"Lâm Nghĩa"]
Niệm Phật đạt đến nhất tâm bất loạn chắc chắn vãng sanh, vì lúc đó tâm tịnh sẽ cảm được Phật, thấy cõi Cực Lạc. Người niệm Phật cần đạt đến trạng thái đó mới có thể Thượng phẩm thượng sanh. Hoa nở thấy Phật. Còn nói về nghiệp lực tạo lúc sanh tiền mà đến lúc lâm chung niệm Phật để giải nghiệp là có, nhưng rất khó. Đó cũng là nương nơi nguyện Phật A Di Đà. Vô lượng kiếp họ gieo căn lành rồi, nên nay mới được trợ duyên đắc lực như thế.
Chẳng hiểu Nghiệp Lực và Đạo Lực là gì cả.
Nghiệp Lực tôi nói ở đây là cái tâm phan duyên hay bám cảnh trần suy nghĩ phân biệt lung tung, cũng còn gọi là Ý Thức. Chính do ý thức tối ngày Phân Biệt Chấp Trước nên tào thành dòng Samsara (Luân hồi), thức tuôn chảy không thôi từ vô thủy đến nay không dừng được nên mới thành một cái lực mạnh mẽ nhại bén, không cần học mà ý thức cũng phân biệt được. Hể đưa lên cái ly thì phân biệt cái ly, đưa cô gái hay anh chàng trai liền phân biệt ngay rất tự nhiên và nhại bén. Đó chính là nghiệp lực. Nghiệp lực như dòng thác đổ không ngừng.
Đạo Lực là công phu tu hành của mình để xóa tan ý thức hưng khởi phân biệt chấp trước. Đạo Lực mà thắng nghiệp lực tức là công phu tu hành miên mật không gián đoạn, ý thức không có chỗ xen vào để khởi phân biệt chấp trước, tới đây chẳng cần khởi nghi tình mà nghi tình cũng tự có, muốn bỏ cũng bỏ không được. Vì tới đây đạo lực mạnh rồi, ý thức dường như yếu hẳng không còn hưng khởi. Khi đến thời tiết nhân duyên thì tự nhiên một tiếng ve kêu cũng làm cho người ta triệt ngộ, vỡ thùng sơn đen, hay vỡ nghi tình.
Thành ra muốn dùng phương pháp nào thì dùng miễn là đập nát ý thức và mạt na thức thì mới minh tâm kiến tánh giác ngộ giải thoát được. Nhưng nên nhớ chỉ có phương pháp nào đập nát ý thức thì mới được. Còn phương pháp nào mà cứ dùng ý thức, và ý thức không bao giờ chết được thì phương pháp đó không thể đưa đến giác ngộ giải thoát.
Trì Danh Phật Hiệu là phương pháp dung ý thức mà niệm, tức là lấy danh hiệu để buộc ý thức lại, nhưng chính ý thức vẫn còn sống vì ý thức vẫn là Năng Niệm, cái danh tên của Phật là sở niệm. Đấy chính là chỗ tôi thường nói
"muốn tránh cái bóng mà đứng giữa mặt trời". Không bao giờ giác ngộ giải thoát được. Chẳng qua chỉ là đem nhiều niệm, nhiếp lại chỉ còn một niệm A Di Đà Phật mà thôi. Đây thiền tông gọi là "nhất niệm vô minh". Đâu có giải thoát được.
Muốn tịnh tâm, mà niệm niệm không dừng thì làm sao mà tịnh tâm được! Thế thì làm sao có Tịnh Độ được! Bởi Kinh nói
"Muốn được Tịnh Độ phải Tịnh Tâm mình. Tùy theo tâm mình tịnh mà quốc độ tịnh."
Thiền tông là phải vượt qua Nhất Niệm Vô Minh, rồi kế vượt qua Vô Thủy Vô Minh, rồi đến đầu sào trăm thước, rồi nhảy qua chết đi sống lại (sát na lìa ý thức) mới gọi là Minh Tâm Kiến Tánh.
Trì danh thì bị kẹt mãi ở Nhất Niệm Vô Minh, không bao giờ giải thoát được. Tổ gọi là "Ngập nước chết".
Do vậy chư Tổ Thiền Tông đã Minh Tâm Kiến Tánh thấy người trì danh lầm lạc kẹt nơi chỗ ấy bèn dạy tham câu "Ai Đang Niệm Phật?" để cho người được thoát nước chết, trực thẳng tự tâm, minh tâm kiến tánh.
Bởi không hiểu ý Kinh A Di Đà dạy nên bài ra pháp Trì Danh cho là dễ, mà đâu phải thật dễ. Phải câu phật hiệu miên mật tuần hoàn không kẻ hở thì mới được. Mà dù làm được thế thì cũng còn gọi là Nhất Niệm Vô Minh, không thể giác ngộ giải thoát. Chỉ uổng công nhọc sức mà thôi.
Nếu hiểu Ý Kinh A Di Đà thật sự thì phải tu Thật Tướng Niệm Phật. Cái gì là Thật Tướng Niệm Phật? Tức là Niệm Vô Niệm.
Tôi sẽ nói về
"Nhất Tâm Bất Loạn" sau. Nhiều người cũng hiểu lầm rằng "câu niệm phật có trong tâm miên mật không kẻ hở đó là nhất tâm bất loạn". Đó là sai lầm.
Như Đức Lục Tổ, chẳng phải chỉ cần nghe qua câu: "Ưng vô sở trụ, nhi sanh kì tâm" thì liền khai ngộ đó sao ? Đó không phải do nhân duyên phước đức đời trước thì là gì ? Chẳng phải ngài Sùng Tín vừa thổi tắt nến, ngài Đức Sơn Tuyên Giám đại ngộ đó sao ? Không phải tu từ đời trước thì là gì ? Bây giờ cho dù có đem bao nhiêu lời nói, bao nhiêu cú nghĩa ra mà giải bày cũng vô ích. Vì đó là nguyện lực của Phật Di Đà, nguyện thứ 18 Phật đã nói rất rõ rồi, muốn cãi cũng không được.
Ngài Đức Sơn vốn là người giỏi về Giáo Môn, có sớ giải Kinh Kim Cang, nghe ngài Long Đàm Sùng Tín ở phương nam giảng về thuyết
"Trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật, chẳng cần 3 đại a tăng kỳ kiếp", vì ngài Đức Sơn học theo Giáo Môn, mà giáo môn thì nói phải trải qua 3 đại a tăng kỳ kiếp mới thành Phật, nhưng ngài chỉ hiểu theo trên danh từ, không hiểu ý nghĩa (Kinh nói ba đại a tăng kỳ kiếp nghĩa là phải trải qua nhiều ý thức vọng tưởng, hết sạch ý thức nhiều vô số đó mới thành Phật) ngài Đức Sơn mang cái thúng đựng kinh Kim Cang định đi tranh luận cùng ngài Long Đàm. Nhưng tới chân núi bị bà lão bán quán hỏi một câu trong Kinh Kim Cang mà ngài Đức Sơn đáp không được. Bởi Phật Pháp đâu thể dùng thức mà hiểu được. Dùng thức thì chẳng đến được Pháp Thân Phật Tánh. Nên ngài Đức Sơn không thể trả lời. Bèn đến tham vấn ngài Long Đàm. Tu hành ở đó vài năm miên mật, nhân duyên đến, ngài Long Đàm thỏi đèn mới giác ngộ, vỡ nghi tình.
Vậy thì chính ngài Đức Sơn cũng phải dụng công miên mật tham thiền mới giác ngộ giải thoát được, học một mớ kinh, giải được thật hay cũng đâu có ý nghĩa gì, đâu thể giác ngộ giải thoát.
Phước đức nhiều có nghĩa là công phu tham thiền miên mật nhiều. Chứ không phải phước đức là theo cái kiểu bố thí tiền cúng chùa vv... đâu.
Bởi làm thiện cúng chùa bố thí v.v... đó là gieo cái nhân hữu lậu để được quả hữu lậu giả tạm đời sau.
Còn tham thiền là gieo cái nhân vô lậu giải thoát, thì được cái quả giác ngộ giải thoát về sau.
Không có gieo nhân vô lậu mà đòi quả vô lậu thì không thể được. Cũng thế người gieo nhân vô lậu mà cho rằng họ sẽ được quả hữu lậu về sau là không đúng. Bởi không hiểu lẽ nầy người tịnh độ hay nói càng bậy rằng do tu thiền đời nầy không ngộ đạo, cái đời sau chỉ được quả tốt, hưởng phước hết thì đọa. Đó là sai lầm.
Dẫu cho đời trước có từng trì danh hiệu Phật thì đời nầy nghe danh hiệu Phật liền vui, liền muốn trì danh và tiếp tục đó thôi. Nhưng trì danh chớ bảo rằng được giải thoát đi đâu. Vì đó vẫn không phải là cái nhân giác ngộ giải thoát, bởi còn ý thức thì làm sao mà thoát được, thức trì danh, thức chấp danh, thì thức còn đấy làm sao mà dứt được. Không dứt được thức thì không giải thoát.
Câu kinh "Chấp Trì Danh Hiệu", chấp trì là nắm giữ không buông. Danh hiệu là Tự Tánh Di Đà, chứ không phải Danh Tự tên Phật.