yen-phuong đã viết:
Kính chào đh hlich
,
Không phải như vậy, thưa bạn . Bộ não thuộc về thân (không phải về tâm). Nói cách khác, bộ não thuộc Sắc Uẩn .
Tâm gồm có bốn uẩn còn lại (Thọ, Tưởng, Hành và Thức Uẩn) .
Bạn Hư Danh đã giải thích rất rõ ràng ngay tại post trên: "Thức" khác với "Ý" ra sao .
Kính,
YP
Chào bạn yen-phuong,
1. Cách phân chia "nhị nguyên" chia con người thành 2 thành phần riêng biệt là Thân (body) và Tâm (mind) được cái lợi là rõ ràng, tức là phân biệt được rạch ròi Thân là phần thuộc về vật chất và Tâm là phần thuộc về tinh thần (tức không phải vật chất).
Phật Thích Ca phân chia "con người" thành 5 uẩn là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức . Đối chiếu với sự phân chia thành Thân, Tâm (còn được gọi là Danh Sắc, Danh = Tâm, Sắc = Thân) nói ở trên ta sẽ có:
Thân = Sắc
Tâm = Thọ + Tưởng + Hành + Thức
Rõ ràng phải không ? Cũng đúng với ý của bạn yen-phuong viết ở trên phải không ?
2. Thế nhưng đối chiếu với đời sống thực tế thì sự phân chia này không hẳn đã hoàn toàn "ăn khớp" với những gì chúng ta cảm nhận trên thực tế . Lấy ngay cái thí dụ của bạn yen-phuong viết dưới đây:
yen-phuong đã viết:
Các đạo hữu thân mến,
Chúng ta cần phân biệt rõ ràng sự khác biệt giữa thân và tâm . Nếu không, chẳng bao giờ chúng ta có thể chứng nghiệm: "Thân bệnh, nhưng tâm không bệnh . Thân đau, nhưng tâm không đau ."
Mến,
YP
Giả sử chúng ta đau bệnh và thân chúng ta đau . Chúng ta nói:
"Thân đau". Điều này hoàn toàn chính xác và rất hợp lý với sự cảm nhận của ta trên thực tế . OK? Thế nhưng nếu so sánh với sự phân chia Thân/Tâm theo Ngũ Uẩn như viết ở bên trên thì khi nói rằng "Thân đau" trong trường hợp này có thực là chính xác không ? Là vì đau là một cảm giác (sensation) mà cảm giác thuộc về Thọ và Thọ thuộc về Tâm, cho nên để cho "chính xác" thì chẳng lẽ phải nói là ... "Tâm đau" ư ?
Nói như vậy đâu có được!
Bạn yen-phuong hiểu ý KKT chứ ?
3. Cho nên thay vì phân chia Thân/Tâm theo Ngũ Uẩn theo tỷ lệ 1/4 như ở trên thì có người phân chia Thân/Tâm theo tỷ lệ 1+1/2 / 3+1/2. Tức là Thọ sẽ được chia đôi và cho mỗi bên Thân/Tâm ... một nửa!
Là vì Thọ thì gồm có những cảm giác (sensation) được cảm nhận trên Thân thể và những cảm xúc, tình cảm (feeling, emotion) được cảm nhận trong Tâm thí dụ như thất tình chẳng hạn . Thất tình là hỷ (mừng), nộ (giận), ái (yêu), ố (ghét), ai (buồn), lạc (sướng), cụ (sợ hãi). Như vậy ta sẽ có:
Thân = Sắc + 1/2 Thọ (cảm giác)
Tâm = 1/2 Thọ (cảm xúc, tình cảm) + Tưởng + Hành + Thức
Phân chia như vậy thì vẫn có thể nói là "Thân đau" như trong thí dụ thân đau bịnh của bạn yen-phuong ở bên trên!
4. Tuy nhiên cách phân chia như vậy "khập khiễng" quá (cái gì mà 1+1/2, 3+1/2 !)
. Ngoài ra nó cũng chưa hoàn toàn chính xác nữa . Tức là những cảm xúc, tình cảm mà ta bảo là được cảm nhận trong Tâm có thực là hoàn toàn trong Tâm không ? Hay là chúng cũng có ở trên Thân ? Khi bạn cảm nhận một sự sợ hãi dữ dội phải chăng là tim bạn cũng đau vì hồi hộp ? Khi bạn nổi giận phải chăng máu cũng chảy nhanh trong huyết quản và người của bạn cũng nóng lên ? Rồi còn có những cách diễn tả như "dạ bồi hồi" và "buồn ... thúi ruột" nữa!
Cách phân chia trên còn làm mất đi sự khác biệt giữa Thân và Tâm vốn là chủ đích chính yếu của sự phân chia này . Phân chia con người thành Thân/Tâm vốn là để cho thấy sự đối lập rõ ràng giữa
vật chất với
tinh thần.
5. Ngày nay cách phân chia "nhị nguyên" chia con người thành 2 thành phần là Thân/Tâm ít còn được dùng . Là vì không có một ranh giới rõ rệt giữa Thân và Tâm . Sự hiểu biết rõ hơn về não bộ (mặc dầu chưa phải là nhiều) cho thấy có sự liên hệ của một số biểu hiện tâm thức với những khu vực chính xác nào đó của não bộ . Cho nên cách nhìn hay nhất là nhìn con người như một thực thể "trọn vẹn". Nếu có phân chia thành Thân/Tâm thì cũng chỉ là tạm dùng cho dễ hiểu trong việc trình bày một chủ đề nào đó liên quan đến Thân-Tâm chứ không mang nghĩa là có 2 thành phần Thân và Tâm khác biệt rạch ròi .
6. Chấp nhận nhìn con người như một thực thể "trọn vẹn" thì vẫn có một cách phân chia khác nữa . Cách phân chia này phân chia "con người" hay Ngũ Uẩn thành 2 nhóm: một nhóm là Thức và nhóm kia là Sắc + Thọ + Tưởng + Hành . Nếu giải nghĩa rõ hơn thì là thế này: một bên là Thức là
chủ thể và một bên là (Sắc + Thọ + Tưởng + Hành) là
đối tượng của Thức . Nếu giải thích "ví von" thì Thức như tấm gương và (Sắc + Thọ + Tưởng + Hành) như những hình ảnh hiện trên gương . Giải thích này tuy "ví von" nhưng sẽ trở thành "nghĩa đen" thật sự một khi ta hiểu rõ Thức là gì . Thật vậy, Thức chính là một
"tấm gương"!
Mục đích của sự phân chia này là muốn nhấn mạnh đến
sự quan trọng của vai trò của Thức . Thức đứng riêng biệt hẳn ra, không cùng một "loại" (tạm dùng chữ này!
) với 4 uẩn kia . Tức là vai trò của 2 bên khác hẳn nhau!
7. Khi Phật Thích Ca phân chia "con người" thành 5 uẩn là Sắc + Thọ + Tưởng + Hành + Thức thì không thấy Phật có ý nhấn mạnh đến một uẩn nào . Nghĩa là cả 5 uẩn dường như đều "ngang hàng" với nhau .
Thế nhưng các thế hệ đệ tử sau đó dường như bắt đầu nhìn thấy sự quan trọng của Thức khi họ bắt đầu nhìn sâu hơn vào sự cấu tạo của "con người". Ngũ Uẩn khi đó được phân chia chi tiết hơn . Sự phân chia chi tiết này chính là nội dung của Tạng Luận hay là Abhidhamma (Vi Diệu Pháp hay A Tỳ Đàm Luận). Thức bây giờ được gọi là Tâm (hay Tâm Vương) và Thọ + Tưởng + Hành được chia thành 52 Tâm Sở ("sở hữu" của Tâm hay "các trạng thái thuộc Tâm"). Vai trò "quan trọng" của Thức bắt đầu được thấy rõ qua ý nghĩa của các tên gọi Tâm Vương và Tâm Sở này . Thức bây giờ bắt đầu được coi là ... vua!
Cũng cần nói ngay ở đây là Abhidhamma không phải là lời dạy của Phật Thích Ca . Mặc dầu truyền thống Theravada thường nói rằng Abhidhamma là lời dạy của Phật Thích Ca khi Phật lên cõi Trời Đao Lợi trong 3 tháng thuyết pháp cho thân mẫu và do ông Xá Lợi Phất ghi lại . Thế nhưng nếu so sánh những Abhidhamma của các tông phái "Tiểu Thừa" thì thấy khác nhau . Ví dụ như phái Theravada (Thượng Tọa Bộ) liệt kê ra 52 Tâm Sở như nói ở trên, phái Sarvastivada (Nhất Thiết Hữu Bộ) 46 Tâm Sở, phái Sautrantika (Kinh Lượng Bộ) 49 tâm Sở . Sự khác biệt này chứng tỏ rằng Abhidhamma không phải là do Phật Thích Ca thuyết! Nếu do Phật Thích Ca thuyết thì các Abhidhamma phải thống nhất giống nhau chứ! Giống như các Kinh Nikaya (của Theravada) có nội dung cũng giống với các Kinh A Hàm (của Sarvastivada). Cho nên Tạng Kinh thì đúng là lời Phật Thích Ca thuyết mà Tạng Luận (Abhidhamma) thì không!
8. Sang đến Đại Thừa thì có Duy Thức Học . Duy Thức Học chia Thức thành 8 Tâm Vương và số Tâm Sở là 51. Trong số 8 Tâm Vương này thì ngoài 6 Thức đầu tương ứng với 6 Căn thì có Thức thứ 7 là Mạt Na Thức . Mạt Na Thức chính là cái Ngã đang được bàn luận trong các chủ đề Ngã/Vô Ngã . Ở Abhidhamma thì cái chấp Ngã này chỉ là một Tâm Sở nhưng sang đến Đại Thừa thì Duy Thức Học đưa cái chấp Ngã này lên thành một Tâm Vương . Điều này cho thấy Duy Thức Học nhìn thấy sự quan trọng của cái chấp Ngã này . Mạt Na Thức có 4 đặc tính sau đây cho thấy rõ tính cách căn bản của nó là chấp Ngã: ngã si, ngã kiến, ngã mạn và ngã ái .
Thức thứ 8 là A Lại Da Thức (hay Tàng Thức) là một phát minh mới của Duy Thức Học . Thức này được lập ra có lẽ là để giải quyết cái vấn đề "lấn cấn" ở Nguyên Thủy . Đó là 5 uẩn của một người cùng diệt khi người này chết . Thế nhưng người này lại tiếp tục luân hồi tức là sẽ mang một Thân-Tâm (hay Ngũ Uẩn) mới . Cái "lấn cấn" là ở chỗ khoảng giữa khi người này chết và lúc sinh ra một thân mới thì ... có gì không ?
Đã đành rằng Nguyên Thủy giải thích là Nghiệp của người đó đi luân hồi . Thế nhưng nếu khoảng giữa lúc chết và lúc sinh ra thân mới là ... khoảng trống thì làm sao cắt nghĩa Nghiệp đi luân hồi ra làm sao ? Ở chỗ này thì Duy Thức nhảy vào giải quyết và bảo rằng A Lại Da Thức chính là giải đáp . A Lại Da Thức chính là cái "kho" (tàng thức!) chứa Nghiệp của cá nhân dưới dạng các chủng tử (seeds). A Lại Da Thức của một cá nhân không "chết" khi cá nhân đó chết mà "liên tục" từ kiếp này sang kiếp khác . Cái thân mới mà cá nhân đó sinh ra chính là quả của các chủng tử Nghiệp đã chín mùi của cá nhân đó trong A Lại Da Thức hiện hành ra thành cái thân mới! Như vậy là vấn đề "lấn cấn" trên được giải quyết!
Thế nhưng Duy Thức cũng nói rằng A Lại Da Thức rất là sâu kín nên phàm phu không thể nào biết được! Nếu phàm phu chúng ta không thể nào biết được A Lại Da Thức thì nếu chúng ta có nói thêm gì ở đây về A Lại Da Thức thì cũng chỉ là ... suy đoán và bàn loạn thôi!
9. Một điểm đáng chú ý ở đây là Duy Thức bảo rằng khi một cá nhân đắc đạo thì Thức của người này biến thành Trí . Chính xác là 8 Thức (hay 8 Tâm Vương) biến thành 4 Trí (Tứ Trí). Trí ở đây chính là Thức, Thức của người đắc đạo! Thức này không còn giống với Thức của phàm phu . Và như vậy thì người đắc đạo nhìn sự vật không còn giống với phàm phu nhìn sự vật . Người đắc đạo nhìn sự vật qua Thức của họ (tức là Thức = Trí) không còn giống với phàm phu nhìn sự vật qua Thức của phàm phu . Theo danh từ chuyên môn thì người đắc đạo nhìn thấy
Ngã Không và
Pháp Không. Chúng ta phải làm quen với khái niệm rằng người đắc đạo không còn giống với phàm phu . Đứng từ vị trí phàm phu mà nhìn thì người đắc đạo như một hình thức "siêu nhân"! Siêu nhân là vì họ có nhiều khả năng và quyền năng mới . Người đắc đạo có Tam Minh, Lục Thông, Tam Thân, Tứ Trí . Tam Minh, Lục Thông, Tam Thân chính là những quyền năng và khả năng mới của người đắc đạo . Còn Tứ Trí chính là Thức (mới) của người đắc đạo!
Trước khi muốn biết Thức (mới) của người đắc đạo ra làm sao thì chúng ta cần phải biết cái Thức ... phàm phu của chúng ta là gì ?
Vì lẽ Thức chính là đề tài của cái chủ đề này! Và như KKT đã lập lại nhiều lần: để tránh mất thì giờ và công sức thì chúng ta nên "trở về căn bản" tức trở về xem lại xem Phật Thích Ca giải nghĩa Thức như thế nào trong các Kinh Nikaya và A Hàm .
Phật Thích Ca giải nghĩa Thức như thế nào ? (hãy đọc tiếp bài viết bên dưới đây của KKT)