Re: Những câu chuyện linh ứng, kì lạ về Hòa Thượng Tuyên Hóa- Master Hsuan Hua
Đã gửi: 14/10/20 20:46
NIÊN BIỂU TỪNG NĂM ĐẾN KHI NHẬP DIỆT
*Năm 1970, Ngài giảng luận Đại Thừa Trăm Pháp Môn. Ngài thành lập chùa Kim Sơn, tại vùng Cựu Kim Sơn. Từ ngày mười lăm tháng mười một đến ngày hai mươi tháng hai năm tới, Ngài cử hành thiền thất trong một trăm ngày.
Khi ấy, Ngài giảng truyện Cao Tăng và cho ra tờ nguyệt san Phật Giáo chánh pháp, tức là Kim Cang Bồ Đề Hải.
*Năm 1971 Ngài giảng luận Đại Thừa Khởi Tín, kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, Sơ Tự kinh Hoa Nghiêm, Sớ Sao kinh Hoa Nghiêm.
*Năm 1972 Ngài giảng Mười pháp giới, không ngoài một tâm niệm, kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, Phật Tổ Đạo Ảnh.
Ngày hai mươi tháng chín, kỳ Truyền Thiên Phật Tam Đàn Đại Giới được tổ chức lần thứ nhất tại chùa Kim Sơn.
*Năm 1973 Ngài thành lập viện Phiên Dịch Kinh Điển Quốc Tế. Tại chùa Kim Sơn, Ngài thành lập trường tiểu học Dục Lương.
Hai đệ tử xuất gia, Hằng Cụ và Hằng Do, phát tâm hành trì ba bước một lạy, từ thành phố Cựu Kim Sơn, California đến thành phố Seattle, Washington vì cầu thế giới hòa bình.
Lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo quốc tế, có người xuất gia hành ba bước một lạy.
(Phụ chú:
1970, San Francisco
Hội Phật Giáo Trung MỸ (sau này trở thành Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới), tổ chức ngày lễ Phật đản lần đầu tiên.
Hơn sáu trăm tín chúng đến làm lễ tắm Phật tại công viên quảng trường Liên Hợp. Chư tăng hướng dẫn tín chúng vào chánh điện ở nhà thờ Công Lý.
Ngài ngồi trong lễ đường nhà thờ Thiên Chúa giáo, và xem các đệ tử xuất gia trẻ đang hướng dẫn lễ tắm Phật, tượng trưng cho sự thanh tịnh hóa thân tâm.
Giảng Đường Phật Giáo, San Francisco
Có lần, Ngài bảo các học sinh đang học lớp viết chữ Tàu: Các con có thể phát triển công phu của mình trong mọi lúc. Các con có thể không cảm nhận được điều này.
Nhưng đối với Thầy, trong lúc viết chữ Tàu, luôn tự khống chế hơi thở của mình. Thật vậy, các con có thể học rất nhiều việc trong cuộc sống hằng ngày.
Ngài dạy chư đệ tử người MỸ cách thức vừa đi nhiễu, vừa tụng niệm. Khi đã thành một vòng tròn thì mất đi ý nghĩa của vị trí người đi trước và người đi sau cùng.
Người đi trước biến thành người đi sau cùng. Người đi sau cùng biến thành người đi trước. Mỗi người đều trở thành người đi sau cùng, và mỗi người đều biến thành người đi trước. Thật vậy, lý của vòng tròn là không có trước và sau. Ngài dùng ví dụ này để dạy về lý đấu tranh tham vọng, tham cầu lợi danh địa vị.
Trai Đường (nhà ăn), chùa Kim Sơn
Cây gỗ để sửa chữa chùa Kim Sơn có được là do sự cảm ứng của Bồ Tát Quán Âm. Ngày nọ, vợ chồng Quả Đồng, Lao Đốn, đệ tử của Ngài, biết một cơ sở thương mãi ở vùng Cựu Kim Sơn đang được kiến thiết, nên phải bỏ đi những gỗ cây cũ.
Ai ai cũng có thể lấy được mà không tốn tiền. Vợ chồng Lao Thốn báo tin này cho chùa. Sau đó một nhóm đệ tử trẻ được phái đi lấy củi đem về chùa. Những gỗ cây này là nguyên liệu chính để sửa chữa lại chùa Kim Sơn.
Những mãnh gỗ nhỏ còn dư lại được làm bàn ghế để trong nhà ăn. Ngài dạy những đệ tử người Tây Phương, không nên lãng phí vật dụng. Những nguyên liệu này được dùng tới dùng lui trong việc sửa chữa chùa Kim Sơn.
Đầu năm 1970, tại San Francisco
Kim Sơn Thiền Tự, Nghi Thức Truyền Cúng. Ngài hướng dẫn nghi thức Truyền Cúng lần đầu tiên. Khi ấy, một vị tỳ kheo đệ tử làm Pháp Chủ.
Từ lúc bắt đầu, Ngài huấn luyện các đệ tử bằng cách đặt họ vào vị trí lãnh đạo, còn chính Ngài thì luôn giữ thái độ khiêm cung; chỉ ban lời huấn dụ khi cần thiết.
Trì Giới thanh tịnh vô hà vết,
Trí tuệ quang chiếu biến đại thiên
dịch:
Trì giới thanh tịnh không tỳ vết,
Trí huệ chiếu sáng khắp đại thiên
1973, San Francisco
Lễ Khai Mở Viện Phiên Dịch Quốc Tế. Đây là nơi xuất bản những bản kinh tiếng Anh, được phiên dịch đầu tiên, đã hoàn thành. Trường tiểu học Dục Lương cũng được thành lập ở đây vào năm 1976.
1973, Viện Dịch Kinh Quốc Tế, San Francisco
Ngài khai quang điểm nhãn thánh tượng Quán Âm Bồ Tát, bốn mươi hai thủ nhãn, để trang nghiêm và hộ trì viện Dịch Kinh Quốc Tế. Ngài dạy tụng câu chú: Thập Phật ra, thập Phật ra. Tần đà ra, tần đà ra. Chân đà, chân đà. Hổ tín, hổ tín, tức đoạn đầu, phần thứ tư, trong chú Lăng Nghiêm. Ngài viết kệ, giải thích câu: Thập Phật ra, thập Phật ra, là:
Phật bảo phóng ánh sáng khắp nơi
Chiếu cùng pháp giới, tạng hư không
Chỉ rõ nhập vào chánh tri kiến
Vô thượng Bồ Đề, vua đại giác.
1973, San Francisco
Lễ xuống tóc, xuất gia tại chùa Kim Sơn vào tháng mười một.
1/ Hằng Phước, vốn là vị thí chủ của Giảng Đường Phật Giáo tại Hồng Kông.
2/ Hằng Phủ, khi chưa xuất gia, lần nọ, Thầy đến phỏng vấn Ngài. Tay Thầy cầm bao giấy, trong đó có một cây búa, mà vị đệ tử theo hầu Ngài chẳng biết. Đến khi Ngài hỏi ra, thì mới biết là trong bao giấy có cái búa.
3/ Hằng Trân, đã phiên dịch Sự Tích của ngài Tuyên Hóa, và Chú Giải Kinh A Di Đà của Ngài ra tiếng Tây Ban Nha.
4/ Hằng Không, thầy đã từng nhịn ăn trong bảy mươi hai ngày, trì chú Lăng Nghiêm tám giờ một ngày trong một khoảng thời gian, mỗi lần ngồi thiền trong tư thế kiết già khoảng mười hai giờ.
5/ Hằng Lộc, con trai độc nhất của một thương gia tại vùng San Francisco.
6/ Hằng Trầm, một phụ nữ đến từ Nam Phi.
Kim Sơn Thiền Tự, San Francisco
Giáo sư Edward Conze là một học giả Phật giáo nổi tiếng. Khi đang dạy tại đại học University of Washington, Seattle, một học sinh của ông ta là Ronald Epstein (hiện là giáo sư trường đại học San Francisco State University) viết bài luận án cho bản dịch của ông ta về bài kệ chú giải Tâm Kinh của ngài Tuyên Hóa.
Một học sinh khác của ông, sau khi tham dự pháp hội giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm trong mùa hè 1968, liền phát tâm xuất gia, pháp danh là Hằng Tĩnh.
Giáo sư Lewis Lancaster, khoa trưởng phân khoa Phật học tại đại học University of Berkeley, cũng là ủy viên chủ khảo luận án tiến sĩ của ông Ronald Epstein (tức giáo sư Ronald Epstein, hiện tại) về bài dịch Bảy Chỗ Hỏi Tâm của Ngài A Nan.
Thật rất kỳ lạ, trong hình chụp, hiện ra điềm lành, một bảo cái ba cạnh tám góc, màu trắng.
Redwood City, California
Giáo sư Lewis Lancaster thỉnh mời Ngài diễn giảng cho sinh viên đại học University of Berkeley nơi khu tu học tại Redwood City.
Nơi đó, Ngài giải thích cho thanh niên sinh viên về nguồn gốc của chữ Buddha. Chữ Buddha này được phiên dịch ra tiếng Tàu là Phật Đà Da.
Sau này được gọi tắt là Phật. Ngài bảo rằng nếu như sống vào thời phiên dịch chữ Buddha, thì Ngài sẽ đề nghị phiên dịch chữ Buddha ra tiếng Tàu là Bất Đại, nghĩa là không lớn.
Do vì Phật không lớn, không nhỏ, không đến không đi.
San Francisco
Sau cái chết đột ngột của Sơn Mỗ (Sufi Sam), vài thành viên của nhóm Huyễn Mộng Ca Ly, đồng mơ thấy Sơn Mỗ hiện về, ba lần trong một đêm.
Sơn Mỗ bảo: Nay mới hiểu rõ rằng tôi thật không đủ tư cách dạy các vị, vì tôi không thật chứng đắc.
Nay tôi rất lấy làm hối tiếc là tuy gặp ngài Tuyên Hóa mà không học được gì cả. Các vị phải nên đến chùa, quy y ngài Tuyên Hóa. Ngài Tuyên Hóa có đủ tư cách để dạy các vị. Ngài thật là vị đã chứng đắc.
Ngày kế, sau khi luận bàn về giấc mộng, nhóm người Huyễn Mộng Ca Ly, gọi điện thoại đến chùa Kim Sơn, hỏi thăm khi nào có lễ truyền tam quy y.
Quy y xong, họ thường đến chùa Kim Sơn để tu học, nghiên cứu Phật pháp. Sau khi trường tiểu học Dục Lương được thành lập vào năm 1976, họ cũng gởi con cái đến học.
*Năm 1974 Ngài thành lập trung tâm Bồ Đề Đạt Ma tại Seattle. Ngài giảng kinh Bốn Mươi Hai Chương, Sa Di Luật Nghi Yếu Giải.
Chư đệ tử hộ pháp cúng dường khu đất rộng gần năm trăm mẫu đất tại vùng bắc California.
Từ ngày hai mươi tháng mười một đến ngày mười hai tháng giêng năm kế, Ngài huớng dẫn chư đệ tử qua hoằng pháp tại Hồng Kông, Ấn Độ, Tân Gia Ba, Việt Nam, Đài Loan, v.v...
*Năm 1975 Ngài thành lập chùa Kim Luân tại Los Angeles. Ngài giảng chương Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông.
*Năm 1976, ngày ba mươi tháng tám, tại Vạn Phật Thánh Thành Ngài cử hành kỳ Truyền Thiên Phật Tam Đàn Đại Giới lần thứ hai. Ngài thành lập trường nam nữ trung học Bồi Đức và đại học Phật Giáo Pháp Giới.
(Phụ chú:
1974, Berkeley
Nhân ngày vía Quán Âm Bồ Tát Thành Đạo, Ngài chủ trì pháp hội phóng sanh tại Berkeley Marina, năm 1974.
Ý nghĩa phóng sanh: Nếu chúng ta tôn trọng quyền lợi tự do, việc sanh tồn của mọi loài chúng sanh, và thường phóng sanh thì áp bức, chiến tranh, và giết chóc có thể tận trừ mà không dùng võ lực. Chuyển tâm hận thù, ghen ghét, xâm lược, thành tâm từ bi, hòa bình.
Phóng sanh những chúng sanh xấu số, chúng ta có thể tự giải thoát chính mình và thế giới vượt ngoài nghiệp giết hại.
Berkeley, Pháp hội phóng sanh tại Berkeley Marina
Trong những năm Ngài vừa đến MỸ, đa số tín chúng là người Tây Phương, gồm nhiều sắc tộc, văn hóa khác nhau.
Đối với truyền thống, nghi thức Phật giáo, không ai biết đến cả.
Do đó, Ngài phải lập đi lập lại, giải thích, hướng dẫn về phương thức làm lễ, hoạt động v.v..., cho đến khi nhóm đệ tử thuần thành, hiểu rõ, hòa đồng sự hiểu biết và nhận thức. Trong hình, Ngài hướng dẫn các đệ tử đặt những hộp củi thành hình chữ Phật, trước khi làm lễ phóng sanh.
Vì số người xuất gia ngày càng đông, Ngài cần phải tìm một đạo tràng tương xứng.
Ngài cũng bỏ ra một phần thời gian, sức lực, mồ hôi, mệt mỏi tìm kiếm đạo tràng tương xứng để xây dựng tu viện, chánh điện, viện dịch kinh, trường học, trung tâm huấn luyện, viện dưỡng lão, nhà cư sĩ v.v...
Trong những ngày tìm kiếm chỗ, Ngài là người đầu tiên leo lên núi non, và cũng là người đi sau cùng.
1974, Seattle.
Ngài chủ trì pháp hội Hòa Bình Thế Giới. Hơn năm trăm người tham gia hoạt động trong ngày đó với tâm chân thành, một lòng cầu nguyện thế giới hòa bình.
Pháp hội Hòa Bình Thế Giới trùng hợp với ngày hai thầy Hằng Cụ và Hằng Do hoàn thành nguyện hạnh Đi ba bước, lễ một lạy, từ thành phố San Francisco đến thành phố Marblemount, Washington. Hai vị tỳ kheo khác, thầy Hằng Quán và Hằng Không, cũng tham dự pháp hội đó vào lúc đang nhịn ăn trong bảy mươi hai ngày.
Hai tỳ kheo, Hằng Cụ và Hằng Do, vì cầu thế giới hòa bình, nên hành nguyện Ba Bước Một Lạy, từ thành phố San Francisco đến thành phố Marblemount, Washington. Cuộc hành trình bắt đầu vào tháng mười năm 1973 và hoàn thành vào tháng tám năm 1974. Đây là cuộc hành trình kỳ đặc trong lịch sử Phật giáo thế giới.
Thầy Hằng Quán và Hằng Không tuyệt thực trong bảy mươi hai ngày, không ăn uống chi cả, chỉ uống một ly nước lạnh vào mỗi ngày. Hình Ngài chụp với hai thầy Hằng Quán và Hằng Không (đang đứng), và Quả Hồi (cũng nhịn ăn trong ba mươi lăm ngày).
Kim Sơn Thiền Tự, San Francisco
Ngài cho thầy Hằng Cụ bánh pie, chúc mừng thầy hoàn thành nguyện hạnh Ba Bước Một Lạy từ thành phố San Francisco đến thành phố Marblemount, Washington. Câu chuyện xảy ra như sau:
Thầy Hằng Cụ, khi còn làm cư sĩ, học hạnh ăn một ngày một buổi, nhưng rất khó. Ngày nọ, trên đường đi làm về, chàng mua một hộp bánh pie, rồi bỏ vào túi áo choàng. Trong lúc nghe giảng kinh thuyết pháp vào buổi tối, chàng không nhớ nghĩ chi hết ngoại trừ hộp bánh pie. Thế nên, chàng nóng lòng, mong đợi buổi giảng kinh sớm kết thúc để được ăn bánh pie.
Nghe giảng kinh xong, không nói lời nào với ai, chàng lẳng lặng trèo lên cầu thang ống khói để leo lên trên nóc nhà.
Chàng bắt đầu đi vòng vòng, rồi mở hộp bánh pie ra ăn; cắn một miếng bánh to tướng. Đang khi đi vòng vòng ống khói trên nóc nhà, đột nhiên chàng thấy Ngài, cũng vừa leo lên cầu thang. Ngài bắt đầu đi rảo, ngược vòng và đối diện với chàng.
Lúc đó, miệng chàng đang ngậm một miếng bánh pie to tướng, nên không thể nói năng chi được. Chàng chỉ cuối đầu lễ bái và tiếp tục đi vòng vòng. Như thế, họ đi ngược và đối diện với nhau cả thảy ba vòng. Lần thứ ba, Ngài hỏi chàng: Con cảm thấy thế nào?.
Sau đó, Ngài bước xuống cầu thang.
THÁNG MƯỜI 1974, SÀI GÒN, VIỆT NAM
Phương Quả Ngộ, đệ tử của Ngài, là người thường đi du lịch khắp thế giới.
Bà cùng chồng sống ở Sài Gòn.
Nơi đây, họ có rất nhiều cơ sở và đất đai.
Trước khi tình hình chính trị biến đổi ở Sài Gòn, Ngài Tuyên Hóa đột nhiên gọi điện thoại cho vợ chồng bà.
Khi đó, cả hai vợ chồng đều ở nhà. Bà Phương Quả Ngộ rất ngạc nhiên về cú điện thoại đó, nên nhanh nhẩu hỏi Ngài rằng có việc gì quan trọng không.
Được trả lời là không có việc gì quan trọng hết, nhưng trong lúc điện đàm, Ngài khuyên hai vợ chồng là nếu không có gì đặc biệt, nên thu xếp công việc làm ăn gọn gàng, để qua MỸ sớm.
Tuy thế, họ không nghe lời khuyên của Ngài mà qua MỸ sớm. Kết quả, sau khi tình thế chính trị thay đổi, họ bị mất mát hơn nửa gia tài.
1975, Oregon:
Ngài hướng dẫn bốn chúng đệ tử đến tu hành tại một khu rừng ở tiểu bang Oregon. Nơi đó, Ngài cử hành pháp hội niệm danh hiệu Phật A Di Đà ngoài trời.
Ngài cũng giải thích về pháp môn Tịnh Độ, tức luôn niệm danh hiệu Phật A Di Đà.
Đang lúc giải thích về phương pháp niệm Phật trong cuộc sống hằng ngày, ánh đèn dầu đột nhiên phực lên một luồn hào quang tỏa sáng, bao trùm xung quanh đầu Ngài.
Oregon
Trong hình, Ngài đang chủ trì lễ phóng sanh tại bờ biển Oregon, vào lúc cực điểm của kỳ Phật thất tại Phật Căn Địa, tức vùng đất có căn tánh Phật. Ngài dùng nhiều phương tiện thiện xảo để dẫn dắt thanh niên người MỸ, bước vào cửa Phật. Sau kỳ Phật thất kết thúc, Ngài dời toàn bộ hội tràng từ trong khu rừng ra đến ngoài bãi biển. Khi hoàng hôn vừa xuống, mọi người đều hướng về phía tây, phát nguyện cầu vãng sanh cõi Tây Phương Cực Lạc, và hồi hướng công đức lành tu tập, cho tất cả chúng sanh.
Trong hình, Ngài và pháp sư Huệ Sanh, cùng các đệ tử xuất gia, giảng pháp cho sinh viên đại học. Có những năm, Ngài thường đến các trung tâm giáo dục, để giảng kinh thuyết pháp, như đại học University of California at Berkeley và Davis; the University of Southern California, Los Angeles; Stanford University; the University of Wisconsin; the University of Minnesota; Humbolt State University; the University of Oregon; the University of Washington; the University of Hawaii; the University of British Columbia.
1976, SANTA CLARA
Tại Công Viên Trung Ương, Ngài thuyết giảng cho thanh niên MỸ nghe về đề mục: Tinh Thần Hòa Bình. Trong hình này, chứng minh rõ ràng rằng Ngài có nhiều nhân duyên với thanh niên người MỸ. Đến bất cứ chỗ nào, thanh niên người MỸ luôn bị thu hút bởi lòng từ bi ấm áp, lời ngay thẳng, siêu vượt chướng ngại của ngôn ngữ và văn hóa, năng lực tương thông thần kỳ của Ngài.
Do đức hạnh tu hành, Ngài cảm hóa được những thanh niên người MỸ, khiến họ từ từ dẹp bỏ tâm niệm Sống phóng túng và tự do cá nhân, và lần lần nghiên cứu, học Phật pháp, như trì thánh hiệu Phật A Di Đà. Hình chụp những thanh niên người MỸ, đi nhiễu và niệm Phật theo các vị tăng ni.
1976, San Francisco
Ngài chủ trì buổi lễ cạo tóc xuất gia. Trong năm, có thêm bốn vị thanh niên nam nữ, phát tâm tu đạo, gia nhập tăng đoàn, như thầy Hằng Thật, Hằng Thuận, sư cô Hằng Cư, và một vị tăng người Á Châu (đây là vị đệ tử xuất gia người Á Châu đầu tiên, kể từ khi Ngài qua MỸ).
Thập niên 70, tại Kim Sơn Thánh Tự
Các đệ tử đang nghe Ngài giảng kinh Hoa Nghiêm Sao Tự của kinh Hoa Nghiêm, Sớ Sao kinh Hoa Nghiêm.
Trong những buổi giảng kinh, Ngài thường khuyến khích các đệ tử chuẩn bị, tập giảng kinh. Các vị đệ tử thường không bao giờ biết được là Ngài sẽ gọi tên ai lên tập thuyết pháp.
Các đệ tử thường dùng máy nghe để lắng nghe tiếng Tàu, trong lúc tiếng Anh đang được phiên dịch. Đồng thời, có các đệ tử, vừa lắng nghe tiếng Tàu vừa đánh máy và phiên dịch kinh ra tiếng Anh trong phòng cách âm.
Ngài luôn tùy duyên lành mà hóa độ chúng sanh. Làm bất cứ phương tiện thiện xảo gì, Ngài đều nhắm vào việc giáo hóa chúng sanh. Ví như những việc mà Ngài cho phép các đệ tử làm cho mình, không nhất định là do ý muốn.
Ví như, trong lúc giảng kinh, các đệ tử thường thích đem nước uống cho Ngài dùng. Thời gian sau, một trong những người đệ tử, vì lo chuẩn bị nước uống cho Ngài, nên bỏ buổi tụng kinh chiều. Ngài không thích việc này, nhưng không nói điều chi. Sau này, Ngài bắt đầu than phiền là tách nước mà người đệ tử mang nước uống cho Ngài, rất là dơ. Việc than phiền này không kết quả, nên cuối cùng, Ngài dùng phương pháp khác. Tối hôm nọ, Ngài uống gần cạn hết nước trong tách, rồi bắt đầu cố ý nhìn chăm chú vào tách nước đó. Chẳng bao lâu mọi người đều để ý đến sự chăm chú nhìn tách nước của Ngài. Khi đó, trong lúc xem xét tách nước, Ngài gọi thầy Hằng Tĩnh lên nơi tòa giảng kinh, rồi tuyên bố rằng có một con trùng trong tách nước. Thế nên, Ngài bảo thầy Hằng Tĩnh hãy nhìn vào tách nước và nói với đại chúng những gì mà thầy thấy. Thầy Hằng Tĩnh ngó vào tách nước rồi nói:
- Những gì con thấy chỉ là trong nước có cặn cáu.
Ngài bảo:
- Không phải là cặn cáu, mà là con trùng. Hãy đưa chuyền tách nước này cho mọi người xem.
Thầy Hằng Tĩnh làm theo lời dạy của Ngài. Những đệ tử nhìn xem xét rõ ràng, thì chỉ thấy một lớp cặn cáu bên dưới đáy tách nước. Chuyền vòng vòng giảng đường xong, cuối cùng tách nước được mang về và đặt trên bàn giảng kinh của Ngài.
Ngài tiếp tục giảng kinh Hoa Nghiêm. Nhưng trong những lúc các đệ tử phiên dịch lời giảng giải ra tiếng Anh thì Ngài đều nâng tách nước lên và nhìn chăm chú vào đó. Cuối cùng, Ngài lại gọi thầy Hằng Tĩnh lên trên bục giảng, bảo:
- Hãy nhìn kỸ vào đó, rồi nói cho thầy nghe những gì con đã thấy.
Thầy Hằng Tĩnh ngó vào tách nước, rồi kinh hoàng phản ứng:
- Sao lạ kỳ vậy! Một con trùng hiện rõ trong tách nước.
- Hãy chuyền vòng vòng.
Lần này các đệ tử thật sự thấy rõ một con trùng tám chân, sắc thân năm màu, không giống như những con trùng trên thế giới này. Tối đó, mọi người đều thấy được những gì mà họ chưa từng thấy, còn thầy dâng nước lên cho Ngài cũng học được một bài học.
Sau việc này, Ngài dạy:
- Thầy không muốn là người mà khiến cho con phải bỏ mất buổi tụng kinh chiều. Thầy không có đủ phước đức, nên không muốn chịu trách nhiệm về nhân quả này.
Tháng tám, năm 1976, Vạn Phật Thánh Thành.
Lần thứ nhất tại Vạn Phật Thánh Thành tổ chức Tam Đàn Đại Giới. Khi đó, Ngài làm vị Đắc Giới Hòa Thượng. Đặc biệt, trong lần truyền giới này, có sự chứng minh của nhị vị hòa thượng người Việt Nam là hòa thượng Đức Niệm và cố hòa thượng Thiện Thanh.)
Vạn Phật Thánh Thành
Do đức hạnh của Ngài chiêu cảm, càng ngày có thêm nhiều thiện nam tín nữ, phát tâm xuống tóc tu hành, gia nhập tăng đoàn.
BAN PHƯỚC LÀNH CHO RÙA
Sau khi được thả xuống nước, những con rùa trong hình, không nở rời xa ân nhân của chúng, nên quay đầu lại nhìn, trước nguyên do được thả kỳ lạ. Việc xoay đầu lại nhìn, biểu thị sự cảm ân của chúng, khiến Ngài nhoẽn miệng cười, âm thầm ngửa tay ra để ban phước lành cho chúng.
1977, Vạn Phật Thánh Thành
Khi phái đoàn tôn giáo đến thăm Vạn Phật Thánh Thành, ngài bảo hồng y Vu Bình:
Ngài là Phật Tử giữa những người thiên chúa giáo, còn tôi sẽ là người Thiên Chúa giáo giữa những người Phật Tử.
Hồng y Vu Bình đồng ý.
1977, Tại công viên cầu Kim Môn.
Tín chúng đang trên đường đến công viên cầu Kim Môn, để tham gia pháp hội Cầu Mưa, hy vọng giải trừ hai năm hạn hán đã khiến vùng California, trở nên khô cằn.
1977, Tại công viên cầu Kim Môn.
Mọi người đều luân phiên niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm và chú Cầu Mưa. Cộng thêm, có những bài pháp, giảng về lý nhân quả căn bản: Tại sao trời không mưa? Chỉ vì chúng ta quá tham lam ích kỶ, tiêu xài nước hoang phí. Nếu biết tự nhận ra lỗi lầm này mà thành tâm sám hối, thì sẽ được cảm ứng.
Người tham gia pháp hội Cầu Mưa, lần lần tăng thêm. Đại chúng vừa xướng tụng, vừa lễ bái. Trong lúc mọi người tụng niệm chú ngữ Cầu Mưa thì nền trời bắt đầu hiện lên những áng mây trắng, và gió cũng thổi đến.
Có mưa không? Vâng, đã có mưa. Sáng ngày hôm sau, tại huyện Mendocino, phía bắc thành phố Cựu Kim Sơn (Vạn Phật Thánh Thành nằm trong huyện này), báo chí đăng tải là đã có mưa. Đến 11:30 giờ trưa cùng ngày, mưa xuống khắp thành phố Cựu Kim Sơn. Những phóng viên nhà báo, trở lại Max Meadow, nơi mà họ đã đến và viết tin tức về pháp hội Cầu Mưa vào ngày hôm trước, để tường thuật sự việc, ngay tại nơi đây. Cô phóng viên tường thuật: Nơi đây, một bàn thờ do các Phật tử thiết lập để cầu mưa. Trời vừa đổ mưa thuận theo lời cầu nguyện của họ. Hôm nay, một vũng nước lớn đọng nơi bàn thờ được thiết lập.
Ngài ở lại chùa, không đến tham gia pháp hội Cầu Mưa tại công viên cầu Kim Môn, nhưng trực tiếp chỉ đạo toàn pháp hội.
Mùa xuân năm 1978, Vạn Phật Thánh Thành
Hội thảo về đề tài Tử vong và lâm chung. Một phần của hai gốc cây Ái Kiết, là chủ đề trong cuộc hội thảo về Tử vong và lâm chung.
Gốc cây này được tìm thấy trong chùa trong dịp hội thảo, và được mang đến cho Ngài. Ngài giải thích rằng gốc cây này chính là một cặp vợ chồng. Trong đời tiền kiếp, họ đã cùng nhau thề nguyền rằng đời đời kiếp kiếp sẽ không mãi rời nhau. Do vì cộng nghiệp, đời này họ trở thành hai gốc cây, vĩnh viễn ôm bọc lấy nhau. Ngài bảo: Ái tình vốn là cội gốc của dòng sanh tử luân hồi.
Ngài thuyết pháp trong kỳ thiền thất vào mùa đông. Mỗi năm, Vạn Phật Thánh Thành luôn tổ chức thiền thất vào mùa đông. Thiền thất chiếm khoảng vài tuần. Mỗi ngày, thiền sinh ngồi thiền từ ba giờ sáng đến mười hai giờ tối. Giữa mỗi lần ngồi, thiền sinh có hai mươi phút nghỉ ngơi. Vào buổi chiều, được nghỉ khoảng một giờ. Dưới sự dạy dỗ kiên nhẫn của Ngài, các đệ tử dần dần học những phương cách ngồi thiền. Khi đó, mọi người đều ngưng mọi công việc hằng ngày để tham gia vào kỳ thiền thất hiếm hoi này.
Tiểu trai đường (nhà ăn nhỏ) tại Vạn Phật Thánh Thành. Lúc đầu, tại Vạn Phật Thánh Thành, tất cả mọi vật đều rất đơn giản. Ngài thường cùng với các đệ tử tỳ kheo, tỳ kheo ni thọ trai. Củi đốt trong nhà sưởi là nguồn nhiên liệu chính để sưởi ấm đại chúng trong lúc ăn cơm.
Phòng Vô Ngôn.
Ngài hiển thị Tam Muội Du Hý, trong lúc đang dạy về thần chú Thủ Lăng Nghiêm tại phòng Vô Ngôn. Mỗi câu chú, Ngài đều làm một bài kệ, bao hàm những nghĩa lý nhà Phật thâm thúy.
Ái nhân bất thân cố kỳ nhân
Lễ bỉ phất đáp kính vị chân
Hồi quang phản chiếu cầu chư kỶ
Cảm ứng đạo giao mạt mê thần
dịch:
Thương người, người chẳng gần, hãy nhìn lại lòng nhân từ của mình.
Lễ người, người chẳng đáp, lòng cung kính của mình chưa chân thật.
Xoay ánh sáng lại vào mình, tìm giải đáp từ bên trong.
Cảm ứng đạo giao, chớ bị mê muội vì thần.)
*Năm 1977, mồng bảy tháng giêng, hai đệ tử xuất gia người MỸ, Hằng Thật và Hằng Triều, vì cầu nguyện hòa bình thế giới, phát nguyện hành ba bước một lạy, từ chùa Kim Luân, Los Angeles, đến Vạn Phật Thánh Thành, bắc California. Tháng mười một, ông Vu Bình, hồng y Thiên Chúa giáo, hướng dẫn phái đoàn các tôn giáo đến viếng thăm Vạn Phật Thánh Thành.
(Phụ chú:
Vùng biển phía tây, MỸ quốc.
Hai thầy Hằng Thật và Hằng Triều phát tâm cuộc hành hạnh ba bước một lạy. Trong thời gian này, Ngài lập ra năm tông chỉ: Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỶ, không tự lợi. Sau này, tại Vancouver, Ngài cộng thêm một tông chỉ nữa là không nói láo.)
*Năm 1978, từ ngày ba mươi tháng bảy đến ngày hai mươi bảy tháng chín, thể theo lời thỉnh mời của các hội Phật Giáo vùng Đông Nam Á, Ngài hướng dẫn phái đoàn hoằng pháp Á Châu, thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới, Đại Học Phật Giáo Pháp Giới qua Mã Lai Á, Tân Gia Ba, Thái Lan, Hồng Kông. Trong mười hai ngày hoằng pháp tại Mã Lai Á, có hơn sáu ngàn người thọ giới quy y Tam Bảo. Từ mồng mười đến ngày mười bảy tháng chạp, Vạn Phật Thánh Thành cử hành lễ truy niệm và cầu siêu độ trong bảy ngày liền cho hồng y Vu Bình, thị trưởng thành phố Cựu Kim Sơn George Moscone, cùng bao linh hồn tử nạn trong pháp giới. Vào lúc ấy, Ngài giảng kinh Địa Tạng.
(Phụ chú:
1978 Mã Lai Á.
Khi Ngài qua Đông Nam Á hoằng pháp,trên đường ghé lại Mã Lai Á, thầy Hằng Triều và sa di Quả Đồng đều bị bịnh, nên đồng tịnh dưỡng tại một căn phòng.
Vì bịnh tình thầy Hằng Triều rất nghiêm trọng, nên Ngài bảo thầy Hằng Thật trông coi ngày đêm. Trưa hôm nọ, đang lúc tụng chú Đại Bi, sa di Quả Đồng chợt ngủ gục, đột nhiên thấy quỶ vô thường cỡi gió lạnh đến. Việc này cả hai thầy kia đều cảm giác được. Thân ốm gầy, đội nón cao, quỶ vô thường tuyên bố là thời gian đã đến, Quả Đồng nên đi theo nó.
Giữa ranh giới sống chết, Quả Đồng run rẩy, lập tức vội vã niệm chú Đại Bi. Khi đó, thầy Hằng Triều đang nửa mê nửa tỉnh.
Mặc dầu bận rộn mệt mỏi vì thuyết pháp cả ngày, nhưng Ngài vẫn từ bi đến thăm, nâng tay thầy Hằng Triều lên, khiến cho thầy từ từ mở mắt, tỉnh giác được hoàn cảnh xung quanh. Diêm Vương muốn thầy Hằng Triều chết.
Vì vậy, Ngài bắt ấn viết chú đến cho Diêm Vương. Ngài nói rằng vị đệ tử này, rất thành tâm phụng đạo. Do đó, trong bất cứ hoàn cảnh nào, Ngài cũng không cho phép Diêm Vương bắt đi. Sau đó Diêm Vương được thuyết phục và thầy Hằng Triều từ từ bình phục trở lại.
Từ đó, cả hai thầy, Hằng Triều và Quả Đồng, nghiệm được bài học là khởi nhiều vọng tưởng rất nguy hiểm, phải nên dụng công tu hành trong đất tâm, tránh khởi tâm niệm ô trược. Sau khi lành bịnh, Ngài từ bi bảo thầy Hằng Triều:
Thầy tận lực thuyết phục Diêm Vương để cho con tiếp tục sống. Công đức tu hành tích tụ sau bao năm, nay đã hết trọn. Tuy vậy, đừng lo lắng, con vẫn có thể tích công bồi đức, vì Phật pháp mà nỗ lực tinh tấn tu hành.
Đi đứng nằm ngồi
Chớ rời vật này.
Rời xa vật này
Sẽ là sai lầm.
Phòng Vô Ngôn, Vạn Phật Thánh Thành.
Ngài giải thích cho các đệ tử về quyển Phật Tổ Đạo Ảnh. Mỗi vị tổ, Ngài viết tám câu kệ. Trong lớp, Ngài dùng những chủ đề: Động lực thôi thúc phát triển trí năng chủ quan, làm phương thức dạy. Các đệ tử, theo sự chỉ dẫn, thay phiên nhau, lên bảng viết, giải thích những câu kệ này bằng tiếng Anh và tiếng Tàu. Sau khi các đệ tử thực tập giảng giải xong, Ngài mới bắt đầu giải thích những câu kệ đó. Những lớp học như vầy, kéo dài khoảng bốn năm tiếng, bao gồm rất nhiều đề tài. Phụng sự giáo dục của Ngài là điều căn bản mà các đệ tử phải nhớ đến.
Ngài dạy học rất sớm (khoảng sáu giờ hay sáu giờ rưởi), với nhiều lý do:
1/ Những người lo việc nấu nướng có thể tham dự lớp học trước khi đến nhà bếp làm việc.
2/ Thầy cô giáo và học sinh có thể tham dự trước khi đến trường học.
3/ Ngài có thể đi xuống thành phố Cựu Kim Sơn sớm.
Thỉnh thoảng, vừa lúc từ thành phố Cựu Kim Sơn trở về Vạn Phật Thánh Thành, Ngài liền dạy học, không nghỉ ngơi chút nào.)
*Năm 1979, trường tiểu học Dục Lương được dời về Vạn Phật Thánh Thành. Ngày mười bốn tháng ba, trong cuộc đàm luận với Quentin Kopp, ủy viên đoàn Tổng Quản thành phố Cựu Kim Sơn, Ngài tiên đoán rằng chủ nghĩa Cộng Sản sẽ tan rã trong vòng mười năm.
Tháng mười, ngày hai mươi tháng tám, kỳ truyền Tam Đàn Đại Giới lần thứ ba tại Vạn Phật Thánh Thành được viên mãn. Mồng bốn tháng mười một:
1/ Lễ khai quang thánh tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát.
2/ Khai mở đại học Phật Giáo Pháp Giới.
3/ Ngài hoàn tất giảng toàn bộ kinh Hoa Nghiêm trong chín năm.
4/ Đệ tử xuất gia người MỸ, Hằng Thật và Hằng Triều, hoàn tất hành trình ba bộ một lạy.
Ngài giảng Văn Khuyến Phát Bồ Đề Tâm, sớ kệ chú giải về chú Thủ Lăng Nghiêm, kinh Di Giáo.
*TỪ NĂM 1980 ĐẾN NĂM 1986, NGÀI THÀNH LẬP TRUNG TÂM CỨU TRỢ NGƯỜI TỊ NẠN ĐÔNG NAM Á (VIỆT NAM, LÀO, CAM BỐT).
*Năm 1981, vào tháng chạp, Ngài tham dự đại hội Tăng Già Phật Giáo Quốc Tế lần thứ ba tại Đài Loan.
Từ Ngày hai mươi chín tháng mười một đến ngày hai mươi chín tháng chạp, Ngài hướng dẫn phái đoàn hoằng pháp Á Châu thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới và Đại Học Phật Giáo Pháp Giới, lần thứ hai qua Đài Loan, Hồng Kông, Tân Gia Ba, Mã Lai Á.
Ngài thuyết pháp tại các trường đại học như Berkeley, Davis, Oregon, San Francisco State.
Ngài giảng phẩm Tịnh Hạnh. Ngày hai mươi bốn tháng mười, kỳ truyền Tam Đàn Đại Giới tại Vạn Phật Thánh Thành lần thứ tư viên mãn.
Tháng mười một , Vạn Phật Thánh Thành tổ chức đại lễ khánh thành ba cổng sơn môn, Vạn Phật Bảo Điện, Ngũ Quán Đường.
Hàng ngàn người trong và ngoài nước như Đài Loan, Hồng Kông, Mã Lai Á, Tân Gia Ba, v.v... đến tham dự đại lễ. Ngài khai mở chương trình huấn luyện Tăng Ni và Cư Sĩ.
(Phụ chú:
1979, Vạn Phật Thánh Thành.
Tam Đàn Đại Giới lần thứ ba. Lần truyền giới này, được sự tham gia của các vị giới sư người Tàu, người Việt (hòa thượng Đức Niệm), người Tích Lan, người MỸ.
Đây là biểu tượng đoàn kết thống nhất giữa những quốc gia Phật giáo, và nhất là hai truyền thống Bắc Tông và Nam Tông.
Tháng mười một, tại chánh điện Vạn Phật Thánh Thành, Ngài làm lễ khai quang thánh tượng Quán Âm Bồ Tát, ngàn tay ngàn mắt.
Bao quanh Ngài là các đệ tử tỳ kheo trẻ tuổi người MỸ và người Á Châu. Từ trái sang phải: Thầy Hằng Tá, Hàng Triều, Hằng Vô, Hằng Thật, Hằng Cống, và sa di Quả Nhi.
Các đệ tử của vị Lạt ma Karmapa gọi điện thoại đến chùa Kim Sơn Rất nhiều lần để mong tiếp chuyện với Ngài, nhưng Ngài không nhận. Sau đó, tự thân họ đến gặp, nhưng Ngài cũng không tiếp đón. Cuối cùng họ nhắn tin lại là Lạt ma Karmapa đang bị bịnh ung thư trầm trọng. Sau khi Ngài biết được tin này, bịnh tình của Lạt ma Karmapa bớt được phần nào. Sau này, tự thân Lạt ma Karmapa đến thăm Ngài tại Vạn Phật Thánh Thành.
Tuy không nói rõ, nhưng lần thăm viếng này là biểu thị sự cảm ân của Lạt ma Karmapa đối với Ngài. Bất cứ Lạt ma Karmapa đi đến đâu, các đệ tử đều bày biện tràng phan bảo cái. Thế nên, lần thăm viếng Vạn Phật Thánh Thành này không vượt ngoài ngoại lệ. Vì vậy, một chiếc xe chở đầy đệ tử của Lạt ma Karmapa đi sớm một giờ, để họ có thể đến Vạn Phật Thánh Thành trước, hầu mong chuẩn bị cờ xướng, trống kèn Tây Tạng, v.v...
Ai ngờ được xe của họ bị hư giữa đường. Hơn một giờ sau mới chạy được. Họ rất nóng lòng, lo lắng vì biết rằng không thể tới Vạn Phật Thánh Thành trước khi Lạt ma Karmapa đến. Vì thế, Vạn Phật Thánh Thành rất an tĩnh khi Lạt ma Karmapa đến. Lúc đó, Ngài cùng đại chúng đang thọ trai. Lạt ma Karmapa cùng với thị giả tự thân đến tìm Ngài tại nhà ăn.
Ngài mời họ ngồi vào hàng ghế bên cạnh cho đến khi thọ trai xong. Sau khi thọ trai, Ngài cùng Lạt ma Karmapa đi đến phòng phương trượng.
Vừa đến phòng khách, đệ tử của Lạt ma Karmapa liền trải một mảnh lụa rất đẹp và trang hoàng những vật quý giá khác. Lạt ma Karmapa ngăn họ lại, bảo: Không! Không! Không phải chỗ này. Hãy dẹp hết đi!
Sau đó, Lạt ma Karmapa kéo một cái ghế, ngồi bên cạnh Ngài. Hai vị đàm luận thân mật. Khi đó, Ngài khuyên Lạt ma Karmapa nên xả bỏ tất cả, chánh thức xuống tóc xuất gia làm tăng. Ý của Ngài là khuyên Lạt ma Karmapa nên xả bỏ hết tất cả thanh danh, lợi dưỡng, thì thọ mạng mới được dài lâu. Nếu tiếp tục làm những lễ Quán Đảnh, phung phí hết tinh lực quý báu, thì không có cách nào để bảo tồn sanh mạng. Lạt ma Karmapa không thể tiếp thọ lời khuyên của Ngài, nên sau lần thăm viếng đó, chẳng bao lâu qua đời.)
*1983, mồng hai tháng giêng, chùa Kim Luân cử hành lễ khai quang. Tượng Ngọc Phật phóng hào quang, tỏa điềm lành.
Ngài giảng kinh Dược Sư, Niết Bàn, Luận Ngữ. Vạn Phật Thánh Thành bắt đầu lập truyền thống lễ bái Vạn Phật Bảo Sám hằng năm, trước ngày đại lễ Phật Đản.
Từ tháng mười một đến tháng giêng năm kế, Ngài phái các đệ tử thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới, đại học Phật Giáo Pháp Giới, lần thứ nhất qua Ấn Độ, Tân Gia Ba, Thái Lan, Miến Điện, Ấn Độ Dương, Đức quốc, Úc Châu, Pháp quốc, và Anh quốc hoằng pháp.
*Năm 1984, Ngài thành lập chùa Kim Phong ở Seattle, chùa Kim Phật ở Vancouver, Gia Nã Đại. Ngày hai mươi bảy tháng năm, đại học Phật Giáo Pháp Giới cử hành lễ tốt nghiệp đầu tiên. Ngài giảng chương Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông.
*Năm 1985, Ngài giảng Chứng Đạo Ca của đại sư Huyền Giác, Thủy Kính Hồi Thiên Lục, Văn Khuyến Phát Bồ Đề Tâm.
(Phụ chú:
Tháng mười hai năm 1985.
Lúc pháp sư Hải Đăng qua MỸ thăm viếng Ngài, cùng đi có các viên chức chánh phủ cao cấp. Họ quay một cuốn phim về võ thuật của pháp sư Hải Đăng. Pháp sư Hải Đăng cũng truyền môn Đồng Tử Công căn bản cho các đệ tử của Ngài với điều kiện là không thể truyền công phu này ra ngoài. Ngài cũng thỉnh pháp sư Hải Đăng giảng kinh Lăng Nghiêm phần Tứ chủng thanh tịnh minh hối (lời dạy của Phật về bốn loại thanh tịnh). Ngài tán thán ca ngợi pháp sư Hải Đăng và nói rằng chỉ có những vị giữ giới thanh tịnh và tâm chánh trực mới có khí chất dũng mãnh giảng giải về đoạn kinh văn này. Để biểu hiện sự cung kính đối với pháp sư Hải Đăng, Ngài cùng các đệ tử cùng nhau quỳ xuống nghe giảng kinh.
Vào những năm cuối của thập niên tám mươi.
Dầu Ngài đi đến nơi nào, chúng sanh trong chín pháp giới đều tôn trọng cung kính. Những ai mở mắt thần (thiên nhãn thông) thỉnh thoảng có thể thấy họ, còn những người thường thì không thể thấy. Tuy chỉ có mắt thịt, nhưng đối với người có tâm thâm tín thì cũng có thể cảm nhận được. Với đức hạnh cao vời, Ngài cảm hóa được những chúng sanh hữu hình lẫn vô hình.
Lần nọ, khi thăm viếng một đạo tràng chi nhánh tại Gia Nã Đại, có một con rồng, ở nơi đây, đợi Ngài đã hơn hai ngàn năm, đến thọ giới quy y với Ngài.)
*Năm 1986, chùa Kim Sơn dời về địa điểm mới ở khu phố Tàu vùng Cựu Kim Sơn. Ngài thành lập hội in kinh Phật Giáo Pháp Giới tại Đài Loan.
Từ mồng bốn đến mồng sáu tháng bảy, Vạn Phật Thánh Thành tổ chức lễ kỶ niệm mười năm thành lập.
Mồng sáu tháng bảy, lễ tốt nghiệp chương trình huấn luyện Tăng Ni và Cư Sĩ lần đầu tiên được cử hành.
Ngài thành lập chùa Hoa Nghiêm ở Calgary, Gia Nã Đại.
*Năm 1987, ngày hai mươi chín tháng giêng, chùa Kim Sơn cử hành lễ khai quang ba tôn tượng đức Như Lai.
Ngày hai mươi hai tháng ba, nhân dịp vía Bồ Tát Phổ Hiền. Chùa Kim Phong cử hành lễ khai quang thánh tượng chư Bồ Tát Phổ Hiền, Văn Thù, Vi Đà, Già Lam.
*1987, mồng mười tháng năm, nhân dịp lễ vía Bồ Tát Văn Thù, chùa Kim Sơn cử hành lễ khai quang thánh tượng Văn Thù và Phổ Hiền.
Tháng bảy, Ngài tham dự và diễn giảng tại các hội nghị ở NewYork, Texas, vùng tây ngạn nước MỸ.
Từ ngày mười tám đến ngày hai mươi bốn tháng bảy, Ngài chủ trì lễ Thủy Lục Không, thỉnh gần một trăm vị tăng từ Trung Quốc đại lục qua dự. Lần đầu tiên trong lịch sử Phật Giáo Trung Quốc, có nhiều người Tàu từ nội địa lẫn hải ngoại đến tham dự đại lễ.
Tháng tám, Ngài khai mở hội nghị Liên Kết Các Tôn Giáo Trên Thế Giới. Ngài mời đại diện các đoàn thể Phật Giáo, Nho Giáo, Cơ Đốc Giáo, Hồi Giáo, và Đạo Giáo đến bàn thảo về những vấn đề nghiêm trọng trong xã hội hiện thời như luân lý, gia đình, khoa học, kỸ thuật, tôn giáo, giáo dục, v.v...
Cũng trong tháng tám, Ngài được mời đến trường đại học Berkeley tham dự đại hội liên tôn giữa Phật Giáo và Gia Tô Giáo, và thuyết giảng về đề tài: Thiền và cầu nguyện.
(Phụ chú:
1987, Vạn Phật Thánh Thành.
Đáp ứng lời mời của Ngài, phái đoàn tăng sĩ Phật giáo từ Trung Hoa lục Địa do pháp sư Minh Dương (phó chủ tịch hội Phật Giáo toàn Trung Quốc), pháp sư Chân Thiền, pháp sư Diệu Thiện, hướng dẫn, đến thăm viếng và làm lễ Thủy Lục Không tại Vạn Phật Thánh Thành.
Trong kỳ pháp hội Thủy Lục Không này, toàn thể tăng chúng ở tại nội đàn, ngoại đàn (mỗi đàn phân làm sáu đàn nhỏ), mỗi ngày đồng tụng kinh, niệm Phật, lễ sám. Tối đến, làm lễ Diệm Khẩu Từ Bi để siêu độ tất cả chúng sanh vô hình đang bị khổ nạn. Tất cả công đức trong kỳ pháp hội này đều hồi hướng về tất cả chúng sanh ở trên mặt đất, dưới nước hay trên không.)
*Năm 1988, mồng sáu tháng tư, thư ký tiểu bang California, bà Giang Nguyệt Trụ, đến viếng thăm chùa Kim Sơn. Ngài đến đại học British Columbia ở Gia Nã Đại, thuyết giảng về đề tài: Đại Học Yếu Chỉ, Nho Giáo, Căn Bổn Làm Người, Làm Thế Nào Để Phát Huy Truyền Thống MỸ Đức Trung Quốc Trong Xã Hội Hiện Tại, Truy Tầm Trí Huệ và Hòa Hợp.
Ngày hai mươi tám tháng tám, Ngài chủ tọa hội nghị tôn giáo, luân lý, khoa học, giáo dục, triết học, học thuật, và thuyết giảng đề tài: Chân nghĩa của sự đào sâu tiềm năng trí huệ của nhân loại.
Mồng mười tháng chín, Vạn Phật Thánh Thành cử hành đại lễ khai quang thánh tượng Bồ Tát Địa Tạng cùng pháp hội Địa Tạng. Tháng chạp, Ngài hướng dẫn phái đoàn thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới, đại học Phật Giáo Pháp Giới qua Đài Loan, Tân Gia Ba, Mã Lai Á, và Hồng Kông hoằng pháp lần thứ ba, thể theo lời thỉnh mời của các đạo tràng lớn ở những nơi đó. Ngài cử hành pháp hội Hộ Quốc Tiêu Tai Hoạn Nạn và các hoạt động hoằng pháp khác. Ngài cũng thành lập Phật Học Viện Chánh Pháp tại Đài Loan.
*Năm 1989, Ngài thuyết giảng về đề tài: Những biến chuyển lớn ở Trung Quốc trong thế kỶ vừa quatại các đại học ở MỸ quốc và hải ngoại.
Tháng giêng, Ngài là quý khách của cựu tổng thống Bush trong đại lễ nhậm chức Tổng Thống Hoa Kỳ. Ngài là đại biểu người đông phương duy nhất trong buổi lễ cầu nguyện Quốc Gia.
Tháng ba, Ngài thuyết giảng tại trung tâm hội Quaker ở Philadelphia về đề tài: Phục hưng luân lý, Đạo đức thực tiển, và những điểm tương đồng giữa Phật giáo, Gia Tô giáo, Nho giáo. Ngài cũng diễn giảng cho hội Phật Giáo tại vùng Hoa Thịnh Đốn.
Mồng một tháng tư, linh mục John Rogers, giảng viên tôn giáo tại đại học Humboldt State, hướng dẫn vài chục nam nữ sinh viên đến tham quan Vạn Phật Thánh Thành. Ngài thuyết giảng đề tài: Quan điểm trí huệ của Phật giáo, tại đại học Oregon. Ngài đến đại học British Columbia, Gia Nã Đại, thuyết giảng về đề tài: Trách nhiệm căn bản làm người. Phật giáo và luân lý. Hiếu thảo là cội gốc làm người. Yếu chỉ lập mạng. Làm thế nào để xây dựng một gia đình hạnh phúc.
Tháng bảy, Ngài thuyết giảng về đề tài: Làm thế nào để cải đổi nền giáo dục. Những chuyển biến lịch sử ở Trung Quốc trong thế kỶ vừa qua. Trung Quốc đạo đức quán, tại đại học Hạ Uy Di.
Từ ngày mười lăm tháng bảy, đến mồng năm tháng tám, đại học Phật Giáo Pháp Giới chủ tọa hội thảo và thực hành luân lý.
Mồng mười tháng tám, Ngài đàm luận với một giáo sư đại học Humboldt State về đề tài: Đối thoại giữa Phật giáo và Gia Tô giáo.
Mồng hai tháng chín, kỳ truyền Tam Đàn Đại Giới lần thứ năm viên mãn. Mồng chín tháng chín, Ngài thuyết giảng tại đại học Minnesota ở thành phố Minneapolis về đề tài: Làm thế nào để cải thiện nền giáo dục hiện thời.
Những chuyển biến ở Trung Quốc trong vòng thế kỶ vừa qua. Từ mồng mười đến ngày mười một tháng chín, Ngài thuyết giảng tại đại học Wisconsin (Madison) về đề tài: Những vấn đề căn bản giữa Phật giáo và con người. Sự quan hệ giữa các tôn giáo trên thế giới.
Từ ngày mười bảy đến ngày mười chín tháng chín, Ngài tới đại học British Columbia, Gia Nã Đại thuyết giảng về đề tài: Trách nhiệm của chúng ta đối với xã hội, quốc gia, và thế giới. Khoa học căn bản. Quan điểm Phật giáo về cải đổi vận mệnh con người. Mục đích và sự phát triển chánh yếu cho thanh thiếu niên hiện tại. Luận về nhân quả trong Phật Giáo.
Từ mồng chín tháng mười đến mồng ba tháng mười một, Ngài hướng dẫn phái đoàn hoằng pháp thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới và đại học Phật Giáo Pháp Giới đến Đài Loan chủ trì pháp hội Quán Âm Đại Bi, Hộ Quốc Tiêu Tai Diệt nạn.
Khi ấy, tại thành phố Cựu Kim Sơn, MỸ quốc, xảy ra trận động đất lớn, Ngài tuyên bố rằng nếu còn ở tại thành phố Cựu Kim Sơn ngày nào thì Ngài không cho phép có thêm một trận động đất nào xảy ra nữa. Mồng bốn tháng mười một, Vạn Phật Thánh Thành cử hành lễ khai quang thánh tượng Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Như Lai.
Từ mồng chín đến ngày mười một tháng mười một, Ngài giảng thuyết về đề tài: Căn bản giáo dục là gì, và chủ tọa hội nghị Nghiên Cứu Phật Học cùng Cách Thức Tu Trì.
Từ ngày ba mươi tháng mười một đến mồng ba tháng chạp, Ngài thuyết giảng tại đại học Austin, Texas. Ngài thành lập Pháp Giới Thánh Tự tại Cao Hùng Đài Loan.
(Phụ chú:
1989, Đài Loan.
Ngài hướng dẫn đoàn hoằng pháp đến Đài Loan, để cử hành pháp hội Từ Bi Tiêu Tai Hộ Quốc. Vì chúng sanh ở Đài Loan, Ngài tuyệt thực trong ba mươi ngày liền. Đang khi tổ chức pháp hội này tại Đài Loan, thì ở vùng Cựu Kim Sơn, MỸ Quốc, xảy ra một trận động đất lớn. Do đó, Ngài lập tức trở về MỸ để cứu nạn, rồi bay trở qua Đài Loan, chủ trì pháp hội diễn giảng kinh điển tại vùng bắc bộ, trung bộ, nam bộ của Đài Loan (sau lần động đất tại vùng Cựu Kim Sơn, Ngài tuyên bố là nếu còn ở nơi đó một ngày, Ngài không bao giờ cho phép có một trận động đất nữa.)
*Năm 1990, mồng hai tháng hai, Ngài thuyết giảng tại đại học Berkeley về đề tài: Đạo lý giữa đạo Phật và con người.
Mồng bảy tháng hai, Ngài chủ tọa đại hội Phật giáo Quốc Tế, với chủ đề: Phật giáo trong thế kỶ thứ hai mươi mốt, do hội Dhammakaya ở Thái Lan tổ chức.
Ngày mười chín tháng hai, Ngài thuyết giảng tại University of California at Los Angeles về đề tài: Làm thế nào để dẹp khổ đau, đạt được an lạc, và chủ tọa hội thảo tham thiền.
Tháng ba, báo Kim Cang Bồ Đề Hải được phát hành lần đầu tiên tại Đài Loan. Từ ngày hai mươi đến ngày hai mươi ba tháng tư, Ngài thuyết giảng tại thành phố Atlanta, Georgia.
Tháng năm, năm đệ tử xuất gia người MỸ qua truyền giới tại chùa Long Hoa, Thượng Hải, Trung Quốc. Cựu tổng thống Bush đánh điện tín đến Vạn Phật Thánh Thành chúc mừng Ngài cùng các đệ tử. Mồng tám tháng năm, Ngài chánh thức nhậm chức Chủ Lễ Tôn Giáotrước cảnh sát trưởng thành phố Cựu Kim Sơn, ông Frank Jodan.
Từ ngày hai mươi sáu đến ngày hai mươi bảy tháng năm, Ngài thuyết giảng tại đại học University of Washington in Seattle.
Ngày mười sáu tháng sáu, cảnh sát trưởng thành phố Cựu Kim Sơn, ông Frank Jodan, đến viếng thăm Vạn Phật Thánh Thành và trao đổi ý kiến với Ngài về xã hội cùng giáo dục. Từ ngày hai mươi mốt đến ngày hai mươi bảy tháng sáu, Ngài thuyết pháp tại vùng Hoa Thịnh Đốn.
Từ ngày mười ba tháng bảy đến mồng bốn tháng tám, Vạn Phật Thánh Thành, chủ tọa hội thảo về: Đạo Phật và con người trong hiện tại.Trong thời gian đó, Ngài thuyết về Mạnh Tử.
Từ ngày ba mươi mốt tháng tám đến ngày hai mươi mốt tháng chín, thể theo lời thỉnh mời của tín chúng Đài Loan, Ngài hướng dẫn phái đoàn hoằng pháp thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới, đại học Phật Giáo Pháp Giới qua Đài Loan, chủ trì pháp hội kỶ niệm 150 năm ngày sinh của đại lão hòa thượng Hư Vân, cùng đại lễ Toàn dân niệm Phật cầu phước, tiêu tai hoạn nạn, tại tòa nhà kỶ niệm Trung Chánh, Đài Bắc. Có hàng chục ngàn người tham gia. Trên hư không, hiện muôn ngàn ánh sáng, báo hiệu điềm lành.
Tháng mười, thể theo lời thỉnh mời của các hội đoàn Phật giáo tại nước Anh, Pháp, Bỉ, và Ba Lan, Ngài hướng dẫn phái đoàn hoằng pháp quốc tế thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới và đại học Phật Giáo Pháp Giới, qua Âu Châu thuyết pháp. Chủ đề: Giáo lý đức Phật vượt thời gian và không gian. Trí huệ chân thật vĩnh hằng bất biến, trong đó nhấn mạnh đề tài: Phật giáo và triển vọng hòa bình thế giới. Giáo dục trong Phật giáo và phương pháp ứng dụng. Dung hợp truyền thống Nam tông và Bắc tông trong Phật giáo, và hợp quần các tôn giáo trên thế giới.
Mồng bảy tháng mười, Vạn Phật thánh Thành tổ chức chương trình Trưởng Thanh Đại Học, trong hai tuần lễ, với đề tài: Hoạt động tinh tấn tu hành của người già. Kể từ đó, Vạn Phật Thánh Thành thường tổ chức chương trình này cho người già.
Mồng sáu tháng mười một, Ngài phái đệ tử qua Bắc Kinh cung thỉnh Long Tạng (đại tạng kinh)về Vạn Phật Thánh Thành, biểu tượng sự quan hệ giữa Phật giáo Trung-MỸ trên đà phát triển và Phật giáo truyền sang Tây Phương. Chùa Kim Luân dời về địa điểm mới.
(Phụ chú:
Lãnh đạo phái đoàn hoằng pháp sang Anh Quốc thăm viếng tăng đoàn Nam Tông, 1990
Đốn tiệm tuy thù,
Thành công tắc nhất
Hà phân Nam Bắc
Thánh phàm tạm dị,
Căn tánh khước đồng
Mạc luận Đông Tây.
Dịch:
Đốn tiệm tuy khác,
Thành công tức một
Sao phân Nam Bắc
Thánh phàm tạm khác,
Căn tánh đều đồng
Chớ luận Đông Tây.
Ngài là Thượng Khách tại hội nghị Quốc Tế về đề tài: Phật giáo bước vào năm 2000, do Tổng hội Pháp Thân ở Thái Lan tổ chức.
1990, Anh Quốc.
Pháp sư AJAHN SUMEDHO rất tôn sùng, cung kính và tin tưởng Ngài. Pháp sư thường đến Vạn Phật Thánh Thành và các đạo tràng chi nhánh, để gần gũi, thân cận và tiếp thọ những lời giáo huấn của Ngài. )
*Năm 1991, viện PHIÊN DỊCH KINH QUỐC TẾ VÀ TRUNG TÂM HÀNH CHÁNH CỦA TỔNG HỘI PHẬT GIÁO PHÁP GIỚI được dời về thành phố Burlingame, California.
Từ mồng tám đến hai mươi tháng giêng, do sự thỉnh mời của chùa Minh Nhật, tỉnh Kiết Lâm, Trung uốc, Ngài phái các đệ tử qua đó thăm viếng và hội thảo về Phật Pháp.
Bắt đầu từ ngày mười sáu tháng hai, công phu khuya tại Vạn Phật Thành được kết hợp theo hai truyền thống Bắc tông và Nam tông.
Tụng chú Lăng Nghiêm và kinh tiếng Pali. (ghi chú: Năm 1992, sửa lại là cách mỗi ngày thay đổi tụng kinh bằng tiếng Anh và tiếng Tàu.)
Mồng ba tháng năm, thượng tọa Ajahn Amaro, đại diện tăng đoàn tại trung tâm Phật giáo Amaravatti, cúng dường y bát Nam tông cho tăng đoàn Vạn Phật Thánh Thành. Đây là biểu tượng sự hợp nhất giữa Nam tông và Bắc tông, lật trang sử mới trong lịch sử Phật giáo.
Từ ngày hai mươi mốt tháng sáu đến ngày mồng sáu tháng bảy, pháp sư Ajahn Sumedho ở trung tâm Phật giáo Amaravati, hướng dẫn thiền thất theo truyền thống Nam tông tại Vạn Phật Thánh Thành.
Ngày mười bốn tháng bảy, kỳ Truyền Tam Đàn Đại Giới lần thứ sáu được tổ chức tại Vạn Phật Thánh Thành.
Ngày hai mươi tám tháng chín, nhân kỶ niệm mười năm thành lập Nhật Báo Quốc Tế, Ngài được mời đến thuyết giảng về chủ đề: Phóng nhãn quan, nhìn thế giới.
Từ mồng bốn đến mười lăm tháng mười, Ngài phái các đệ tử thuộc phái đoàn hoằng pháp đến Seattle, Vancouver, Calgary, Edmonton, và Toronto thuyết pháp với đề tài: Phật giáo là tôn giáo đang trên đà phát triển mạnh mẽ tại vùng Bắc MỸ.
Lại có những chủ đề khác như: Không giết hại. Tâm an lạc của con người ảnh hưởng đến hòa bình thế giới. Ăn chay, sự chọn lựa của lòng từ bi và lý trí. Quan điểm Phật giáo về cộng nghiệp của một quốc gia và biệt nghiệp của mỗi con người. Yếu tố quan trọng của nền giáo dục, luân lý.
Ngài thành lập chùa A Di Đà tại Hoa Liên, Đài Loan.
(Phụ chú:
Tam Đàn Đại Giới năm 1991.
Ba vị Tôn Chứng Sư: Hòa Thượng Tuyên Hóa, Hòa thượng Trung Quán, Pháp Sư Sumedho.)
*Năm 1992, Ngài chủ trì lễ sám hối cho bốn tỳ kheo (Hằng Trường, Hằng Triều, Hằng Tả, Hằng Thuận).
Từ mồng bảy tháng hai đến mồng ba tháng tư, thể theo lời thỉnh mời của các đoàn thể Phật giáo vùng Đông Nam Á, Ngài phái các đệ tử thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới và đại học Phật Giáo Pháp Giới, đoàn hoằng pháp Á Châu, qua Đài Loan, Hồng Kông, Ấn Độ Dương, Tân Gia Ba, Mã Lai Á, lần thứ năm. Phái đoàn hoằng pháp chủ trì lễ Vạn Phật Bảo Sám trong ba tuần liên tiếp ở Mã Lai Á.
Ngày mười sáu tháng ba, đại học Humboldt State University thỉnh mời chư vị pháp sư tại Vạn Phật Thánh Thành làm lễ khai quang đại hội triển lãm văn hóa nghệ thuật Á Châu tại trường.
Ngày hai mươi tháng tư, thể theo lời thỉnh mời của cựu tổng thống Bush, Ngài hướng dẫn mười tám vị hội viên Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới đến phủ Tổng Thống dự buổi tiệc tối do cựu tổng thống tiếp đãi.
T.H.P.G. P.G (Tổng hội Phật Giáo Pháp Giới) viếng thăm tòa Bạch-ốc: Mười tám thành viên của T.H.P.G.P.G nhận lời mời của cựu tổng thống Bush, đến dự buổi yến tiệc vào buổi tối do cựu tổng thống thiết đãi vào ngày 20 tháng tư năm 1992 tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Thư mời dự tiệc của cựu tổng thống nhằm tỏ lòng tri ân Ngài đã từng đón tiếp cựu tổng thống tại quảng trường Portsmouth Square ở thành phố Cựu Kim Sơn vào bốn năm về trước, khi ông ta đang làm phó tổng thống của chính quyền Reagan và ra tranh cử tổng thống.
Lúc ấy, vào ngày 14 tháng 9 năm 1988, trước quần chúng tại quảng trường Portsmouth Square, vốn là nhà lãnh đạo và phát ngôn viên của cộng đồng người Tàu, Ngài phát biểu:
Sống trên nước MỸ, chúng ta phải tuyển chọn một vị tổng thống thông minh nhất, có trí huệ sáng suốt, chí công vô tư, không thiên vị. Vị tổng thống phải làm gương mẫu, không tranh, không tham, không cầu, không ích kỶ, không tự lợi, không nói láo. Phù hợp với những tiêu chuẩn này thì mới xứng đáng làm tổng thống.
Cựu tổng thống Bush vì nhớ cuộc họp mặt đó, nên thỉnh mời Ngài đến dự buổi yến tiệc tại tòa Bạch-ốc. Ngài nhận lời mời và hướng dẫn các thành viên đại biểu T.H.P.G.P.G, bao gồm tăng, ni, cư sĩ từ Mã Lai Á, Hương Cảng, Đài Loan, Việt Nam, Trung Quốc, Gia Nã Đại cùng các thành viên từ thành phố Cựu Kim Sơn, viện Phiên Dịch Kinh Điển Quốc Tế, và chùa Vạn Phật Thành.
Khi được hỏi tại sao nhiều nhân sĩ Phật giáo tham gia vào đảng Cộng Hòa, các thành viên của đoàn trả lời: Thứ nhất, chúng tôi vì đáp ứng lời thỉnh mời của quý vị. Thứ hai, Phật tử chúng tôi quan tâm đến mối phúc lợi của quốc gia.
Một quốc gia thanh bình an lạc hỗ trợ cho tôn giáo. Đặc biệt, chúng tôi quan tâm về việc cải cách nền giáo dục, nhằm phát huy truyền thống đạo đức thiện mỸ trong tâm thanh thiếu niên. Thêm nữa, đạo Phật là tôn giáo chính thống.
Khi chánh quyền vững mạnh, tôn giáo mới hưng thịnh. Chánh quyền phải luôn vì phúc lợi của dân chúng mà phục vụ. Chúng tôi cảm thấy có trách nhiệm hỗ trợ chánh phủ được ổn định, hầu mong dân chúng đồng hưởng lợi ích.
Có vị tại phủ tổng thống bảo: Tôi không ngờ rằng quý vị Phật tử theo đảng Cộng Hòa.
Đáp: Chúng tôi không theo đảng phái nào cả, mà chỉ muốn góp sức để mang ích lợi đến cho mọi đảng phái như đảng Cộng Hòa, Dân Chủ, Độc Lập, và mọi người Uống nước phải nhớ nguồn. Được hưởng thể chế tự do, nên chúng tôi phải nỗ lực phụng sự nước MỸ.
Dùng chánh kiến chánh tri, người Phật tử chúng tôi nỗ lực cống hiến công sức cho quốc gia và thế giới. Việc tham dự yến hội này, chứng minh sự tham gia của chúng tôi, nhưng không giới hạn việc tham chính và làm việc cho một chính đảng nào cả.
Chúng tôi muốn vận dụng quyền tự do dân chủ, đề xướng những phương thức mới mẻ để giải quyết những vấn đề trong xã hội, để khiến quốc gia hòa bình, thịnh trị an lạc.
Sáng ngày 28 tháng 4 năm 1992, thành viên của T.H.P.G.P.G tham dự nhiều chương trình sinh hoạt đặc biệt tại phủ tổng thống.
Lãnh tụ lưỡng viện quốc hội được dẫn đầu bởi ông Robert Dole của tiểu bang Kansas, tham nghị viên, lãnh tụ đa đảng, cùng tham nghị viên Robert Michel, thỉnh mời đại chúng dùng điểm tâm tại phòng ăn quốc hội. Giáo sư Ronald Epstein và bác sĩ Randy Lum đại diện
T.H.P.G.P.G tham dự buổi điểm tâm. Tham nghị viên Dole lại tổ chức buổi yến tiệc tại thư viện cũ của Tham nghị đoàn.
Thầy Hằng Lai và cư sĩ Hồ Công Hạo cùng một nhóm khoảng ba mươi vị lãnh tụ quốc hội đồng đàm luận, và chụp hình chung với các tham nghị viên.
Sư cô Hằng Quý, nữ cư sĩ Hoàng Khả Thái, bác sĩ Hoàng Minh Lục và cư sĩ nữ Rosaline đồng dự buổi cơm trưa với ông bà cựu phó tổng thống Dan Quayle và Marilyn tại phủ phó tổng thống, trên đài thiên văn của hải quân. Thầy Hằng Thật, cư sĩ nữ Hồ Quả Tương, cư sĩ nam Quả Cần, và Hoàng Quả Lâm thăm viếng tòa Bạch-ốc.
Ngày mười chín tháng năm, Ngài giảng pháp cho học sinh trường trung học Lowell tại chùa Kim Sơn.
Mồng bốn tháng bảy, ông Lâm Dương Cảng viện trưởng Ty Pháp Viện, Trung Hoa Dân Quốc, cùng vợ viếng thăm Vạn Phật Thánh Thành, và bàn thảo các vấn đề giáo dục Trung-MỸ với viện trưởng trường đại học Phật Giáo Pháp Giới.
Họ cũng viếng thăm viện Phiên Dịch Kinh Điển Quốc Tế, bái kiến và cùng Ngài đàm luận về tương lai Trung Quốc, hiện tình nước MỸ, và phương châm trị nước, v.v...
Ngày hai mươi chín tháng bảy, ông Lương Thúc Nhung cố vấn tổng thống Đài Loan, và là cựu viện trưởng Viện Lập Pháp, đến bái kiến Ngài. Ngày hai mươi tám tháng tám, ông Trịnh Vạn Trân tổng lãnh sự sứ quán Trung Hoa Đại Lục tại Cựu Kim Sơn đến bái kiến Ngài.
Ngài bảo ông ta rằng trong tương lai ước nguyện sẽ làm nhịp cầu thống nhất Trung Quốc. Tháng tám, pháp hội Thủy Lục Không do chư pháp sư Đài Loan và Đại Lục hợp tác chủ trì.
Ngày mười sáu tháng chín, Kỳ Truyền Tam Đàn Đại Giới lần thứ bảy được tổ chức tại Vạn Phật Thánh Thành.
Ngày hai mươi ba tháng mười, ông Edwin Derwiski, phó chủ tịch hội đồng ủng hộ tổng thống Bush tái cử, đến bái kiến Ngài.
Trong cuộc họp báo, Ngài kiến nghị rằng nếu cựu tổng thống Bush không nhận tiền lương, làm gương cho các nhà lãnh đạo nước MỸ sau này thì nhất định sẽ tái đắc cử.
Trải qua bao năm truyền bá Phật pháp tại tây phương, dẫu chưa chính thức là công dân MỸ, nhưng sự lo lắng và ưu tư của Ngài về đất nước và nhân dân MỸ không bao giờ giảm sút.
Ngài nhận thấy rằng hành động và cử chỉ của những người lãnh đạo quốc gia có sức ảnh hưởng đến quần chúng rất lớn lao.
Có câu: Bất cứ việc gì người trên làm, kẻ dưới đều gắng sức hành theo.
Đây là lý do mà Ngài mong muốn và cổ vũ những nhà lãnh đạo phải có đủ nhân phẩm đạo đức, và nêu gương lãnh đạo chân chính cho nhân dân.
Bằng cách này, chiều hướng xấu xa băng hoại của xã hội có thể được chuyển đổi, và nhân dân được hưởng thanh bình, hạnh phúc ấm no.
Khi CỰU TỔNG THỐNG BUSH RA ỨNG CỬ LÀM TỔNG THỐNG NHIỆM KỲ THỨ HAI VÀO NĂM 1992, nhân dịp một nhân viên văn phòng trợ lý liên lạc công cộng tại tòa nhà Bạch Ốc đến tiếp kiến Ngài tại trung tâm Phiên Dịch Kinh Điển Quốc Tế ở Burlingame, Ngài nói: Nếu tổng thống Bush không nhận lương, Tôi dám bảo đảm là ông ta sẽ thắng cử tổng thống.
Sau này, Ngài cũng viết một lá thơ, gởi đến cựu tổng thống Bush, lập lại lời đề nghị của mình:
Thơ trình tổng thống Bush tường lãm:
I. Tôi viết thơ này gởi đến Ông, khi nước MỸ đang chuyển mình qua một trang sử mới: Thiên tai hoạn nạn như bão lụt động đất, và nhân họa như bịnh AIDS cùng bạo động, đang xảy ra khắp nơi trong nước. Tôi thành khẩn bàn bạc cùng kiến nghị đến với Ông trong thời điểm tranh cử tổng thống năm nay.
Một lần nữa, tôi hy vọng rằng Ông sẽ sẵn sàng cố gắng hy sinh công sức để phục vụ cho nhân dân, như từng đã làm trong quá khứ.
Thưa Ông Tổng Thống! Chỉ người có đức hạnh mới có đủ tiêu chuẩn để lãnh đạo nước MỸ. Do nhân dân tuyển cử, tất cả vấn đề trong và ngoài nước đều quy về trách nhiệm cho tổng thống. Trong thời điểm này, đối với Ông, việc tái thắng cử phải cần có dũng khí khác thường, nghĩa là phải bằng một sự hy sinh lớn lao với một phương pháp mới.
Tôi có một phương pháp sẽ khiến cho dân chúng hiểu rõ tài năng lãnh đạo của Ông. Tôi không sợ rằng Ông sẽ trách cứ vì những lời chân thật này. Tôi đề nghị Ông làm những việc mà những tổng thống thiển kiến khó hành được, tức là làm tổng thống mà không nhận lương bổng hay quà cáp, chỉ tình nguyện phục vụ cho quốc dân.
Nếu Ông thông báo cho nhân dân MỸ biết là Ông sẽ không nhận lương bổng, chỉ tình nguyện đem tài đức để phục vụ quốc gia, thì tôi dám bảo đảm là nhất định Ông sẽ tái thắng cử tổng thống trong nhiệm kỳ bốn năm sắp tới. Ngoài ra, từ chối nhận lương bổng, Ông sẽ thâu phục được lòng dân mà không cần phần thưởng riêng tư.
Đó là tinh thần đạo đức của tổng thống Thomas Jefferson, cha đẻ của nền dân chủ, người lãnh đạo dân tộc vượt qua những khó khăn trong buổi đầu lập quốc.
Ngọn gió vô tư lợi của Ông sẽ lan tràn khắp nơi trên thế giới. Những nhà lãnh đạo trên toàn thế giới sẽ dẹp trừ tâm tham và noi theo gương đạo đức và dũng khí của Ông.
Một vị chính khách ra ứng cử tổng thống vì muốn đảm nhận trách nhiệm phục vụ dân tộc với tinh thần vô vị lợi sẽ được dân chúng tôn sùng mãi mãi. Một vị tổng thống không nhận lương bổng hiển nhiên sẽ làm gương vô úy cho các nghị viên lưỡng viện của quốc hội, cùng các cấp đơn vị chánh phủ.
Thế giới chỉ được lợi lạc khi có những nhà lãnh đạo anh hùng như thế. Do đó, tôi dám khuyên rằng Ông chớ lo lắng vì những chướng ngại cá nhân trong nhiệm kỳ tổng thống bốn năm sắp tới. Nhờ tâm vô tư lợi của Ông, nhân dân MỸ sẽ cảm động và nhất định sẽ tái tuyển cử Ông làm tổng thống.
Thái độ chân tâm thành ý, vì nước, vì dân, vì chánh nghĩa, và vì trách nhiệm sẽ khiến Ông hưởng lợi ích suốt đời.
II. Trong lá thư này, tôi cũng muốn nhấn mạnh vai trò quan trọng của nền giáo dục trong một quốc gia dân chủ. Xin Ông hãy quan tâm về việc trọng yếu này.
Học sinh và học đường là nguồn phúc lợi của đất nước. Đầu tư hay cung ứng đầy đủ cho nền giáo dục và huấn nghệ phải đứng hàng đầu của quốc gia. Một quốc gia đầu tư về kiến thức của nhân dân sẽ đào luyện dân chúng có được những quyết định hợp lý hợp tình và hợp nhân tánh. Việc đầu tư của chánh phủ vào nền giáo dục sẽ được đền đáp bằng sự hỗ trợ của dân chúng về nền pháp trị dân chủ, hòa bình trong hằng ngày.
Quốc dân được giáo dục kỸ càng thì họ sẽ phân biệt rõ ràng những việc đúng sai, và khiến cho quốc gia hòa bình. Đây là cách bảo vệ quốc gia hay nhất. Nếu được như thế thì những vũ khí cùng binh lực tinh nhuệ thật không cần thiết.
Ngược lại, nếu trẻ em không được giáo dục đàng hoàng, luôn có tâm ngỗ nghịch, không nhận ra giá trị tình thương của các nhà lãnh đạo thì chúng sẽ không xem trọng nền tự do dân chủ cùng bảo vệ duy trì hiến pháp. Hỏa tiển lớn nhất hay phi cơ bay nhanh nhất thật sẽ vô dụng, vì kẻ địch nguy hiểm nhất là con cái chúng ta, những kẻ bị kém trí huệ và thiếu kiến thức.
Thưa Ông Tổng Thống! Đại diện cho nhân dân MỸ, tôi viết lá thơ trong thời điểm quyết liệt của cuộc bầu cử tổng thống, với niềm hy vọng là Ông sẽ giữ vững địa vị chánh đáng của một vị chèo lái con thuyền quốc gia. Tôi chẳng hề ngại rằng Ông sẽ cho lời kiến nghị này không thật tế hay lời nói quá thẳng thừng. Tuy nhiên, nếu chấp thuận ý kiến này thì nhất định Ông sẽ tái thắng cử tổng thống. Tôi không hề muốn cầu danh hay cầu lợi vì những lời kiến nghị này.
Tôi chỉ muốn bầu cử một vị tổng thống tài đức nhất cho quốc gia này. Nếu Ông chấp nhận những lời kiến nghị trên thì nhân dân MỸ sẽ được lợi lạc vô cùng. Nếu Ông không chấp nhận thì tôi cũng hoàn thành trách nhiệm của mình.
Chúng sanh trong thế giới mê mờ
Tài, sắc, danh, ăn, ngủ bao quanh
Người trí xả được năm món dục
Vượt hơn người, bậc thánh minh quân.
Trong lá thơ này, Ngài đưa ra kiến nghị lạ lùng: Tổng thống không nhận lương bổng, và khuyến khích cựu tổng thống Bush lãnh đạo nước MỸ bằng đức hạnh.
Năm 1988, khi ông Bush ra ứng cử tổng thống lần đầu tiên, Ngài đã từng khuyến khích ông ta phải nên làm một vị tổng thống không tranh, không tham, không cầu, không tự lợi, không ích kỶ, không nói láo.
Năm 1992, vào lúc cựu tổng thống Bush ra tái ứng cử tổng thống, nền kinh tế nước MỸ đang bị đình trệ, và sự tín nhiệm của tổng thống đang đi xuống. Trong hoàn cảnh đó, nếu theo lời kiến nghị của Ngài thì tổng thống Bush mới biểu hiện rõ quyết tâm thành ý phục vụ nhân dân.
Đương thời, vì nền hòa bình và phúc lợi của nước MỸ và thế giới, Ngài ra thông cáo cho bốn chúng đệ tử tại chùa Vạn Phật Thành cùng các ngôi chùa chi nhánh, mỗi ngày tụng chú Đại Bi của Bồ Tát Quán Thế Âm, cùng lễ Phật, bái sám.
Thể theo lời dạy, bốn chúng đệ tử của Ngài tụng chú Đại Bi mỗi tối từ ngày 30 tháng chín đến mồng 4 tháng mười một năm 1992, tức sau ngày tổng tuyển cử.
Vào ngày 23 tháng mười, 1992, Ông EDWIN DERWINSKY, phó chủ tịch hội đồng tổng tuyển cử của tổng thống Bush, được giáo sư Tsu, chủ tịch của hội đồng tuyển cử MỸ-Á, hướng dẫn đến diện kiến Ngài và mở cuộc hội thảo tại trung tâm Phiên Dịch Kinh Điển Quốc Tế.
Trong buổi hội thảo, Ngài nhấn mạnh lại rằng nếu tổng thống Bush không nhận lương bổng, thì nhất định Ông sẽ tái thắng cử. Tuy nhiên, từ lúc đó, cựu tổng thống Bush vẫn chưa quyết định, nên việc tái thắng cử thật là một vấn đề khó khăn.
Ngài cũng bảo rằng dẫu trường hợp nào, các Phật tử cũng phải cầu nguyện cho mối phúc lợi của nhân dân và cho nền hòa bình của thế giới. Tiếc thay, cựu tổng thống Bush và những nhân viên của ông ta cuối cùng quyết định bỏ qua lời kiến nghị của Ngài.
Vì vậy, như Ngài đã tiên đoán, cựu tổng thống Bush bị thất cử.
Đương thời, nước MỸ gặp phải rất nhiều vấn đề khó khăn. Bên cạnh thiên tai hoạn nạn, những vấn đề như xì ke ma túy lan tràn khắp nơi trong toàn quốc.
Nạn trộm cướp và bạo loạn tăng gia. Nạn thất nghiệp cũng lên cao. Những triệu chứng trên biểu thị phước đức của đại cường quốc này đang giảm dần.
Ông A. C. BudHarrison, cựu thị trưởng thành phố Burlingame đã từng viếng thăm Ngài nhiều lần.
Theo sự quan sát của ông ta, nhiều người Á Châu vốn là công dân tốt ở bổn quốc, nhưng khi qua MỸ lại thay đổi tánh tình.
Ngài cũng nhấn mạnh về hệ thống trợ cấp an sinh xã hội không được phân phối đồng đều, và chỉ khuyến khích người dân làm biếng thêm; theo quan điểm của Ngài thì do nhân dân ai cũng có thể giữ súng đạn, khiến việc trị an trong xã hội rất khó khăn. Lại nữa, tình dục được dạy công khai tại bậc tiểu học. Tại cấp trung học, học sinh biết hút thuốc phiện, cho đến giết người, đốt nhà.
Trong đại học, lắm khi sinh viên ngủ và tắm chung với nhau. Nếu như thế, làm sao họ trở thành công dân tốt được? Lại nữa, những luật lệ ở nước này thật rất phóng túng tự do.
Vì vậy, nên giáo dục tại nước MỸ thật sự bị suy đồi.
Theo Ngài nhận thấy, những việc tệ hại xảy ra trong nước đều phát xuất từ nền giáo dục băng hoại: Hiện nay, lúc còn nhỏ tuổi mà học sinh không chịu theo luật lệ thì tương lai chúng sẽ không màng đến luật pháp. Đây là điều thật rất nguy hiểm.
Những đứa trẻ giết người, không theo luật lệ, v.v... thật ra không phải là những đứa trẻ xấu xa, mà chỉ vì không dạy dỗ chúng đúng đắn. Đó là lỗi của người lớn.
Tháng giêng năm 1992, khi được mời đến tòa nhà trắng để tham dự buổi yến tiệc, Ngài đàm luận với bộ trưởng bộ giáo dục về hiện trạng suy đồi trầm trọng của nền giáo dục ở MỸ, và nhấn mạnh về nền giáo dục luân lý đạo đức.
Tại MỸ, vừa hoằng dương Phật pháp, Ngài vừa cống hiến công sức cho nền giáo dục. Mục đích của Ngài là bồi dưỡng thế hệ trẻ với tinh thần không ích kỶ, không tự lợi, để nỗ lực cứu vãn nền văn hóa nước nhà.
Trong những bài giảng dạy, Ngài thường khuyến khích các đệ tử hãy cùng nhau nỗ lực giải quyết những vấn đề nan giải trong hiện tại ở MỸ.
Ví dụ, xì ke ma túy là một vấn đề nghiêm trọng nhất trong hiện thời. Ma túy không những làm lãng phí tiền bạc, lại còn làm hư hoại thân thể trí óc của con người, và là nguyên nhân chính của các tội ác.
Vì vậy, trong những pháp hội giảng kinh, Ngài thường nhắc nhở tín chúng thính giả, lúc trở về nhà, hãy kêu gọi thân quyến đừng để con cái hút thuốc phiện, mà phải khuyến khích chúng hỗ trợ và phục vụ nền hòa bình cùng phúc lợi của quốc gia, nhân loại. Đây là trách nhiệm chung của mọi người.
Một vấn đề lớn ở xã hội MỸ ngày một gia tăng là đồng tính luyến ái. Có những buổi diễn hành đồng tính luyến ái hằng năm nhằm tạo ảnh hưởng đến luật pháp, để được mọi thành phần trong xã hội công nhận.
Không nỡ ngồi nhìn những hiện tượng đi ngược lại thiên địa tạo hóa ngày càng phát triển rộng rãi, trong những bài thuyết giảng, Ngài thường nhắc nhở các đệ tử phải nhận chân sự nghiêm trọng của vấn đề này.
Mỗi lần được các chánh khách chính phủ MỸ đến cầu lời cố vấn, Ngài thường nhấn mạnh: Riêng âm không thể sanh. Riêng dương không thể trưởng dưỡng. Đồng tính luyến ái khiến diệt chủng, vong quốc. Vì vậy phải khuyến khích họ sửa đổi tánh tình, chớ nên dung túng.
Đối với người xuất gia, vì trên cầu Phật đạo dưới cứu độ chúng sanh, nên tu hành với hành vi cao cả để mang lại hạnh phúc cho loài người. Đồng tính luyến ái không hướng lên tìm cầu sự tịnh hóa tâm linh mà chỉ hướng xuống tình dục trầm luân, khiến phát sanh nhiều vấn đề nghiêm trọng.
Tuy biết rõ đồng tính luyến ái ngày càng lan rộng, nhưng vì lương tri Ngài vẫn phải đánh tiếng về vấn đề này, hầu mong họ sớm thức tỉnh trân trọng bảo tồn Phật tánh, không thể tiếp tục tạo nghiệp thọ báo.
Trong bao năm hoằng pháp tại MỸ, đi đến đâu Ngài cũng phát dương sáu đại tông chỉ rộng rãi. Tuy có người nhận rõ những tông chỉ này rất quý, nhưng vì xã hội MỸ vốn chạy theo chủ nghĩa vật chất, nên khó mà thực hành.
Ngài thường bảo rằng phải hành những gì khó hành, phải nhẫn những gì khó nhẫn.
Phải làm những gì không thể làm được. Phải như ngọn đèn cầy đứng vững trước gió mưa giông bão. Phải như vàng ròng chịu đựng nung nấu trui rèn.
Hội Phước Lợi Xã Hội thuộc viện Phật Giáo Cư Sĩ và bộ An Dưỡng tại Thượng Hải ở Trung Quốc tuyên dương Ngài: “VỊ CAO TĂNG BẬC NHẤT TOÀN CẦU.”
Ngài phủ nhận lời tán thán đó.
Mồng tám tháng mười một, thể theo lời thỉnh mời của trường đại học University of California at Los Angeles, Ngài đến đó giảng thuyết về chủ đề: Đạo Phật hiện tại. Đạo đức luân lý và giáo dục.
Ngày mười lăm tháng mười một, để cứu vãn nền giáo dục suy đồi, Ngài tuyên bố rằng ngày hai mươi bảy tháng mười một là ngày Chúc Thọ Người Già.
Ngày hai mươi tháng chạp, lễ Chúc Thọ Người Già trên bảy mươi tuổi được cử hành đầu tiên tại Los Angeles. Chùa Phước Huệ tại MỸ Nồng ở Đài Loan được cúng dường cho Ngài.
Ngài thành lập hội Pháp Giới Căn Bản Văn Hóa Giáo Dục tại Đài Loan.
*Năm 1993, từ mồng ba đến mười tám tháng giêng, thể theo lời thỉnh mời của tín chúng Đài Loan, Ngài qua đó chủ trì pháp hội Lăng Nghiêm, Đại Bi và truyền tam quy y, năm giới cấm cho các cư sĩ. Khi ấy, có ba mươi tám người phát tâm xuất gia.
Một Pháp Sư từ Trung Hoa đại lục qua chủ trì thiền thất, cải đổi gia phong ăn một ngày một buổi, đắp tăng y của Vạn Phật Thánh Thành. Thiền thất kết thúc, gia phong được phục hồi trở lại.
Ngày mười bốn tháng ba, một ứng cử viên nghị sĩ tiểu bang California cùng bốn người khác đến viếng thăm Ngài tại Vạn Phật Thánh Thành và trao đổi quan điểm về giáo dục cùng chính trị.
Mồng bốn tháng tư, lễ Lương Hoàng Bảo Sám được cử hành vào dịp khai quang chánh điện chùa Trường Đê, Long Beach ở Los Angeles. Các đệ tử cũng làm lễ chúc thọ Ngài. Ngài giảng kinh Chí Công Thiền Sư Thuyết Nhân Quả.
Ngày ba mươi tháng tư, ông Hác Bách Thôn, cựu viện trưởng viện Hành Pháp của Đài Loan, viếng thăm Ngài.
Ngày mười sáu tháng năm, đoàn đại biểu Vạn Phật Thánh Thành tham dự đại lễ Phật Đản được tổ chức tại đại học Berkeley.
Mồng chín tháng sáu, ông BudHarrison, thị trưởng thành phố Burlingame viếng thăm Ngài và trao đổi quan điểm về giáo dục cùng chính trị.
Từ mồng sáu đến ngày mười sáu tháng mười một, Ngài hướng dẫn phái đoàn hoằng pháp qua vùng đông bắc MỸ, thuyết pháp tại Newyork, Rochester, và các nơi khác. Ngày ba mươi tháng mười một, ông BudHarrison, thị trưởng thành phố Burlingame cùng bà phu nhân đến viếng thăm Ngài lần thứ hai.
Nhân dịp đó, Ngài nói rằng tám đức tánh của con người: Hiếu, để, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sĩlà liều thuốc thần để cứu thế gian.
Ngày mười bảy tháng mười hai, cô Edith Chen, nữ sĩ dương cầm quốc tế đến viếng thăm Ngài. Tại Sacramento, Ngài thành lập Pháp Giới Thánh Thành. Tịnh xá Viên Thông ở Đông Chí, Đài Loan được cúng dường cho Ngài.
*Năm 1994, ngày hai mươi sáu tháng giêng, Ngài mời ông Trần Lập Phu, cố vấn tổng thống Đài Loan, đến thuyết trình tại Vạn Phật Thánh Thành.
Tháng giêng, các đạo tràng thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới đồng tổ chức lễ Chúc Thọ Người Già lần thứ hai. Ngài chỉ định rằng chủ nhật đầu tháng mười một mỗi năm sẽ là ngày Chúc Thọ Người Già.
Tháng hai, học sinh trung học Bồi Đức thắng cuộc thi về Thể Chế Chánh Trị của nước MỸ trong vùng quận nhất của tiểu bang California. Ngày hai mươi bảy tháng hai, Ngài chủ trì lễ khai quang hội Bồ Đề tại San Jose.
Mồng năm tháng ba, Ngài thuyết giảng cho hội Thanh Niên Phật Giáo Trung Quốc trường đại học Berkeley tại Vạn Phật Thánh Thành.
Ngày hai mươi bảy tháng ba, thị trưởng thành phố Burlingame và chủ tịch hội đồng quản lý thị trấn Mendocino tham dự lễ vía Bồ Tát Quán Âm. Ngài thuyết giảng về đề mục: Hỗ trợ để giúp thế giới ngày một trong sáng.
Mồng chín tháng tư, nhận lời mời của liên hội Phật học đại học University at Los Angeles, University of California at Irvine, California Polytechnic Institute, Ngài thuyết giảng về đề tài: Phật Giáo và Tâm Lý Học.
Ngày hai mươi tháng tư, thể theo lời mời của đại học Berkeley, Ngài đến tham dự lễ nghinh tiếp đức Đạt Lai Lạt Ma. Từ ngày mười bảy đến ngày hai mươi ba tháng tư, Pháp Giới Thánh Thành cử hành lễ Lương Hoàng Bảo Sám. Vào ngày hai mươi bốn, các đệ tử tổ chức lễ chúc thọ cho Ngài.
Ngày hai mươi tám tháng năm, văn phòng Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới và viện Phiên Dịch Kinh Điển Quốc Tế cử hành lễ khai quang. Ngày hai mươi chín tháng năm, Pháp Giới Thánh Thành cử hành lễ khai quang.
Tháng năm và tháng sáu, các đạo tràng thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới lần đầu tiên tổ chức lễ Nhi Đồng.
Ngày hai mươi ba tháng mười, thọ thần cây cổ thụ với 1989 tuổi ở núi Phổ Đà tỉnh Triết Giang tại Trung Quốc thỉnh cầu quy y với Ngài. Ngài thành lập viện Nghiên Cứu Học Thuật Các Tôn Giáo Thế Giới trong vùng đại học Berkeley. Tại Long Beach, Ngài thành lập chùa Phước Lộc Thọ. Chùa Kim Phong tại Seattle dời về địa chỉ mới.
*Năm 1995, mồng mười tháng giêng, thầy Hằng Thật đại diện Ngài, nhận lời mời của ông PETE WILSON, cựu thống đốc tiểu bang California, tham dự lễ tái nhiệm cử chức thống đốc. Lần đầu tiên trong lịch sử nước MỸ, tăng sĩ Phật giáo được thỉnh mời, đọc lời khai mạc lễ nhậm chức thống đốc.
Tại San Jose, Ngài thành lập chùa Kim Thánh.
Mồng bảy tháng sáu, Ngài viên tịch tại Los Angeles, MỸ quốc.
Một ngọn đèn sáng trên thế gian đã tắt.
Y theo lời di huấn của Ngài, bốn chúng đệ tử tại các đạo tràng thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới đồng cử hành pháp hội tụng kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, và niệm Phật trong vòng bốn mươi chín ngày.
Ngày mười hai tháng sáu, lễ nhập quan được cử hành tại chùa Trường Đê,
Long Beach. Ngày mười sáu tháng sáu, kim quan Ngài được cung thỉnh về Vạn Phật Thánh Thành. Từ ngày hai mươi sáu đến ngày hai mươi tám tháng bảy, Vạn Phật Thánh Thành cử hành đại lễ Truy Ân và Trà Tỳ đại lão hòa thượng Tuyên Hóa.
Mắt Trời Trí Huệ Chợt Sa; Thế Nhân Đồng Thương Tiếc.
(Phụ chú:
Ngài dạy đại chúng:
Ai ai cũng có lúc đến rồi phải đi, chớ quá buồn
khổ, hãy giữ tâm như thường ngày. Hãy phát
tâm dụng công tu hành.
Tôi từ hư không đến và trở về với hư không.)
DỊCH GIẢ: THÍCH HẰNG ĐẠT
*Năm 1970, Ngài giảng luận Đại Thừa Trăm Pháp Môn. Ngài thành lập chùa Kim Sơn, tại vùng Cựu Kim Sơn. Từ ngày mười lăm tháng mười một đến ngày hai mươi tháng hai năm tới, Ngài cử hành thiền thất trong một trăm ngày.
Khi ấy, Ngài giảng truyện Cao Tăng và cho ra tờ nguyệt san Phật Giáo chánh pháp, tức là Kim Cang Bồ Đề Hải.
*Năm 1971 Ngài giảng luận Đại Thừa Khởi Tín, kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, Sơ Tự kinh Hoa Nghiêm, Sớ Sao kinh Hoa Nghiêm.
*Năm 1972 Ngài giảng Mười pháp giới, không ngoài một tâm niệm, kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, Phật Tổ Đạo Ảnh.
Ngày hai mươi tháng chín, kỳ Truyền Thiên Phật Tam Đàn Đại Giới được tổ chức lần thứ nhất tại chùa Kim Sơn.
*Năm 1973 Ngài thành lập viện Phiên Dịch Kinh Điển Quốc Tế. Tại chùa Kim Sơn, Ngài thành lập trường tiểu học Dục Lương.
Hai đệ tử xuất gia, Hằng Cụ và Hằng Do, phát tâm hành trì ba bước một lạy, từ thành phố Cựu Kim Sơn, California đến thành phố Seattle, Washington vì cầu thế giới hòa bình.
Lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo quốc tế, có người xuất gia hành ba bước một lạy.
(Phụ chú:
1970, San Francisco
Hội Phật Giáo Trung MỸ (sau này trở thành Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới), tổ chức ngày lễ Phật đản lần đầu tiên.
Hơn sáu trăm tín chúng đến làm lễ tắm Phật tại công viên quảng trường Liên Hợp. Chư tăng hướng dẫn tín chúng vào chánh điện ở nhà thờ Công Lý.
Ngài ngồi trong lễ đường nhà thờ Thiên Chúa giáo, và xem các đệ tử xuất gia trẻ đang hướng dẫn lễ tắm Phật, tượng trưng cho sự thanh tịnh hóa thân tâm.
Giảng Đường Phật Giáo, San Francisco
Có lần, Ngài bảo các học sinh đang học lớp viết chữ Tàu: Các con có thể phát triển công phu của mình trong mọi lúc. Các con có thể không cảm nhận được điều này.
Nhưng đối với Thầy, trong lúc viết chữ Tàu, luôn tự khống chế hơi thở của mình. Thật vậy, các con có thể học rất nhiều việc trong cuộc sống hằng ngày.
Ngài dạy chư đệ tử người MỸ cách thức vừa đi nhiễu, vừa tụng niệm. Khi đã thành một vòng tròn thì mất đi ý nghĩa của vị trí người đi trước và người đi sau cùng.
Người đi trước biến thành người đi sau cùng. Người đi sau cùng biến thành người đi trước. Mỗi người đều trở thành người đi sau cùng, và mỗi người đều biến thành người đi trước. Thật vậy, lý của vòng tròn là không có trước và sau. Ngài dùng ví dụ này để dạy về lý đấu tranh tham vọng, tham cầu lợi danh địa vị.
Trai Đường (nhà ăn), chùa Kim Sơn
Cây gỗ để sửa chữa chùa Kim Sơn có được là do sự cảm ứng của Bồ Tát Quán Âm. Ngày nọ, vợ chồng Quả Đồng, Lao Đốn, đệ tử của Ngài, biết một cơ sở thương mãi ở vùng Cựu Kim Sơn đang được kiến thiết, nên phải bỏ đi những gỗ cây cũ.
Ai ai cũng có thể lấy được mà không tốn tiền. Vợ chồng Lao Thốn báo tin này cho chùa. Sau đó một nhóm đệ tử trẻ được phái đi lấy củi đem về chùa. Những gỗ cây này là nguyên liệu chính để sửa chữa lại chùa Kim Sơn.
Những mãnh gỗ nhỏ còn dư lại được làm bàn ghế để trong nhà ăn. Ngài dạy những đệ tử người Tây Phương, không nên lãng phí vật dụng. Những nguyên liệu này được dùng tới dùng lui trong việc sửa chữa chùa Kim Sơn.
Đầu năm 1970, tại San Francisco
Kim Sơn Thiền Tự, Nghi Thức Truyền Cúng. Ngài hướng dẫn nghi thức Truyền Cúng lần đầu tiên. Khi ấy, một vị tỳ kheo đệ tử làm Pháp Chủ.
Từ lúc bắt đầu, Ngài huấn luyện các đệ tử bằng cách đặt họ vào vị trí lãnh đạo, còn chính Ngài thì luôn giữ thái độ khiêm cung; chỉ ban lời huấn dụ khi cần thiết.
Trì Giới thanh tịnh vô hà vết,
Trí tuệ quang chiếu biến đại thiên
dịch:
Trì giới thanh tịnh không tỳ vết,
Trí huệ chiếu sáng khắp đại thiên
1973, San Francisco
Lễ Khai Mở Viện Phiên Dịch Quốc Tế. Đây là nơi xuất bản những bản kinh tiếng Anh, được phiên dịch đầu tiên, đã hoàn thành. Trường tiểu học Dục Lương cũng được thành lập ở đây vào năm 1976.
1973, Viện Dịch Kinh Quốc Tế, San Francisco
Ngài khai quang điểm nhãn thánh tượng Quán Âm Bồ Tát, bốn mươi hai thủ nhãn, để trang nghiêm và hộ trì viện Dịch Kinh Quốc Tế. Ngài dạy tụng câu chú: Thập Phật ra, thập Phật ra. Tần đà ra, tần đà ra. Chân đà, chân đà. Hổ tín, hổ tín, tức đoạn đầu, phần thứ tư, trong chú Lăng Nghiêm. Ngài viết kệ, giải thích câu: Thập Phật ra, thập Phật ra, là:
Phật bảo phóng ánh sáng khắp nơi
Chiếu cùng pháp giới, tạng hư không
Chỉ rõ nhập vào chánh tri kiến
Vô thượng Bồ Đề, vua đại giác.
1973, San Francisco
Lễ xuống tóc, xuất gia tại chùa Kim Sơn vào tháng mười một.
1/ Hằng Phước, vốn là vị thí chủ của Giảng Đường Phật Giáo tại Hồng Kông.
2/ Hằng Phủ, khi chưa xuất gia, lần nọ, Thầy đến phỏng vấn Ngài. Tay Thầy cầm bao giấy, trong đó có một cây búa, mà vị đệ tử theo hầu Ngài chẳng biết. Đến khi Ngài hỏi ra, thì mới biết là trong bao giấy có cái búa.
3/ Hằng Trân, đã phiên dịch Sự Tích của ngài Tuyên Hóa, và Chú Giải Kinh A Di Đà của Ngài ra tiếng Tây Ban Nha.
4/ Hằng Không, thầy đã từng nhịn ăn trong bảy mươi hai ngày, trì chú Lăng Nghiêm tám giờ một ngày trong một khoảng thời gian, mỗi lần ngồi thiền trong tư thế kiết già khoảng mười hai giờ.
5/ Hằng Lộc, con trai độc nhất của một thương gia tại vùng San Francisco.
6/ Hằng Trầm, một phụ nữ đến từ Nam Phi.
Kim Sơn Thiền Tự, San Francisco
Giáo sư Edward Conze là một học giả Phật giáo nổi tiếng. Khi đang dạy tại đại học University of Washington, Seattle, một học sinh của ông ta là Ronald Epstein (hiện là giáo sư trường đại học San Francisco State University) viết bài luận án cho bản dịch của ông ta về bài kệ chú giải Tâm Kinh của ngài Tuyên Hóa.
Một học sinh khác của ông, sau khi tham dự pháp hội giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm trong mùa hè 1968, liền phát tâm xuất gia, pháp danh là Hằng Tĩnh.
Giáo sư Lewis Lancaster, khoa trưởng phân khoa Phật học tại đại học University of Berkeley, cũng là ủy viên chủ khảo luận án tiến sĩ của ông Ronald Epstein (tức giáo sư Ronald Epstein, hiện tại) về bài dịch Bảy Chỗ Hỏi Tâm của Ngài A Nan.
Thật rất kỳ lạ, trong hình chụp, hiện ra điềm lành, một bảo cái ba cạnh tám góc, màu trắng.
Redwood City, California
Giáo sư Lewis Lancaster thỉnh mời Ngài diễn giảng cho sinh viên đại học University of Berkeley nơi khu tu học tại Redwood City.
Nơi đó, Ngài giải thích cho thanh niên sinh viên về nguồn gốc của chữ Buddha. Chữ Buddha này được phiên dịch ra tiếng Tàu là Phật Đà Da.
Sau này được gọi tắt là Phật. Ngài bảo rằng nếu như sống vào thời phiên dịch chữ Buddha, thì Ngài sẽ đề nghị phiên dịch chữ Buddha ra tiếng Tàu là Bất Đại, nghĩa là không lớn.
Do vì Phật không lớn, không nhỏ, không đến không đi.
San Francisco
Sau cái chết đột ngột của Sơn Mỗ (Sufi Sam), vài thành viên của nhóm Huyễn Mộng Ca Ly, đồng mơ thấy Sơn Mỗ hiện về, ba lần trong một đêm.
Sơn Mỗ bảo: Nay mới hiểu rõ rằng tôi thật không đủ tư cách dạy các vị, vì tôi không thật chứng đắc.
Nay tôi rất lấy làm hối tiếc là tuy gặp ngài Tuyên Hóa mà không học được gì cả. Các vị phải nên đến chùa, quy y ngài Tuyên Hóa. Ngài Tuyên Hóa có đủ tư cách để dạy các vị. Ngài thật là vị đã chứng đắc.
Ngày kế, sau khi luận bàn về giấc mộng, nhóm người Huyễn Mộng Ca Ly, gọi điện thoại đến chùa Kim Sơn, hỏi thăm khi nào có lễ truyền tam quy y.
Quy y xong, họ thường đến chùa Kim Sơn để tu học, nghiên cứu Phật pháp. Sau khi trường tiểu học Dục Lương được thành lập vào năm 1976, họ cũng gởi con cái đến học.
*Năm 1974 Ngài thành lập trung tâm Bồ Đề Đạt Ma tại Seattle. Ngài giảng kinh Bốn Mươi Hai Chương, Sa Di Luật Nghi Yếu Giải.
Chư đệ tử hộ pháp cúng dường khu đất rộng gần năm trăm mẫu đất tại vùng bắc California.
Từ ngày hai mươi tháng mười một đến ngày mười hai tháng giêng năm kế, Ngài huớng dẫn chư đệ tử qua hoằng pháp tại Hồng Kông, Ấn Độ, Tân Gia Ba, Việt Nam, Đài Loan, v.v...
*Năm 1975 Ngài thành lập chùa Kim Luân tại Los Angeles. Ngài giảng chương Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông.
*Năm 1976, ngày ba mươi tháng tám, tại Vạn Phật Thánh Thành Ngài cử hành kỳ Truyền Thiên Phật Tam Đàn Đại Giới lần thứ hai. Ngài thành lập trường nam nữ trung học Bồi Đức và đại học Phật Giáo Pháp Giới.
(Phụ chú:
1974, Berkeley
Nhân ngày vía Quán Âm Bồ Tát Thành Đạo, Ngài chủ trì pháp hội phóng sanh tại Berkeley Marina, năm 1974.
Ý nghĩa phóng sanh: Nếu chúng ta tôn trọng quyền lợi tự do, việc sanh tồn của mọi loài chúng sanh, và thường phóng sanh thì áp bức, chiến tranh, và giết chóc có thể tận trừ mà không dùng võ lực. Chuyển tâm hận thù, ghen ghét, xâm lược, thành tâm từ bi, hòa bình.
Phóng sanh những chúng sanh xấu số, chúng ta có thể tự giải thoát chính mình và thế giới vượt ngoài nghiệp giết hại.
Berkeley, Pháp hội phóng sanh tại Berkeley Marina
Trong những năm Ngài vừa đến MỸ, đa số tín chúng là người Tây Phương, gồm nhiều sắc tộc, văn hóa khác nhau.
Đối với truyền thống, nghi thức Phật giáo, không ai biết đến cả.
Do đó, Ngài phải lập đi lập lại, giải thích, hướng dẫn về phương thức làm lễ, hoạt động v.v..., cho đến khi nhóm đệ tử thuần thành, hiểu rõ, hòa đồng sự hiểu biết và nhận thức. Trong hình, Ngài hướng dẫn các đệ tử đặt những hộp củi thành hình chữ Phật, trước khi làm lễ phóng sanh.
Vì số người xuất gia ngày càng đông, Ngài cần phải tìm một đạo tràng tương xứng.
Ngài cũng bỏ ra một phần thời gian, sức lực, mồ hôi, mệt mỏi tìm kiếm đạo tràng tương xứng để xây dựng tu viện, chánh điện, viện dịch kinh, trường học, trung tâm huấn luyện, viện dưỡng lão, nhà cư sĩ v.v...
Trong những ngày tìm kiếm chỗ, Ngài là người đầu tiên leo lên núi non, và cũng là người đi sau cùng.
1974, Seattle.
Ngài chủ trì pháp hội Hòa Bình Thế Giới. Hơn năm trăm người tham gia hoạt động trong ngày đó với tâm chân thành, một lòng cầu nguyện thế giới hòa bình.
Pháp hội Hòa Bình Thế Giới trùng hợp với ngày hai thầy Hằng Cụ và Hằng Do hoàn thành nguyện hạnh Đi ba bước, lễ một lạy, từ thành phố San Francisco đến thành phố Marblemount, Washington. Hai vị tỳ kheo khác, thầy Hằng Quán và Hằng Không, cũng tham dự pháp hội đó vào lúc đang nhịn ăn trong bảy mươi hai ngày.
Hai tỳ kheo, Hằng Cụ và Hằng Do, vì cầu thế giới hòa bình, nên hành nguyện Ba Bước Một Lạy, từ thành phố San Francisco đến thành phố Marblemount, Washington. Cuộc hành trình bắt đầu vào tháng mười năm 1973 và hoàn thành vào tháng tám năm 1974. Đây là cuộc hành trình kỳ đặc trong lịch sử Phật giáo thế giới.
Thầy Hằng Quán và Hằng Không tuyệt thực trong bảy mươi hai ngày, không ăn uống chi cả, chỉ uống một ly nước lạnh vào mỗi ngày. Hình Ngài chụp với hai thầy Hằng Quán và Hằng Không (đang đứng), và Quả Hồi (cũng nhịn ăn trong ba mươi lăm ngày).
Kim Sơn Thiền Tự, San Francisco
Ngài cho thầy Hằng Cụ bánh pie, chúc mừng thầy hoàn thành nguyện hạnh Ba Bước Một Lạy từ thành phố San Francisco đến thành phố Marblemount, Washington. Câu chuyện xảy ra như sau:
Thầy Hằng Cụ, khi còn làm cư sĩ, học hạnh ăn một ngày một buổi, nhưng rất khó. Ngày nọ, trên đường đi làm về, chàng mua một hộp bánh pie, rồi bỏ vào túi áo choàng. Trong lúc nghe giảng kinh thuyết pháp vào buổi tối, chàng không nhớ nghĩ chi hết ngoại trừ hộp bánh pie. Thế nên, chàng nóng lòng, mong đợi buổi giảng kinh sớm kết thúc để được ăn bánh pie.
Nghe giảng kinh xong, không nói lời nào với ai, chàng lẳng lặng trèo lên cầu thang ống khói để leo lên trên nóc nhà.
Chàng bắt đầu đi vòng vòng, rồi mở hộp bánh pie ra ăn; cắn một miếng bánh to tướng. Đang khi đi vòng vòng ống khói trên nóc nhà, đột nhiên chàng thấy Ngài, cũng vừa leo lên cầu thang. Ngài bắt đầu đi rảo, ngược vòng và đối diện với chàng.
Lúc đó, miệng chàng đang ngậm một miếng bánh pie to tướng, nên không thể nói năng chi được. Chàng chỉ cuối đầu lễ bái và tiếp tục đi vòng vòng. Như thế, họ đi ngược và đối diện với nhau cả thảy ba vòng. Lần thứ ba, Ngài hỏi chàng: Con cảm thấy thế nào?.
Sau đó, Ngài bước xuống cầu thang.
THÁNG MƯỜI 1974, SÀI GÒN, VIỆT NAM
Phương Quả Ngộ, đệ tử của Ngài, là người thường đi du lịch khắp thế giới.
Bà cùng chồng sống ở Sài Gòn.
Nơi đây, họ có rất nhiều cơ sở và đất đai.
Trước khi tình hình chính trị biến đổi ở Sài Gòn, Ngài Tuyên Hóa đột nhiên gọi điện thoại cho vợ chồng bà.
Khi đó, cả hai vợ chồng đều ở nhà. Bà Phương Quả Ngộ rất ngạc nhiên về cú điện thoại đó, nên nhanh nhẩu hỏi Ngài rằng có việc gì quan trọng không.
Được trả lời là không có việc gì quan trọng hết, nhưng trong lúc điện đàm, Ngài khuyên hai vợ chồng là nếu không có gì đặc biệt, nên thu xếp công việc làm ăn gọn gàng, để qua MỸ sớm.
Tuy thế, họ không nghe lời khuyên của Ngài mà qua MỸ sớm. Kết quả, sau khi tình thế chính trị thay đổi, họ bị mất mát hơn nửa gia tài.
1975, Oregon:
Ngài hướng dẫn bốn chúng đệ tử đến tu hành tại một khu rừng ở tiểu bang Oregon. Nơi đó, Ngài cử hành pháp hội niệm danh hiệu Phật A Di Đà ngoài trời.
Ngài cũng giải thích về pháp môn Tịnh Độ, tức luôn niệm danh hiệu Phật A Di Đà.
Đang lúc giải thích về phương pháp niệm Phật trong cuộc sống hằng ngày, ánh đèn dầu đột nhiên phực lên một luồn hào quang tỏa sáng, bao trùm xung quanh đầu Ngài.
Oregon
Trong hình, Ngài đang chủ trì lễ phóng sanh tại bờ biển Oregon, vào lúc cực điểm của kỳ Phật thất tại Phật Căn Địa, tức vùng đất có căn tánh Phật. Ngài dùng nhiều phương tiện thiện xảo để dẫn dắt thanh niên người MỸ, bước vào cửa Phật. Sau kỳ Phật thất kết thúc, Ngài dời toàn bộ hội tràng từ trong khu rừng ra đến ngoài bãi biển. Khi hoàng hôn vừa xuống, mọi người đều hướng về phía tây, phát nguyện cầu vãng sanh cõi Tây Phương Cực Lạc, và hồi hướng công đức lành tu tập, cho tất cả chúng sanh.
Trong hình, Ngài và pháp sư Huệ Sanh, cùng các đệ tử xuất gia, giảng pháp cho sinh viên đại học. Có những năm, Ngài thường đến các trung tâm giáo dục, để giảng kinh thuyết pháp, như đại học University of California at Berkeley và Davis; the University of Southern California, Los Angeles; Stanford University; the University of Wisconsin; the University of Minnesota; Humbolt State University; the University of Oregon; the University of Washington; the University of Hawaii; the University of British Columbia.
1976, SANTA CLARA
Tại Công Viên Trung Ương, Ngài thuyết giảng cho thanh niên MỸ nghe về đề mục: Tinh Thần Hòa Bình. Trong hình này, chứng minh rõ ràng rằng Ngài có nhiều nhân duyên với thanh niên người MỸ. Đến bất cứ chỗ nào, thanh niên người MỸ luôn bị thu hút bởi lòng từ bi ấm áp, lời ngay thẳng, siêu vượt chướng ngại của ngôn ngữ và văn hóa, năng lực tương thông thần kỳ của Ngài.
Do đức hạnh tu hành, Ngài cảm hóa được những thanh niên người MỸ, khiến họ từ từ dẹp bỏ tâm niệm Sống phóng túng và tự do cá nhân, và lần lần nghiên cứu, học Phật pháp, như trì thánh hiệu Phật A Di Đà. Hình chụp những thanh niên người MỸ, đi nhiễu và niệm Phật theo các vị tăng ni.
1976, San Francisco
Ngài chủ trì buổi lễ cạo tóc xuất gia. Trong năm, có thêm bốn vị thanh niên nam nữ, phát tâm tu đạo, gia nhập tăng đoàn, như thầy Hằng Thật, Hằng Thuận, sư cô Hằng Cư, và một vị tăng người Á Châu (đây là vị đệ tử xuất gia người Á Châu đầu tiên, kể từ khi Ngài qua MỸ).
Thập niên 70, tại Kim Sơn Thánh Tự
Các đệ tử đang nghe Ngài giảng kinh Hoa Nghiêm Sao Tự của kinh Hoa Nghiêm, Sớ Sao kinh Hoa Nghiêm.
Trong những buổi giảng kinh, Ngài thường khuyến khích các đệ tử chuẩn bị, tập giảng kinh. Các vị đệ tử thường không bao giờ biết được là Ngài sẽ gọi tên ai lên tập thuyết pháp.
Các đệ tử thường dùng máy nghe để lắng nghe tiếng Tàu, trong lúc tiếng Anh đang được phiên dịch. Đồng thời, có các đệ tử, vừa lắng nghe tiếng Tàu vừa đánh máy và phiên dịch kinh ra tiếng Anh trong phòng cách âm.
Ngài luôn tùy duyên lành mà hóa độ chúng sanh. Làm bất cứ phương tiện thiện xảo gì, Ngài đều nhắm vào việc giáo hóa chúng sanh. Ví như những việc mà Ngài cho phép các đệ tử làm cho mình, không nhất định là do ý muốn.
Ví như, trong lúc giảng kinh, các đệ tử thường thích đem nước uống cho Ngài dùng. Thời gian sau, một trong những người đệ tử, vì lo chuẩn bị nước uống cho Ngài, nên bỏ buổi tụng kinh chiều. Ngài không thích việc này, nhưng không nói điều chi. Sau này, Ngài bắt đầu than phiền là tách nước mà người đệ tử mang nước uống cho Ngài, rất là dơ. Việc than phiền này không kết quả, nên cuối cùng, Ngài dùng phương pháp khác. Tối hôm nọ, Ngài uống gần cạn hết nước trong tách, rồi bắt đầu cố ý nhìn chăm chú vào tách nước đó. Chẳng bao lâu mọi người đều để ý đến sự chăm chú nhìn tách nước của Ngài. Khi đó, trong lúc xem xét tách nước, Ngài gọi thầy Hằng Tĩnh lên nơi tòa giảng kinh, rồi tuyên bố rằng có một con trùng trong tách nước. Thế nên, Ngài bảo thầy Hằng Tĩnh hãy nhìn vào tách nước và nói với đại chúng những gì mà thầy thấy. Thầy Hằng Tĩnh ngó vào tách nước rồi nói:
- Những gì con thấy chỉ là trong nước có cặn cáu.
Ngài bảo:
- Không phải là cặn cáu, mà là con trùng. Hãy đưa chuyền tách nước này cho mọi người xem.
Thầy Hằng Tĩnh làm theo lời dạy của Ngài. Những đệ tử nhìn xem xét rõ ràng, thì chỉ thấy một lớp cặn cáu bên dưới đáy tách nước. Chuyền vòng vòng giảng đường xong, cuối cùng tách nước được mang về và đặt trên bàn giảng kinh của Ngài.
Ngài tiếp tục giảng kinh Hoa Nghiêm. Nhưng trong những lúc các đệ tử phiên dịch lời giảng giải ra tiếng Anh thì Ngài đều nâng tách nước lên và nhìn chăm chú vào đó. Cuối cùng, Ngài lại gọi thầy Hằng Tĩnh lên trên bục giảng, bảo:
- Hãy nhìn kỸ vào đó, rồi nói cho thầy nghe những gì con đã thấy.
Thầy Hằng Tĩnh ngó vào tách nước, rồi kinh hoàng phản ứng:
- Sao lạ kỳ vậy! Một con trùng hiện rõ trong tách nước.
- Hãy chuyền vòng vòng.
Lần này các đệ tử thật sự thấy rõ một con trùng tám chân, sắc thân năm màu, không giống như những con trùng trên thế giới này. Tối đó, mọi người đều thấy được những gì mà họ chưa từng thấy, còn thầy dâng nước lên cho Ngài cũng học được một bài học.
Sau việc này, Ngài dạy:
- Thầy không muốn là người mà khiến cho con phải bỏ mất buổi tụng kinh chiều. Thầy không có đủ phước đức, nên không muốn chịu trách nhiệm về nhân quả này.
Tháng tám, năm 1976, Vạn Phật Thánh Thành.
Lần thứ nhất tại Vạn Phật Thánh Thành tổ chức Tam Đàn Đại Giới. Khi đó, Ngài làm vị Đắc Giới Hòa Thượng. Đặc biệt, trong lần truyền giới này, có sự chứng minh của nhị vị hòa thượng người Việt Nam là hòa thượng Đức Niệm và cố hòa thượng Thiện Thanh.)
Vạn Phật Thánh Thành
Do đức hạnh của Ngài chiêu cảm, càng ngày có thêm nhiều thiện nam tín nữ, phát tâm xuống tóc tu hành, gia nhập tăng đoàn.
BAN PHƯỚC LÀNH CHO RÙA
Sau khi được thả xuống nước, những con rùa trong hình, không nở rời xa ân nhân của chúng, nên quay đầu lại nhìn, trước nguyên do được thả kỳ lạ. Việc xoay đầu lại nhìn, biểu thị sự cảm ân của chúng, khiến Ngài nhoẽn miệng cười, âm thầm ngửa tay ra để ban phước lành cho chúng.
1977, Vạn Phật Thánh Thành
Khi phái đoàn tôn giáo đến thăm Vạn Phật Thánh Thành, ngài bảo hồng y Vu Bình:
Ngài là Phật Tử giữa những người thiên chúa giáo, còn tôi sẽ là người Thiên Chúa giáo giữa những người Phật Tử.
Hồng y Vu Bình đồng ý.
1977, Tại công viên cầu Kim Môn.
Tín chúng đang trên đường đến công viên cầu Kim Môn, để tham gia pháp hội Cầu Mưa, hy vọng giải trừ hai năm hạn hán đã khiến vùng California, trở nên khô cằn.
1977, Tại công viên cầu Kim Môn.
Mọi người đều luân phiên niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm và chú Cầu Mưa. Cộng thêm, có những bài pháp, giảng về lý nhân quả căn bản: Tại sao trời không mưa? Chỉ vì chúng ta quá tham lam ích kỶ, tiêu xài nước hoang phí. Nếu biết tự nhận ra lỗi lầm này mà thành tâm sám hối, thì sẽ được cảm ứng.
Người tham gia pháp hội Cầu Mưa, lần lần tăng thêm. Đại chúng vừa xướng tụng, vừa lễ bái. Trong lúc mọi người tụng niệm chú ngữ Cầu Mưa thì nền trời bắt đầu hiện lên những áng mây trắng, và gió cũng thổi đến.
Có mưa không? Vâng, đã có mưa. Sáng ngày hôm sau, tại huyện Mendocino, phía bắc thành phố Cựu Kim Sơn (Vạn Phật Thánh Thành nằm trong huyện này), báo chí đăng tải là đã có mưa. Đến 11:30 giờ trưa cùng ngày, mưa xuống khắp thành phố Cựu Kim Sơn. Những phóng viên nhà báo, trở lại Max Meadow, nơi mà họ đã đến và viết tin tức về pháp hội Cầu Mưa vào ngày hôm trước, để tường thuật sự việc, ngay tại nơi đây. Cô phóng viên tường thuật: Nơi đây, một bàn thờ do các Phật tử thiết lập để cầu mưa. Trời vừa đổ mưa thuận theo lời cầu nguyện của họ. Hôm nay, một vũng nước lớn đọng nơi bàn thờ được thiết lập.
Ngài ở lại chùa, không đến tham gia pháp hội Cầu Mưa tại công viên cầu Kim Môn, nhưng trực tiếp chỉ đạo toàn pháp hội.
Mùa xuân năm 1978, Vạn Phật Thánh Thành
Hội thảo về đề tài Tử vong và lâm chung. Một phần của hai gốc cây Ái Kiết, là chủ đề trong cuộc hội thảo về Tử vong và lâm chung.
Gốc cây này được tìm thấy trong chùa trong dịp hội thảo, và được mang đến cho Ngài. Ngài giải thích rằng gốc cây này chính là một cặp vợ chồng. Trong đời tiền kiếp, họ đã cùng nhau thề nguyền rằng đời đời kiếp kiếp sẽ không mãi rời nhau. Do vì cộng nghiệp, đời này họ trở thành hai gốc cây, vĩnh viễn ôm bọc lấy nhau. Ngài bảo: Ái tình vốn là cội gốc của dòng sanh tử luân hồi.
Ngài thuyết pháp trong kỳ thiền thất vào mùa đông. Mỗi năm, Vạn Phật Thánh Thành luôn tổ chức thiền thất vào mùa đông. Thiền thất chiếm khoảng vài tuần. Mỗi ngày, thiền sinh ngồi thiền từ ba giờ sáng đến mười hai giờ tối. Giữa mỗi lần ngồi, thiền sinh có hai mươi phút nghỉ ngơi. Vào buổi chiều, được nghỉ khoảng một giờ. Dưới sự dạy dỗ kiên nhẫn của Ngài, các đệ tử dần dần học những phương cách ngồi thiền. Khi đó, mọi người đều ngưng mọi công việc hằng ngày để tham gia vào kỳ thiền thất hiếm hoi này.
Tiểu trai đường (nhà ăn nhỏ) tại Vạn Phật Thánh Thành. Lúc đầu, tại Vạn Phật Thánh Thành, tất cả mọi vật đều rất đơn giản. Ngài thường cùng với các đệ tử tỳ kheo, tỳ kheo ni thọ trai. Củi đốt trong nhà sưởi là nguồn nhiên liệu chính để sưởi ấm đại chúng trong lúc ăn cơm.
Phòng Vô Ngôn.
Ngài hiển thị Tam Muội Du Hý, trong lúc đang dạy về thần chú Thủ Lăng Nghiêm tại phòng Vô Ngôn. Mỗi câu chú, Ngài đều làm một bài kệ, bao hàm những nghĩa lý nhà Phật thâm thúy.
Ái nhân bất thân cố kỳ nhân
Lễ bỉ phất đáp kính vị chân
Hồi quang phản chiếu cầu chư kỶ
Cảm ứng đạo giao mạt mê thần
dịch:
Thương người, người chẳng gần, hãy nhìn lại lòng nhân từ của mình.
Lễ người, người chẳng đáp, lòng cung kính của mình chưa chân thật.
Xoay ánh sáng lại vào mình, tìm giải đáp từ bên trong.
Cảm ứng đạo giao, chớ bị mê muội vì thần.)
*Năm 1977, mồng bảy tháng giêng, hai đệ tử xuất gia người MỸ, Hằng Thật và Hằng Triều, vì cầu nguyện hòa bình thế giới, phát nguyện hành ba bước một lạy, từ chùa Kim Luân, Los Angeles, đến Vạn Phật Thánh Thành, bắc California. Tháng mười một, ông Vu Bình, hồng y Thiên Chúa giáo, hướng dẫn phái đoàn các tôn giáo đến viếng thăm Vạn Phật Thánh Thành.
(Phụ chú:
Vùng biển phía tây, MỸ quốc.
Hai thầy Hằng Thật và Hằng Triều phát tâm cuộc hành hạnh ba bước một lạy. Trong thời gian này, Ngài lập ra năm tông chỉ: Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỶ, không tự lợi. Sau này, tại Vancouver, Ngài cộng thêm một tông chỉ nữa là không nói láo.)
*Năm 1978, từ ngày ba mươi tháng bảy đến ngày hai mươi bảy tháng chín, thể theo lời thỉnh mời của các hội Phật Giáo vùng Đông Nam Á, Ngài hướng dẫn phái đoàn hoằng pháp Á Châu, thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới, Đại Học Phật Giáo Pháp Giới qua Mã Lai Á, Tân Gia Ba, Thái Lan, Hồng Kông. Trong mười hai ngày hoằng pháp tại Mã Lai Á, có hơn sáu ngàn người thọ giới quy y Tam Bảo. Từ mồng mười đến ngày mười bảy tháng chạp, Vạn Phật Thánh Thành cử hành lễ truy niệm và cầu siêu độ trong bảy ngày liền cho hồng y Vu Bình, thị trưởng thành phố Cựu Kim Sơn George Moscone, cùng bao linh hồn tử nạn trong pháp giới. Vào lúc ấy, Ngài giảng kinh Địa Tạng.
(Phụ chú:
1978 Mã Lai Á.
Khi Ngài qua Đông Nam Á hoằng pháp,trên đường ghé lại Mã Lai Á, thầy Hằng Triều và sa di Quả Đồng đều bị bịnh, nên đồng tịnh dưỡng tại một căn phòng.
Vì bịnh tình thầy Hằng Triều rất nghiêm trọng, nên Ngài bảo thầy Hằng Thật trông coi ngày đêm. Trưa hôm nọ, đang lúc tụng chú Đại Bi, sa di Quả Đồng chợt ngủ gục, đột nhiên thấy quỶ vô thường cỡi gió lạnh đến. Việc này cả hai thầy kia đều cảm giác được. Thân ốm gầy, đội nón cao, quỶ vô thường tuyên bố là thời gian đã đến, Quả Đồng nên đi theo nó.
Giữa ranh giới sống chết, Quả Đồng run rẩy, lập tức vội vã niệm chú Đại Bi. Khi đó, thầy Hằng Triều đang nửa mê nửa tỉnh.
Mặc dầu bận rộn mệt mỏi vì thuyết pháp cả ngày, nhưng Ngài vẫn từ bi đến thăm, nâng tay thầy Hằng Triều lên, khiến cho thầy từ từ mở mắt, tỉnh giác được hoàn cảnh xung quanh. Diêm Vương muốn thầy Hằng Triều chết.
Vì vậy, Ngài bắt ấn viết chú đến cho Diêm Vương. Ngài nói rằng vị đệ tử này, rất thành tâm phụng đạo. Do đó, trong bất cứ hoàn cảnh nào, Ngài cũng không cho phép Diêm Vương bắt đi. Sau đó Diêm Vương được thuyết phục và thầy Hằng Triều từ từ bình phục trở lại.
Từ đó, cả hai thầy, Hằng Triều và Quả Đồng, nghiệm được bài học là khởi nhiều vọng tưởng rất nguy hiểm, phải nên dụng công tu hành trong đất tâm, tránh khởi tâm niệm ô trược. Sau khi lành bịnh, Ngài từ bi bảo thầy Hằng Triều:
Thầy tận lực thuyết phục Diêm Vương để cho con tiếp tục sống. Công đức tu hành tích tụ sau bao năm, nay đã hết trọn. Tuy vậy, đừng lo lắng, con vẫn có thể tích công bồi đức, vì Phật pháp mà nỗ lực tinh tấn tu hành.
Đi đứng nằm ngồi
Chớ rời vật này.
Rời xa vật này
Sẽ là sai lầm.
Phòng Vô Ngôn, Vạn Phật Thánh Thành.
Ngài giải thích cho các đệ tử về quyển Phật Tổ Đạo Ảnh. Mỗi vị tổ, Ngài viết tám câu kệ. Trong lớp, Ngài dùng những chủ đề: Động lực thôi thúc phát triển trí năng chủ quan, làm phương thức dạy. Các đệ tử, theo sự chỉ dẫn, thay phiên nhau, lên bảng viết, giải thích những câu kệ này bằng tiếng Anh và tiếng Tàu. Sau khi các đệ tử thực tập giảng giải xong, Ngài mới bắt đầu giải thích những câu kệ đó. Những lớp học như vầy, kéo dài khoảng bốn năm tiếng, bao gồm rất nhiều đề tài. Phụng sự giáo dục của Ngài là điều căn bản mà các đệ tử phải nhớ đến.
Ngài dạy học rất sớm (khoảng sáu giờ hay sáu giờ rưởi), với nhiều lý do:
1/ Những người lo việc nấu nướng có thể tham dự lớp học trước khi đến nhà bếp làm việc.
2/ Thầy cô giáo và học sinh có thể tham dự trước khi đến trường học.
3/ Ngài có thể đi xuống thành phố Cựu Kim Sơn sớm.
Thỉnh thoảng, vừa lúc từ thành phố Cựu Kim Sơn trở về Vạn Phật Thánh Thành, Ngài liền dạy học, không nghỉ ngơi chút nào.)
*Năm 1979, trường tiểu học Dục Lương được dời về Vạn Phật Thánh Thành. Ngày mười bốn tháng ba, trong cuộc đàm luận với Quentin Kopp, ủy viên đoàn Tổng Quản thành phố Cựu Kim Sơn, Ngài tiên đoán rằng chủ nghĩa Cộng Sản sẽ tan rã trong vòng mười năm.
Tháng mười, ngày hai mươi tháng tám, kỳ truyền Tam Đàn Đại Giới lần thứ ba tại Vạn Phật Thánh Thành được viên mãn. Mồng bốn tháng mười một:
1/ Lễ khai quang thánh tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát.
2/ Khai mở đại học Phật Giáo Pháp Giới.
3/ Ngài hoàn tất giảng toàn bộ kinh Hoa Nghiêm trong chín năm.
4/ Đệ tử xuất gia người MỸ, Hằng Thật và Hằng Triều, hoàn tất hành trình ba bộ một lạy.
Ngài giảng Văn Khuyến Phát Bồ Đề Tâm, sớ kệ chú giải về chú Thủ Lăng Nghiêm, kinh Di Giáo.
*TỪ NĂM 1980 ĐẾN NĂM 1986, NGÀI THÀNH LẬP TRUNG TÂM CỨU TRỢ NGƯỜI TỊ NẠN ĐÔNG NAM Á (VIỆT NAM, LÀO, CAM BỐT).
*Năm 1981, vào tháng chạp, Ngài tham dự đại hội Tăng Già Phật Giáo Quốc Tế lần thứ ba tại Đài Loan.
Từ Ngày hai mươi chín tháng mười một đến ngày hai mươi chín tháng chạp, Ngài hướng dẫn phái đoàn hoằng pháp Á Châu thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới và Đại Học Phật Giáo Pháp Giới, lần thứ hai qua Đài Loan, Hồng Kông, Tân Gia Ba, Mã Lai Á.
Ngài thuyết pháp tại các trường đại học như Berkeley, Davis, Oregon, San Francisco State.
Ngài giảng phẩm Tịnh Hạnh. Ngày hai mươi bốn tháng mười, kỳ truyền Tam Đàn Đại Giới tại Vạn Phật Thánh Thành lần thứ tư viên mãn.
Tháng mười một , Vạn Phật Thánh Thành tổ chức đại lễ khánh thành ba cổng sơn môn, Vạn Phật Bảo Điện, Ngũ Quán Đường.
Hàng ngàn người trong và ngoài nước như Đài Loan, Hồng Kông, Mã Lai Á, Tân Gia Ba, v.v... đến tham dự đại lễ. Ngài khai mở chương trình huấn luyện Tăng Ni và Cư Sĩ.
(Phụ chú:
1979, Vạn Phật Thánh Thành.
Tam Đàn Đại Giới lần thứ ba. Lần truyền giới này, được sự tham gia của các vị giới sư người Tàu, người Việt (hòa thượng Đức Niệm), người Tích Lan, người MỸ.
Đây là biểu tượng đoàn kết thống nhất giữa những quốc gia Phật giáo, và nhất là hai truyền thống Bắc Tông và Nam Tông.
Tháng mười một, tại chánh điện Vạn Phật Thánh Thành, Ngài làm lễ khai quang thánh tượng Quán Âm Bồ Tát, ngàn tay ngàn mắt.
Bao quanh Ngài là các đệ tử tỳ kheo trẻ tuổi người MỸ và người Á Châu. Từ trái sang phải: Thầy Hằng Tá, Hàng Triều, Hằng Vô, Hằng Thật, Hằng Cống, và sa di Quả Nhi.
Các đệ tử của vị Lạt ma Karmapa gọi điện thoại đến chùa Kim Sơn Rất nhiều lần để mong tiếp chuyện với Ngài, nhưng Ngài không nhận. Sau đó, tự thân họ đến gặp, nhưng Ngài cũng không tiếp đón. Cuối cùng họ nhắn tin lại là Lạt ma Karmapa đang bị bịnh ung thư trầm trọng. Sau khi Ngài biết được tin này, bịnh tình của Lạt ma Karmapa bớt được phần nào. Sau này, tự thân Lạt ma Karmapa đến thăm Ngài tại Vạn Phật Thánh Thành.
Tuy không nói rõ, nhưng lần thăm viếng này là biểu thị sự cảm ân của Lạt ma Karmapa đối với Ngài. Bất cứ Lạt ma Karmapa đi đến đâu, các đệ tử đều bày biện tràng phan bảo cái. Thế nên, lần thăm viếng Vạn Phật Thánh Thành này không vượt ngoài ngoại lệ. Vì vậy, một chiếc xe chở đầy đệ tử của Lạt ma Karmapa đi sớm một giờ, để họ có thể đến Vạn Phật Thánh Thành trước, hầu mong chuẩn bị cờ xướng, trống kèn Tây Tạng, v.v...
Ai ngờ được xe của họ bị hư giữa đường. Hơn một giờ sau mới chạy được. Họ rất nóng lòng, lo lắng vì biết rằng không thể tới Vạn Phật Thánh Thành trước khi Lạt ma Karmapa đến. Vì thế, Vạn Phật Thánh Thành rất an tĩnh khi Lạt ma Karmapa đến. Lúc đó, Ngài cùng đại chúng đang thọ trai. Lạt ma Karmapa cùng với thị giả tự thân đến tìm Ngài tại nhà ăn.
Ngài mời họ ngồi vào hàng ghế bên cạnh cho đến khi thọ trai xong. Sau khi thọ trai, Ngài cùng Lạt ma Karmapa đi đến phòng phương trượng.
Vừa đến phòng khách, đệ tử của Lạt ma Karmapa liền trải một mảnh lụa rất đẹp và trang hoàng những vật quý giá khác. Lạt ma Karmapa ngăn họ lại, bảo: Không! Không! Không phải chỗ này. Hãy dẹp hết đi!
Sau đó, Lạt ma Karmapa kéo một cái ghế, ngồi bên cạnh Ngài. Hai vị đàm luận thân mật. Khi đó, Ngài khuyên Lạt ma Karmapa nên xả bỏ tất cả, chánh thức xuống tóc xuất gia làm tăng. Ý của Ngài là khuyên Lạt ma Karmapa nên xả bỏ hết tất cả thanh danh, lợi dưỡng, thì thọ mạng mới được dài lâu. Nếu tiếp tục làm những lễ Quán Đảnh, phung phí hết tinh lực quý báu, thì không có cách nào để bảo tồn sanh mạng. Lạt ma Karmapa không thể tiếp thọ lời khuyên của Ngài, nên sau lần thăm viếng đó, chẳng bao lâu qua đời.)
*1983, mồng hai tháng giêng, chùa Kim Luân cử hành lễ khai quang. Tượng Ngọc Phật phóng hào quang, tỏa điềm lành.
Ngài giảng kinh Dược Sư, Niết Bàn, Luận Ngữ. Vạn Phật Thánh Thành bắt đầu lập truyền thống lễ bái Vạn Phật Bảo Sám hằng năm, trước ngày đại lễ Phật Đản.
Từ tháng mười một đến tháng giêng năm kế, Ngài phái các đệ tử thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới, đại học Phật Giáo Pháp Giới, lần thứ nhất qua Ấn Độ, Tân Gia Ba, Thái Lan, Miến Điện, Ấn Độ Dương, Đức quốc, Úc Châu, Pháp quốc, và Anh quốc hoằng pháp.
*Năm 1984, Ngài thành lập chùa Kim Phong ở Seattle, chùa Kim Phật ở Vancouver, Gia Nã Đại. Ngày hai mươi bảy tháng năm, đại học Phật Giáo Pháp Giới cử hành lễ tốt nghiệp đầu tiên. Ngài giảng chương Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông.
*Năm 1985, Ngài giảng Chứng Đạo Ca của đại sư Huyền Giác, Thủy Kính Hồi Thiên Lục, Văn Khuyến Phát Bồ Đề Tâm.
(Phụ chú:
Tháng mười hai năm 1985.
Lúc pháp sư Hải Đăng qua MỸ thăm viếng Ngài, cùng đi có các viên chức chánh phủ cao cấp. Họ quay một cuốn phim về võ thuật của pháp sư Hải Đăng. Pháp sư Hải Đăng cũng truyền môn Đồng Tử Công căn bản cho các đệ tử của Ngài với điều kiện là không thể truyền công phu này ra ngoài. Ngài cũng thỉnh pháp sư Hải Đăng giảng kinh Lăng Nghiêm phần Tứ chủng thanh tịnh minh hối (lời dạy của Phật về bốn loại thanh tịnh). Ngài tán thán ca ngợi pháp sư Hải Đăng và nói rằng chỉ có những vị giữ giới thanh tịnh và tâm chánh trực mới có khí chất dũng mãnh giảng giải về đoạn kinh văn này. Để biểu hiện sự cung kính đối với pháp sư Hải Đăng, Ngài cùng các đệ tử cùng nhau quỳ xuống nghe giảng kinh.
Vào những năm cuối của thập niên tám mươi.
Dầu Ngài đi đến nơi nào, chúng sanh trong chín pháp giới đều tôn trọng cung kính. Những ai mở mắt thần (thiên nhãn thông) thỉnh thoảng có thể thấy họ, còn những người thường thì không thể thấy. Tuy chỉ có mắt thịt, nhưng đối với người có tâm thâm tín thì cũng có thể cảm nhận được. Với đức hạnh cao vời, Ngài cảm hóa được những chúng sanh hữu hình lẫn vô hình.
Lần nọ, khi thăm viếng một đạo tràng chi nhánh tại Gia Nã Đại, có một con rồng, ở nơi đây, đợi Ngài đã hơn hai ngàn năm, đến thọ giới quy y với Ngài.)
*Năm 1986, chùa Kim Sơn dời về địa điểm mới ở khu phố Tàu vùng Cựu Kim Sơn. Ngài thành lập hội in kinh Phật Giáo Pháp Giới tại Đài Loan.
Từ mồng bốn đến mồng sáu tháng bảy, Vạn Phật Thánh Thành tổ chức lễ kỶ niệm mười năm thành lập.
Mồng sáu tháng bảy, lễ tốt nghiệp chương trình huấn luyện Tăng Ni và Cư Sĩ lần đầu tiên được cử hành.
Ngài thành lập chùa Hoa Nghiêm ở Calgary, Gia Nã Đại.
*Năm 1987, ngày hai mươi chín tháng giêng, chùa Kim Sơn cử hành lễ khai quang ba tôn tượng đức Như Lai.
Ngày hai mươi hai tháng ba, nhân dịp vía Bồ Tát Phổ Hiền. Chùa Kim Phong cử hành lễ khai quang thánh tượng chư Bồ Tát Phổ Hiền, Văn Thù, Vi Đà, Già Lam.
*1987, mồng mười tháng năm, nhân dịp lễ vía Bồ Tát Văn Thù, chùa Kim Sơn cử hành lễ khai quang thánh tượng Văn Thù và Phổ Hiền.
Tháng bảy, Ngài tham dự và diễn giảng tại các hội nghị ở NewYork, Texas, vùng tây ngạn nước MỸ.
Từ ngày mười tám đến ngày hai mươi bốn tháng bảy, Ngài chủ trì lễ Thủy Lục Không, thỉnh gần một trăm vị tăng từ Trung Quốc đại lục qua dự. Lần đầu tiên trong lịch sử Phật Giáo Trung Quốc, có nhiều người Tàu từ nội địa lẫn hải ngoại đến tham dự đại lễ.
Tháng tám, Ngài khai mở hội nghị Liên Kết Các Tôn Giáo Trên Thế Giới. Ngài mời đại diện các đoàn thể Phật Giáo, Nho Giáo, Cơ Đốc Giáo, Hồi Giáo, và Đạo Giáo đến bàn thảo về những vấn đề nghiêm trọng trong xã hội hiện thời như luân lý, gia đình, khoa học, kỸ thuật, tôn giáo, giáo dục, v.v...
Cũng trong tháng tám, Ngài được mời đến trường đại học Berkeley tham dự đại hội liên tôn giữa Phật Giáo và Gia Tô Giáo, và thuyết giảng về đề tài: Thiền và cầu nguyện.
(Phụ chú:
1987, Vạn Phật Thánh Thành.
Đáp ứng lời mời của Ngài, phái đoàn tăng sĩ Phật giáo từ Trung Hoa lục Địa do pháp sư Minh Dương (phó chủ tịch hội Phật Giáo toàn Trung Quốc), pháp sư Chân Thiền, pháp sư Diệu Thiện, hướng dẫn, đến thăm viếng và làm lễ Thủy Lục Không tại Vạn Phật Thánh Thành.
Trong kỳ pháp hội Thủy Lục Không này, toàn thể tăng chúng ở tại nội đàn, ngoại đàn (mỗi đàn phân làm sáu đàn nhỏ), mỗi ngày đồng tụng kinh, niệm Phật, lễ sám. Tối đến, làm lễ Diệm Khẩu Từ Bi để siêu độ tất cả chúng sanh vô hình đang bị khổ nạn. Tất cả công đức trong kỳ pháp hội này đều hồi hướng về tất cả chúng sanh ở trên mặt đất, dưới nước hay trên không.)
*Năm 1988, mồng sáu tháng tư, thư ký tiểu bang California, bà Giang Nguyệt Trụ, đến viếng thăm chùa Kim Sơn. Ngài đến đại học British Columbia ở Gia Nã Đại, thuyết giảng về đề tài: Đại Học Yếu Chỉ, Nho Giáo, Căn Bổn Làm Người, Làm Thế Nào Để Phát Huy Truyền Thống MỸ Đức Trung Quốc Trong Xã Hội Hiện Tại, Truy Tầm Trí Huệ và Hòa Hợp.
Ngày hai mươi tám tháng tám, Ngài chủ tọa hội nghị tôn giáo, luân lý, khoa học, giáo dục, triết học, học thuật, và thuyết giảng đề tài: Chân nghĩa của sự đào sâu tiềm năng trí huệ của nhân loại.
Mồng mười tháng chín, Vạn Phật Thánh Thành cử hành đại lễ khai quang thánh tượng Bồ Tát Địa Tạng cùng pháp hội Địa Tạng. Tháng chạp, Ngài hướng dẫn phái đoàn thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới, đại học Phật Giáo Pháp Giới qua Đài Loan, Tân Gia Ba, Mã Lai Á, và Hồng Kông hoằng pháp lần thứ ba, thể theo lời thỉnh mời của các đạo tràng lớn ở những nơi đó. Ngài cử hành pháp hội Hộ Quốc Tiêu Tai Hoạn Nạn và các hoạt động hoằng pháp khác. Ngài cũng thành lập Phật Học Viện Chánh Pháp tại Đài Loan.
*Năm 1989, Ngài thuyết giảng về đề tài: Những biến chuyển lớn ở Trung Quốc trong thế kỶ vừa quatại các đại học ở MỸ quốc và hải ngoại.
Tháng giêng, Ngài là quý khách của cựu tổng thống Bush trong đại lễ nhậm chức Tổng Thống Hoa Kỳ. Ngài là đại biểu người đông phương duy nhất trong buổi lễ cầu nguyện Quốc Gia.
Tháng ba, Ngài thuyết giảng tại trung tâm hội Quaker ở Philadelphia về đề tài: Phục hưng luân lý, Đạo đức thực tiển, và những điểm tương đồng giữa Phật giáo, Gia Tô giáo, Nho giáo. Ngài cũng diễn giảng cho hội Phật Giáo tại vùng Hoa Thịnh Đốn.
Mồng một tháng tư, linh mục John Rogers, giảng viên tôn giáo tại đại học Humboldt State, hướng dẫn vài chục nam nữ sinh viên đến tham quan Vạn Phật Thánh Thành. Ngài thuyết giảng đề tài: Quan điểm trí huệ của Phật giáo, tại đại học Oregon. Ngài đến đại học British Columbia, Gia Nã Đại, thuyết giảng về đề tài: Trách nhiệm căn bản làm người. Phật giáo và luân lý. Hiếu thảo là cội gốc làm người. Yếu chỉ lập mạng. Làm thế nào để xây dựng một gia đình hạnh phúc.
Tháng bảy, Ngài thuyết giảng về đề tài: Làm thế nào để cải đổi nền giáo dục. Những chuyển biến lịch sử ở Trung Quốc trong thế kỶ vừa qua. Trung Quốc đạo đức quán, tại đại học Hạ Uy Di.
Từ ngày mười lăm tháng bảy, đến mồng năm tháng tám, đại học Phật Giáo Pháp Giới chủ tọa hội thảo và thực hành luân lý.
Mồng mười tháng tám, Ngài đàm luận với một giáo sư đại học Humboldt State về đề tài: Đối thoại giữa Phật giáo và Gia Tô giáo.
Mồng hai tháng chín, kỳ truyền Tam Đàn Đại Giới lần thứ năm viên mãn. Mồng chín tháng chín, Ngài thuyết giảng tại đại học Minnesota ở thành phố Minneapolis về đề tài: Làm thế nào để cải thiện nền giáo dục hiện thời.
Những chuyển biến ở Trung Quốc trong vòng thế kỶ vừa qua. Từ mồng mười đến ngày mười một tháng chín, Ngài thuyết giảng tại đại học Wisconsin (Madison) về đề tài: Những vấn đề căn bản giữa Phật giáo và con người. Sự quan hệ giữa các tôn giáo trên thế giới.
Từ ngày mười bảy đến ngày mười chín tháng chín, Ngài tới đại học British Columbia, Gia Nã Đại thuyết giảng về đề tài: Trách nhiệm của chúng ta đối với xã hội, quốc gia, và thế giới. Khoa học căn bản. Quan điểm Phật giáo về cải đổi vận mệnh con người. Mục đích và sự phát triển chánh yếu cho thanh thiếu niên hiện tại. Luận về nhân quả trong Phật Giáo.
Từ mồng chín tháng mười đến mồng ba tháng mười một, Ngài hướng dẫn phái đoàn hoằng pháp thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới và đại học Phật Giáo Pháp Giới đến Đài Loan chủ trì pháp hội Quán Âm Đại Bi, Hộ Quốc Tiêu Tai Diệt nạn.
Khi ấy, tại thành phố Cựu Kim Sơn, MỸ quốc, xảy ra trận động đất lớn, Ngài tuyên bố rằng nếu còn ở tại thành phố Cựu Kim Sơn ngày nào thì Ngài không cho phép có thêm một trận động đất nào xảy ra nữa. Mồng bốn tháng mười một, Vạn Phật Thánh Thành cử hành lễ khai quang thánh tượng Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Như Lai.
Từ mồng chín đến ngày mười một tháng mười một, Ngài giảng thuyết về đề tài: Căn bản giáo dục là gì, và chủ tọa hội nghị Nghiên Cứu Phật Học cùng Cách Thức Tu Trì.
Từ ngày ba mươi tháng mười một đến mồng ba tháng chạp, Ngài thuyết giảng tại đại học Austin, Texas. Ngài thành lập Pháp Giới Thánh Tự tại Cao Hùng Đài Loan.
(Phụ chú:
1989, Đài Loan.
Ngài hướng dẫn đoàn hoằng pháp đến Đài Loan, để cử hành pháp hội Từ Bi Tiêu Tai Hộ Quốc. Vì chúng sanh ở Đài Loan, Ngài tuyệt thực trong ba mươi ngày liền. Đang khi tổ chức pháp hội này tại Đài Loan, thì ở vùng Cựu Kim Sơn, MỸ Quốc, xảy ra một trận động đất lớn. Do đó, Ngài lập tức trở về MỸ để cứu nạn, rồi bay trở qua Đài Loan, chủ trì pháp hội diễn giảng kinh điển tại vùng bắc bộ, trung bộ, nam bộ của Đài Loan (sau lần động đất tại vùng Cựu Kim Sơn, Ngài tuyên bố là nếu còn ở nơi đó một ngày, Ngài không bao giờ cho phép có một trận động đất nữa.)
*Năm 1990, mồng hai tháng hai, Ngài thuyết giảng tại đại học Berkeley về đề tài: Đạo lý giữa đạo Phật và con người.
Mồng bảy tháng hai, Ngài chủ tọa đại hội Phật giáo Quốc Tế, với chủ đề: Phật giáo trong thế kỶ thứ hai mươi mốt, do hội Dhammakaya ở Thái Lan tổ chức.
Ngày mười chín tháng hai, Ngài thuyết giảng tại University of California at Los Angeles về đề tài: Làm thế nào để dẹp khổ đau, đạt được an lạc, và chủ tọa hội thảo tham thiền.
Tháng ba, báo Kim Cang Bồ Đề Hải được phát hành lần đầu tiên tại Đài Loan. Từ ngày hai mươi đến ngày hai mươi ba tháng tư, Ngài thuyết giảng tại thành phố Atlanta, Georgia.
Tháng năm, năm đệ tử xuất gia người MỸ qua truyền giới tại chùa Long Hoa, Thượng Hải, Trung Quốc. Cựu tổng thống Bush đánh điện tín đến Vạn Phật Thánh Thành chúc mừng Ngài cùng các đệ tử. Mồng tám tháng năm, Ngài chánh thức nhậm chức Chủ Lễ Tôn Giáotrước cảnh sát trưởng thành phố Cựu Kim Sơn, ông Frank Jodan.
Từ ngày hai mươi sáu đến ngày hai mươi bảy tháng năm, Ngài thuyết giảng tại đại học University of Washington in Seattle.
Ngày mười sáu tháng sáu, cảnh sát trưởng thành phố Cựu Kim Sơn, ông Frank Jodan, đến viếng thăm Vạn Phật Thánh Thành và trao đổi ý kiến với Ngài về xã hội cùng giáo dục. Từ ngày hai mươi mốt đến ngày hai mươi bảy tháng sáu, Ngài thuyết pháp tại vùng Hoa Thịnh Đốn.
Từ ngày mười ba tháng bảy đến mồng bốn tháng tám, Vạn Phật Thánh Thành, chủ tọa hội thảo về: Đạo Phật và con người trong hiện tại.Trong thời gian đó, Ngài thuyết về Mạnh Tử.
Từ ngày ba mươi mốt tháng tám đến ngày hai mươi mốt tháng chín, thể theo lời thỉnh mời của tín chúng Đài Loan, Ngài hướng dẫn phái đoàn hoằng pháp thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới, đại học Phật Giáo Pháp Giới qua Đài Loan, chủ trì pháp hội kỶ niệm 150 năm ngày sinh của đại lão hòa thượng Hư Vân, cùng đại lễ Toàn dân niệm Phật cầu phước, tiêu tai hoạn nạn, tại tòa nhà kỶ niệm Trung Chánh, Đài Bắc. Có hàng chục ngàn người tham gia. Trên hư không, hiện muôn ngàn ánh sáng, báo hiệu điềm lành.
Tháng mười, thể theo lời thỉnh mời của các hội đoàn Phật giáo tại nước Anh, Pháp, Bỉ, và Ba Lan, Ngài hướng dẫn phái đoàn hoằng pháp quốc tế thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới và đại học Phật Giáo Pháp Giới, qua Âu Châu thuyết pháp. Chủ đề: Giáo lý đức Phật vượt thời gian và không gian. Trí huệ chân thật vĩnh hằng bất biến, trong đó nhấn mạnh đề tài: Phật giáo và triển vọng hòa bình thế giới. Giáo dục trong Phật giáo và phương pháp ứng dụng. Dung hợp truyền thống Nam tông và Bắc tông trong Phật giáo, và hợp quần các tôn giáo trên thế giới.
Mồng bảy tháng mười, Vạn Phật thánh Thành tổ chức chương trình Trưởng Thanh Đại Học, trong hai tuần lễ, với đề tài: Hoạt động tinh tấn tu hành của người già. Kể từ đó, Vạn Phật Thánh Thành thường tổ chức chương trình này cho người già.
Mồng sáu tháng mười một, Ngài phái đệ tử qua Bắc Kinh cung thỉnh Long Tạng (đại tạng kinh)về Vạn Phật Thánh Thành, biểu tượng sự quan hệ giữa Phật giáo Trung-MỸ trên đà phát triển và Phật giáo truyền sang Tây Phương. Chùa Kim Luân dời về địa điểm mới.
(Phụ chú:
Lãnh đạo phái đoàn hoằng pháp sang Anh Quốc thăm viếng tăng đoàn Nam Tông, 1990
Đốn tiệm tuy thù,
Thành công tắc nhất
Hà phân Nam Bắc
Thánh phàm tạm dị,
Căn tánh khước đồng
Mạc luận Đông Tây.
Dịch:
Đốn tiệm tuy khác,
Thành công tức một
Sao phân Nam Bắc
Thánh phàm tạm khác,
Căn tánh đều đồng
Chớ luận Đông Tây.
Ngài là Thượng Khách tại hội nghị Quốc Tế về đề tài: Phật giáo bước vào năm 2000, do Tổng hội Pháp Thân ở Thái Lan tổ chức.
1990, Anh Quốc.
Pháp sư AJAHN SUMEDHO rất tôn sùng, cung kính và tin tưởng Ngài. Pháp sư thường đến Vạn Phật Thánh Thành và các đạo tràng chi nhánh, để gần gũi, thân cận và tiếp thọ những lời giáo huấn của Ngài. )
*Năm 1991, viện PHIÊN DỊCH KINH QUỐC TẾ VÀ TRUNG TÂM HÀNH CHÁNH CỦA TỔNG HỘI PHẬT GIÁO PHÁP GIỚI được dời về thành phố Burlingame, California.
Từ mồng tám đến hai mươi tháng giêng, do sự thỉnh mời của chùa Minh Nhật, tỉnh Kiết Lâm, Trung uốc, Ngài phái các đệ tử qua đó thăm viếng và hội thảo về Phật Pháp.
Bắt đầu từ ngày mười sáu tháng hai, công phu khuya tại Vạn Phật Thành được kết hợp theo hai truyền thống Bắc tông và Nam tông.
Tụng chú Lăng Nghiêm và kinh tiếng Pali. (ghi chú: Năm 1992, sửa lại là cách mỗi ngày thay đổi tụng kinh bằng tiếng Anh và tiếng Tàu.)
Mồng ba tháng năm, thượng tọa Ajahn Amaro, đại diện tăng đoàn tại trung tâm Phật giáo Amaravatti, cúng dường y bát Nam tông cho tăng đoàn Vạn Phật Thánh Thành. Đây là biểu tượng sự hợp nhất giữa Nam tông và Bắc tông, lật trang sử mới trong lịch sử Phật giáo.
Từ ngày hai mươi mốt tháng sáu đến ngày mồng sáu tháng bảy, pháp sư Ajahn Sumedho ở trung tâm Phật giáo Amaravati, hướng dẫn thiền thất theo truyền thống Nam tông tại Vạn Phật Thánh Thành.
Ngày mười bốn tháng bảy, kỳ Truyền Tam Đàn Đại Giới lần thứ sáu được tổ chức tại Vạn Phật Thánh Thành.
Ngày hai mươi tám tháng chín, nhân kỶ niệm mười năm thành lập Nhật Báo Quốc Tế, Ngài được mời đến thuyết giảng về chủ đề: Phóng nhãn quan, nhìn thế giới.
Từ mồng bốn đến mười lăm tháng mười, Ngài phái các đệ tử thuộc phái đoàn hoằng pháp đến Seattle, Vancouver, Calgary, Edmonton, và Toronto thuyết pháp với đề tài: Phật giáo là tôn giáo đang trên đà phát triển mạnh mẽ tại vùng Bắc MỸ.
Lại có những chủ đề khác như: Không giết hại. Tâm an lạc của con người ảnh hưởng đến hòa bình thế giới. Ăn chay, sự chọn lựa của lòng từ bi và lý trí. Quan điểm Phật giáo về cộng nghiệp của một quốc gia và biệt nghiệp của mỗi con người. Yếu tố quan trọng của nền giáo dục, luân lý.
Ngài thành lập chùa A Di Đà tại Hoa Liên, Đài Loan.
(Phụ chú:
Tam Đàn Đại Giới năm 1991.
Ba vị Tôn Chứng Sư: Hòa Thượng Tuyên Hóa, Hòa thượng Trung Quán, Pháp Sư Sumedho.)
*Năm 1992, Ngài chủ trì lễ sám hối cho bốn tỳ kheo (Hằng Trường, Hằng Triều, Hằng Tả, Hằng Thuận).
Từ mồng bảy tháng hai đến mồng ba tháng tư, thể theo lời thỉnh mời của các đoàn thể Phật giáo vùng Đông Nam Á, Ngài phái các đệ tử thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới và đại học Phật Giáo Pháp Giới, đoàn hoằng pháp Á Châu, qua Đài Loan, Hồng Kông, Ấn Độ Dương, Tân Gia Ba, Mã Lai Á, lần thứ năm. Phái đoàn hoằng pháp chủ trì lễ Vạn Phật Bảo Sám trong ba tuần liên tiếp ở Mã Lai Á.
Ngày mười sáu tháng ba, đại học Humboldt State University thỉnh mời chư vị pháp sư tại Vạn Phật Thánh Thành làm lễ khai quang đại hội triển lãm văn hóa nghệ thuật Á Châu tại trường.
Ngày hai mươi tháng tư, thể theo lời thỉnh mời của cựu tổng thống Bush, Ngài hướng dẫn mười tám vị hội viên Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới đến phủ Tổng Thống dự buổi tiệc tối do cựu tổng thống tiếp đãi.
T.H.P.G. P.G (Tổng hội Phật Giáo Pháp Giới) viếng thăm tòa Bạch-ốc: Mười tám thành viên của T.H.P.G.P.G nhận lời mời của cựu tổng thống Bush, đến dự buổi yến tiệc vào buổi tối do cựu tổng thống thiết đãi vào ngày 20 tháng tư năm 1992 tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Thư mời dự tiệc của cựu tổng thống nhằm tỏ lòng tri ân Ngài đã từng đón tiếp cựu tổng thống tại quảng trường Portsmouth Square ở thành phố Cựu Kim Sơn vào bốn năm về trước, khi ông ta đang làm phó tổng thống của chính quyền Reagan và ra tranh cử tổng thống.
Lúc ấy, vào ngày 14 tháng 9 năm 1988, trước quần chúng tại quảng trường Portsmouth Square, vốn là nhà lãnh đạo và phát ngôn viên của cộng đồng người Tàu, Ngài phát biểu:
Sống trên nước MỸ, chúng ta phải tuyển chọn một vị tổng thống thông minh nhất, có trí huệ sáng suốt, chí công vô tư, không thiên vị. Vị tổng thống phải làm gương mẫu, không tranh, không tham, không cầu, không ích kỶ, không tự lợi, không nói láo. Phù hợp với những tiêu chuẩn này thì mới xứng đáng làm tổng thống.
Cựu tổng thống Bush vì nhớ cuộc họp mặt đó, nên thỉnh mời Ngài đến dự buổi yến tiệc tại tòa Bạch-ốc. Ngài nhận lời mời và hướng dẫn các thành viên đại biểu T.H.P.G.P.G, bao gồm tăng, ni, cư sĩ từ Mã Lai Á, Hương Cảng, Đài Loan, Việt Nam, Trung Quốc, Gia Nã Đại cùng các thành viên từ thành phố Cựu Kim Sơn, viện Phiên Dịch Kinh Điển Quốc Tế, và chùa Vạn Phật Thành.
Khi được hỏi tại sao nhiều nhân sĩ Phật giáo tham gia vào đảng Cộng Hòa, các thành viên của đoàn trả lời: Thứ nhất, chúng tôi vì đáp ứng lời thỉnh mời của quý vị. Thứ hai, Phật tử chúng tôi quan tâm đến mối phúc lợi của quốc gia.
Một quốc gia thanh bình an lạc hỗ trợ cho tôn giáo. Đặc biệt, chúng tôi quan tâm về việc cải cách nền giáo dục, nhằm phát huy truyền thống đạo đức thiện mỸ trong tâm thanh thiếu niên. Thêm nữa, đạo Phật là tôn giáo chính thống.
Khi chánh quyền vững mạnh, tôn giáo mới hưng thịnh. Chánh quyền phải luôn vì phúc lợi của dân chúng mà phục vụ. Chúng tôi cảm thấy có trách nhiệm hỗ trợ chánh phủ được ổn định, hầu mong dân chúng đồng hưởng lợi ích.
Có vị tại phủ tổng thống bảo: Tôi không ngờ rằng quý vị Phật tử theo đảng Cộng Hòa.
Đáp: Chúng tôi không theo đảng phái nào cả, mà chỉ muốn góp sức để mang ích lợi đến cho mọi đảng phái như đảng Cộng Hòa, Dân Chủ, Độc Lập, và mọi người Uống nước phải nhớ nguồn. Được hưởng thể chế tự do, nên chúng tôi phải nỗ lực phụng sự nước MỸ.
Dùng chánh kiến chánh tri, người Phật tử chúng tôi nỗ lực cống hiến công sức cho quốc gia và thế giới. Việc tham dự yến hội này, chứng minh sự tham gia của chúng tôi, nhưng không giới hạn việc tham chính và làm việc cho một chính đảng nào cả.
Chúng tôi muốn vận dụng quyền tự do dân chủ, đề xướng những phương thức mới mẻ để giải quyết những vấn đề trong xã hội, để khiến quốc gia hòa bình, thịnh trị an lạc.
Sáng ngày 28 tháng 4 năm 1992, thành viên của T.H.P.G.P.G tham dự nhiều chương trình sinh hoạt đặc biệt tại phủ tổng thống.
Lãnh tụ lưỡng viện quốc hội được dẫn đầu bởi ông Robert Dole của tiểu bang Kansas, tham nghị viên, lãnh tụ đa đảng, cùng tham nghị viên Robert Michel, thỉnh mời đại chúng dùng điểm tâm tại phòng ăn quốc hội. Giáo sư Ronald Epstein và bác sĩ Randy Lum đại diện
T.H.P.G.P.G tham dự buổi điểm tâm. Tham nghị viên Dole lại tổ chức buổi yến tiệc tại thư viện cũ của Tham nghị đoàn.
Thầy Hằng Lai và cư sĩ Hồ Công Hạo cùng một nhóm khoảng ba mươi vị lãnh tụ quốc hội đồng đàm luận, và chụp hình chung với các tham nghị viên.
Sư cô Hằng Quý, nữ cư sĩ Hoàng Khả Thái, bác sĩ Hoàng Minh Lục và cư sĩ nữ Rosaline đồng dự buổi cơm trưa với ông bà cựu phó tổng thống Dan Quayle và Marilyn tại phủ phó tổng thống, trên đài thiên văn của hải quân. Thầy Hằng Thật, cư sĩ nữ Hồ Quả Tương, cư sĩ nam Quả Cần, và Hoàng Quả Lâm thăm viếng tòa Bạch-ốc.
Ngày mười chín tháng năm, Ngài giảng pháp cho học sinh trường trung học Lowell tại chùa Kim Sơn.
Mồng bốn tháng bảy, ông Lâm Dương Cảng viện trưởng Ty Pháp Viện, Trung Hoa Dân Quốc, cùng vợ viếng thăm Vạn Phật Thánh Thành, và bàn thảo các vấn đề giáo dục Trung-MỸ với viện trưởng trường đại học Phật Giáo Pháp Giới.
Họ cũng viếng thăm viện Phiên Dịch Kinh Điển Quốc Tế, bái kiến và cùng Ngài đàm luận về tương lai Trung Quốc, hiện tình nước MỸ, và phương châm trị nước, v.v...
Ngày hai mươi chín tháng bảy, ông Lương Thúc Nhung cố vấn tổng thống Đài Loan, và là cựu viện trưởng Viện Lập Pháp, đến bái kiến Ngài. Ngày hai mươi tám tháng tám, ông Trịnh Vạn Trân tổng lãnh sự sứ quán Trung Hoa Đại Lục tại Cựu Kim Sơn đến bái kiến Ngài.
Ngài bảo ông ta rằng trong tương lai ước nguyện sẽ làm nhịp cầu thống nhất Trung Quốc. Tháng tám, pháp hội Thủy Lục Không do chư pháp sư Đài Loan và Đại Lục hợp tác chủ trì.
Ngày mười sáu tháng chín, Kỳ Truyền Tam Đàn Đại Giới lần thứ bảy được tổ chức tại Vạn Phật Thánh Thành.
Ngày hai mươi ba tháng mười, ông Edwin Derwiski, phó chủ tịch hội đồng ủng hộ tổng thống Bush tái cử, đến bái kiến Ngài.
Trong cuộc họp báo, Ngài kiến nghị rằng nếu cựu tổng thống Bush không nhận tiền lương, làm gương cho các nhà lãnh đạo nước MỸ sau này thì nhất định sẽ tái đắc cử.
Trải qua bao năm truyền bá Phật pháp tại tây phương, dẫu chưa chính thức là công dân MỸ, nhưng sự lo lắng và ưu tư của Ngài về đất nước và nhân dân MỸ không bao giờ giảm sút.
Ngài nhận thấy rằng hành động và cử chỉ của những người lãnh đạo quốc gia có sức ảnh hưởng đến quần chúng rất lớn lao.
Có câu: Bất cứ việc gì người trên làm, kẻ dưới đều gắng sức hành theo.
Đây là lý do mà Ngài mong muốn và cổ vũ những nhà lãnh đạo phải có đủ nhân phẩm đạo đức, và nêu gương lãnh đạo chân chính cho nhân dân.
Bằng cách này, chiều hướng xấu xa băng hoại của xã hội có thể được chuyển đổi, và nhân dân được hưởng thanh bình, hạnh phúc ấm no.
Khi CỰU TỔNG THỐNG BUSH RA ỨNG CỬ LÀM TỔNG THỐNG NHIỆM KỲ THỨ HAI VÀO NĂM 1992, nhân dịp một nhân viên văn phòng trợ lý liên lạc công cộng tại tòa nhà Bạch Ốc đến tiếp kiến Ngài tại trung tâm Phiên Dịch Kinh Điển Quốc Tế ở Burlingame, Ngài nói: Nếu tổng thống Bush không nhận lương, Tôi dám bảo đảm là ông ta sẽ thắng cử tổng thống.
Sau này, Ngài cũng viết một lá thơ, gởi đến cựu tổng thống Bush, lập lại lời đề nghị của mình:
Thơ trình tổng thống Bush tường lãm:
I. Tôi viết thơ này gởi đến Ông, khi nước MỸ đang chuyển mình qua một trang sử mới: Thiên tai hoạn nạn như bão lụt động đất, và nhân họa như bịnh AIDS cùng bạo động, đang xảy ra khắp nơi trong nước. Tôi thành khẩn bàn bạc cùng kiến nghị đến với Ông trong thời điểm tranh cử tổng thống năm nay.
Một lần nữa, tôi hy vọng rằng Ông sẽ sẵn sàng cố gắng hy sinh công sức để phục vụ cho nhân dân, như từng đã làm trong quá khứ.
Thưa Ông Tổng Thống! Chỉ người có đức hạnh mới có đủ tiêu chuẩn để lãnh đạo nước MỸ. Do nhân dân tuyển cử, tất cả vấn đề trong và ngoài nước đều quy về trách nhiệm cho tổng thống. Trong thời điểm này, đối với Ông, việc tái thắng cử phải cần có dũng khí khác thường, nghĩa là phải bằng một sự hy sinh lớn lao với một phương pháp mới.
Tôi có một phương pháp sẽ khiến cho dân chúng hiểu rõ tài năng lãnh đạo của Ông. Tôi không sợ rằng Ông sẽ trách cứ vì những lời chân thật này. Tôi đề nghị Ông làm những việc mà những tổng thống thiển kiến khó hành được, tức là làm tổng thống mà không nhận lương bổng hay quà cáp, chỉ tình nguyện phục vụ cho quốc dân.
Nếu Ông thông báo cho nhân dân MỸ biết là Ông sẽ không nhận lương bổng, chỉ tình nguyện đem tài đức để phục vụ quốc gia, thì tôi dám bảo đảm là nhất định Ông sẽ tái thắng cử tổng thống trong nhiệm kỳ bốn năm sắp tới. Ngoài ra, từ chối nhận lương bổng, Ông sẽ thâu phục được lòng dân mà không cần phần thưởng riêng tư.
Đó là tinh thần đạo đức của tổng thống Thomas Jefferson, cha đẻ của nền dân chủ, người lãnh đạo dân tộc vượt qua những khó khăn trong buổi đầu lập quốc.
Ngọn gió vô tư lợi của Ông sẽ lan tràn khắp nơi trên thế giới. Những nhà lãnh đạo trên toàn thế giới sẽ dẹp trừ tâm tham và noi theo gương đạo đức và dũng khí của Ông.
Một vị chính khách ra ứng cử tổng thống vì muốn đảm nhận trách nhiệm phục vụ dân tộc với tinh thần vô vị lợi sẽ được dân chúng tôn sùng mãi mãi. Một vị tổng thống không nhận lương bổng hiển nhiên sẽ làm gương vô úy cho các nghị viên lưỡng viện của quốc hội, cùng các cấp đơn vị chánh phủ.
Thế giới chỉ được lợi lạc khi có những nhà lãnh đạo anh hùng như thế. Do đó, tôi dám khuyên rằng Ông chớ lo lắng vì những chướng ngại cá nhân trong nhiệm kỳ tổng thống bốn năm sắp tới. Nhờ tâm vô tư lợi của Ông, nhân dân MỸ sẽ cảm động và nhất định sẽ tái tuyển cử Ông làm tổng thống.
Thái độ chân tâm thành ý, vì nước, vì dân, vì chánh nghĩa, và vì trách nhiệm sẽ khiến Ông hưởng lợi ích suốt đời.
II. Trong lá thư này, tôi cũng muốn nhấn mạnh vai trò quan trọng của nền giáo dục trong một quốc gia dân chủ. Xin Ông hãy quan tâm về việc trọng yếu này.
Học sinh và học đường là nguồn phúc lợi của đất nước. Đầu tư hay cung ứng đầy đủ cho nền giáo dục và huấn nghệ phải đứng hàng đầu của quốc gia. Một quốc gia đầu tư về kiến thức của nhân dân sẽ đào luyện dân chúng có được những quyết định hợp lý hợp tình và hợp nhân tánh. Việc đầu tư của chánh phủ vào nền giáo dục sẽ được đền đáp bằng sự hỗ trợ của dân chúng về nền pháp trị dân chủ, hòa bình trong hằng ngày.
Quốc dân được giáo dục kỸ càng thì họ sẽ phân biệt rõ ràng những việc đúng sai, và khiến cho quốc gia hòa bình. Đây là cách bảo vệ quốc gia hay nhất. Nếu được như thế thì những vũ khí cùng binh lực tinh nhuệ thật không cần thiết.
Ngược lại, nếu trẻ em không được giáo dục đàng hoàng, luôn có tâm ngỗ nghịch, không nhận ra giá trị tình thương của các nhà lãnh đạo thì chúng sẽ không xem trọng nền tự do dân chủ cùng bảo vệ duy trì hiến pháp. Hỏa tiển lớn nhất hay phi cơ bay nhanh nhất thật sẽ vô dụng, vì kẻ địch nguy hiểm nhất là con cái chúng ta, những kẻ bị kém trí huệ và thiếu kiến thức.
Thưa Ông Tổng Thống! Đại diện cho nhân dân MỸ, tôi viết lá thơ trong thời điểm quyết liệt của cuộc bầu cử tổng thống, với niềm hy vọng là Ông sẽ giữ vững địa vị chánh đáng của một vị chèo lái con thuyền quốc gia. Tôi chẳng hề ngại rằng Ông sẽ cho lời kiến nghị này không thật tế hay lời nói quá thẳng thừng. Tuy nhiên, nếu chấp thuận ý kiến này thì nhất định Ông sẽ tái thắng cử tổng thống. Tôi không hề muốn cầu danh hay cầu lợi vì những lời kiến nghị này.
Tôi chỉ muốn bầu cử một vị tổng thống tài đức nhất cho quốc gia này. Nếu Ông chấp nhận những lời kiến nghị trên thì nhân dân MỸ sẽ được lợi lạc vô cùng. Nếu Ông không chấp nhận thì tôi cũng hoàn thành trách nhiệm của mình.
Chúng sanh trong thế giới mê mờ
Tài, sắc, danh, ăn, ngủ bao quanh
Người trí xả được năm món dục
Vượt hơn người, bậc thánh minh quân.
Trong lá thơ này, Ngài đưa ra kiến nghị lạ lùng: Tổng thống không nhận lương bổng, và khuyến khích cựu tổng thống Bush lãnh đạo nước MỸ bằng đức hạnh.
Năm 1988, khi ông Bush ra ứng cử tổng thống lần đầu tiên, Ngài đã từng khuyến khích ông ta phải nên làm một vị tổng thống không tranh, không tham, không cầu, không tự lợi, không ích kỶ, không nói láo.
Năm 1992, vào lúc cựu tổng thống Bush ra tái ứng cử tổng thống, nền kinh tế nước MỸ đang bị đình trệ, và sự tín nhiệm của tổng thống đang đi xuống. Trong hoàn cảnh đó, nếu theo lời kiến nghị của Ngài thì tổng thống Bush mới biểu hiện rõ quyết tâm thành ý phục vụ nhân dân.
Đương thời, vì nền hòa bình và phúc lợi của nước MỸ và thế giới, Ngài ra thông cáo cho bốn chúng đệ tử tại chùa Vạn Phật Thành cùng các ngôi chùa chi nhánh, mỗi ngày tụng chú Đại Bi của Bồ Tát Quán Thế Âm, cùng lễ Phật, bái sám.
Thể theo lời dạy, bốn chúng đệ tử của Ngài tụng chú Đại Bi mỗi tối từ ngày 30 tháng chín đến mồng 4 tháng mười một năm 1992, tức sau ngày tổng tuyển cử.
Vào ngày 23 tháng mười, 1992, Ông EDWIN DERWINSKY, phó chủ tịch hội đồng tổng tuyển cử của tổng thống Bush, được giáo sư Tsu, chủ tịch của hội đồng tuyển cử MỸ-Á, hướng dẫn đến diện kiến Ngài và mở cuộc hội thảo tại trung tâm Phiên Dịch Kinh Điển Quốc Tế.
Trong buổi hội thảo, Ngài nhấn mạnh lại rằng nếu tổng thống Bush không nhận lương bổng, thì nhất định Ông sẽ tái thắng cử. Tuy nhiên, từ lúc đó, cựu tổng thống Bush vẫn chưa quyết định, nên việc tái thắng cử thật là một vấn đề khó khăn.
Ngài cũng bảo rằng dẫu trường hợp nào, các Phật tử cũng phải cầu nguyện cho mối phúc lợi của nhân dân và cho nền hòa bình của thế giới. Tiếc thay, cựu tổng thống Bush và những nhân viên của ông ta cuối cùng quyết định bỏ qua lời kiến nghị của Ngài.
Vì vậy, như Ngài đã tiên đoán, cựu tổng thống Bush bị thất cử.
Đương thời, nước MỸ gặp phải rất nhiều vấn đề khó khăn. Bên cạnh thiên tai hoạn nạn, những vấn đề như xì ke ma túy lan tràn khắp nơi trong toàn quốc.
Nạn trộm cướp và bạo loạn tăng gia. Nạn thất nghiệp cũng lên cao. Những triệu chứng trên biểu thị phước đức của đại cường quốc này đang giảm dần.
Ông A. C. BudHarrison, cựu thị trưởng thành phố Burlingame đã từng viếng thăm Ngài nhiều lần.
Theo sự quan sát của ông ta, nhiều người Á Châu vốn là công dân tốt ở bổn quốc, nhưng khi qua MỸ lại thay đổi tánh tình.
Ngài cũng nhấn mạnh về hệ thống trợ cấp an sinh xã hội không được phân phối đồng đều, và chỉ khuyến khích người dân làm biếng thêm; theo quan điểm của Ngài thì do nhân dân ai cũng có thể giữ súng đạn, khiến việc trị an trong xã hội rất khó khăn. Lại nữa, tình dục được dạy công khai tại bậc tiểu học. Tại cấp trung học, học sinh biết hút thuốc phiện, cho đến giết người, đốt nhà.
Trong đại học, lắm khi sinh viên ngủ và tắm chung với nhau. Nếu như thế, làm sao họ trở thành công dân tốt được? Lại nữa, những luật lệ ở nước này thật rất phóng túng tự do.
Vì vậy, nên giáo dục tại nước MỸ thật sự bị suy đồi.
Theo Ngài nhận thấy, những việc tệ hại xảy ra trong nước đều phát xuất từ nền giáo dục băng hoại: Hiện nay, lúc còn nhỏ tuổi mà học sinh không chịu theo luật lệ thì tương lai chúng sẽ không màng đến luật pháp. Đây là điều thật rất nguy hiểm.
Những đứa trẻ giết người, không theo luật lệ, v.v... thật ra không phải là những đứa trẻ xấu xa, mà chỉ vì không dạy dỗ chúng đúng đắn. Đó là lỗi của người lớn.
Tháng giêng năm 1992, khi được mời đến tòa nhà trắng để tham dự buổi yến tiệc, Ngài đàm luận với bộ trưởng bộ giáo dục về hiện trạng suy đồi trầm trọng của nền giáo dục ở MỸ, và nhấn mạnh về nền giáo dục luân lý đạo đức.
Tại MỸ, vừa hoằng dương Phật pháp, Ngài vừa cống hiến công sức cho nền giáo dục. Mục đích của Ngài là bồi dưỡng thế hệ trẻ với tinh thần không ích kỶ, không tự lợi, để nỗ lực cứu vãn nền văn hóa nước nhà.
Trong những bài giảng dạy, Ngài thường khuyến khích các đệ tử hãy cùng nhau nỗ lực giải quyết những vấn đề nan giải trong hiện tại ở MỸ.
Ví dụ, xì ke ma túy là một vấn đề nghiêm trọng nhất trong hiện thời. Ma túy không những làm lãng phí tiền bạc, lại còn làm hư hoại thân thể trí óc của con người, và là nguyên nhân chính của các tội ác.
Vì vậy, trong những pháp hội giảng kinh, Ngài thường nhắc nhở tín chúng thính giả, lúc trở về nhà, hãy kêu gọi thân quyến đừng để con cái hút thuốc phiện, mà phải khuyến khích chúng hỗ trợ và phục vụ nền hòa bình cùng phúc lợi của quốc gia, nhân loại. Đây là trách nhiệm chung của mọi người.
Một vấn đề lớn ở xã hội MỸ ngày một gia tăng là đồng tính luyến ái. Có những buổi diễn hành đồng tính luyến ái hằng năm nhằm tạo ảnh hưởng đến luật pháp, để được mọi thành phần trong xã hội công nhận.
Không nỡ ngồi nhìn những hiện tượng đi ngược lại thiên địa tạo hóa ngày càng phát triển rộng rãi, trong những bài thuyết giảng, Ngài thường nhắc nhở các đệ tử phải nhận chân sự nghiêm trọng của vấn đề này.
Mỗi lần được các chánh khách chính phủ MỸ đến cầu lời cố vấn, Ngài thường nhấn mạnh: Riêng âm không thể sanh. Riêng dương không thể trưởng dưỡng. Đồng tính luyến ái khiến diệt chủng, vong quốc. Vì vậy phải khuyến khích họ sửa đổi tánh tình, chớ nên dung túng.
Đối với người xuất gia, vì trên cầu Phật đạo dưới cứu độ chúng sanh, nên tu hành với hành vi cao cả để mang lại hạnh phúc cho loài người. Đồng tính luyến ái không hướng lên tìm cầu sự tịnh hóa tâm linh mà chỉ hướng xuống tình dục trầm luân, khiến phát sanh nhiều vấn đề nghiêm trọng.
Tuy biết rõ đồng tính luyến ái ngày càng lan rộng, nhưng vì lương tri Ngài vẫn phải đánh tiếng về vấn đề này, hầu mong họ sớm thức tỉnh trân trọng bảo tồn Phật tánh, không thể tiếp tục tạo nghiệp thọ báo.
Trong bao năm hoằng pháp tại MỸ, đi đến đâu Ngài cũng phát dương sáu đại tông chỉ rộng rãi. Tuy có người nhận rõ những tông chỉ này rất quý, nhưng vì xã hội MỸ vốn chạy theo chủ nghĩa vật chất, nên khó mà thực hành.
Ngài thường bảo rằng phải hành những gì khó hành, phải nhẫn những gì khó nhẫn.
Phải làm những gì không thể làm được. Phải như ngọn đèn cầy đứng vững trước gió mưa giông bão. Phải như vàng ròng chịu đựng nung nấu trui rèn.
Hội Phước Lợi Xã Hội thuộc viện Phật Giáo Cư Sĩ và bộ An Dưỡng tại Thượng Hải ở Trung Quốc tuyên dương Ngài: “VỊ CAO TĂNG BẬC NHẤT TOÀN CẦU.”
Ngài phủ nhận lời tán thán đó.
Mồng tám tháng mười một, thể theo lời thỉnh mời của trường đại học University of California at Los Angeles, Ngài đến đó giảng thuyết về chủ đề: Đạo Phật hiện tại. Đạo đức luân lý và giáo dục.
Ngày mười lăm tháng mười một, để cứu vãn nền giáo dục suy đồi, Ngài tuyên bố rằng ngày hai mươi bảy tháng mười một là ngày Chúc Thọ Người Già.
Ngày hai mươi tháng chạp, lễ Chúc Thọ Người Già trên bảy mươi tuổi được cử hành đầu tiên tại Los Angeles. Chùa Phước Huệ tại MỸ Nồng ở Đài Loan được cúng dường cho Ngài.
Ngài thành lập hội Pháp Giới Căn Bản Văn Hóa Giáo Dục tại Đài Loan.
*Năm 1993, từ mồng ba đến mười tám tháng giêng, thể theo lời thỉnh mời của tín chúng Đài Loan, Ngài qua đó chủ trì pháp hội Lăng Nghiêm, Đại Bi và truyền tam quy y, năm giới cấm cho các cư sĩ. Khi ấy, có ba mươi tám người phát tâm xuất gia.
Một Pháp Sư từ Trung Hoa đại lục qua chủ trì thiền thất, cải đổi gia phong ăn một ngày một buổi, đắp tăng y của Vạn Phật Thánh Thành. Thiền thất kết thúc, gia phong được phục hồi trở lại.
Ngày mười bốn tháng ba, một ứng cử viên nghị sĩ tiểu bang California cùng bốn người khác đến viếng thăm Ngài tại Vạn Phật Thánh Thành và trao đổi quan điểm về giáo dục cùng chính trị.
Mồng bốn tháng tư, lễ Lương Hoàng Bảo Sám được cử hành vào dịp khai quang chánh điện chùa Trường Đê, Long Beach ở Los Angeles. Các đệ tử cũng làm lễ chúc thọ Ngài. Ngài giảng kinh Chí Công Thiền Sư Thuyết Nhân Quả.
Ngày ba mươi tháng tư, ông Hác Bách Thôn, cựu viện trưởng viện Hành Pháp của Đài Loan, viếng thăm Ngài.
Ngày mười sáu tháng năm, đoàn đại biểu Vạn Phật Thánh Thành tham dự đại lễ Phật Đản được tổ chức tại đại học Berkeley.
Mồng chín tháng sáu, ông BudHarrison, thị trưởng thành phố Burlingame viếng thăm Ngài và trao đổi quan điểm về giáo dục cùng chính trị.
Từ mồng sáu đến ngày mười sáu tháng mười một, Ngài hướng dẫn phái đoàn hoằng pháp qua vùng đông bắc MỸ, thuyết pháp tại Newyork, Rochester, và các nơi khác. Ngày ba mươi tháng mười một, ông BudHarrison, thị trưởng thành phố Burlingame cùng bà phu nhân đến viếng thăm Ngài lần thứ hai.
Nhân dịp đó, Ngài nói rằng tám đức tánh của con người: Hiếu, để, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sĩlà liều thuốc thần để cứu thế gian.
Ngày mười bảy tháng mười hai, cô Edith Chen, nữ sĩ dương cầm quốc tế đến viếng thăm Ngài. Tại Sacramento, Ngài thành lập Pháp Giới Thánh Thành. Tịnh xá Viên Thông ở Đông Chí, Đài Loan được cúng dường cho Ngài.
*Năm 1994, ngày hai mươi sáu tháng giêng, Ngài mời ông Trần Lập Phu, cố vấn tổng thống Đài Loan, đến thuyết trình tại Vạn Phật Thánh Thành.
Tháng giêng, các đạo tràng thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới đồng tổ chức lễ Chúc Thọ Người Già lần thứ hai. Ngài chỉ định rằng chủ nhật đầu tháng mười một mỗi năm sẽ là ngày Chúc Thọ Người Già.
Tháng hai, học sinh trung học Bồi Đức thắng cuộc thi về Thể Chế Chánh Trị của nước MỸ trong vùng quận nhất của tiểu bang California. Ngày hai mươi bảy tháng hai, Ngài chủ trì lễ khai quang hội Bồ Đề tại San Jose.
Mồng năm tháng ba, Ngài thuyết giảng cho hội Thanh Niên Phật Giáo Trung Quốc trường đại học Berkeley tại Vạn Phật Thánh Thành.
Ngày hai mươi bảy tháng ba, thị trưởng thành phố Burlingame và chủ tịch hội đồng quản lý thị trấn Mendocino tham dự lễ vía Bồ Tát Quán Âm. Ngài thuyết giảng về đề mục: Hỗ trợ để giúp thế giới ngày một trong sáng.
Mồng chín tháng tư, nhận lời mời của liên hội Phật học đại học University at Los Angeles, University of California at Irvine, California Polytechnic Institute, Ngài thuyết giảng về đề tài: Phật Giáo và Tâm Lý Học.
Ngày hai mươi tháng tư, thể theo lời mời của đại học Berkeley, Ngài đến tham dự lễ nghinh tiếp đức Đạt Lai Lạt Ma. Từ ngày mười bảy đến ngày hai mươi ba tháng tư, Pháp Giới Thánh Thành cử hành lễ Lương Hoàng Bảo Sám. Vào ngày hai mươi bốn, các đệ tử tổ chức lễ chúc thọ cho Ngài.
Ngày hai mươi tám tháng năm, văn phòng Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới và viện Phiên Dịch Kinh Điển Quốc Tế cử hành lễ khai quang. Ngày hai mươi chín tháng năm, Pháp Giới Thánh Thành cử hành lễ khai quang.
Tháng năm và tháng sáu, các đạo tràng thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới lần đầu tiên tổ chức lễ Nhi Đồng.
Ngày hai mươi ba tháng mười, thọ thần cây cổ thụ với 1989 tuổi ở núi Phổ Đà tỉnh Triết Giang tại Trung Quốc thỉnh cầu quy y với Ngài. Ngài thành lập viện Nghiên Cứu Học Thuật Các Tôn Giáo Thế Giới trong vùng đại học Berkeley. Tại Long Beach, Ngài thành lập chùa Phước Lộc Thọ. Chùa Kim Phong tại Seattle dời về địa chỉ mới.
*Năm 1995, mồng mười tháng giêng, thầy Hằng Thật đại diện Ngài, nhận lời mời của ông PETE WILSON, cựu thống đốc tiểu bang California, tham dự lễ tái nhiệm cử chức thống đốc. Lần đầu tiên trong lịch sử nước MỸ, tăng sĩ Phật giáo được thỉnh mời, đọc lời khai mạc lễ nhậm chức thống đốc.
Tại San Jose, Ngài thành lập chùa Kim Thánh.
Mồng bảy tháng sáu, Ngài viên tịch tại Los Angeles, MỸ quốc.
Một ngọn đèn sáng trên thế gian đã tắt.
Y theo lời di huấn của Ngài, bốn chúng đệ tử tại các đạo tràng thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới đồng cử hành pháp hội tụng kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, và niệm Phật trong vòng bốn mươi chín ngày.
Ngày mười hai tháng sáu, lễ nhập quan được cử hành tại chùa Trường Đê,
Long Beach. Ngày mười sáu tháng sáu, kim quan Ngài được cung thỉnh về Vạn Phật Thánh Thành. Từ ngày hai mươi sáu đến ngày hai mươi tám tháng bảy, Vạn Phật Thánh Thành cử hành đại lễ Truy Ân và Trà Tỳ đại lão hòa thượng Tuyên Hóa.
Mắt Trời Trí Huệ Chợt Sa; Thế Nhân Đồng Thương Tiếc.
(Phụ chú:
Ngài dạy đại chúng:
Ai ai cũng có lúc đến rồi phải đi, chớ quá buồn
khổ, hãy giữ tâm như thường ngày. Hãy phát
tâm dụng công tu hành.
Tôi từ hư không đến và trở về với hư không.)
DỊCH GIẢ: THÍCH HẰNG ĐẠT