(Trích: Kinh Pháp Bảo Đàn và Tư Tưởng chư Tổ, soạn giả Tế Giang, trang 121 - 123)
Đáng lẽ tư tưởng đặc thù của ngài Huệ Năng đối với Phật tánh, phải được sắp lên hàng đầu, hoặc là ngay sau tư tưởng Kiến tánh đã phải thảo luận đến.
Nhưng chính vì muốn chứng tỏ Phật tánh là tư tưởng huyết mạch của tất cả cuộc đời và tư tưởng của ngài Huệ Năng, kể cả tư tưởng căn bản và tư tưởng đặc thù, nên chúng tôi để sau hết, với dụng ý lấy tư tưởng Phật tánh làm tư tưởng tổng kết. Cũng phải nói thêm rằng, khi chúng tôi nói tư tưởng Phật tánh là huyết mạch, là bao trùm cả cuộc đời ngài Huệ Năng, điều ấy thật là đương nhiên và kỳ diệu. Đương nhiên, vì lẽ đến như đức Phật đi nữa, từ khi phát tâm đến khi giác ngộ cũng chỉ là Phật tánh biểu hiện. Kỳ diệu, vì lẽ cuộc đời khai thị Phật tri kiến (Phật tánh) cho chúng sanh ngộ nhập và kết thúc bằng kinh Pháp Hoa và kinh Niết Bàn cũng đề cao lên tột bực cái Phật tánh ấy. Thì ngài Huệ Năng cũng đã làm được như vậy trong phạm vi của ngài, khi đáp lại câu hỏi: "Để lời chỉ giáo gì lại cho những người mê mờ sau này được thấy Phật tánh". Ngài nói: "Nếu biết rõ về chúng sanh tức là thấy được Phật tánh". Như vậy cũng chưa đủ đâu. Đặc trường của Thiền tông mà ngài Huệ Năng là kỳ nhân trong đó, là nói và chỉ nói đến sự Kiến tánh. Mà Kiến tánh, đến ngài Huệ Năng, thật sự là Kiến Phật tánh chứ không chi khác.
Vậy Phật tánh là thế nào? Phật là giác. Tánh có hai nghĩa, hoặc là thể tánh, hoặc là khả năng giác ngộ, gọi là Phật tánh. Cắt nghĩa như vậy chưa đủ. Hãy đi sâu thêm nữa. Như trước, trong khi cắt nghĩa về Bồ đề tâm, đoạn thứ ba đã nói Bồ đề chính là đặc tánh tri giác chung của hết thảy tâm vương và tâm sở, và cái căn bản làm cho đặc tánh tri giác ấy phát triển chính là huệ tâm sở. Chính cái đặc tánh tri giác trong đó có huệ tâm sở, là khả năng giác ngộ, là Phật tánh đó. Đặc tánh tri giác là khả năng giác ngộ, là vì tri giác ấy chỉ có biết, cái biết ấy nghịch dụng thì biết sai (mê) mà thuận dụng thì biết đúng (ngộ), y như sự chỉ trỏ là đặc tánh của cánh tay mà chúng ta đã dẫn chứng ở phần Bồ đề tâm vừa rồi.
Nhưng đặc tánh tri giác là năng y, bản thể sở y của đặc tánh tri giác chính là chân như, nghĩa thứ tám của Bồ đề. Chân như là bản thể nên tức tất cả mà ly hết thảy. Nghịch với chân như mà sống (nghịch dụng) là mê, thuận với chân như mà sống (thuận dụng) là ngộ. Như vậy, nói Phật tánh ám chỉ khả năng giác ngộ là nói tri giác, nói Phật tánh ám chỉ bản tánh thanh tịnh là nói chân như. Mà chân như là sở y, tri giác là năng y, nên thật ra chỉ là một mà thôi. Người học giáo lý, phải nắm bắt cái lý do này để mà hiểu về Phật tánh, nếu không, khi thấy nói như là tri giác, khi thấy nói như là chân như, rồi ngang nhiên không hiểu đích Phật tánh là gì. Bây giờ ta hãy lắng nghe ngài Huệ Năng phát biểu tư tưởng đặc thù của ngài về Phật tánh. Tư tưởng đặc thù ấy nhấn mạnh chính khả năng mê là khả năng ngộ, thú vị sâu kín hơn nữa là, chính sự dụng của mê cũng là yếu tố để ngộ, thí dụ thân tân ta đây vốn tội lỗi đó, nhưng thuận dụng thì chúng ta lại là công cụ thực hiện pháp thân công đức. Xác nhận này thật phù hợp lời Phật đã dạy trong kinh Pháp Hoa: "Phật chủng tùng duyên khởi, thị cố thuyết nhất thừa". Những lời ngài Huệ Năng phát biểu sau đây có một ý nghĩa đặc biệt nữa, khi nó là những lời cuối cùng của đời ngài mà kinh Pháp Bảo Đàn đã ghi: "Qua ngày mồng ba tháng tám, tại chùa Quốc Ân, sau khi dự trai tăng xong, ngài Huệ Năng bảo đồ chúng: "Chúng ngươi theo thứ lớp mà ngồi lại đây để ta từ biệt. Pháp Hải bèn bạch rằng:
- Tổ sư lưu giáo pháp gì để cho những người mê mờ chẳng thấy được Phật tánh?
Ngài Huệ Năng dạy rằng:
- Các ngươi hãy nghe cho kỹ những lời ta nói đây! Những người mê muôi nếu biết rõ chúng sanh tức là thấy được Phật tánh. Nếu không biết chúng sanh thì vạn kiếp tìm Phật cũng không gặp. Nay ta dạy cho các ngươi: Hễ biết được chúng sanh của tự tâm thì thấy được Phật tánh của tự tâm: muốm tìm thấy Phật tánh phải biết rõ chúng sanh. Chúng sanh làm mê Phật tánh, không phải Phật tánh làm mê hoặc chúng sanh. Tự tánh mà ngộ được thì chúng sanh là Phật, tự tánh hiểm tà thì Phật là chúng sanh. Các ngươi nếu tâm hiểm hóc thì Phật tánh khuất trong chúng sanh, mà nhất niệm chánh trực thì chúng sanh thành Phật. Tâm ta tự có Phật tánh, Phật tánh ấy mới làm một đức Phật. Nếu tâm tự nó không có Phật tánh thì tìm cách nào làm một đức Phật được? Nên ta nói thiệt cho chúng ngươi biết, tự tâm của các ngươi là Phật, điều đó các ngươi đừng hồ nghi nữa. Ta để lại cho các ngươi một bài kệ. Về sau, ai thể nhận được ý tứ của bài kệ này, thì người ấy tự thấy được tâm tánh, tự thành một đức Phật. Kệ rằng: (Xin xem bài Tự Tánh Chơn kệ ở chương số 10).
Tra cứu kinh Pháp Bảo Đàn ở bản được ghi là nguyên bản, thì những lời cuối cùng của ngài về Phật tánh đây còn một bài kệ nữa. Bài ấy xét ra rất đúng, vì lẽ hoàn toàn phù hợp với những lời nói đầu mà ta đã thấy như sau:
- Mê thì Phật là chúng sanh
Ngộ thì chúng sanh là Phật
Ngu si, Phật là chúng sanh
Trí tuệ, chúng sanh là Phật
Hiểm hóc, Phật là chúng sanh
Bình đẳng, chúng sanh là Phật
Một niệm hiểm hóc phát sanh
Thì phật khuất trong chúng sanh
Một niệm bình được ngô ngã
Thì chúng sanh tức là Phật
Tâm ta tự có đức Phật
Phật ấy là đức Phật thật
Thì tìm Phật ở chỗ nào?"