I. Lời tựa:
Là Phật tử, không những thọ Tam Qui, ngũ giới rồi thì trở thành người Phật tử chân chính cho hết đời này, như vậy thì không đủ nghĩa để trở thành một người Phật tử. Mà còn phải biết thật chính xác ai là người khai đạo tâm cho ta, nhờ ai mà ta hiểu biết điều hay lẽ phải. Đó là Đức Phật Thích Ca hơn 2600 năm trước đã thị hiện ở cõi Ta bà này.
Mục đề "Niệm Ân Đức Phật" là để tưởng niệm, nhớ ơn công đức Ngài, mỗi khi chúng ta Lễ Phật ở chùa hay ở nhà, hoặc những lúc hành thiền, tụng kinh Lễ bái.
Ngoài ra trong đời sống hàng ngày chúng ta cũng luôn luôn tưởng niệm Hồng Danh là để ghi nhớ "Việc ác chẳng làm, điều lành siêng tu, tâm ý thanh tịnh", Đó là chúng ta cúng dường Ân Đức Phật.
Chín Ân Đức Phật:
Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế Tôn.
*** Chín ân đức nầy chỉ có nơi Ðức Phật. Ngoài Ðức Phật ra, không có một Sa môn, Bà la môn, Chư thiên, Phạm thiên nào có thể có đủ những ân đức nầy.
*** Chín ân đức nầy không phải do nhân vật nào trong cõi trời và người tự ý xưng tán để diễn tả lòng kính phục và biết ơn của họ đối với Phật.
*** Chín ân đức nầy tự phát khởi lên đến chư Phật quá khứ, hiện tại, và vị lai cùng lúc với Trí tuệ hoàn toàn sáng suốt thông hiểu các pháp không dư sót (Sabbannutanana) khi Ngài vừa thành đạo dưới cội bồ đề.
*** Chín danh hiệu nầy đã được Ðức Phật khẳng định là danh hiệu của Ngài khi Ngài giảng pháp cho chư thiên và loài người. Ðiều này đã được chính thức ghi chép lại trong các kinh điển đạo Phật.
II.
Niệm một hồng danh Phật, chúng ta sẽ thoát khỏi vũng lầy ‘tham-ái’,
Niệm một hồng danh Phật, sẽ trải qua đường ‘phiền-não’ hiểm-nguy,
Niệm một hồng danh Phật, Hành giả sẽ vượt trùng-dương ‘Luân-hồi’ mê tối.
III.
1. ÂN ÐỨC ỨNG CÚNG - ARAHAM: Bậc đáng được nhận sự cúng dường của chư thiên và loài người.
2. ÂN ÐỨC CHÁNH BIẾN TRI - SAMMA SAMBUDDHO: Bậc giác ngộ tối thượng không thầy chỉ dạy
3. ÂN ÐỨC MINH HẠNH TÚC - VIJJACARANA SAMPANNO: Bậc có đầy đủ tuệ giác và đức hạnh
4. ÂN ÐỨC THIỆN THỆ - SUGATO: Ðấng có sự hành trình hoàn hảo (Sobhana gamana).
5. ÂN ÐỨC THẾ GIAN GIẢI - LOKAVIDU: Người hiểu thấu tất cả các pháp của thế gian.
6. ÂN ÐỨC VÔ THƯỢNG SĨ ÐIỀU NGỰ TRƯỢNG PHU - ANUTTARO PURISA-DAMMA-SARATHI: Ðức vô thượng giáo hóa chúng sanh; Ðấng điều ngự những chúng sanh chưa thuần thục không ai bằng.
7. ÂN ÐỨC THIÊN NHÂN SƯ - SATTHA DEVA MANUSSANAM: Thầy của chư thiên và loài người.
8. ÂN ÐỨC PHẬT - BUDDHO: Người hiểu biết trọn vẹn tất cả những gì có thể biết được.
9. ÂN ÐỨC THẾ TÔN - BHAGAVA: Người có những tính chất tuyệt đỉnh vượt lên trên tam giới.
IV. TỔNG KẾT THEO 3 ÂN ÐỨC TRỌNG ÐẠI CỦA PHẬT LÀ TỊNH ÐỨC, BI ÐỨC, VÀ TUỆ ÐỨC:
Ðức Phật có vô số ân đức vi diệu. Tuy nhiên, tất cả đều bắt nguồn từ 3 ân đức trọng đại là Tịnh đức, Bi đức, và Tuệ đức.
1. Tịnh Ðức (Visuddhi guna): Ngài đã xa lìa tất cả phiền não thô sơ và vi tế, nên thân khẩu ý của Ngài đều được trọn lành. Trước mặt người hoặc nơi khuất lấp, Ngài cũng không hề làm, nói và tưởng điều tội lỗi. Theo ý nghĩa nầy, Ân đức Araham (Ứng cúng) và Sugato (Thiện Thệ) thuộc về Tịnh Ðức.
2. Bi Ðức (Karuna guna): Ngài thấy chúng sanh đang bị nóng nãy lăn lộn trong lửa ngũ dục, đang chìm đắm chơi vơi trong biển trần ai, chịu thống khổ vô cùng vô tận từ đời nầy qua kiếp khác nên Ngài phát tâm bi mẫn bao la đối với tất cả chúng sanh, chẳng khác nào người mẹ hiền thương xót đàn con dại, mong mỏi cho con khỏi khổ, được vui lâu dài. Từ khi còn tu hạnh Bồ tát, Ngài đã từng hy sinh thân mang, vợ con, của cải để tìm phương cứu vớt chúng sanh; đến khi thành đạo rồi, Ngài chu du phổ độ chúng sanh không ngừng nghĩ trong 45 năm trường đằng đẳng. Theo ý nghĩa nầy, Ân đức Anuttaro Purisadammasarathi (Vô thượng sĩ điều ngự trượng phu), Satthadevanamussanam (Thiên nhân sư), Buddho (Phật), Bhagava (Thế Tôn) thuộc về Bi Ðức.
3. Tuệ Ðức (Panna guna): Ngài có trí tuệ hoàn toàn sáng suốt, không có chi che án được, thông suốt cả ba giới, bốn loài, thấu triệt lý Tứ Diệu Ðế là thấy rỏ, biết rõ ái dục phiền não; nguyên nhân sinh ra ái dục phiền não; nơi diệt tận ái dục phiền não và phương pháp diệt trừ ái dục phiền não. Do nhờ trí tuệ hoàn toàn sáng suốt ấy nên Ngài tri tỏ nghiệp nào có sự lợi ích, nghiệp nào có sự nguy hại hầu tìm phương tiện giáo huấn chúng sanh xa lánh các điều ác, làm những việc lành để sớm đến bờ giác ngộ. Theo ý nghĩa nầy, Ân đức Sammasambuddho (Chánh Biến Tri), Vijjacaranasampanna (Minh Hạnh Túc), Lokavidu (Thế gian giải) thuộc về Tuệ Ðức.
============================
(Chú thích:
*Có sách ghi là 10 ân đức bằng cách tách Vô thượng sĩ và Ðiều ngự trượng phu ra làm 2 (Kinh Nhật Tụng của Cư Sĩ, Chùa Kỳ Viên, Washington, D.C. trang 11) hoặc bõ ân đức Vô thượng sĩ và thêm ân đức Như lai (HT Thích Thanh Từ, trích từ Những cánh hoa đàm).
*Có sách ghi 11 ân đức bằng cách tách Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu ra làm hai, và thêm ân đức Như lai (Từ điển Phật học hán Việt, 1994). Ông Ðoàn Trung Còn (Tự Ðiển Phật Học) gộp Vô thượng sĩ và Ðiều ngự trượng phu thành một nhưng giữ danh hiệu Như Lai.
*Kinh Ðại Biết bàn - Hán tạng, tập 1, trang 585, Phẩm Phạm hạnh, HT Trí Trịnh dịch, 1996, gộp Phật và Thế Tôn thành một. 9 ân đức của Phật thường thấy trong nhiều kinh điển Phật giáo như Trường Bộ, quyển 1, Kinh Ðại Niết bàn, trang 573- 574, HT Minh Châu dịch, 1991. Tăng Chi Bộ, quyển 4, trang 252 và trang 489, HT Minh Châu dịch, 1994. (Chú thích nầy phỏng theo và có bổ sung chú thích của Bình Anson trong bài "Mười danh hiệu của Phật". Xin xem Website BuddhaSasana, http://www.budsas.org) . http://www.budsas.org/uni/u-9anducphat/00.htm )