"binh"]
Ông bạn Thánh Tri ơi ! Khi Bồ tát Quán Thế Âm quán chiếu ngũ uẩn thì
Trí của Bồ tát là năng chiếu, ngũ uẩn là sở chiếu.
Khi ngài thấy rằng ngũ uẩn giai không thì
Trí của Bồ tát là năng không, ngũ uẩn là sở không.
Bồ Tát thì không còn năng sở. Tại mình vọng tưởng mà cho là có năng có sở đó thôi. Trên bước đường tu hành thì còn năng chiếu sở chiếu, một khi đã triệt ngộ giải thoát thì năng sở đâu còn.
Hiện giờ bồ tát nào là năng chiếu sở chiếu đâu. Tại mình suy nghĩ đem khởi tâm phân biệt theo lối suy nghĩ của mình rằng quán chiếu là năng, vật bị quán chiếu là sở. Đó toàn là ý nghĩ bằng vọng thức của mình, chứ Bồ Tát nào như thế.
1. Lìa Sở Văn là câu nầy: "Ban đầu, ở trong tính-nghe, vào được dòng viên-thông, không còn tướng sở-văn nữa. Trần-tướng đã vẳng-lặng, hai tướng động, tĩnh rõ thật không sinh."
Ở đây là bảo xoay vào tự tánh, nghe lại cái tánh nghe nơi mình, nếu thuần chuyên thì tướng sở văn bên ngoài không còn làm cho tâm mình khởi vọng nữa, quên đi được sở văn, do vậy tướng động đã không còn khởi phân biệt, mà ngay cả tướng tĩnh cũng không sanh, bởi động là đối với tĩnh, tĩnh là đối với động. Con ếch kêu thì khởi tâm nghe, con ếch hết kêu thì tâm lại không nghe. Đó là bị tướng sở văn động tĩnh quấy nhiễu bởi vì đem cái tâm hư vọng hướng ra ngoài để chấp lấy cảnh trần, nên tâm sanh diệt lien theo cảnh trần mà sanh diệt. Nay chịu tinh chuyên xoay về tự tánh chỉ một bề nghe tự tánh mà không nghe bất kỳ một tiếng nào khác ở bên ngoài, do vậy mà cảnh ngoài không chi phối, ếch có kêu, có không kêu thì không còn ảnh hưởng cái tâm nầy nữa, không còn khởi vọng lên xuống theo tiếng kêu nữa.
2. Lìa Năng Văn là câu nầy: "Như vậy thêm lần, các tướng năng-văn, sở-văn đều hết."
Sở văn đã diệt, thì năng văn cũng lần diệt, bởi không có đối tượng để nghe thì năng nghe không còn khởi phân biệt rằng đó là sở, ta là năng. Cũng giống như không gió thì mặt hồ tĩnh lặng. Nếu chấp nơi chỗ thanh tịnh nầy mà cho rằng được rồi, thanh tịnh rồi thì rơi vào Không. Tổ Sư gọi là "Ngậm nước chết". Do vậy phải tiến lên nữa.
3. Lìa cả cái Biết về sự đã dứt sạch Năng Văn Sở Văn cũng lìa luôn là câu nầy: "Không dừng lại nơi chỗ dứt hết năng-văn, sở-văn mà tiến lên nữa, thì năng-giác, sở-giác, đều không."
Năng sở đã quên mà còn khởi tâm biết rằng mình đã không còn năng sở thì lại rơi vào năng sở. Do vậy phải quên luôn cả cái biết nầy.
4. Lìa hết các tướng đối đãi về Năng Không và Sở Không là câu nầy: "Không-giác tột bậc viên-mãn, các tướng năng-không, sở-không đều diệt."
5. Tất cả sanh diệt đã diệt rồi, thì tịch diệt hiện tiền là câu nầy: "Sinh-diệt đã diệt, thì bản-tính tịch-diệt hiện-tiền."
Tịch diệt không có nghĩa là nhập diệt chết đi! Mà nghĩa là đã chết đi được cái tâm hư vọng rồi, từ nay về sau sống bằng chân tâm tự tánh vô sanh. Tất cả mọi đối đãi đã sạch tức là dứt cái tâm hư vọng, bởi mọi đối đãi là do tâm hư vọng chấp trước mà ra. Nay nhỗ cỏ đã nhỗ tận góc tức là đập chết cái tâm hư vọng, thì góc mê không còn, tánh giác tự sang soi rõi ràng như trời quang mây tạnh. Do vậy hết năng sở không có nghĩa là phải chết đi cái thân giả tạm nầy!
Tịch diệt cũng không phải là chết cái thân. Mà chết cái tâm hư vọng, được giải thoát và sống bằng chân tâm tự tánh.
Đối với phàm phu chúng ta thì năng kiến là con mắt, sở kiến là người hay vật. Các bậc Thánh còn tại thế cũng vậy, (vẫn phải dùng phuơng tiện như người thường). Nếu nói các ngài không có năng kiến, sở kiến thì nói ngài không có mắt à ?
Sâu hơn thì nói "Tánh thấy" là năng kiến, các pháp là sở kiến. Nếu nói không có năng sở thì tức là nói không có "Tánh thấy" à ?
Nếu con mắt là năng kiến thì khi chết mắt còn đó mà sao không thấy?
Nếu nói tánh thấy là năng kiến thì tánh thấy lại có sanh diệt, bởi có năng thì có sở, có sanh thì có diệt. Tánh thấy mà sanh diệt thì chẳng phải là tánh thấy rồi.
Nói không có năng sở không có nghĩa là không có tánh thấy. Giống như nói không tâm, nhưng đâu phải là không có tâm như gỗ đá. Nói không tâm là không tất cả tâm hư vọng. Tất cả tâm hư vọng không còn thì chân tâm tự chiếu soi. Tất cả năng sở đều không thì chân tánh hiển bài.
Trong bài Tuyệt Quán Luận mà bác binh đăng nay tôi xin trích lại vài đoạn:
Hỏi: Thế nào gọi là tâm? Thế nào là an tâm?
Đáp: Ông chẳng cần lập tâm, cũng chẳng cần gượng an, chính là an vậy.
Hỏi: Nếu không có tâm, làm sao học đạo?
Đáp: Đạo chẳng phải tâm niệm, đâu ở nơi tâm.
Hỏi: Nếu chẳng phải tâm niệm, sẽ lấy cái gì niệm?
Đáp: Có niệm tức có tâm, có tâm tức trái đạo. Không niệm tức không tâm, không tâm tức đạo chân thật (chân đạo)
Hỏi: Tất cả chúng sanh thật có tâm chăng?
Đáp: Nếu chúng sanh thật có tâm tức là điên đảo.
Chỉ vì trong không tâm lập có tâm bèn sanh vọng tưởng.
Hỏi: Không tâm thì có vật gì ?
Đáp: Không tâm tức không vật, không vật tức thiên chân (chân thật vốn sẵn có), thiên chân tức Đại Đạo.
Hỏi: Nay nói PHÀM có cái để được, THÁNH không cái để được, song được và chẳng được có gì khác ?
Đáp: Phàm có cái để được tức có hư vọng. Thánh không cái để được tức không hư vọng. Vì có hư vọng nên có luận: đồng, chẳng đồng. Vì không hư vọng nên không có: khác, chẳng khác.
Hỏi: Nếu không có khác, đâu lập tên Thánh?
Đáp: Phàm phu và Thánh nhân, cả hai đều là tên, trong tên không có sai khác. Như nói lông rùa, sừng thỏ.
Hỏi: Nếu Thánh nhân đồng với lông rùa sừng thỏ, lẽ ra là hoàn toàn không có, vậy khiến người học vật gì?
Đáp: Ta nói không có lông rùa, chẳng nói rùa cũng không. Cớ sao ông lập ra lời gạn hỏi này!
an vui nhé!