Mê hay Ngộ ? luận bàn! (Bài số 209. 227-230)
Đã gửi: 12/05/10 03:25
Quyết Nghi: Luận Bàn.
Luận bàn kiến học bằng trí thức, bên hàng cư sĩ Tịnh độ thì không được tốt. Vì muốn minh tâm, phải thực hành theo Tín Hạnh Nguyện.
Bên hàng cư sĩ Thiền tông luận bàn phá chấp lại là dao hai lưỡi. Vì ta còn tâm nhơn ngã, kiến thức so sánh, cao thấp của thế gian. (là người mới nhập môn, Nội ngoại pháp hữu vi chưa thông suốt, Thiền định còn thấp chưa phát sanh tuệ giác) Nhẹ thì bịnh trầm cảm, bỏ đạo, nặng thì sa vào địa ngục vì sự phá chấp sai lầm, vì không có thiện căn.
Luận bàn: Là ý kiến cá nhân của một người, hay của một nhóm người. Khi chưa thành lập làm một, hay thống nhất. Còn gọi là hợp, hội, phát biểu ý kiến hay giã thuyết.v.v.
Cũng gần cùng nghĩa tương tự như: Thuyết Pháp, Vấn đáp.
Luận Bàn giống như con dao hai lưỡi, là chiến tranh lạnh hay đấu võ miệng.
Kết quả: Chiến thắng mang thù hận, thấp bại chịu khổ đau. Vì
Cái đúng, tốt thì sẽ đúng, tốt hơn (trở thành hiệp, hội, đạo.v.v.).
Còn sai, xấu thì sẽ xấu hơn. (Xã hội sẽ mục nát vì thiếu văn hóa, đạo đức, người sẽ khổ sở hơn vì cái cố chấp, bảo thủ, cuồng loạn đó).
Sách sử đã ghi chép lại nhiều trung thần chỉ vì khuyên vua mà bỏ mạng.
Những văn sĩ cải cách đất nước mà thành thân bại, danh liệt.
Chính vì không cân bằng được Khế lý, Khế cơ. Cùng Chánh Báo, Y Báo.
Luận bàn có lợi ích!
Thứ nhứt cho người mới học.
Thứ hai vì muốn ôn lại bài,
Thứ ba học hỏi thêm kiến thức,
Thứ tư là học lại kinh nghiệm.
Thứ năm áp dụng vào đời sống hàng ngày.
Luận bàn không lợi ích!
Luận bàn trong 4 đều căn bản: Thuận luận khác ý. Nghịch luận khác ý. Thuận luận cùng ý. Nghịch luận cùng ý.
1. Thuận luận khác ý! – Thí dụ trong một hiệp hội cứu trợ nhân đạo, Nhân viên, ban đều hành. Thảo luận, ban hành ra nhiều cách hợp tình, hợp lý. Nhưng người không đủ thiện căn, đạo đức. Khi thấy lợi thì làm nghịch lại với ban đều hành (là khác ý).
2. Nghịch luận khác ý!- Chúng ta hãy xem phim, hay trong báo thử những hạn người này là ai?
Và thông thường nhất trong viển đàn. Hay khác tông phái, hoặc khác đạo.v.v.
3. Thuận luận cùng ý! – Thí dụ: Cha mẹ dạy con, thầy dạy trò, chồng dạy vợ, anh dạy em. Vì người dạy cũng như người nghe biết theo chánh Pháp theo Khế Lý, khế Cơ. Có Chánh Báo, Y Báo. Và thông thường người theo Tịnh độ tông.
4. Nghịch luận cùng ý! – Thí dụ: Cùng một dân tộc, cùng một gia đình thì binh vực lẩn nhau,
Hoặc cùng một đạo Phật mà chia ra Nam Tông, Bắc Tông; Đại thừa, tiểu thừa. Nhưng cùng chung tạo đoàn kết, cùng ý đoạn khổ, lìa ái. Nhưng hành động có nghịch duyên khác nhau.
Xem những thí dụ dưới đây.
Bài văn 1:
Phật pháp vô biên không thể luận bàn!
Khéo dùng phương tiện, lại càng khó thêm.
Chuyên tâm nhứt niệm một lòng.
Khéo chi phương tiện, luận bàn vô công.
@ Quản Hòa.
Bài văn này khuyên ta đừng nên luận bàn! Và đừng nên dùng phương tiện!
Phật pháp vô biên không thể luận bàn! – Phật thuyết, Pháp ta chỉ có một vị là đoạn trừ đau khổ.
Nhưng các kinh điển viết có hơn tới tám vạn bốn ngàn Pháp. Nếu kinh nào chúng ta cũng học, cũng luận bàn. Có thể trở thành một giảng sư pháp. Nhưng cũng không bằng một hành Pháp (Thiền định).
Lời nhận xét của Sư cô Thích Nữ Tuệ Nhi.
Bằng chứng có nhiều người chuyên thuần Niệm Lục tự Di Đà. Cũng tới giác ngộ viên thông. Và được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc. Vậy học giáo lý là để thực hành, không phải đem ra bàn sẽ làm trở ngại đường tu. “là vậy”.
Khéo dùng phương tiện, lại càng khó thêm. – Là cách thức, hình thức, phương pháp. Thí dụ như cho tiền họ, cho kinh họ đọc, rồi nhắc nhở họ học theo ta. Nhưng khó là họ không giống cùng ý nghĩ như ta! Lại nữa họ chưa từng học abc (Vô minh), ta khuyên họ nên đi lấy bằng bác sĩ (quang minh) Họ không làm được, ngược lại cho ta là người cuồng đạo.
Bởi gì chúng ta chưa đủ tài đức để dùng phương tiện Bố thí Pháp.v.v. cái thứ hai chưa đủ chứng minh cho họ là bạn đã đạt được giáo lý này. Bạn còn là phàm nhân, còn nhiều tham, sân, si. Nên bố thí Pháp không đạt nhiều kết quả, mà lại làm trể nải thêm đường tu.
Chuyên tâm nhứt niệm một lòng.- Nhứt niệm nói ở đây là nhứt tâm. Ngoài đời chúng ta thường nghe Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh. Có được một nghề để nuôi thân rồi, thì đừng đòi hỏi cao hơn nửa. Giữ lấy nó, làm lâu ngày, có kinh nghiệm, cần tinh xảo. Thì có quy tín, tất nhiên có khách hàng.
Nói thêm! Thí dụ như chúng ta ở xứ người, trong cơn hoạn nạn không tiền bạc, thì ta có cái nghề, đem ra xử dụng, cũng đở cực thân hơn người vô nghề nghiệp.
Trong đạo lý cũng vậy. Khi ta Niệm Phật thuần, chỉ nhớ lục tự Hồng Danh, đi đứng nằm ngồi luôn luôn niệm. Từ từ thành thói quen, Từ thói quen sẽ thấm từ từ vào tâm thức (thức thứ 8 trong Duy Thức Tôn). Cã lúc ngũ mơ cũng thấy mình Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Rồi ánh sáng Phật, Pháp, Tăng, tìm ẩn trong tâm thức, sẽ phá tan màng vô minh (Tham, Sân, Si).
Là Từ Nhơn ngã tâm tiến tới Chơn ngã tâm. Kiến tánh thành Phật, Vãng sanh tịnh độ, cỏi A Di Đà. “Chỉ đây là thí dụ! Tôi cũng như các bạn chỉ là người đang học. Cái gì không biết không dám nói.”
Khéo chi phương tiện, luận bàn vô công. - Kết luận lại khi chúng ta làm một việc tốt, trong gia đình, bà con, lối xóm đều biết. Rồi sẽ bắc chước theo. Là phương tiện bằng hành động chính mình.
Trong đạo gọi là không nói, mà nói. (Chơn ngã vô tự kinh). Thí dụ: Người đã vãng sanh, để lại xá lợi tử. Khi chúng ta thấy được, sanh tâm thiện, muốn tu. Chính đó là phương tiện tự sanh. Ý câu này là vậy.
Bài văn 2
Phật pháp vô biên tập luận bàn.
Bớt đi độc đoán sáng hơn thêm.
Chuyên tâm học đạo, dưỡng tâm.
Trí càng thêm sáng, tâm càng thêm trong.
#
Phật pháp vô biên khó diển bày.
Khéo tìm phương tiện dắt chúng sanh.
Trì công gắng sức một lòng.
Đức dày Phật giúp vẹn toàn giác tha.
@DL
Bài văn này khuyên ta luận bàn, và nên dùng phương tiện!
Trong bốn câu đầu diễn tả là: Câu 1. Người mới vào cửa, nên cần phải học, suy nghĩ và luận bàn cho thông suốt giáo lý.
Câu 2. Khi người còn vô minh (chưa hiểu thiện ác, chánh tà) cái ta của họ là độc ngã, độc tôn.
Câu 3 và 4. Học đạo là để tu tâm, dưỡng tánh.
Câu 5 và 6 Giáo lý Phật rộng sâu vô cùng tận, Nên cần giúp chúng sanh. Như cho người đi trong đêm, cầm đuốt, mồi lửa, ta cũng đâu mất lửa đi.
Câu 7 và 8 Chuyên tâm hành thiện, sẽ tạo thêm phước đức. Phật tại tâm, giúp người chính giúp mình. Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Là vậy.
Câu hán nho 3
Tri giả bất ngôn-Ngôn giả bất tri!
@VnTubi
Tri giả bất ngôn! – Là người có trí tuệ, biết rành giáo lý, thì không dùng ngôn từ luận bàn. Càng luận sẽ càng sai. Người có trí sẽ dùng phương tiện bằng hành động học được, chứng được.
Ngôn giả bất tri! – Là người nói nhiều, cái gì cũng biết, cũng luận bàn. Nhưng thực hành lại không làm được. Bất tri là không có trí tuệ.
Ý nghĩa câu này, luận bàn không đúng, không luận bàn cũng không đúng. Vì Pháp chỉ có một vị mặn. Là đoạn trừ đau khổ. Người nào có tuệ giác, thì người đó tự hiểu thôi. Văn từ, luận bàn, là trí thế gian.
Kinh này đem ra bàn luận rất đúng. Cho người mới bắc đầu học pháp. Vì muốn biết, phải học, học xong cần phải xuy nghĩ, xuy nghĩ xong, phải đem ra thực hành vào đời sống, hàng ngày. Là bài văn 2.
Kinh này không đem ra bàn luận rất đúng. Cho người đã học và đang thực hiện pháp. Hiểu và áp dụng vào đời sống hàng ngày. Cũng chưa đủ, cần phải kiên trì thiền định (Huân Tu). Tự đoạn trừ đau khổ. Là bài văn 1.
Tóm lại:
Chúng ta là người mới học đạo thì phải càng nên tránh tranh chấp luận bàn thì ta mới mau chóng tiến tới hữu vi niết bàn (tìm vui, đoạn khổ).
Khi chúng ta phải bắc buộc luận bàn, khuyên nhủ, thuyết tháp hay vấn đáp ai. Hãy nên..
1. Xem lại truyện đạo: Người mù rờ voi.
2. Phật học Phổ Thông: Khóa hai bài thứ 8. Tinh thần Tứ Nhiếp Pháp. Là Bố thí nhiếp, ái ngữ nhiếp, lợi hành nhiếp và đồng sự nhiếp.
3. Phật học Phổ thông: Khóa hai bài thứ 9. Tinh thần Lục hòa. Là Thân hòa đồng trú (ở), Lời nói hòa đồng (không cao thấp, sĩ nhục, to tiếng, ngã kiến), Ý hòa cùng vui, Giới hòa đồng tu, Kiến hòa đồng giải, lợi hòa đồng quân.
4. Khế lý, Khế cơ.
5. Chánh Báo, Y Báo.
6. Nghĩa Pháp Từ Thuyết cần thông suốt, có thứ tự.
Ý nghĩa của chủ đề?
Cư sĩ:
Cố đuổi theo điều nên xa lánh,
Việc đáng theo mà tránh chuyên-cần;
Bỏ mục-tiêu, lại gần dục-lạc,
Để rồi ganh-tị bực chuyên-tu.
(Kệ số 209.)
-----------------------
Nầy A-tu-la, nên biết rõ,
Chẳng phải chỉ ngày nay mới có,
Tự ngàn xưa, việc đó cũng thường:
Họ chê người nín thinh,
Họ khinh kẻ lắm lời,
Nói vừa vừa cũng trách.
Thế-gian, chẳng có cách nào tìm được
Người chưa hề phải rước lấy lời chê.
(Kệ số 227.)
Từ xưa cho đến nay,
Mãi đến tận sau nầy,
Chưa hề có những ai
Hoặc hoàn-toàn bị chê-bai,
Hoặc trọn-vẹn được khen-ngợi.
(Kệ số 228.)
Ngày qua ngày, nhận xét rõ,
Người trí mới khen vị đó.
Đời sống chẳng tí vết nhơ,
Cả giới, định, huệ đều có.
(Kệ số 229.)
Ai dám khinh-chê vị ấy
Hạnh sáng tỏ tợ vàng ròng.
Các bực Trời khen hết lòng,
Cả đức Phạm-Thiên cũng vậy.
(Kệ số 230.)
Dịch giả Thiện Nhựt:
Ý nghĩa của bài kệ?
Lời hay ý đẹp?
I. Thêm chi tiết:
Kính gởi Thầy, Cô, Admin, và các bạn hữu.
1. Để đem lại sự lợi ích chung cho diễn đàn và các Phật tử tại gia nói riêng, thỉng cầu quí vị tra xét, phê bình, kiểm chứng các chi tiết sai lầm.
Như là: Sai tiêu đề, chủ đề, kết luận, văn từ đạo/đời, chánh tả.v.v.
2. Giải đáp, bình luận các quyết nghi “Giáo lý học” theo chuyện đời.
3. Giải đáp, luận bàn, vấn đáp các quyết nghi “Giáo lý học” theo chuyện đạo.
II. Ý nghĩa học hỏi:
Thứ nhứt cho người mới.
Thứ hai ôn lại bài,
Thứ ba thêm kiến thức,
Thứ tư học kinh nghiệm.
Thứ năm ứng-dụng đời/đạo.
III. Mục đích thực dụng:
Năng cao đời sống cộng đồng. Và Giáo lý Phật-giáo nói riêng.
IV. Nhớ nhớ:
Bạn tôi nhắn nhủ đôi điều,
Cho người mới học đặng ngay hiểu nhiều.
Trước là Phật Học Phổ Thông,
Sau là Pháp Cú làu thông,thuộc lòng.
Thông này chẳng hiểu liền ngay.
Hai mươi tiểu luận đọc ngay hiểu liền.
Thân ái. TN
http://sites.google.com/site/layphat/
Luận bàn kiến học bằng trí thức, bên hàng cư sĩ Tịnh độ thì không được tốt. Vì muốn minh tâm, phải thực hành theo Tín Hạnh Nguyện.
Bên hàng cư sĩ Thiền tông luận bàn phá chấp lại là dao hai lưỡi. Vì ta còn tâm nhơn ngã, kiến thức so sánh, cao thấp của thế gian. (là người mới nhập môn, Nội ngoại pháp hữu vi chưa thông suốt, Thiền định còn thấp chưa phát sanh tuệ giác) Nhẹ thì bịnh trầm cảm, bỏ đạo, nặng thì sa vào địa ngục vì sự phá chấp sai lầm, vì không có thiện căn.
Luận bàn: Là ý kiến cá nhân của một người, hay của một nhóm người. Khi chưa thành lập làm một, hay thống nhất. Còn gọi là hợp, hội, phát biểu ý kiến hay giã thuyết.v.v.
Cũng gần cùng nghĩa tương tự như: Thuyết Pháp, Vấn đáp.
Luận Bàn giống như con dao hai lưỡi, là chiến tranh lạnh hay đấu võ miệng.
Kết quả: Chiến thắng mang thù hận, thấp bại chịu khổ đau. Vì
Cái đúng, tốt thì sẽ đúng, tốt hơn (trở thành hiệp, hội, đạo.v.v.).
Còn sai, xấu thì sẽ xấu hơn. (Xã hội sẽ mục nát vì thiếu văn hóa, đạo đức, người sẽ khổ sở hơn vì cái cố chấp, bảo thủ, cuồng loạn đó).
Sách sử đã ghi chép lại nhiều trung thần chỉ vì khuyên vua mà bỏ mạng.
Những văn sĩ cải cách đất nước mà thành thân bại, danh liệt.
Chính vì không cân bằng được Khế lý, Khế cơ. Cùng Chánh Báo, Y Báo.
Luận bàn có lợi ích!
Thứ nhứt cho người mới học.
Thứ hai vì muốn ôn lại bài,
Thứ ba học hỏi thêm kiến thức,
Thứ tư là học lại kinh nghiệm.
Thứ năm áp dụng vào đời sống hàng ngày.
Luận bàn không lợi ích!
Luận bàn trong 4 đều căn bản: Thuận luận khác ý. Nghịch luận khác ý. Thuận luận cùng ý. Nghịch luận cùng ý.
1. Thuận luận khác ý! – Thí dụ trong một hiệp hội cứu trợ nhân đạo, Nhân viên, ban đều hành. Thảo luận, ban hành ra nhiều cách hợp tình, hợp lý. Nhưng người không đủ thiện căn, đạo đức. Khi thấy lợi thì làm nghịch lại với ban đều hành (là khác ý).
2. Nghịch luận khác ý!- Chúng ta hãy xem phim, hay trong báo thử những hạn người này là ai?
Và thông thường nhất trong viển đàn. Hay khác tông phái, hoặc khác đạo.v.v.
3. Thuận luận cùng ý! – Thí dụ: Cha mẹ dạy con, thầy dạy trò, chồng dạy vợ, anh dạy em. Vì người dạy cũng như người nghe biết theo chánh Pháp theo Khế Lý, khế Cơ. Có Chánh Báo, Y Báo. Và thông thường người theo Tịnh độ tông.
4. Nghịch luận cùng ý! – Thí dụ: Cùng một dân tộc, cùng một gia đình thì binh vực lẩn nhau,
Hoặc cùng một đạo Phật mà chia ra Nam Tông, Bắc Tông; Đại thừa, tiểu thừa. Nhưng cùng chung tạo đoàn kết, cùng ý đoạn khổ, lìa ái. Nhưng hành động có nghịch duyên khác nhau.
Xem những thí dụ dưới đây.
Bài văn 1:
Phật pháp vô biên không thể luận bàn!
Khéo dùng phương tiện, lại càng khó thêm.
Chuyên tâm nhứt niệm một lòng.
Khéo chi phương tiện, luận bàn vô công.
@ Quản Hòa.
Bài văn này khuyên ta đừng nên luận bàn! Và đừng nên dùng phương tiện!
Phật pháp vô biên không thể luận bàn! – Phật thuyết, Pháp ta chỉ có một vị là đoạn trừ đau khổ.
Nhưng các kinh điển viết có hơn tới tám vạn bốn ngàn Pháp. Nếu kinh nào chúng ta cũng học, cũng luận bàn. Có thể trở thành một giảng sư pháp. Nhưng cũng không bằng một hành Pháp (Thiền định).
Lời nhận xét của Sư cô Thích Nữ Tuệ Nhi.
Bằng chứng có nhiều người chuyên thuần Niệm Lục tự Di Đà. Cũng tới giác ngộ viên thông. Và được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc. Vậy học giáo lý là để thực hành, không phải đem ra bàn sẽ làm trở ngại đường tu. “là vậy”.
Khéo dùng phương tiện, lại càng khó thêm. – Là cách thức, hình thức, phương pháp. Thí dụ như cho tiền họ, cho kinh họ đọc, rồi nhắc nhở họ học theo ta. Nhưng khó là họ không giống cùng ý nghĩ như ta! Lại nữa họ chưa từng học abc (Vô minh), ta khuyên họ nên đi lấy bằng bác sĩ (quang minh) Họ không làm được, ngược lại cho ta là người cuồng đạo.
Bởi gì chúng ta chưa đủ tài đức để dùng phương tiện Bố thí Pháp.v.v. cái thứ hai chưa đủ chứng minh cho họ là bạn đã đạt được giáo lý này. Bạn còn là phàm nhân, còn nhiều tham, sân, si. Nên bố thí Pháp không đạt nhiều kết quả, mà lại làm trể nải thêm đường tu.
Chuyên tâm nhứt niệm một lòng.- Nhứt niệm nói ở đây là nhứt tâm. Ngoài đời chúng ta thường nghe Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh. Có được một nghề để nuôi thân rồi, thì đừng đòi hỏi cao hơn nửa. Giữ lấy nó, làm lâu ngày, có kinh nghiệm, cần tinh xảo. Thì có quy tín, tất nhiên có khách hàng.
Nói thêm! Thí dụ như chúng ta ở xứ người, trong cơn hoạn nạn không tiền bạc, thì ta có cái nghề, đem ra xử dụng, cũng đở cực thân hơn người vô nghề nghiệp.
Trong đạo lý cũng vậy. Khi ta Niệm Phật thuần, chỉ nhớ lục tự Hồng Danh, đi đứng nằm ngồi luôn luôn niệm. Từ từ thành thói quen, Từ thói quen sẽ thấm từ từ vào tâm thức (thức thứ 8 trong Duy Thức Tôn). Cã lúc ngũ mơ cũng thấy mình Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Rồi ánh sáng Phật, Pháp, Tăng, tìm ẩn trong tâm thức, sẽ phá tan màng vô minh (Tham, Sân, Si).
Là Từ Nhơn ngã tâm tiến tới Chơn ngã tâm. Kiến tánh thành Phật, Vãng sanh tịnh độ, cỏi A Di Đà. “Chỉ đây là thí dụ! Tôi cũng như các bạn chỉ là người đang học. Cái gì không biết không dám nói.”
Khéo chi phương tiện, luận bàn vô công. - Kết luận lại khi chúng ta làm một việc tốt, trong gia đình, bà con, lối xóm đều biết. Rồi sẽ bắc chước theo. Là phương tiện bằng hành động chính mình.
Trong đạo gọi là không nói, mà nói. (Chơn ngã vô tự kinh). Thí dụ: Người đã vãng sanh, để lại xá lợi tử. Khi chúng ta thấy được, sanh tâm thiện, muốn tu. Chính đó là phương tiện tự sanh. Ý câu này là vậy.
Bài văn 2
Phật pháp vô biên tập luận bàn.
Bớt đi độc đoán sáng hơn thêm.
Chuyên tâm học đạo, dưỡng tâm.
Trí càng thêm sáng, tâm càng thêm trong.
#
Phật pháp vô biên khó diển bày.
Khéo tìm phương tiện dắt chúng sanh.
Trì công gắng sức một lòng.
Đức dày Phật giúp vẹn toàn giác tha.
@DL
Bài văn này khuyên ta luận bàn, và nên dùng phương tiện!
Trong bốn câu đầu diễn tả là: Câu 1. Người mới vào cửa, nên cần phải học, suy nghĩ và luận bàn cho thông suốt giáo lý.
Câu 2. Khi người còn vô minh (chưa hiểu thiện ác, chánh tà) cái ta của họ là độc ngã, độc tôn.
Câu 3 và 4. Học đạo là để tu tâm, dưỡng tánh.
Câu 5 và 6 Giáo lý Phật rộng sâu vô cùng tận, Nên cần giúp chúng sanh. Như cho người đi trong đêm, cầm đuốt, mồi lửa, ta cũng đâu mất lửa đi.
Câu 7 và 8 Chuyên tâm hành thiện, sẽ tạo thêm phước đức. Phật tại tâm, giúp người chính giúp mình. Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Là vậy.
Câu hán nho 3
Tri giả bất ngôn-Ngôn giả bất tri!
@VnTubi
Tri giả bất ngôn! – Là người có trí tuệ, biết rành giáo lý, thì không dùng ngôn từ luận bàn. Càng luận sẽ càng sai. Người có trí sẽ dùng phương tiện bằng hành động học được, chứng được.
Ngôn giả bất tri! – Là người nói nhiều, cái gì cũng biết, cũng luận bàn. Nhưng thực hành lại không làm được. Bất tri là không có trí tuệ.
Ý nghĩa câu này, luận bàn không đúng, không luận bàn cũng không đúng. Vì Pháp chỉ có một vị mặn. Là đoạn trừ đau khổ. Người nào có tuệ giác, thì người đó tự hiểu thôi. Văn từ, luận bàn, là trí thế gian.
Kinh này đem ra bàn luận rất đúng. Cho người mới bắc đầu học pháp. Vì muốn biết, phải học, học xong cần phải xuy nghĩ, xuy nghĩ xong, phải đem ra thực hành vào đời sống, hàng ngày. Là bài văn 2.
Kinh này không đem ra bàn luận rất đúng. Cho người đã học và đang thực hiện pháp. Hiểu và áp dụng vào đời sống hàng ngày. Cũng chưa đủ, cần phải kiên trì thiền định (Huân Tu). Tự đoạn trừ đau khổ. Là bài văn 1.
Tóm lại:
Chúng ta là người mới học đạo thì phải càng nên tránh tranh chấp luận bàn thì ta mới mau chóng tiến tới hữu vi niết bàn (tìm vui, đoạn khổ).
Khi chúng ta phải bắc buộc luận bàn, khuyên nhủ, thuyết tháp hay vấn đáp ai. Hãy nên..
1. Xem lại truyện đạo: Người mù rờ voi.
2. Phật học Phổ Thông: Khóa hai bài thứ 8. Tinh thần Tứ Nhiếp Pháp. Là Bố thí nhiếp, ái ngữ nhiếp, lợi hành nhiếp và đồng sự nhiếp.
3. Phật học Phổ thông: Khóa hai bài thứ 9. Tinh thần Lục hòa. Là Thân hòa đồng trú (ở), Lời nói hòa đồng (không cao thấp, sĩ nhục, to tiếng, ngã kiến), Ý hòa cùng vui, Giới hòa đồng tu, Kiến hòa đồng giải, lợi hòa đồng quân.
4. Khế lý, Khế cơ.
5. Chánh Báo, Y Báo.
6. Nghĩa Pháp Từ Thuyết cần thông suốt, có thứ tự.
Ý nghĩa của chủ đề?
Cư sĩ:
Cố đuổi theo điều nên xa lánh,
Việc đáng theo mà tránh chuyên-cần;
Bỏ mục-tiêu, lại gần dục-lạc,
Để rồi ganh-tị bực chuyên-tu.
(Kệ số 209.)
-----------------------
Nầy A-tu-la, nên biết rõ,
Chẳng phải chỉ ngày nay mới có,
Tự ngàn xưa, việc đó cũng thường:
Họ chê người nín thinh,
Họ khinh kẻ lắm lời,
Nói vừa vừa cũng trách.
Thế-gian, chẳng có cách nào tìm được
Người chưa hề phải rước lấy lời chê.
(Kệ số 227.)
Từ xưa cho đến nay,
Mãi đến tận sau nầy,
Chưa hề có những ai
Hoặc hoàn-toàn bị chê-bai,
Hoặc trọn-vẹn được khen-ngợi.
(Kệ số 228.)
Ngày qua ngày, nhận xét rõ,
Người trí mới khen vị đó.
Đời sống chẳng tí vết nhơ,
Cả giới, định, huệ đều có.
(Kệ số 229.)
Ai dám khinh-chê vị ấy
Hạnh sáng tỏ tợ vàng ròng.
Các bực Trời khen hết lòng,
Cả đức Phạm-Thiên cũng vậy.
(Kệ số 230.)
Dịch giả Thiện Nhựt:
Ý nghĩa của bài kệ?
Lời hay ý đẹp?
I. Thêm chi tiết:
Kính gởi Thầy, Cô, Admin, và các bạn hữu.
1. Để đem lại sự lợi ích chung cho diễn đàn và các Phật tử tại gia nói riêng, thỉng cầu quí vị tra xét, phê bình, kiểm chứng các chi tiết sai lầm.
Như là: Sai tiêu đề, chủ đề, kết luận, văn từ đạo/đời, chánh tả.v.v.
2. Giải đáp, bình luận các quyết nghi “Giáo lý học” theo chuyện đời.
3. Giải đáp, luận bàn, vấn đáp các quyết nghi “Giáo lý học” theo chuyện đạo.
II. Ý nghĩa học hỏi:
Thứ nhứt cho người mới.
Thứ hai ôn lại bài,
Thứ ba thêm kiến thức,
Thứ tư học kinh nghiệm.
Thứ năm ứng-dụng đời/đạo.
III. Mục đích thực dụng:
Năng cao đời sống cộng đồng. Và Giáo lý Phật-giáo nói riêng.
IV. Nhớ nhớ:
Bạn tôi nhắn nhủ đôi điều,
Cho người mới học đặng ngay hiểu nhiều.
Trước là Phật Học Phổ Thông,
Sau là Pháp Cú làu thông,thuộc lòng.
Thông này chẳng hiểu liền ngay.
Hai mươi tiểu luận đọc ngay hiểu liền.
Thân ái. TN
http://sites.google.com/site/layphat/