Đạo hữu Không Biết kính mến !Không biết đã viết: hihi, tui nghĩ là tui đã trả lời cho đạo hữu CHT câu hỏi này rồi thành ra ngu tui không vào ‘chém’ nữa, để cho ĐH tham khảo thêm các câu trả lời từ những ĐH khác nhưng xem ra kết quả không khả quan cho lắm thật ra, cách đặt câu hỏi của đạo hữu CHT đã 'vòng vo ngoài da' thành ra ĐH đã nhận được những câu trả lời ngoài da tương ứng
lẽ ra muốn xác minh vấn đề 10 Ba la mật có được Phật dạy trong Chánh tạng Nam truyền hay không chỉ cần ĐH nêu câu hỏi yêu cầu trích dẫn từ Chánh tạng NT đoạn kinh nào đực phật dạy như thế là ra ngay? đằng này ĐH lại đi ‘vòng vèo’ qua đoạn kinh về Bahija để chứng minh điều gì?? chưa nói tới tính xác thực của đoạn kinh đó thì cách lập luận như vậy là quá yếu và bộc lộ nhiều sơ hở
[nếu chấp nhận về ý nghĩa đoạn kinh đó => sự “chứng ngộ siêu tốc” của Bahija là có thật => ngài đã tích lũy các Ba la mật (hoặc là cái gì gì..) từ trước đó] <== cách lập luận như vậy bộc lộ các yếu điểm sau:
- thứ nhất, tại sao trong hàng trăm hang ngàn đệ tử tu theo Phật không có vị nào chứng ngộ cấp tốc như ngài Bahija (trong đó có những vị căn cơ rất cao như Xá lợi Phật, Mục kiền liên..)? nếu đó là sự thật thì điều gì chứng minh cho Ba la mật của Bahija cao hơn của Mục kiền liên, Xá lợi Phất ??
- thứ hai, đức Phật của chúng ta cũng đã trải qua vô lượng kiếp tu hành (kinh Tướng – kinh 30 TRƯỜNG BỘ có ghi lại ngài đã tu những gì và đạt được những gì) vậy mà ở cái kiếp cuối cùng, trước khi giác ngộ thành Phật ngài cũng đã phải trầy vi tróc vẩy, tu chết lên chết xuống mới chứng ngộ thành Phật, không hề có chuyện “chứng ngộ siêu tốc” giống như ngài Bahija? Vậy nếu chúng ta chấp nhận đoạn kinh trên về ngài Bahija phải chăng ta cũng thừa nhận là "Ba la mật của Phật" không bằng "Ba la mật của Bahija"??
- thứ ba, 10 Ba la mật muốn áp dụng được thì phải đi kém với giá trị thời gian; thí dụ như Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác có trí tuệ ưu việt (paññādhikabodhisatta) thời gian tạo 30 pháp hạnh ba-la-mật trải qua 3 thời kỳ:
Thời kỳ đầu: Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm suốt 7 a-tăng-kỳ.
Thời kỳ giữa: Đức Bồ Tát phát nguyện ra bằng lời nói suốt 9 a-tăng-kỳ.
Thời kỳ cuối: Đức Bồ Tát được Đức Phật Chánh Đẳng Giác thọ ký xác định thời gian còn lại là 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất, để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giáccó trí tuệ ưu việt. (tham khảo: http://www.budsas.org/uni/u-hophap/rt4-01.htm)
điều này mâu thuẫn với lời kệ mà ĐH HoangTuMongMo trích ở trên:
"Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng"
hay là ngược với tuyên ngôn về chánh pháp được lặp đi lặp lại trong Chánh Tạng NT:
“Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, do người trí tự mình giác hiểu”
v.v............ còn nhiều điều để nói lắm. Nhưng thôi, lâu lâu vào chém một ít như thế cho vui thôi. Đạo hữu CHT từ từ suy ngẫm thêm nhé.
Thân ái!!
Lúc này vẫn khỏe chứ, lâu quá không thấy đh ghé thăm nhà chắc công việc nhiều lắm hả...hi..hi
Khoa học có thể đo được vận tốc của ánh sáng chứ không thể cân được khối lượng của ánh sáng phải không đạo hữu Không Biết. Cũng vậy các pháp Ba la mật cuả mỗi người, không thể đem đi so sánh giữa người này và người kia được vì nó thuộc về quả thị dục, mà đã là quả thị dục thì đức Phật đã cảnh báo không thể nghĩ bàn, chính vì không thể nghĩ bàn nên chúng ta không thể làm một phép toán so sánh cân đo hơn thua được. Nhân quả là vô hình nhưng chính vì vô hình nên nó thúc đẩy chúng sanh theo ba hướng cơ bản thiện, ác, hoặc vừa thiện vừa ác . Chính vì sự giấu mặt của luật nhân quả tích lũy các yếu tố Ba la mật nên người thuần thiện sẽ tiệm cận dần đến Thánh quả và ngược lại người thuần ác sẽ đoạ xuống cảnh giới thấp vì không có sự tích lũy các công đức Ba la mật . Sự giấu mặt của các yếu tính Ba la mật nên chúng sanh không thể biết mình chừng nào mới chứng ngộ, do đó phải cố gắng tu học quyết liệt không dễ duôi phóng dật, giống như các nhà khoa học không chắc rằng công trình nghiên cứu của mình thành công vào thời điểm chính xác nào, chỉ biết "Ngay Bây Giờ Và Tại Đây" phải cố gắng tích lũy làm việc miệt mài rồi sẽ "bừng ngộ"”nhưng cũng phải trãi qua quá trình "tiệm tu" . Tiến trình từ đạo đến quả xảy ra chỉ một sát na tâm nên gọi là chứng đạo "siêu tốc".Nếu đạo hữu không chấp nhận chuyện chứng đạo siêu tốc và phủ nhận sự tích lũy các Ba la mật của tiền kiếp vì cho rằng không có trong Chánh tạng Pali thì đạo hữu thuộc “phe” nào trong lộ trình tu chứng ? và càng khó hiểu hơn khi đạo hữu cho rằng các pháp Ba La Mật hoàn toàn mâu thuẩn với đoạn thơ trong bài kinh Nhất Dạ Hiền Giả, lập luận như thế e rằng rơi vào đoạn kiến chăng ?. Đoạn thơ trong bài kinh Nhất Dạ Hiền Giả đức Phật chỉ dạy mình phải tỉnh thức ở ngay trong giây phút hiện tại thì mới có đầy đủ năng lượng Chánh niệm để quay về quán chiếu trên dòng trôi chảy của Danh và Sắc, để được "Sống Trong Thực Tại" không nghĩa là phủ nhận quá khứ, vì phủ nhận quá khứ tức là phủ nhận luôn cả một tiến trình nhân quả. Tâm phóng dật dễ duôi truy tìm quá khứ chạy theo tương lai là tâm không "Chánh Niệm Thực Tập Thiền Quán"”chính vì lẽ đó mà đức Thế Tôn đã dạy chúng sanh phải thiết lập chánh niệm "trước mặt" là vì lẽ đó . Nếu đọc kỷ lại trong Chánh tạng Pali thì chúng ta vẫn thấy các Ba la mật vẫn được Đức Phật dạy trong các tạng kinh TRƯỜNG BỘ,TRUNG BỘ.... như: Bố thí, Trì giới, Tinh tấn, Thiền định, Xuất gia v...v chỉ có cái là Phật không lập một "topic" chuyên về 10 pháp Ba La Mật mà thôi. Như vậy theo đạo hữu trước khi thành Phật thái tử Tất Đạt Đa phải trãi qua thời gian tu sai, tu khổ hạnh là do nhân gì duyên gì mà như thế ? và khi trở lại con đường trung đạo để chứng thành Phật quả do nhân gì duyên gì mà Thái Tử đã tu đúng Bát Chánh Đạo ?
Vài hàng kính gởi đạo hữu kính chúc đh vui khoẻ trong công việc