Xin nhờ các ĐH cùng góp ý kiến !!!!!!!!!!!!!!!

Giải đáp thắc mắc giáo lý Phật-đà, hỏi nhanh đáp gọn, đi thẳng vào vấn đề.

Điều hành viên: Thanh Tịnh Lưu Ly, binh

Hình đại diện của người dùng
ThegianVothuong
Bài viết: 403
Ngày: 08/05/12 02:13
Giới tính: Nam
Đến từ: Vô minh

Re: Xin nhờ các ĐH cùng góp ý kiến !!!!!!!!!!!!!!!

Bài viết chưa xem gửi bởi ThegianVothuong »

Vấn đề ở đây là đh Thánh Tri đang chấp cái khái niệm chân tâm,Phật tánh như là những thực thể gì đó tự thân hiện hữu,tồn tại 1 cách độc lập cố hữu,như 1 "cái ngã vĩ đại" tồn tại ở đâu đó - chính là quan điểm của Hindu.Trong khi chúng cũng là các pháp mà các pháp vốn vô ngã.

Có thể suy nghĩ của bản thân đh Thánh Tri không chấp như vậy nhưng do cách dùng từ diễn đạt khiến cho người ta nhận thấy có vẻ như vậy. :)

Còn vấn đề Đại thừa hay Nguyên Thủy thì đâu có liên quan gì ở đây.Chính Đại thừa đã khai triển một cách cực kì sâu rộng và phát huy triệt để lý vô ngã.


Om Amitabha Hrih
Om Mani Padme Hum
Hình đại diện của người dùng
ThegianVothuong
Bài viết: 403
Ngày: 08/05/12 02:13
Giới tính: Nam
Đến từ: Vô minh

Re: Xin nhờ các ĐH cùng góp ý kiến !!!!!!!!!!!!!!!

Bài viết chưa xem gửi bởi ThegianVothuong »

tangbong tangbong
Hỏi: Khác với Phật giáo, các tôn giáo Tây phương sử dụng danh từ "Thượng đế". Tính không và niết-bàn có thể nào được xem là Thượng đế? Nếu tất cả các phiền não chướng với kiến giải chấp vào tồn tại bởi tự tính được tận diệt — có thể nào nhận ra tất cả đều là Thượng đế?

Đáp: Nếu Thượng đế được diễn giảng như một chân lí, một hiện thật tuyệt đối thì ta có thể xem tính vô ngã là Thượng đế, thậm chí là một Đấng tạo tác trong ý nghĩa vạn vật hình thành và hoại diệt trong phạm vi Tính không cơ bản của chúng. Theo nghĩa này thì Tính không là cơ sở của tất cả sự vật; vì Tính không nên sự vật mới có thể biến chuyển, có thể xuất hiện và có thể hoại diệt.

.......

Đức Dalai Lama ở Harvard http://quangduc.com/triet/52dalai07.html#_ftnref1
kinhle


Om Amitabha Hrih
Om Mani Padme Hum
VoMinhDaCheMo
Bài viết: 305
Ngày: 15/05/12 18:17
Giới tính: Nam
Đến từ: Nam Định

Re: Xin nhờ các ĐH cùng góp ý kiến !!!!!!!!!!!!!!!

Bài viết chưa xem gửi bởi VoMinhDaCheMo »

"ThegianVothuong"
...........................

Còn vấn đề Đại thừa hay Nguyên Thủy thì đâu có liên quan gì ở đây.Chính Đại thừa đã khai triển một cách cực kì sâu rộng và phát huy triệt để lý vô ngã.
Những lại dễ bị ( đã bị ) pha trộn, xen tạp vào bởi những tri kiến còn chấp thủ . Chưa tuệ tri . liễu tri, thắng trí vô ngã thì hay chẳng những tư tưởng qua các thư lớp trí kiến như vậy sẽ phát huy triệt để lý vô ngã ???. Mà ngược lại càng về sau qua những thứ lớp tri kiến như thế càng dầy đặc càng nhiều hơn chúng ta bước đi càng phải thận trọng và càng cần phải nhiệt tâm , chuyên cần với chánh niệm - tỉnh giác vững chắc hơn nữa.
Có một sư thật sống với si mê thì càng ngày càng dễ mà bước nên được một tý nào thì những cái bẫy càng ngày càng giăng nhiêu hơn ( bởi vì nó thuận với tư tưởng mình khởi thên, thuận và tăng tham kiến nơi mình, tăng sự tự mãn,thượng mãn nơi minh, đâu cần phải nghi gờ, bỏ qua khâu như lý tác ý là đi bằng Trị Tuệ cùng với Thực Tại An Lạc Sáng Suốt, chỉ cần phù hợp ngã chấp của ta là ổn là một loạt trí kiến khác khởi nên điễn giải bổ sung bảo vệ nâng niu vun đắp thêm và tất cả cái này đến kết quả là hành giả đó dần mất dần cách sống giới hạnh - nói mạnh hơn nữa là trong từng củ chỉ, lời nói, tư tưởng vị đó mất dần hoặc không có chánh niệm tỉnh giác. Nếu có chánh niệm - tỉnh giác oai nghi tế hạnh của Quý hành giả đó sẽ tự hình thành + An Lạc hiện tiền ).
Quý thiện hữu nghĩ sao chúng con thế hệ này và sao nữa sẽ gục ngã và sẽ trả giá như thế nào khi những cái bẫy như thế chúng con đã bị mắc còn dẫn người khác mắc theo.
Trước khí nghĩ mình siêu việt vũ trụ thì đừng dại tin và thuận theo tâm ý mình. chỡ có trụ tâm linh tinh chạy theo tưởng tưởng.
Thân kính!


Hình đại diện của người dùng
Thánh_Tri
Điều Hành Viên
Bài viết: 3851
Ngày: 21/12/07 21:02

Re: Xin nhờ các ĐH cùng góp ý kiến !!!!!!!!!!!!!!!

Bài viết chưa xem gửi bởi Thánh_Tri »

"doccoden"]

:)) Thì cái Tự Tánh nơi mỗi người chính là Linh hồn chứ còn gì nữa. Chân Ngã của Samkhya có những đặc tính: thấy biết, thường hằng, an lạc, tự ngã, tịch tĩnh, thụ động, vô tình. Vậy là nó cũng có đặc tính "Thường Lạc Ngã Tịnh" như bạn mong muốn đó :D
Tôi nghĩ chúng ta phải hiểu các danh từ Ngã, Vô Ngã, Phật Tính, Tự Tính cho rõ ràng. Nếu không dễ hiểu lầm.

Theo Phật Giáo Căn Bản (gồm Nguyên Thủy và Đại Thừa) đều chấp nhận rằng cái "ngã" là một tập hợp của ngũ uẩn, mà sắc, thọ, tưởng, hành, thức thì luôn luôn thay đổi, cho nên chúng là vô thường, khổ, vô ngã. Do vậy "Cái Ngã" "Cái Tôi" chỉ là một sự giả hợp tạm bợ.

Mà danh từ "Vô Ngã" không có nghĩa là "Không có ngã" mà chỉ có nghĩa là Chẳng Phải Là Ta!

Bởi người đời thường lậm nhận cho cái thân cái tâm là mình. Hay nói cách khác họ chấp cái thân Ngũ Uẩn, sắc, thọ, tưởng hành thức là mình. Nên Phật dùng "Vô Ngã" để thuyết cho họ nghe mà trừ cái chấp và nhận thức sai lầm.

Điều nầy được thể hiện qua Kinh Vô Ngã Tướng (HT Minh Châu Việt Dịch):
Này các Tỉ-khâu, các Ông nghĩ thế nào? Sắc là thường hay vô thường?
- Là vô thường, bạch Thế Tôn!
- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
- Là khổ, bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi?"
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
Như vậy thì theo Phật giáo, "Cái Ngã" là một tập hợp của "ngũ uẩn", mà ngũ uẩn thì giả hợp sanh diệt vô thường, cho nên nói nó là Vô Ngã. Và rõ ràng trong bài Kinh trên, Phật không phủ nhận rằng "không có ngã" mà chỉ phủ nhận "không phải là ta". Bởi người đời lậm nhận Ngũ uẩn là mình, cho nên đó là điên đảo. Nếu thật là mình thì không có vô thường, khổ.

Rõ ràng bài kinh trên chỉ giới hạn "Cái Ngã ở trong phạm vi Ngũ Uẩn".

Không phải Phật Thích Ca nói là KHÔNG CÓ NGÃ, mà chỉ nói rằng Ngã không thể tìm trong phạm vi Ngũ Uẩn. Do vậy thuyết vô ngã chỉ dùng để đánh đổ sự chấp thật cho rằng Tôi/Ta chính là Ngũ Uẩn.

Kinh Vô Ngã Tướng lại nói:
nầy hỡi các Tỳ Khưu, thọ, tưởng, hành, thức, đều là vô thường và khổ nãọ Vậy, có hợp lý chăng nếu nghĩ đến cái gì vô thường, khổ não và tạm bợ với ý tưởng: Cái này của tôi, đây là tôi, đây là tự ngã của tôi?
- Bạch đức Thế tôn, chắc chắn là không hợp lý
Vậy phải hiểu ý Phật muốn nói là nếu thật là Ngã, hay thật là mình thì không bị vô thường và khổ não. Còn nếu không thật là mình thì dĩ nhiên nó là vô thường và khổ não.

Rõ ràng ngay trong Kinh Vô Ngã Tướng đã nêu rõ đặc tính "Thường và Lạc". Và Đến Kinh Đại Thừa như Đại Bát Niết Bàn thì Phật lại nói về Phật Tính là Chân Ngã bởi vì nó Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.

Không có gì khác mâu thuẫn giữa thuyết Vô Ngã Nguyên Thủy và Chân Ngã Đại Thừa cả.

Bởi Vô Ngã nghĩa là không phải là Ta, chứ không phải không có Chân Ngã. Và hơn nữa, rõ ràng Kinh nói sắc, thọ tưởng hành thức là vô thường, khổ nên nó không phải là ta. Ngay cái câu ấy biển hiện ý Phật muốn nói rằng, cái gì là mình thật sự thì phải Thường và Lạc. Và Thường và Lạc là đặc tính của Chân Ngã Đại Thừa.


Ngoại Đạo cho Linh Hồn là Ngã. Nhưng cái Ngã Linh Hồn của họ chẳng phải Thật Ngã vì đó là tâm hư vọng.

Sở dĩ có sự hiểu lầm mà nhiều người mắt phải là do không rõ được danh từ.

Vô Ngã có nghĩa là Chẳng phải là ta, chứ không phải là Không Có Ngã.

Ngoại đạo nói Ngã, thì cho rằng hễ Phật Giáo nói Ngã là thành Ngoại Đạo, vì Phật Giáo chỉ có VÔ Ngã thôi. Đó là kiến chấp sai lầm. Mà chẳng biết cái Ngã của ngoại đạo, khác với cái Ngã trong Phật Pháp.

Hoặc nghe nói cái gì Bản Ngã của người đời là còn sân si, thì nghĩ hễ ai có Ngã là xấu.

Nhưng cái Chân Ngã Thường Lạc Ngã Tịnh của Đại Thừa thì hoàn toàn khác hẳng những cái ngã của ngoại đạo, của người đời.

Tu theo Thiền Tông với mục đích là Minh Tâm Kiến Tánh, Kiến Tánh Thành Phật. Bởi Phật dạy rằng Tất Cả Chúng Sanh đều có Phật Tính, Ai cũng là Phật sẽ thành. Do vậy chỉ cần nhận ra Tâm Tánh nơi mình thì giác ngộ thành Phật.

Theo Đại Thừa thì Tự Tính tức là Tính Không. Nhưng theo Thiền Tông, Tự Tính được dùng để chỉ cho Phật Tính. Mà Phật Tính thì không phải Tiểu Ngã hay Đại Ngã mà Ấn Độ Giáo đề cập.


"Tri Kiến Lập Tri Tức Vô Minh Bổn
Tri Kiến Vô Kiến Tư Tức Niết Bàn"

- Kinh Thủ Lăng Nghiêm
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Xin nhờ các ĐH cùng góp ý kiến !!!!!!!!!!!!!!!

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

doccoden đã viết
Nữa rồi TT lại khăng khăng "Phật Tánh hổng giống vậy, Phật Tánh hổng phải vậy..." nhưng hỏi "Vậy Phật Tánh là gì?" thì TT lại ...hổng biết
Nếu đã không biết Phật Tánh là gì thì làm sao biết nó "hổng giống, hổng phải" vậy TT?

Trong kinh Phạm võng, Phật nói những người như vậy là kẻ"ngụy biện vô tận"


Thánh Tri không phải không biết Phật tánh là gì, mà vì không thể nói được, vì Phật tánh nằm ngoài ngôn ngữ đối đãi nên không thể nói được.

Trong bài "Vô ngã dưới cái nhìn của 1 người theo đạo Thiên Chúa" Khi tôi nói
Thấy biết mà nghĩ là mình thấy biết tức là chấp ngã.
Thì doccoden nói:
Nói vậy té ra người thấy biết như Phật là còn chấp ngã, phàm phu không thấy biết như Phật là hết chấp ngã
Điều này chứng tỏ doccoden chẳng biết gì về Bắc tông, về Phật tính cả. Chính vì vậy nên tôi thôi không nói nữa.

Nếu doccoden còn vướng mắc trong nhị nguyên, còn suy nghĩ, tính toán thì không bao giờ có thể hiểu về Bắc Tông được.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
Thánh_Tri
Điều Hành Viên
Bài viết: 3851
Ngày: 21/12/07 21:02

Re: Xin nhờ các ĐH cùng góp ý kiến !!!!!!!!!!!!!!!

Bài viết chưa xem gửi bởi Thánh_Tri »

Nên tìm đọc:

1. QUAN NIỆM GIẢI THOÁT TRONG PHẬT GIÁO VÀ BÀ LA MÔN GIÁO - Tâm Diệu
http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-44_4-8 ... -dieu.html


2. CÓ PHẢI PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA LÀ BÀ LA MÔN GIÁO? Hoàng Liên Tâm
http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-44_4-8 ... n-tam.html


3. ĐỂ HIỂU ĐẠO PHẬT
Phương Bối
KHÁI NIỆM VỀ THIỀN HỌC
http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-44_4-1 ... n-hoc.html


4.
BẢN CHẤT TRIẾT HỌC BÀ LA MÔN
DƯỚI CÁI NHÌN CỦA ĐẠO PHẬT
Thích Quảng Nguyên

http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-44_4-1 ... guyen.html
1. Thực Tại Tối Cao Brahman Dưới Cái Nhìn Của Phật Giáo

Như đã tìm hiểu tư tưởng triết học Bà-la-môn giáo ở trên, thì ta thấy Brahman tuy có những điểm gần như tương đồng với Chân như Phật giáo. Nhưng tìm hiểu kỹ thì thấy triết lý Bà-la-môn cho rằng Brahman là thực tại có trước nhất, thực thể duy nhất, tất cả vũ trụ là Brahman v.v… Nhưng đối với Chân như Phật giáo chính là cái bất sanh, bất diệt, không có điểm khởi đầu và cũng không có điểm kết thúc. Chân như vốn là bản chất của các pháp. Vì vậy, chúng ta không thể áp đặt cho nó một chân lý ban đầu.

Luận Duy Thức định nghĩa Chân như rằng: “Chân là chân thực, làm rõ cái không phải hư vọng. Như là thường, biểu thị sự không biến đổi. Tức là sự chân thực đó trong hết thảy chư pháp, thể tánh của nó thường như nên gọi la Chân như”. Qua đây ta có thể nhận định rằng Chân như không phải là cái đầu tiên để sinh ra mọi loài và cũng chẳng phải là thực thể duy nhất. Mà nó chính là bản chất của các pháp, nó cũng là cái bất sinh bất diệt, không hư vọng, không biến hoại. Nếu Chân như của đạo Phật được hiểu như Brahman của Bà-la-môn giáo thì cái ấy phải có danh tự, phải biến đổi.

5.
SO SÁNH TRIẾT HỌC
BÀ LA MÔN (TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ) &
ĐẠO LÝ PHẬT GIÁO
(Hoàng Nguyên)
http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-44_4-1 ... guyen.html
Triết học Veda cũng được khai triển và cho rằng Brahman là căn bản của vũ trụ, tất cả sự vật đều là hình thái của Brahman. Brahman và Atman (Thần ngã) chu biến khắp pháp giới.
Tư tưởng xuyên suốt của Bà La Môn giáo là học thuyết Phạm thiên “Phạm ngã đồng nhất”, phạm chuyển biến sinh ra vạn vật. Upanishad cho rằng: “vào lúc sơ khai có một vị Phạm thiên (Bràhman) đột nhiên phát nóng và nổ tung ra thành tứ đại; tứ đại kết hợp sinh ra vạn pháp”. Như vậy Upanishad quan niệm vạn pháp do Phạm chuyển biến sinh ra nên mỗi cá thể đều có mặt của Phạm thiên.
Phật tính chẳng phải Phạm Ngã bởi không phải chuyển biến sinh ra vạn vật. Cũng không phải cái gì đột nhiên phát nóng nổ tung ra thành tứ đại.
Học thuyết Bà la môn cho rằng khi thân xác chết thì Tự ngã (Atman) lại trở về hợp nhất với Đại ngã (Brahman).
Và khi thuyết minh sự tương tục của linh hồn sau khi chết, bảo rằng tự ngã như viên đạn, nhờ hoả lực của nghiệp đưa đến một nơi nhất định, rồi lại từ nơi ấy nhờ hoả lực mới đưa đến một nơi khác. Như thế căn cứ vào sự bất diệt của linh hồn mà nhận có luân hồi.
Phật Tính chẳng phải như thế.
Và làm thế nào để giải thoát, thì phái Vaisesika cho rằng : muốn giải thoát luân hồi phải tu tập khổ hạnh để đạt đến cảnh giới thuần tuý của Àtman. Upanishad cũng như phái Yoga thì lại dùng phương pháp thiền định để thể nhập Atman (tiểu ngã) vào Bràhman (đại ngã). Tóm lại Có 3 con đường chính để đạt đến giải thoát:
- Con đường tri thức đòi hỏi tu hành khổ hạnh, chuyên tâm rèn luyện, sẵn lòng thoát ly thế giới trần tục.
- Con đường hành động theo nguyên tắc tâm linh vị tha, vì lợi ích chung, vì cái thiện, vì đại ngã.
- Con đường cuối cùng, rộng rãi nhất, dành cho mọi người đó là con đường sùng tín, hết lòng tin yêu, tôn kính Đấng tối cao – Atman có thể hoà nhập với Braman trong tình yêu và bằng tình yêu cao cả thiêng liêng.
Nhìn chung, tuy phương pháp tu của Bà La Môn có khác nhau nhưng mục đích hướng đến chỉ là một, đều mong muốn thể nhập Atman vào Bràhman, đó là cảnh giới vĩnh hằng của Bràhman.
Muốn minh tâm kiến tánh thì đâu phải làm những việc hành xác tu khổ hạnh, sung tín đấng tối cao nào.

Con đường giải thoát tu hành của Ngoại Đạo khác hẳng Phật Pháp.


6.
BÀ LA MÔN GIÁO VÀ TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO Như Thị
http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-44_4-1 ... u-thi.html


"Tri Kiến Lập Tri Tức Vô Minh Bổn
Tri Kiến Vô Kiến Tư Tức Niết Bàn"

- Kinh Thủ Lăng Nghiêm
Hình đại diện của người dùng
Thánh_Tri
Điều Hành Viên
Bài viết: 3851
Ngày: 21/12/07 21:02

Re: Xin nhờ các ĐH cùng góp ý kiến !!!!!!!!!!!!!!!

Bài viết chưa xem gửi bởi Thánh_Tri »

Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Cư sĩ Lê Sỹ Minh Tùng dịch:

Chương Thú Tư - A Nan Nghi “Chơn Tâm” Đồng Với Thuyết “Tự Nhiên” Của Ngoại Đạo
Bạch Thế Tôn! Đúng như lời pháp vương dạy : tâm tánh cùng khắp mười phương thế giới, yên lặng thường trụ, không có sinh diệt. Song nếu đem lời dạy này, so sánh với thuyết của Phạm Chí Sa Tỳ Ca La về “minh đế” và thuyết của bọn ngoại đạo Đầu Khôi về “chân ngã” khắp cùng, khác nhau chỗ nào? Lúc ở núi Lăng Già, Thế Tôn dạy cho ông Đại Huệ rằng : Bọn ngoại đạo thường nói “tự nhiên” còn Phật thì nói “nhân duyên”. Con nay suy nghĩ cái tâm tánh vốn tự nhiên vì nó không phải sanh cũng không phải diệt. Nó xa rời tất cả điên đảo hư vọng. Con nghĩ cái tự nhiên này khác với thuyết tự nhiên của bọn ngoại đạo. Xin Thế Tôn khai thị cho chúng con để được tâm tánh sáng suốt, khỏi rơi vào tà kiến.
Phật đáp: Nay Như Lai dùng phương tiện chỉ dạy như vậy mà ông còn chưa tỏ ngộ, lại lầm là “tự nhiên”. Này A Nan! Nếu là tự nhiên thì ông thử chứng minh cái gì là tự thể của cái tự nhiên ấy? Ông hãy xét kỹ tánh thấy nhiệm mầu lấy cái gì làm tự thể? Lấy sáng làm tự thể hay lấy tối làm tự thể? Lấy rỗng không làm tự thể hay lấy ngăn bít làm tự thể?

A Nan! Nếu lấy sáng làm tự thể lẽ ra không thấy được tối. Nếu lấy rỗng làm tự thể lẽ ra không thấy được ngăn bít. Bởi vì nếu lấy sáng làm tự thể thì khi đến khi tối tánh thấy đã diệt mất đi rồi làm sao thấy được tối?


A Nan bạch Phật rằng :
- Bạch Thế Tôn! Tánh thấy nhiệm mầu này chắc không phải tự nhiên. Nay con phát minh tánh thấy do “nhân duyên” sanh. Xin Như Lai dạy cho, con phải hiểu thế nào cho hợp với tánh “nhân duyên” của Phật?


Phật dạy :
- Ông nói tánh thấy do nhân duyên. Vậy tôi hỏi ông : Tánh thấy đó, nhân sáng mà thấy hay nhân tối mà thấy? Nhân trống không mà thấy hay nhân ngăn bít mà thấy? Nếu nhân nơi sáng mà có thấy thì lẽ ra không thấy được tối. Nếu nhân nơi tối mà có thì đáng lẽ chẳng thấy được sáng. Như thế cho đến nhân nơi hư không, nơi ngăn bít cũng giống như sáng và tối. Lại nữa A Nan! Cái thấy này lại duyên nơi sáng mà có thấy hay duyên nơi tối mà có thấy? Duyên nơi hư không mà có thấy hay duyên nơi ngăn bít mà có thấy? A Nan! Nếu duyên nơi hư không mà có thấy, lẽ ra không thấy chỗ bít lấp; nếu duyên nơi bít lấp mà có, lẽ ra không thấy nơi hư không. Như thế cho đến duyên nơi sáng, duyên nơi tối cũng giống như hư không và bít lấp.

A Nan! Ông nên biết : tánh thấy nhiệm mầu, sáng suốt, không phải “nhân” không phải “duyên”, không phải “tự nhiên” không phải “không tự nhiên”; không có cái “phải” hay “không phải”. Nó rời tất cả tướng, nhưng nó không ngoài tất cả pháp. Ông đem các danh tướng hí luận thế gian mà nhận thức phân biệt chẳng khác lấy tay nắm bắt hư không chỉ thêm nhọc sức chớ hư không làm sao để ông bắt được.

A Nan thưa :
- Bạch Thế Tôn! Nếu tánh giác nhiệm mầu này chẳng phải nhân chẳng phải duyên, tại sao Thế Tôn thường chỉ dạy các Tỳ kheo : tánh thấy thường đủ bốn thứ nhân duyên, nghĩa là nhân nơi hư không, nhân nơi sáng, nhân nơi tâm và nhân nơi mắt. Nghĩa ấy thế nào?


Phật bảo A Nan :
- Như Lai nói các tướng nhân duyên trong thế gian, chẳng phải đệ nhất nghĩa.
Ngài Anan chưa ngộ tự Chân Tâm nên nói cách nào cũng không đúng. Cho Chân Tâm là Tự Nhiên như ngoại Đạo Brahman (Đại Ngã) cũng sai, mà cho là Nhân Duyên Sinh cũng sai.

Lý Nhân Duyên của Phật là đúng, nhưng đúng dựa trên các pháp, các tướng thế gian. Nhưng chẳng phải là Đệ Nhất Nghĩa. Vì Đệ Nhất Nghĩa vượt ngoài lý luận Tự Nhiên và Nhân Duyên.







Ghi chú của thuyết Minh Đế tức là Brahma Đại Ngã:

"1) Nhóm phạm chí Satìcala : Nhóm này chủ trương rằng có một minh đế tạo ra vạn vật trên thế gian này. Minh đế là một đấng thiêng liêng có công năng sáng tạo ra tất cả vạn vật mà con người không thể thấu biết được mà nhóm này gọi là đại ngã. Còn tất cả chúng sinh trong thế gian này là tiểu ngã. Do đó minh đế sinh ra tiểu ngã và sự tiến hóa cùng cực của tiểu ngã sẽ nhập vào đại ngã này. Chính Đức Phật không hề nói đến tiểu ngã hay đại ngã vì giáo lý Đức Phật dạy chúng sinh phá cho được ngã chấp và pháp chấp thì tâm sẽ được an trụ vĩnh viễn nơi tự tánh Niết bàn."


"Tri Kiến Lập Tri Tức Vô Minh Bổn
Tri Kiến Vô Kiến Tư Tức Niết Bàn"

- Kinh Thủ Lăng Nghiêm
dieungo
Bài viết: 769
Ngày: 11/04/12 22:47
Giới tính: Nam
Đến từ: Hà Nội

Re: Xin nhờ các ĐH cùng góp ý kiến !!!!!!!!!!!!!!!

Bài viết chưa xem gửi bởi dieungo »

Toppic này vui thật!
CHo DIeuNgo góp vui với!
Chào Đạo hữu doccoden.
Người ta nói tu Đạo Phật để giải thoát
Vậy giải thoát thoát là giải thoát cái gì?

Đại ngã và chân Ngã có gì khác nhau? theo DN thì chẳng có gì khác nhau chỉ khác nhau ở tuệ giải thoát.
ThanhTri thường nói "chạy đâu khỏi nắng"
Vậy doccoden có tìm gốc cây để tránh nắng không?
bát nhã tánh không của bắc tông là gì bên phật giáo Nguyên thủy?


Hình đại diện của người dùng
ThegianVothuong
Bài viết: 403
Ngày: 08/05/12 02:13
Giới tính: Nam
Đến từ: Vô minh

Re: Xin nhờ các ĐH cùng góp ý kiến !!!!!!!!!!!!!!!

Bài viết chưa xem gửi bởi ThegianVothuong »

VoMinhDaCheMo đã viết:
"ThegianVothuong"
...........................

Còn vấn đề Đại thừa hay Nguyên Thủy thì đâu có liên quan gì ở đây.Chính Đại thừa đã khai triển một cách cực kì sâu rộng và phát huy triệt để lý vô ngã.
Những lại dễ bị ( đã bị ) pha trộn, xen tạp vào bởi những tri kiến còn chấp thủ . Chưa tuệ tri . liễu tri, thắng trí vô ngã thì hay chẳng những tư tưởng qua các thư lớp trí kiến như vậy sẽ phát huy triệt để lý vô ngã ???. Mà ngược lại càng về sau qua những thứ lớp tri kiến như thế càng dầy đặc càng nhiều hơn chúng ta bước đi càng phải thận trọng và càng cần phải nhiệt tâm , chuyên cần với chánh niệm - tỉnh giác vững chắc hơn nữa.
Có một sư thật sống với si mê thì càng ngày càng dễ mà bước nên được một tý nào thì những cái bẫy càng ngày càng giăng nhiêu hơn ( bởi vì nó thuận với tư tưởng mình khởi thên, thuận và tăng tham kiến nơi mình, tăng sự tự mãn,thượng mãn nơi minh, đâu cần phải nghi gờ, bỏ qua khâu như lý tác ý là đi bằng Trị Tuệ cùng với Thực Tại An Lạc Sáng Suốt, chỉ cần phù hợp ngã chấp của ta là ổn là một loạt trí kiến khác khởi nên điễn giải bổ sung bảo vệ nâng niu vun đắp thêm và tất cả cái này đến kết quả là hành giả đó dần mất dần cách sống giới hạnh - nói mạnh hơn nữa là trong từng củ chỉ, lời nói, tư tưởng vị đó mất dần hoặc không có chánh niệm tỉnh giác. Nếu có chánh niệm - tỉnh giác oai nghi tế hạnh của Quý hành giả đó sẽ tự hình thành + An Lạc hiện tiền ).
Quý thiện hữu nghĩ sao chúng con thế hệ này và sao nữa sẽ gục ngã và sẽ trả giá như thế nào khi những cái bẫy như thế chúng con đã bị mắc còn dẫn người khác mắc theo.
Xen tạp,chấp thủ là do chính bản thân chúng ta hiểu sai lời Phật dạy.

Chính vì thế là người học Phật khôn ngoan thì cần phải có chánh kiến,tức là tri kiến đúng đắn về lý nhân quả,Tứ diệu đế và nhất là Tam pháp Ấn.

Những ai trong tâm còn lăn tăn,bất mãn về vấn đề tông phái,Đại tiểu là những người còn rất tù mù về giáo lý căn bản của đạo Phật.Do không hiểu giáo lý nên không phân biệt được cái gì là đúng cái gì là sai,và không biết tin vào đâu.

Vấn đề này có lẽ không nên nói nhiều ở topic này nữa.


Om Amitabha Hrih
Om Mani Padme Hum
Hieule
Điều Hành Viên
Bài viết: 767
Ngày: 21/02/09 20:06
Giới tính: Nam
Đến từ: California

Re: Xin nhờ các ĐH cùng góp ý kiến !!!!!!!!!!!!!!!

Bài viết chưa xem gửi bởi Hieule »

Tu theo đạo Phật là để giải thoát khỏi bị khổ ràng buộc. Kinh sách PG hay dẩn câu "Như Lai chỉ dạy về khổ và con đường thoát khổ".

Khổ thì có 2 loại, thân (sinh lý) và tâm (tâm lý). Thân thì đi tìm bác sỉ để điều trị. Cái này phải tự động biết. Tâm lý thì nhờ kinh sách và giới luật của Đức Phật làm thầy thuốc. Người ta thường ví Đức Phật là bậc Vô Thượng Y Vương, trị cho chúng sanh 3 thứ bịnh tham, sân, và si.

Đại Ngã và chân Ngã có gì khác nhau :-/ Theo chổ mình hiểu thì triết học Tây Phương vì bế tắc ở chổ không thể giải quyết "Gà có trước hay trứng có trước" nên phán bừa một cách mơ hồ rằng vũ trụ và mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ là do một vị hay đấng "tối cao" nào đó tạo nên. Phật Giáo thì tin vào nhân duyên (lý duyên khởi). Ai muốn biết "Gà có trước hay trứng có trước" thì tìm đọc Trung Luận phẩm Quán Nhân Duyên, Quán Đi Lại, etc...do Bồ Tát Long Thọ giải thích.

Dùng nhân duyên giải thích thì người nghe có thể hiểu dể dàng hơn. Thí dụ: Xe (tục đế vì là giả danh) du lịch tuy không hư động cơ hay hư điện nhưng nếu không có xăng thì củng không chạy được. Xe không thiếu xăng, không hư điện, hay hư động cơ (motor) nhưng không người lái thì làm sao nổ máy. Tuy có người nhưng không có tác ý (hành) và sự kết hợp của thân và tâm thì củng chẳng thể nào khởi động máy cho xe chạy được. Người chỉ một giả danh tập hợp (tục đế = sammuti sacca) hay danh suông bao gồm năm thứ kêu bằng ngủ uẩn (chân đế =paramattha sacca)sắc (vật chất & hình sắc), cảm xúc (thọ), quá trình ôn lại quá khứ (tưởng), phản ứng của tâm (hành), quá trình giải thích về sự vật hiện tượng của tâm (thức). Đừng cho rằng có người tu vì thế mới có người vào Niết Bàn hay về cảnh giới của Đức Phật A Di Đà (người chỉ là một giả danh tức Sát thủ thú theo Duy Thức bên PG Phát Triển (Bắc Tông) hay thân và tâm bên Thắng Pháp của Nguyên Thủy). Đọc thêm phần Vô Ngã hay Danh trong kinh Na Tiên Tỳ Khưu (The questions of King Milanda)

Vô Ngã hay Danh

Đức vua Mi-lan-đà sau khi đảnh lễ Tăng chúng tám mươi ngàn vị cùng với đại đức Na-tiên, ngồi một nơi phải lẽ, đức vua khởi chuyện:

- Bạch đại đức, Trẫm muốn đàm luận với ngài vài điều được chăng?

Tỳ kheo Na-tiên đã quan sát vị vua hữu danh đã từng làm cho các tôn giáo điên đảo từ bấy lâu nay. Quả thật là không hư truyền, vì ngài chưa từng gặp một người có tướng mạo phi phàm như thế. Nhưng với thắng dũng, thắng trí và thắng tuệ, ngài cảm thấy không khó khăn gì khi nhiếp phục đức vua này.

Khi nghe hỏi, Na-tiên tỳ kheo mỉm cười đáp:

- Tâu đại vương, ngài cứ hỏi, bần tăng sẽ nghe.

- Bạch đại đức, trẫm hỏi rồi, ngài hãy nghe đi.

- Tâu đại vương, bần tăng nghe rồi, ngài hãy nói đi!

- Bạch đại đức, Trẫm hỏi rồi.

- Tâu đại vương, bần tăng đáp rồi.

- Ngài đáp như thế nào?

- Đại vương hỏi như thế nào?

Chỉ vài câu vấn đáp khởi đầu, cử tọa thính chúng gồm tám mươi ngàn Tăng chúng, năm trăm tùy tùng của đức vua cùng với cận sự nam nữ đông đặc bên ngoài giảng đường... đều cảm thấy thú vị, họ cất tiếng hô "lành thay" vang rền như sấm dội.

Đợi cho không khí yên lặng, nhà vua hỏi tiếp:

- Bạch đại đức, ngài tên gì?

- Tâu đại vương! Bần tăng tên là Na-tiên! Thầy tổ, huynh đệ, pháp hữu của bần tăng cũng gọi tên bần tăng như thế. Còn cha mẹ của bần tăng không những gọi tên bần tăng là Na-tiên, mà đôi khi kêu là Viranasena, Surasena hoặc Sihasena! Tuy nhiên, dù gọi tên gì đi nữa thì nó cũng chỉ là cái tên, cái tên suông, chẳng liên hệ gì đến bần tăng cả. Cái tên ấy chỉ để mà phân biệt giữa người này và người kia, thế thôi, chẳng có gì là "tôi" là "của tôi" như ngã chấp và tà kiến thế gian thường nhận lầm, tâu đại vương được rõ!

Đức vua Mi-lan-đà ngạc nhiên, đưa tay lên, phân bua với mọi người xung quanh:

- Xin tất cả các vị hãy làm chứng cho trẫm. Đại đức Na-tiên vừa nói rằng, cái tên Na-tiên là tên do cha mẹ đặt, các vị đồng phạm hạnh cũng gọi như thế, nhưng chẳng có cái gì là Na-tiên ở đấy, chẳng có gì là "tôi" và "của tôi" cả. Mọi người nghe rõ rồi đấy chứ?

Rồi quay sang tỳ kheo Na-tiên , đức vua phản vấn:

- Bạch đại đức! Nếu không có cái gọi là "ta" và "của ta" thì những người bố thí cúng dường y bát, vật thực, thất liêu, chỗ ở, thuốc ngừa bệnh, vật dụng v.v... thì ai là người thọ nhận tứ sự ấy? Ai trì giới? Ai tham thiền? Ai chứng ngộ đạo quả và Niết bàn? Từ đó suy ra, những tội ác như sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, nói lời hư dối, uống rượu; cho chí những ngũ nghịch đại tội vô gián địa ngục, cũng chẳng có ai làm gì cả! Và như vậy thì nghiệp lành, nghiệp ác cũng không, chẳng có ai tạo tội cả, lành dữ đều không có quả báo. Nếu thế có kẻ giết chết đại đức họ cũng không phạm tội giết người. Và thầy tiếp dẫn, thầy giáo thọ, hòa thượng tế độ cho đại đức cũng không có. Các vị đồng phạm hạnh gọi tên đại đức Na-tiên là gì đó cũng không có luôn. Vậy cái gọi là Na-tiên đó là ai? Mong đại đức giảng giải cho trẫm. Đại đức nghe rõ rồi đấy chứ.

- Tâu đại vương! Bần tăng nghe rõ rồi!

- Người nghe đó có phải là Na-tiên chăng?

- Tâu, không phải.

- Chẳng có gì là Na-tiên cả sao?

- Vâng, chính thế!

- Tóc, lông, móng, răng da... kia là Na-tiên sao?

- Tâu, đại vương, không phải.

- Thịt, tủy, gân, xương là Na-tiên chăng?

- Thưa, không phải!

- Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là Na-tiên chăng?

- Tâu, Đại vương, không phải.

- Hay lục căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là Na-tiên?

- Tâu, không phải thế.

- Vậy ngũ uẩn họp lại là Na-tiên?

- Tâu, cũng chưa chắc là vậy.

Đến ngang đây chợt đức vua Mi-lan-đà cất giọng nói lớn:

- Bạch đại đức! Hồi nãy giờ trẫm đã cặn kẽ hỏi về ba mươi hai thể trược, lục căn, ngũ uẩn v.v... có phải là Na-tiên chăng, tất thảy đều bị đại đức phủ nhận. Và quả thật, trẫm cũng công nhận như thế. Vì khi quán tưởng một cách tận tường từng phần được nêu ra trong câu hỏi, thì chẳng có cái gì được gọi là Na-tiên cả. Thế tại sao, trước đây khi trẫm hỏi, đại đức bảo đại đức là Na-tiên? Té ra là đại đức nói dối! Này, năm trăm tùy tùng thân tín của trẫm và tám mươi ngàn Tăng chúng tỳ kheo, xin quý vị hãy làm chứng cho trẫm đấy nhé!

Đại đức Na-tiên là một Thánh nhân A-la- hán đắc thần thông và đắc cả 4 tuệ phân tích: tuệ về nhân, tuệ về quả, tuệ văn tự, ngữ nghĩa, tuệ biện tài, biện luận. Tâm ngài như đỉnh núi chúa, trí ngài như mặt trời, mặt trăng, lòng từ của ngài bao la như biển lớn. Do vậy, ngài độ lượng với đức vua Mi-lan-đà như mẹ đối với con; với tâm nguyện là phải nhiếp phục đức vua, tế độ đức vua, đặt đức vua trong Chánh đạo; nên dù đức vua có nói gì ngài cũng chỉ ngồi làm thinh và mở rộng lòng từ.

Để cho ngạo khí và sự xao động trong tâm trí đức vua yên lắng lại một chút, đại đức Na-tiên mới chậm rãi nói:

- Tâu đại vương! Ngài là một bậc đế vương nhiều phước báu và nhiều an vui, tháng ngày sống trong hạnh phúc cao sang. Nhưng vì tâm cầu đạo, ngài chẳng quản đường xa, đến đây giữa cơn nắng nóng oi bức nên có lẽ ngọc thể cũng bất an. Lại nữa, từ hoàng cung đến đây mà sao đại vương không đi bằng xe mà lại đi bằng chân cho mệt?

- Bạch đại đức! Trẫm đến chùa bằng xe chứ! Chỉ đi bộ từ cổng, nhưng vào giảng đường mới đi bằng chân không!

- Thế ra đại vương tới đây bằng xe.

- Vâng, trẫm đến bằng xe.

Đại đức Na-tiên giờ cũng làm như cách của vua Mi-lan-đà , phân bua với mọi người:

- Năm trăm tùy tùng quan chức, thị vệ của đức vua và tám mươi ngàn chư tỳ kheo đại chúng hãy xác nhận cho: đức vua đã nói rằng ngài đến đây bằng xe!

Rồi quay sang đức vua, ngài Na-tiên hỏi lại:

- Đại vương bảo rằng đạivương đến đây bằng xe, đấy là lời nói thật chứ?

- Chắc chắn là thật.

- Vậy đại vương hãy nói cho rõ về cái xe ấy! Cái gì gọi là xe? Cái gọng chăng?

- Không phải.

- Hay cái trục, cái bánh là xe?

- Cũng không phải.

- Cái thùng, cái mui là xe chăng?

- Chẳng phải đâu.

- Hoặc roi, dây cương là xe?

- Chẳng phải.

- Thế chắc cái ách, căm xe?

- Không phải nốt.

- Vậy cái gì là xe?

Đức vua Mi-lan-đà im lặng.

Đại đức Na-tiên cất giọng chậm rãi:

- Tâu đại vương! Bần tăng đã đưa từng bộ phận một, và hỏi rằng cái gì là xe thì đều bị đại vương phủ nhận. Mà quả thật, bần tăng cũng thấy vậy, chẳng có cái gì được gọi là xe trong tất cả các bộ phận chi tiết ấy. Tuy nhiên, đại vương là vị hoàng đế cao cả, là đấng nhân chủ, là bậc anh minh cai quản một quốc độ mênh mông; quả thật là không thích đáng khi đạivương nói dối rằng, ngài đến đây bằng xe! Xin tất cả chư vị và Chư Tăng đại chúng ở đây hãy làm chứng cho!

Mọi người không ngớt lời tán dương ca ngợi biện tài của đại đức Na-tiên . Riêng năm trăm người tùy tùng thì cung thỉnh đức vua tìm cách luận thắng đối phương.

Sau một hồi làm thinh, đức vua Mi-lan-đà nói:

- Đại đức biện luận hay lắm! Nhưng mà hãy nghe trẫm nói đây! Tất cả những bộ phận chi tiết như thùng, mui, căm, bánh, trục v.v... nếu nằm riêng lẻ thì không thể gọi là xe, nhưng chúng kết hợp toàn bộ lại thì giả danh gọi là xe, có phải thế chăng? Vậy trẫm bảo rằng, trẫm đến đây bằng xe đâu phải lời nói dối?

- Tâu đại vương! Cũng thế, tất cả những cái gọi là tóc, lông, móng, răng, da, ngũ uẩn, lục căn... nếu chúng nằm riêng lẻ thì làm sao được gọi là Na-tiên? Nhưng nếu được kết hợp lại thì giả danh gọi là Na-tiên! Bần tăng nói rằng, bần tăng tên là Na-tiên thì đâu phải lời nói dối?

Nghe đến đây, đức vua Mi-lan-đà vô cùng thích thú, hết lòng tán thán đại đức Na-tiên:

- Hay lắm! Hôm nay, lần đầu tiên trong đời cái lỗ tai của trẫm rất là hoan hỷ, đại đức có biết thế chăng?

Cả đại giảng đường vang lên tiếng "lành thay, lành thay" làm chấn động cả kinh đô Sàgala.




Nếu nóng thì tìm quạt để quạt. Việc này bình thường :D Nhưng đừng chấp vào cái có cái quạt hay không mà sinh phiền não. Tìm gốc cây tránh nắng thì không sao. Nhưng đừng chấp vào nó. Kinh sách PG cả hai bên Nguyên Thủy và Phát Triển hay nói Tỳ Khưu không được ngủ quá 3 đêm một chổ để tránh phiền não chính là ý này.

Quán Tự Tại (Quán Thế Âm) Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa Thời chiếu kiến "ngũ uẩn" giai không độ nhất thiết khổ ách. Giải thích rộng ra thì phải biết chiếu kiến ngũ uẩn giai không, biết thân này là không, khổ, vô thường, vô ngã, trống không (tánh không), vô vị, vô ý nghĩa, thì mới bớt khổ. Đạo Phật là con đường thoát khổ.

Sắc tức là không; không tức là sắc. Thọ tưởng hành thức củng đều như vậy. Sắc tức là không (thân sinh lý chỉ là cấu tạo của một thứ chất đặc (đất) lỏng (nước) nhiệt lượng (lửa) và gió (còn gọi là không). Phẩm Danh trong kinh Na Tiên Tỳ Kheo (kinh Mi Tiên Vấn Đáp) ở trên đã giải thích rỏ rồi.


Sabbe sankhara anicca
Sabbe sankhara dukkha
Sabbe dhamma anatta.
Hieule
Điều Hành Viên
Bài viết: 767
Ngày: 21/02/09 20:06
Giới tính: Nam
Đến từ: California

Re: Xin nhờ các ĐH cùng góp ý kiến !!!!!!!!!!!!!!!

Bài viết chưa xem gửi bởi Hieule »

Giải thích hơi dài. Mình xin lổi quý vị tangbong :D

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô A Di Đà Phật
Namo Tassa Bhavagato Arahato Samma Sammbuddhasa


Sabbe sankhara anicca
Sabbe sankhara dukkha
Sabbe dhamma anatta.
Hình đại diện của người dùng
ThegianVothuong
Bài viết: 403
Ngày: 08/05/12 02:13
Giới tính: Nam
Đến từ: Vô minh

Re: Xin nhờ các ĐH cùng góp ý kiến !!!!!!!!!!!!!!!

Bài viết chưa xem gửi bởi ThegianVothuong »

tangbong

Lẽ ra đh Thánh_Tri và đh binh không nên gán ghép ngay cái chuyện tông phái,Bắc Nam... cho doccoden bởi rõ ràng đh doccoden không có ý đó.

Đh doccoden đang hỏi vặn bác Thánh_Tri là do cách trình bài của đh ấy về Chân tâm,Phật tánh có phần hơi giống với Bà-la-môn.

Theo tôi thì đức Phật thuyết "Như Lai Tạng,Phật tánh" chỉ nhằm phương tiện phá chấp cho người hữu học mà thôi.Thực chất vẫn chằng nằm ngoài mục đích truyền tải lý Vô Ngã.
- Thế Tôn! Pháp sở thuyết trong kinh Phật nói tự Tánh của Như Lai Tạng vốn trong sạch thường trụ chẳng đoạn, chẳng có biến đổi. đầy đủ ba mươi hai tướng nơi thân của tất cả chúng sanh, vì áo nhơ ấm, giới, nhập che khuất, nên bị cấu bẩn vọng phân biệt tham, sân, si sở ô nhiễm, giống như bửu vật vô giá ẩn trong áo nhơ. Mà ngoại đạo có cái thuyết '' Chơn Ngã là kẻ tác giả thường trụ, lìa nơi y chỉ, tự tại chẳng diệt''. Vậy, cái nghĩa '' Như Lai Tạng '' của Phật sở thuyết, há chẳng đồng như cái thuyết '' Chơn Ngã '' của ngoại đạo ư?

Phật bảo Đại Huệ :

- Ta nói '' NHƯ LAI TẠNG '', chẳng đồng với cái thuyết '' Chơn Ngã '' của ngoại đạo. Đại Huệ! Ta có lúc nói Không, Vô Tướng, Vô Nguyện, như thật tế, Pháp tánh, Pháp thân Niết Bàn, lìa tự tánh, bất sanh bất diệt, bổn lai tịch tịnh, tự tánh Niết Bàn v.v... dùng những danh từ này để thuyết Như Lai Tạng xong, ấy là vì Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác muốn đoạn dứt sự e sợ danh từ Vô Ngã của phàm phu, nên nói cảnh giới lìa vọng tưởng, Vô Sở Hữu là Như Lai Tạng.

- Đại Huệ! Bậc Bồ Tát vị lai, hiện tại, chẳng nên sanh ngã kiến chấp trước. Ví như thợ gốm nơi một đống đất dùng phương tiện nhơn công, nước, cây, bánh xe quay để làm ra các món đồ gốm, thì Như Lai cũng như thế; ở nơi pháp Vô Ngã lìa tất cả tướng của vọng tưởng, dùng đủ thứ trí huệ, phương tiện khéo léo, hoặc thuyết Như Lai Tạng, hoặc thuyết Vô Ngã. Do nhân duyên này, nên cái thuyết Như Lai Tạng của ta chẳng đồng với cái thuyết chơn ngã của ngoại đạo. Vì khai mở cái trói chấp ngã của các ngoại đạo, nên có cái thuyết Như Lai Tạng, khiến họ lìa vọng tưởng ngã kiến chẳng thật, ngộ nhập cảnh giới ba cửa giải thoát, mong họ chóng được Vô Thượng Bồ Đề. Cho nên Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác phải thuyết Như Lai Tạng như thế. Nếu chẳng như vậy, ắt đồng với ngoại đạo. Cho nên, Đại Huệ! Vì lìa kiến chấp của ngoại đạo cần phải y theo pháp Vô Ngã của Như Lai Tạng mà tu học.

Kinh Lăng Già http://thuvienhoasen.org/D_5-50_14-1_4- ... l_bookmark
Để dễ hiểu,tại sao lại không coi Chân tâm 1 cách đơn giản là tâm đã loại bỏ hết mọi ô nhiễm,chấp ngã,chấp pháp?

Không nên chấp trước khái niệm Phật tánh,chân tâm như những thực thể tuyệt đối,tồn tại độc lập.

Phàm là pháp thường,vô thường,có cấu hợp,phi cấu hợp cũng đều vô ngã - tức Không có sự tồn tại tự tính.Chân tâm,Phật tánh cũng chẳng nằm ngoài phạm vi các pháp.


Om Amitabha Hrih
Om Mani Padme Hum
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.94 khách