Pháp Thoại của
Thượng Tọa Thích Phước Tịnh, 06/4/2003:
TÍN TÂM MINH, bài 11
ĐUỔI BẮT TÌM CẦU
Tâm Nguyên Khương phiên tả và trình bày
(Trích Tạp chí Đất Lành, tháng 5, 6-2003, trang 25-36)
Hôm rồi chúng ta đã đi qua đoạn 10 của Tín Tâm Minh, tức là đoạn nói đến những quan niệm có/không đã có mặt trong cuộc đời mình, để thấy rằng tất cả đều do kiếm chấp sai lầm của mình, và yêu cầu của chúng ta là không cần cầu tìm con đường Niết bàn hay giải thoát ở bất cứ nơi nào, mà chỉ cần dứt sạch kiến chấp là đã về đến nơi tức "đã về tới rồi" rồi.Thượng Tọa Thích Phước Tịnh, 06/4/2003:
TÍN TÂM MINH, bài 11
ĐUỔI BẮT TÌM CẦU
Tâm Nguyên Khương phiên tả và trình bày
(Trích Tạp chí Đất Lành, tháng 5, 6-2003, trang 25-36)
Hôm nay đoạn thứ 11, nguyên văn chữ Hán là:
- Nhị kiến bất trụ
Thận vật truy tầm
Tài hữu thị phi
Phấn nhiên thất tâm.
- Hai bên đừng ghé mắt
Cẩn thận chớ đuổi tầm
Phải quấy vừa vướng mắc
Là nghiền đốt mất tâm.
Ở đây có một từ chúng ta cần phải đào sâu để nhận định cho rõ, đó là từ "nhị kiến". Chúng ta có hai chữ tương đồng với "nhị kiến" là "nhị biên" và "nhị chấp". Ba từ ngữ Hán này tuy có khác nhau nhưng cùng có một nghĩa chung là nói cách nhìn của chúng ta về có-không, còn-mất, trắng-đen, thiện-ác..., tất cả những cặp đối đãi trong cuộc đời đều biểu lộ qua từ ngữ này. Trong giáo lý đạo Phật, đức Thế Tôn cũng hình thành hai từ đối lại, gọi là "nhị đế" hay "nhị môn". Nhị đế là hai chân lý được trình bày trong suốt cuộc đời thuyết pháp của đức Phật. Nhị môn là hai cánh cửa mở ra cho chúng ta đi vào không gian giải thoát thật sự của đạo Phật. Có những điều chúng ta không nên lầm lẫn, thứ nhất là khi đức Phật nói về Tục đế và thứ hai là lúc ngài nói về Chân đế. Tục đế tức là những ý niệm về phải và quấy, về có và không... của cuộc đời mà ở đó đức Phật đã nói cùng một quan niệm như chúng ta. Ta nói cái này trắng thì đức Thế Tôn cũng nói cái nầy trắng, ta nói con người này đẹp thì Thế Tôn cũng nói con người này đẹp, tức là chấp nhận chân lý giống như thế gian. Ngài xây dựng giáo lý căn bản trên nền tảng tục đế này để đem an lạc, hạnh phúc đến tự thân chúng ta trong cuộc sống đời thường và đem an bình đến cho xã hội. Ở mức độ cạn người ta có thể nhìn đức Phật dưới nhiều nhãn quan. Người ta có thể nói: Ngài là người làm cách mạng xã hội vì trong nhiều giáo lý ngài đả phá bốn giai cấp được phân chia trong xã hội nghèo đói của Ấn Độ lúc bấy giờ.
Người ta cũng có thể nói đức Phật là nhà giáo dục tuyệt vời. Tại sao? Tại vì trong lãnh vực giáo dục nhân gian nhiều lắm người ta cũng chỉ đặt căn bản ở hiện tại trên sự truyền đạt bằng ngôn ngữ, trong khi đức Phật đặt căn bản giáo dục trên nhân quả từ rất lâu xa trong quá khứ để hình thành sinh hoạt hiện tại và rồi từ hiện tại ngài đặt căn bản giáo dục để đi đến tương lai. Nền tảng giáo dục đó liên tục có mặt trong ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai chứ không phải chỉ góp phần chuyển hóa xã hội trong hiện tại mà thôi. Nói tóm lại trên bình diện tục đế này, đức Phật rất là đa dạng, nghĩa là tùy cách nhìn có thể đánh giá đạo Phật là một tôn giáo mang lại hạnh phúc trên bình diện đời thường cũng đúng, hạnh phúc trên sự an bình xã hội cũng đúng. Dưới một cái nhìn khác, ngài là bậc thầy có nhiều loại thuốc trị liệu tận gốc khổ đau cũng đúng nữa. Nhưng nếu đạo Phật chỉ cạn cợt ở mặt tục đế này thì chắc dòng chảy tuệ giác của đức Phật không kéo dài được mãi đến ngày hôm nay, nó phải có cái gì sâu sắc hơn đạo đức thế gian, nó phải có cái gì sâu sắc hơn sự chuyển hóa xã hội và chính trị thế gian, để tồn tại và hứa hẹn vượt thoát của không gian và thời gian. Chúng ta biết không có một thể chế chánh trị nào tồn tại lâu dài trên cuộc đời và cũng không có một nền giáo dục nào không có đổi thay theo chuyển biến xã hội để tồn tại cả.
Tuệ giác của đức Phật phải vượt qua giới hạn của tục đế và như vậy còn mặt thứ hai sâu hơn, làm nền tảng để phát triển tục đế, đó là chân đế. Ta có thể hình dung điều này một cách dễ dàng khi xem tục đế như là phần nổi của một tảng băng rất nhỏ, rất ít, so với phần chìm là chân đế mà đức Phật muốn trình bày. Tuệ giác đó đi ngang qua cuộc sống của tất cả chúng sinh vì ngài muốn đem lại an lạc đồng đều, bình đẳng cho mọi người từ căn cơ cạn nhất cho đến căn cơ sâu nhất. Khi đạt được hạnh phúc và an lành trên bình diện chân lý tục đê tức tâm thức, trình độ tư duy và đời sống tâm linh có điều kiện phát triển sâu hơn hoặc cao hơn, thì những nhu cầu đòi hỏi không còn dừng lại ở chỗ chừng mực đạo đức xã hội, không dừng lại ở chỗ chuyển hóa xã hội, mà con người còn có nhu yếu lặn vào chiều sâu hơn nữa, tức tìm cho ra được bản thể của mình, gốc gác của mình, từ nơi nào mình đã ra đi, có nghĩa từ đâu mình xuất hiện trong cuộc đời này và rồi khi bỏ hình hài này mình sẽ đi về đâu? Con đường chân đế này đáp ứng được câu hỏi chúng ta đã mang trong nhiều kiếp luân hồi, chớ chẳng riêng gì ở kiếp này. Và như vậy khi có những giáo lý đức Phật nói ở tục đế thì đừng đem cái tư duy của chân đế mà nhìn, vì nhìn như thế là sai.
Nhị kiến là điều cần thiết trong sinh hoạt đời thường của loài người khi đã tổ chức thành xã hội. Nếu không thấy cái dở và cái hay khác nhau thì không có khả năng tránh được cái dở để đem hạnh phúc cho tự thân mình trong sinh hoạt đời thường. Nhị kiến là thấy có thấy không, thấy còn thấy mất, thấy thiện thấy ác..., tức tất cả những cặp song đối trên cuộc đời đều ở trong cái thấy này cả. Và ở bình diện cạn của tâm thức, tức ở lãnh vực tục đế, nếu tâm thức không chín muồi ở mức độ này, thì chắc chắc không có khả năng nhận diện sâu hơn những điều tiềm phục trong đáy sâu của tâm thức, tức là nếu không đi qua cái nhị kiến này một cách vững chải, thì sẽ có cái nhìn sai lầm về con đường tu của mình là hai. Do vậy phải nên phân biệt phần giáo pháp nào đức Phật nói về tục đế và phần giáo pháp nào đức Phật nói về chân đế. Khi có những câu kinh hay những lời nói của các bậc thiện tri thức lớn, tức là các bậc thầy lớn dạy đừng có trụ vào nhị kiến, nghĩa là phải loại trừ luôn cả có và không, phải và quấy, xấu và đẹp... thì phải biết những lời nói đó được phát ra từ bình diện chân đế, tức khi nói lên điều này, người tu bắt buộc phải quay chiều tư duy lại, phải nhìn trở lại mình và nhìn những khởi niệm lăng xăng từ tâm thức, chứ không phải nói điều này để nhìn ra ngoài, và dùng cái "vô nhị kiến" để phê bình hay hình thành cấu trúc xã hội.
Thời nào cũng thế, tất cả xã hội đều đặt căn bản trên sự phải quấy, và đời sống cũng phải đặt căn bản trên sự phải quấy mới có thể phát triển và tồn tại được. Cho nên trên bình diện tục đế phải sử dụng hai kiến chấp, nhưng khi đã bước vào bình diện chân đế thì phải biết hai cái này cần được loại trừ, để có thể lặn vào chiều sâu của tâm thức, tức là chiều sâu của đầu nguồn của sự sống, nơi mà mình đã từ đó ra đi, và nơi mà mình phải trở về khi bỏ hình hài tứ đại này. Đó là chỗ cội nguồn uyên nguyên không sống và không chết, không có và không không, không Niết bàn và không sanh tử, nơi đó loại trừ hết tất cả những gì là niệm và danh từ.
Nhị môn cũng cùng một ý nghĩa như nhị đế vậy. Trong nhị môn, cửa thứ nhất gọi là tích môn và cửa thứ hai gọi là bản môn. Tích môn nói về những điều được khai thác từ tục đế, tích là dấu vết, cái cửa này có dấu vết, có hình ảnh, có màu sắc, có âm thanh, có phải và có quấy, có và không... có những biểu đạt để chúng ta có thể nắm bắt được, nào là ý niệm trừu tượng, nào là hình hài vật chất... Ở bản môn trái lại, không dùng tư duy để nắm bắt được vì không có ý niệm để thăm dò vào nên khi định nghĩa đức Phật ở mặt tích môn thì có sinh có diệt, có người Ấn, người Hoa, có sinh năm ấy và mất năm ấy, có thọ tám mươi tuổi và thuyết pháp ba tạng kinh điển còn để lại, nhưng nếu đi vào lãnh vực bản môn mà nói thì đức Thế Tôn chưa từng sinh và cũng chưa từng nhập diệt.
Sư ông Làng Mai có mấy câu thơ treo ở phong ăn tu viện là:
- Thuyết pháp trong bản môn
Lá thu rụng đầy trời
Trăng thu đầy trước ngõ
Pháp không đầy, không vơi.
Đó là vòng quanh về lãnh vực chữ nghĩa và tư duy, nhưng nếu quý vị có điều kiện thực tập, quý vị cũng có thể thử nghiệm dược một điều thời gian và không gian không có ngay chính tự tâm mình. Lúc nào? Khi mà chúng ta chìm vào cơn thiền định, nói chìm vào cơn thiền định có thể một số quý vị chưa kinh nghiệm được, nhưng khi quý vị chìm vào một cuộc đỏ đen, lúc đó chắc chắn là thời gian không có.. Lại nữa còn có nhiều niềm đam mê lớn đến nỗi chúng ta quên cả ngày tháng, quên cả những nhu cầu của cơ thể như đói khát. Đối với những người tu tập thiền thì vấn đề này không phải là khó hiểu. Thời gian được hình thành bằng ý niệm của mình từ quá khứ qua đến hiện tại chảy đến tương lai, nhưng khi mình dừng tâm được ngay nơi đây và giờ phút này, thì thời gian không có, và thời gian không có thì không gian cũng không còn và ngay ở "sát na hiện tiền" này, ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai bị triệt tiêu. Người xưa bảo: "nhất niệm thiên thu" là như vậy. Trong một niệm nếu anh an trú được trong sát na hiện hiện, thì tâm không còn xao động nào nữa, nghìn năm cũng chừng đó mà thôi. Nói đi đến đó để thành đạt là chuyện thừa, vì chỉ cần làm một việc "dừng lại" là loại trừ được tất cả những ý niệm chạy ngược, chạy xuôi. Dừng ngay lại ở nơi đây và giờ phút này, là đã có mặt của chân đế, cũng có nghĩa là "tâm vô sinh bất diệt" hiện hữu, ấy là cái chưa từng sống, chưa từng chết, chưa từng đến, chưa từng đi. Đơn giản là vậy. Đó là vài điều đi ngang qua các từ ngữ chúng ta phải nắm lấy để đi vào nội dung bài này.