng trái lại, tuy tu thánh-đạo, cũng hóa ra phước báo thế gian. Về hạnh vô tướng nầy, trong kinh Kim-Cang, có đoạn Đức Phật dạy: “Nầy Tu-Bồ-Ðề! Như có vị Bồ-Tát dùng số lượng thất bảo đầy cả hằng-hà-sa thế-giới để bố thí. Nếu lại có người biết tất cả pháp đều vô ngã, được thành vô sanh nhẫn, thì công đức của vị Bồ-Tát sau nầy hơn bậc Bồ-Tát trước kia. Tại sao thế, Tu-Bồ-Ðề? Bởi thật ra, chư Bồ-Tát đều không thọ phước đức”. Tu-Bồ-Ðề thưa: “Bạch Thế-Tôn! Sao gọi là Bồ-Tát không thọ phước đức?” - Nầy Tu-Bồ-Ðề! Vì Bồ-Tát tuy làm những việc phước đức, song chẳng tham trước, nên ta nói không thọ phước đức!”

Thông thường hàng Phật-tử tại-gia khi mới quy-y, duy thích cúng dường chùa mình, phụng sự thầy của mình, hay chỉ làm những Phật-sự mà họ cho là có công đức hơn việc thế gian. Nhưng nếu họ hiểu rộng hơn, vừa dùng tâm bình đẳng phụng sự Tam-bảo, vừa làm các việc từ thiện ở đời, như giúp đỡ kẻ nghèo khổ đau yếu, chu cấp cho hàng quả phụ cô nhi, rồi đem công đức ấy hồi hướng về Tịnh-độ cùng đạo Vô-thượng-bồ-đề, thì tất cả việc làm lành đều đi đến kết quả giải thoát cả.

Tóm lại, sự lý nhân-quả thật vô lượng, chuyển biến chập chồng, có thể gọi là khó bàn khó nghĩ. Nhưng về Nhân không ngoài sự hơn kém của nghiệp thân, ngữ, ý qua ba hạnh Phước, Phi-phước và Bất-động. Về Quả lại tổng quát trong mười hai điều trên. Nếu nắm được mấy điểm chánh yếu như đã kể mà suy rộng ra, về vấn đề nầy, người học Phật có thể hiểu quán xuyến tất cả.

http://thondida.com/V-LieuPhamTuHuan.php
II–Thế nào là thiện ?



1. Bàn luận rõ ràng về thiện.



Nếu xét một cách tinh tường mà nói, thì thiện có chân có giả, có ngay thẳng có khuất khúc, có âm có dương, có phải hay chẳng phải, có lệch hay chính đáng, có đầy có vơi, có tiểu có đại, có dễ có khó, đều cần bàn luận rõ ràng. Làm việc thiện mà không hiểu rõ đạo lý, cứ tự cho việc mình làm là hành thiện, ắt không khỏi tạo nghiệp, uổng phí mất tâm tư một cách vô ích.

Thế nào là chân thiện và giả thiện? Xưa có một số nho sinh yết kiến Trung Phong hòa thượng (một vị cao tăng triều đại nhà Nguyên) mà hỏi: Nhà Phật bàn thiện ác báo ứng như bóng theo hình, tức làm lành gặp lành, làm ác gặp ác; nay có người nọ thiện mà con cháu lại không được thịnh vượng, mà kẻ kia ác thì gia đình lại phát đạt, như vậy là Phật nói về việc báo ứng thực vô căn cứ sao?

Hòa thượng nói: Người phàm tâm tình chưa được tẩy sạch, chưa được thanh tịnh, tuệ nhãn chưa khai, thường nhận thiện làm ác, cho ác là thiện; người như vậy không phải là hiếm có, đã tự mình lẫn lộn phải trái, cho ác là thiện, cho thiện là ác, điên đảo đảo điên mà không hay lại còn trách oán trời cho báo ứng là sai, là không công bằng ư. Bọn nho sinh lại hỏi: Mọi người thấy thiện thì cho là thiện, thấy ác thì cho là ác, sao lại bảo là lẫn lộn, trái ngược, điên đảo vậy? Hòa thượng bảo họ thử ví dụ xem sự tình như thế nào là thiện và thế nào là ác. Một người trong bọn họ nói: Mắng chửi đánh đập người là ác, tôn kính, lễ phép với người là thiện. Hòa thượng nói không nhất định là như vậy. Một người khác cho là tham lam, lấy bậy của người là ác, gìn giữ sự thanh bạch liêm khiết là thiện. Hòa thượng cũng bảo không nhất định như vậy. Mọi người đều lần lượt đưa ra thí dụ về thiện và ác, nhưng Trung Phong hòa thượng đều bảo không nhất định như vậy. Nhân thế bọn họ đều thỉnh hòa thượng giảng giải cho.



2. Định nghĩa chữ thiện



Hòa thượng Trung Phong chỉ dạy rằng: Làm việc có ích cho người là thiện, còn chỉ có lợi cho riêng mình là ác. Có ích cho người thì dù đánh hay mắng chửi họ cũng gọi là thiện, chỉ có ích cho riêng mình dù tôn kính, lễ phép đối với người cũng kể là ác. Bởi vậy, người làm việc thiện mà có lợi ích cho người là công, chỉ lợi cho mình là tư, công là chân, còn tư là giả.

Lại nữa, làm việc thiện mà phát xuất từ tấm lòng thành là chân thiện, còn hời hợt, chiếu lệ mà làm là giả thiện. Hơn nữa, hành thiện mà không nghĩ tới một sự báo đáp nào cả là chân thiện, trái lại còn hy vọng có sự đền đáp là giả thiện, đó là những điều tự mình cần khảo sát kĩ lưỡng.

http://www.quangduc.com/tinhdo/21lathu.html
Thơ đáp Cư Sĩ Châu Tụng Nghiêu

(Phụ Nguyên Thơ) (^)

Nay đệ tử có một nghi vấn, cầu xin lão Pháp Sư từ bi chỉ bảo:

Đệ tử ăn chay niệm Phật đã nhiều năm, nghe dạy rằng: Những người tin tưởng Phật, sẽ được chư Phật trong mười phương ba đời hộ niệm, các vị Thiên Long Bát Bộ, Đại Lực Thần Vương thường theo hộ trì, nghiệp ác đời trước lần lần tiêu trừ, dù có oan gia đối đầu cũng không thể làm hại. Mấy điều trên đây căn cứ trong Kinh Phật, quyết không phải là lời nói suông. Nhưng vào khoảng tháng ba nầy, nhân tiếp được tin tức của người bà con từ Thượng Hải gửi về, khiến đệ tử vô cùng ngạc nhiên! Theo tin ấy cho biết: Bà Trương Thái Thái là người rất tin Phật, ăn chay đã hơn hai mươi năm, thường đến Cư Sĩ Lâm nghe giảng kinh pháp. Bà ấy hiền hậu nhân đức, ưa làm lành, gặp ai cũng đều khuyên ăn chay niệm Phật. Không ngờ một hôm đang đi trên lộ để đem đồ ăn chay cho một vị sư huynh, bà bị xe cán chết. Lúc ấy vì không có ai nhìn, nên nhân viên tuần phòng chở đi, đến ba ngày sau con cháu hay được mới xin đem về chôn cất. Đệ tử nghe tin ấy trong lòng kinh ngạc phi thường, đến nay vẫn còn nghi ngờ chưa hiểu. Việc nầy nếu người trong Phật học hội nghe được, chắc cũng bàng hoàng không an. Cho nên đệ tử dâng lên bức thơ nầy, cầu xin lão Pháp Sư chỉ dạy, nói rõ nguyên do vì sao bà họ Trương lại bị cái chết thảm khốc như thế. Và kết cuộc, bà có được vãng sanh về Tây Phương hay chăng?

Xin lão Pháp Sư mở lời minh huấn để cho nhiều người yên tâm niệm Phật. Ân đức ấy đệ tử cảm bội không cùng!

Tiếp được thơ, biết ngươi đối với đạo lý Phật Pháp còn chưa hiểu rõ. Chúng ta từ vô thỉ đến nay, đã tạo nghiệp ác vô lượng vô biên! Kinh Hoa Nghiêm nói: 'Giả sử nghiệp ác có thể tướng, mười phương hư không chẳng dung chứa hết.' Nên biết sự tu trì của hành nhơn, nếu quả chí thành không dối, thì có thể chuyển trọng báo, hậu báo thành hiện báo, khinh báo. Người phàm mắt thịt chỉ thấy sự kiết hung trước mắt, đâu biết được việc nhân quả đời trước và đời sau.

Bà họ Trương ấy nhiều năm tinh tu, một sớm chết thảm, hoặc giả do sự khổ đó mà tiêu được ác báo tam đồ, sanh về cõi Thiên. Nếu trong hiện đời bà tin sâu nguyện thiết thì cũng có thể sanh về Tây Phương. Nhưng chúng ta đã không có tha tâm đạo nhãn, nên không dám ức đoán quyết chắc bà có được vãng sanh cùng chăng? Việc có thể quyết định là: làm lành tất được quả lành, làm dữ phải mang ác báo. Nếu làm lành mà bị quả dữ, đó là quả báo của nghiệp ác đời trước, chẳng phải quả báo của nghiệp lành đời nầy. Các ngươi thấy bà lão bị sự chết khổ như thế, liền nghĩ lầm rằng việc lành không đáng làm, bởi làm lành không được phước, nên mới sợ hãi nghi ngờ. Sự nhận thức đó đâu có khác gì người chưa nghe hiểu Phật Pháp? Nếu người đã tin chắc lời của Phật, quyết không vì việc ấy mà lộ ra vẻ sửng sốt kinh hoàng. Bởi việc nhân quả trùng điệp không cùng, có khi nhân nầy chưa trả, quả nọ đã chín mùi, ví như gieo giống sớm thì gặt sớm, lại như thiếu nợ, chủ nợ mạnh lôi kéo trước tiên.

Thuở xưa, có người một đời làm lành, khi lâm chung lại bị chết thảm để trả xong nghiệp trước, đời sau lại được phú quí vinh hoa. Như đời Tống một vị tăng ở chùa A Dục Vương muốn trùng tu tòa điện tháp thờ Xá Lợi nghĩ rằng Cần Thân Vương có thế lực, mới đến quyên mộ. Chẳng dè kết quả số tiền quyên không được bao nhiêu, bổn nguyện không thành, vị tăng buồn bã, lấy búa chặt tay trước đền Xá Lợi, máu ra nhiều liền chết. Cùng trong lúc ấy, Cần Thân Vương sanh ra một đứa con. Từ khi mới lọt lòng, đứa bé thường khóc mãi không thôi. Bà vú bế nó đi chơi, đến chỗ treo bản đồ xây tháp Xá Lợi thì đứa bé không khóc, bồng đi lại khóc to lên. Bà vú không biết làm sao, mới gỡ bản đồ xuống thường cầm để trước mặt nó, từ đó đứa bé không khóc nữa. Vương nghe chuyện ấy lấy làm lạ liền sai người đến chùa A Dục hỏi thăm vị tăng khi trước, mới hay ông chặt tay chết đúng vào ngày sanh của con mình. Do nhân duyên đó, Thân Vương một mình đứng ra sửa lại điện Xá Lợi. Đến khi đứa bé ấy được hai mươi tuổi, nhằm lúc vua Ninh Tông băng, không có Thái Tử kế vị, mới di chiếu lập con của Cần Thân Vương lên làm vua. Cậu bé về sau được làm Hoàng Đế bốn mươi mốt năm, tức là vua Lý Tông nhà Tống vậy.

Cái chết của vị tăng cũng là cái chết thảm. Nếu không có sự khóc mãi chẳng thôi và khi thấy bản đồ tháp Xá Lợi liền nín lặng, thì đâu ai biết được đứa bé là thân sau của vị tăng đã chết thảm kia? Việc nầy chép ở tập A Dục Vương Sơn Chí, mà trong năm Quang Tự thứ hai mươi mốt, tôi nhân đi lễ tháp Xá Lợi vài mươi ngày, đã được xem qua. Người rõ lý mặc dù cảnh ngộ thế nào, cũng quyết không nghi nhân quả sai lầm, lời Phật hư dối. Kẻ không rõ lý, chấp chặt một khuôn khổ, chẳng biết có nhân quả phức tạp, cho nên sanh lòng nghi nan, truy ra đều do không có chánh kiến. Như chỗ ngươi nói: người niệm Phật có Tam Bảo gia bị, long thiên hộ trì, đó vẫn là lẽ nhất định không còn sai lầm. Nhưng đối với việc chuyển quả báo nặng đời sau thành quả báo nhẹ đời nầy, ngươi còn chưa rõ biết, nên không khỏi có sự nghi ngờ bàn bạc không hợp lý kia. Thuở xưa, ở Tây Vức, Giới Hiền Luận Sư là bậc đạo đức cao trong một thời, tiếng đồn vang khắp bốn xứ Thiên Trúc. Do vì túc nghiệp, Luận Sư mang chứng bệnh dữ, đau đớn vô cùng, chịu không kham, nên sắp muốn tự tận. Vừa trong đêm ấy, Luận Sư nằm mơ thấy ba vị Bồ Tát: Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Thế Âm giáng lâm bảo rằng: 'Ngươi trong kiếp về trước, nhiều đời làm vị quốc vương, bởi não hại chúng sanh, nên sẽ phải bị lâu dài đọa vào ác đạo. Nhưng do đời nay ngươi có công hoằng dương Phật Pháp nên chuyển lại chịu sự khổ nhỏ ở nhân gian để tiêu trừ sự khổ lớn nhiều kiếp nơi địa ngục. Vậy ngươi gắng nhẫn chịu, chớ nên buồn rầu mà tính việc chi khác. Trong ba năm nữa, ở xứ Đại Đường có vị tăng tên Huyền Trang, sẽ đến đây thọ pháp với ngươi.' Giới Hiền Luận Sư nghe rồi liền rán chịu khổ sám hối lâu ngày bệnh lần lần thuyên giảm. Qua ba năm sau, Huyền Trang đến chùa Na Lan Đà, Giới Công bảo đệ tử nói trạng thái bệnh khổ của mình, chính người thuật lại cũng nghẹn ngào rơi lệ. Bao nhiêu đó cũng đủ biết sự khổ ấy là dường nào rồi! Nếu ba vị Bồ Tát không nói rõ nhân duyên kiếp trước, người đời sẽ bảo ngài Giới Hiền chẳng phải là bậc đạo đức cao tăng. Hoặc có kẻ lại cho rằng: một vị đại tu hành mà còn bị chứng bệnh thảm thế ấy, thì Phật Pháp có chi là linh nghiệm?

Tóm lại, chỗ hiểu biết của các ngươi còn cạn, nên vừa thấy việc chi hơi khác liền sanh lòng kinh nghi. Hành vi ấy có thể khiến cho kẻ ít căn lành thối thất lòng đạo. Nếu thấy người làm ác mà hiện đời được phước báo, chắc các ngươi cũng khởi niệm hiểu lầm như thế. Nên biết đó chẳng qua là sự chuyển biến của những lớp tiền nhân hậu quả phức tạp không đồng, để đổi quả nặng đời sau làm quả nhẹ hiện tại, hay chuyển quả nhẹ hiện tại thành quả nặng đời sau mà thôi.


Nam Mô A Di Đà Phật
Hình đại diện của người dùng
VO_HUU_BAT_KHONG606
Bài viết: 2587
Ngày: 08/04/08 22:33
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: ...
Đã cảm ơn: 1 time

Re: Luật Nhân Quả !

Bài viết chưa xem gửi bởi VO_HUU_BAT_KHONG606 »

Chào Hồng Thái.

Người làm thiện, trước đây cũng là người ác, hậu quả tới nay chưa hết. Quả thiện đang làm chưa đủ nhân duyên trổ quả. Đâu rồi cũng về đó, chẳng thêm hay mất điều gì.


Nguyen_khoa
Bài viết: 184
Ngày: 11/01/10 05:54
Giới tính: Nam
Đến từ: tp Ho Chi Minh

Re: Luật Nhân Quả !

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyen_khoa »

Chắc bạn đã quy y nên chắc cũng hiểu 1 chút gì đó về 2 chữ Nhân_Quả đúng ko? Trong chữ Nhân_Quả còn có 1 chữ nữa đó la Chữ DUYÊN.Cũng như gieo trồng 1 cây cũng cần 1 thời gian để cây phát triển,đươm hoa và kết trái, chứ ko phải 1 sớm 1 chiều mà cây nó kết quả.Cái nào mình gieo trồng trước thì mình sẽ gặt quả trước,cái nào gieo trồng sau thì sau mới có dc quả.Khi đầy đủ nhân duyên thì tư nhiên quả hình thành.Luật nhân quả luôn công bằng ko sai chạy.Người ta ở hiền làm lành mà luôn gặp nhiều bất hạnh do cái quả đời trước đầy đủ nhân duyên nên bây giờ họ phải thọ quả khổ đó,còn quả lành đang gieo trồng thì khi đầy đu nhân duyên sẽ cho ta quả tốt đẹp.Quan trong mình phải hiểu rõ,hiểu sâu về Nhân_Quả HT àh. tangbong Chúc bạn có đầy đủ trí tuệ và tin tấn trên con đường tu học của mình tangbong Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật tangbong


Hình đại diện của người dùng
Thánh_Tri
Điều Hành Viên
Bài viết: 3851
Ngày: 21/12/07 21:02

Re: Luật Nhân Quả !

Bài viết chưa xem gửi bởi Thánh_Tri »

"Hồng Thái"]Kính chào các Sư Phụ, Sư Huynh!
Khi Quy Y chắc hẳn ai trong chúng ta đều biết đến luật Nhân Quả, gieo Nhân nào thì gặp Quả ấy.
Chưa chắc người Quy Y Tam Bảo rồi đều biết Luật Nhân Quả.

Cho dù có nghe Luật Nhân Quả mà củng chưa chắc gì Hiểu và Tin Nhận, cho nên mới có tình trạng sanh nghi ngờ như bài ông hỏi hôm nay!
Nhưng trong đời sống Đệ thấy có một số ( không phải ít) trường hợp sống rất lương thiện, nhân hậu, yêu thương, giúp đỡ mọi người và thành tâm cúng dường Tam Bảo nhưng lại luôn gặp phải tai họa, ốm đau, bệnh tật hoặc phải đoản sinh trong khi đó có rất nhiều người sống rất ác nghiệt, cay độc, gây nghiệp chướng nặng nề nhưng họ lại được sống sung sướng, giàu có.
Vài tuần trước tôi có đọc lại, xem lại câu chuyện "Ông Trưởng Giả Kén Rễ" mà bốn năm năm về trước đã từng đọc từng nghe, vậy mà nghe lại vẫn rất hay định đăng viết lên một bài "Tu Thiện Có Gặp Ác Không?" để giải trừ mối nghi. Nhưng sợ mọi người nghe rồi, hoặc không thích nghe nên tôi không viết. Vì Phật Pháp không phải dễ có, nên không ban bố bừa bải, chỉ người nào hỏi muốn tìm hiểu mới nói mà thôi!

May thay hôm nay ông đưa ra câu hỏi nầy, thì hợp với ý của tôi, và hôm nay nhân duyên đầy đủ rồi nên thuận theo đó mà viết vài hàng bài tỏ. Nên vào google tìm "Ông Trưởng Giả Kén Rễ" mà đọc mà nghe.

Mỗi việc làm đều có quả báo cả. Quả báo không mất, chỉ đúng lúc đúng thời tức đủ duyên thì sẽ hiện bài.

Người tu thiện mà gặp quả Khổ Đau là vì đời trước từng gieo nhân Không Tốt Lành, duyên đời nầy hội đủ, quả khổ của đời trước từng gieo nhân liền trổ ra.

Người làm ác mà được vui sướng là do vì đời trước từng gieo nhân Thiện Lành, duyên đời nầy hội đủ, quả vui của đời trước từng gieo liền trổ ra.

Lại người hiện đời tu thiện mà gặp ác đó, đáng lẽ phải gặp quả báo nặng, mà do làm lành thiện nên giảm bớt. Nếu không đời sau nếu đủ duyên củng sẽ trổ quả lành.

Lại người hiện đời làm ác mà gặp lành đó, tuy đang hưởng quá báo lành của đời phước mà phước đó có thể giảm nhiều, hoặc đời sau đủ duyên thì cũng sẽ trổ quả khổ đau do họ gieo tạo đời nầy như thường mà thôi!

Nhân nào quả nấy rành rành đâu có sai chạy!

Nhân Quả là Ba Đời: Quá Khứ, Hiện Tại và Vị Lai.

1. Quá khứ làm việc ác thì hiện tại chịu khổ, hoặc đời vị lai đủ duyên rồi cũng sẽ chịu khổ. Chỉ là sớm hay muộn thôi.
2. Quá khứ làm việc lành thì hiện đời được quả vui, hoặc đời sau đủ duyên cũng được quả vui mà thôi.
3. Hiện tại gieo nhân ác thì đời nầy hoặc đời sau, hoặc muôn đời về sau nếu đủ duyên cũng sẽ chịu khổ.
4. Hiện tại gieo nhân lành thì đời nầy hoặc đời sau, hoặc muôn đời về sau nữa, nếu đủ duyên cũng sẽ được quả vui mà thôi.

Vì vậy có bài kệ:

Thành tàn hư thật tự giải tri
Họa phúc nhân do cánh vấn thùy?
Thiện ác đáo đầu chung hữu báo
Chỉ tranh lai tảo dữ lai trì


Nghĩa là thành bại hư thật phải tự nghiệm mà biết lấy. Họa hay phúc rốt ráo phải hỏi ai bây giờ? làm việc thiện hay ác gì rồi sẽ cũng có quả báo cả, chỉ là quả báo đó đến sớm hay đến muộn mà thôi!

Thế thì không cần phải hỏi ai về việc Họa Phúc. Mình phải tự nghiệm biết, vì rằng việc làm nào dù thiện hay ác cũng đều có quả báo của nó, chỉ là quả báo đó đến sớm hay muộn thôi!

Cũng như có bại kệ rằng:

Giả sử bá thiên kiếp
Sở tác nghiệp bất vong
Nhân duyên hội ngộ thời
Quả báo hoàn tự thọ


Nghĩa là giả sử trăm ngàn kiếp, nghiệp đã tạo không mất, khi nhân duyên đầy đủ rồi thì quả báo phải tự chịu nhận lấy mà thôi.

Như vậy Nhân Quả nào có sai chạy, có thiên vị một ai!

Đừng nghi gì nữa cả!

Có người cho rằng có thể những người hay gặp họa đó là do cha mẹ, ông bà gieo hạnh ác để bây giờ đến đời con cháu phải gánh chịu Quả báo nhưng theo như Đệ được biết thì đời trước của những người đó sống cũng rất lương thiện.
Không Phải thế đâu!

Nghiệp có: Cộng Nghiệp và Biệt Nghiệp

1. Cộng Nghiệp: là nghiệp chung của cả gia đình. Thí dụ do đời trước từng gây nghiệp giống nhau thì đời nầy sẽ sanh vào thế giới quốc độ giống nhau, cùng ở một đất nước, hay khu vực, hay sống chung nhà.

2. Biệt Nghiệp: là nghiệp riêng biệt của từng cá nhân.

Tuy cùng sanh ra ở trái đất nầy mà người thì ở Việt Nam, người ở Mỹ v.v... cho đến dù sống chung ở từng đất nước mà sống ở thành phố khác nhau, cho đến nhà khác nhau v.v...


Cho nên phải biết rằng cha mẹ ông bà làm ác, rồi người con cháu đó cũng gieo nhân ác đời trước đồng nghiệp với ông bà cha mẹ nầy.... nên mới đầu thai vào gia đình ác đó! (thì đây gọi là Cộng Nghiệp)

Chứ không phải ông bà làm thì con cháu chịu quả báo. Không! Ai làm nhân gì thì gặp quả y như vậy.

Tuy nhiên tuy sống cùng gia đình ác do cộng nghiệp, mà từng người lại có nghiệp riêng của mình cho nên có người chỉ ở vài năm với gia đình ác đó rồi thoát ly hoặc có người ở cả đời vẫn không thoát ly được (hoặc con chết sớm, hoặc chồng bỏ vợ, hoặc vợ bỏ chồng, hoặc con có vợ có chồng ra riêng sống v.v...)

vv.... muôn hình muôn vạn, không thể nào nói cho cùng tận và rốt ráo được nhân quả. Chỉ có thể nói rằng Nhân Quả KHông Sai Chạy Một Ly Tất Nào Cả!


"Tri Kiến Lập Tri Tức Vô Minh Bổn
Tri Kiến Vô Kiến Tư Tức Niết Bàn"

- Kinh Thủ Lăng Nghiêm
Hình đại diện của người dùng
Hồng Thái
Bài viết: 7
Ngày: 23/07/10 19:55
Giới tính: Nam
Đến từ: Nghệ An

Re: Luật Nhân Quả !

Bài viết chưa xem gửi bởi Hồng Thái »

Cảm ơn các sư huynh đã tậm tình chỉ bảo, đệ đã hiểu ra nhiều điều.

@ Thánh_tri: Khi quyết định Quy Y Tam Bảo đồng nghĩa với việc đệ luôn luôn tin tưởng Phật Pháp và không mảy may gợn chút sanh lòng ngờ vực. Đệ hỏi câu trên chỉ là do tâm trí còn mê muội, chưa hiểu biết và mong muốn được hiểu sâu sắc hơn để tu tập. Cảm ơn sư huynh đã chỉ bảo, lần sau có chuyện gì mong được giúp đở.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật


[color=#FF0000][b]Muốn ra khỏi biển luân hồi
Quả kia phải hái xong rồi đừng gieo
Dừng chân là bóng chẳng theo
Dừng tay là nghiệp chẳng đeo thân mình.[/b][/color]
tqh009
Bài viết: 343
Ngày: 27/01/10 22:35
Giới tính: Nam
Đến từ: Giac ngo

Re: Luật Nhân Quả !

Bài viết chưa xem gửi bởi tqh009 »

Không thể nào trồng một hạt giống và hối thúc nó nhanh trưởng thành.
Nó có quy luật phát triển riêng, nhân thiện ác hay quả thiện ác cũng vậy.
Kinh tạng nguyên thủy không thấy đề cập đến trường hợp nào gieo nhân lành lập tức gặt quả lành.

Luật nhân quả hoàn toàn không phải của Phật Giáo. Phật Giáo hoàn toàn không sở hữu bất kỳ thứ gì.
Nhân quả là quy luật của vũ trụ. Đó là chân lý cuộc sống, hiện diện thường trực và chi phối muôn loài.
Giáo Pháp được Phật tuyên thuyết là chân lý. Chân lý là cái đã có sẵn, không cần sáng tạo ra, đúng hơn là chân lý chỉ có thể được khám phá, phát hiện, trực nhận một cách rốt ráo, sâu sắc.


Hình đại diện của người dùng
svastika
Bài viết: 41
Ngày: 20/04/10 18:12
Giới tính: Nam

Re: Luật Nhân Quả !

Bài viết chưa xem gửi bởi svastika »

Câu hỏi của đh Hồng Thái cũng có nhiều người chưa hiểu đả hỏi: Có người sống tích thiện làm lành mà vẩn bị quả dữ, có người tạo ác lại đươc hưởng quả lành vì sao vậy? Như thầy tôi giảng như vầy: Hôm nay ta gieo nhân nhưng chưa chắc hôm nay đuợc nhận ví như ta trồng một cái cây, đh ở đây ta trồng loại cây ngắn ngày như ớt, cà chua, rau v.v.. thì sau vài ngày hay vài tháng ta sẽ thu được quả ớt, cà chua, rau v.v... Còn nữa đh ở đây ta trồng cây lâu năm như sầu riêng, mít, xoài v.v.. thì vài năm sau ta mới có quả sầu riêng, mít, xoài v.v.. có cây vài chục năm mới thu được quả. Ở đây quả báo cũng có phân biệt có tiền báo, hiện báo và hậu báo. Thế nào là tiền báo đó là những quả báo ta đã nhận ở quá khứ, hiện báo là những việc ta làm và nhận quả báo ngay hiên tại, hậu báo là những quả báo của viêc bạn làm sẽ nhận sau này có thể là đời sau. Cũng như mấy tháng trước ban đi làm và người chủ đã trả lương cho bạn mấy tháng trước, và tháng này bạn lam việc thì chủ tra lương cho bạn tháng này, còn việc bạn đem tiền đó gởi ngân hàng thì vài tháng sau bạn mới nhận được tiền lời. Trở lại có những người hành thiện tích đức nhưng vẫn nhận nghiệp dữ đó là nhân dữ của quá khứ cỏn nhân lành của hiên tại do nhân dữ chưa xong nhân lành chưa đến mọi việc phải có thứ tự, cũng vậy những người làm ác nhưng vẫn hưởng nghiêp lành do những nhân lành đã gieo từ quá khứ.

Thế Tôn lời dạy tỏ tường
Năm điều quán tuởng phải thường xét tra
Ta đây vốn có mạng già
Thế nào tránh khỏi lúc qua canh tàng
Ta đây bệnh tật phải mang
Thế nào tránh khỏi đặn an mạng lành
Ta đây sự chết đã dành
Thế nào tránh khỏi tử sanh đến kỳ
Ta đây phải chịu phân ly
Nhân vật quí mến ta đi biệt mà
Ta đi với nghiệp của ta
Dù là tốt xấu tạo ra tự mình
Theo ta như bóng theo hình
Ta thọ quả báo phân minh kiết tường


[color=#FF0000][b][i]Vô thượng thậm thâm vi diệu Pháp,
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ,
Ngã kim kiến văn đắt thọ trì,
Nguyện giải Như Lai chân thiện nghĩa.[/i][/b][/color]
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.18 khách