Thánh_Tri đã viết:
Nói "Phi tưởng phi phi tưởng là niết bàn" là sai! Kỳ thật là trầm không trệ tịch, tức là lọt vào câu thứ 4 của tứ cú.
Tứ cú là:
1. chấp có
2. chấp không
3. chấp cũng có cũng không
4. không có, không không
Khi hôn trầm thì thức không hoạt động nên gọi là Phi Tưởng, hay Không Có.
Khi hôn trầm mặt dù không có thức, nhưng vẫn là ngồi ở trong mê muội cho nên phi phi tưởng, hoặc không không.
Nói "Phi tưởng phi phi tưởng là niết bàn" là sai! Kỳ thật là trầm không trệ tịch, tức là lọt vào câu thứ 4 của tứ cú.
Hãy thận trọng khi chưa từng tu chứng các loại thiền rồi tự dùng tâm thức nghĩ tưởng tự biên tự diễn, do hiểu sai '' trầm không trệ tịch'' chính là tâm nữa tỉnh nữa mơ khi tu thuật trường sanh đến giai đoạn '' luyện hư hoàn không '' của người đạo gia tu tiên, chẳng dính dáng gì đến '' Phi tưởng phi phi tưởng''.
Khi hôn trầm thì thức không hoạt động nên gọi là Phi Tưởng, hay Không Có.
Khi hôn trầm mặt dù không có thức, nhưng vẫn là ngồi ở trong mê muội cho nên phi phi tưởng, hoặc không không.
câu trên thì viết :''
thức không hoạt động '', câu dưới thì viết : ''
mặt dù không có thức''
hôn trầm không phải là ''Phi tưởng và chẳng dính dáng chi đến Không có.
hôn trầm hay mê muội không phải là ''phi phi tưởng '' , chẳng dính dáng chi đến Không không.
Khi tâm hôn trầm có mặt '' thức'' đang ở đâu ?
khi tâm mê muội đang diễn tiến '' thức'' đang ở đâu ?
TT đã trãi qua kinh nghiệm ngồi thiền mà tâm trong trạng thái mơ mơ màng màng rồi chưa ?
Tứ cú là:
1. chấp có
2. chấp không
3. chấp cũng có cũng không
4. không có, không không
Cũng có người tự khuyên bảo người khác rằng : No là đói, đói là no, no đói nào có khác, đói no đều do tưởng, vậy ăn làm chi ! nhưng khi bụng người ấy đói, lại đòi ăn những món này nè mới chịu, còn những món khác thì ăn không được.....hi...hi....
Và do hiểu lầm bốn câu '' sắc bất thị không'', ''không bất thị sắc'', '' sắc tức thị không '', '' không tức thị sắc '' thành tứ cú, nào hay bốn câu này diễn đạt ngũ uẩn '' sắc, thọ, tưởng, hành, thức'' của ngoại pháp và nội pháp chỉ có người tu chứng '' ngũ uẩn giai không'' của pháp thành mới thật biết rõ, cũng có vài vị tu thiền, tâm định rất khác cao nhưng vẫn bị kẹt ở giai đoạn pháp hành khi tâm nhận biết được bóng tối cho là '' vô minh, và ánh sáng cho là ''trí huệ '' ( chấp thủ là Tự ngã cũa Ta như kinh vô ngã tướng Đức Phật đã dạy), do chấp thủ ấy nên trí huệ bát nhã bị giáng đoạn, không còn tiếp tục nhận biết bóng tối và ánh sáng ấy chỉ là những hạt nhân nhỏ nguyên tử ánh sáng màu sám bạc, màu trắng bạc rất vi tế (nano) này hợp thành tức là ngũ uẩn nội pháp tự kết hợp và tự tan rã, trong kinh dạy rất rõ : An trú '' Quán...... '' tuệ tri hay ngũ căn ngũ lực được tiếp nối phần sau, để nhận rõ như thật các pháp đang là, nếu lở ngộ nhận chấp thủ là trí huệ (tự ngã của Ta) thì ''tỉnh giác '' (thất giác chi) kịp thời soi sáng buông bỏ, hướng tâm tiếp tục quan sát tùy niệm xứ đang diễn tiến đang là,
vị thầy bắc truyền dạy tôi rất giỏi cũng đã từng lý giải '' bát nhã tâm kinh'' này, nhưng với thời gian dài tu thiền vẫn không tránh có lúc hiểu lầm từ ''
không tướng'' thành ''
tướng không '' nên mới ngộ nhận lằm '' Phi tưởng phi phi tưởng'' là niết bàn, khi xưa tôi rất tâm đắc bài tâm kinh này khi đọc các chú giải của các vị khác, nhưng khi và cửa rồi thì mới như thật biết, học và hành còn có khi còn hiểu sai, học đây có nghĩa là đọc rồi tư duy đem ra thực tập thiền '' phản văn văn tự tánh '', huống hồ chỉ là đọc sách hay đọc chú giải của các vị khác rồi tự suy nghĩ mà hiểu rõ !?.
Đây là bài kinh Đức Phật giảng do đạo hữu Không Biết trích dẫn :
viewtopic.php?f=41&t=10960&start=192
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ, Tôn giả Maha Cunda, vào buổi chiều từ chỗ độc cư Thiền tịnh đứng dậy, đến tại chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Tôn giả Maha Cunda bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, có những loại sở kiến này khởi lên trên đời, hoặc liên hệ đến ngã luận, hoặc liên hệ đến thế giới luận. Bạch Thế Tôn, đối với một Tỷ-kheo, có tác ý ngay từ ban đầu, thời có thể đoạn trừ những sở kiến ấy hay không, có thể xả ly những sở kiến ấy hay không?
-- Này Cunda, những loại sở kiến này khởi lên trên đời, hoặc liên hệ đến ngã luận, hoặc liên hệ đến thế giới luận, - chỗ nào những sở kiến này tiềm ẩn, và chỗ nào những sở kiến này hiện hành, chỉ có cách như thật quán sát chúng với trí tuệ rằng: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi", có vậy thời có sự đoạn trừ những sở kiến ấy, có sự xả ly những sở kiến ấy.
(Tám chứng đắc)
..........................................................................................................
Này Cunda, sự kiện này xảy ra, khi một Tỷ-kheo vượt lên mọi Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Vị ấy có thể nghĩ: "Ta sống với hạnh đoạn giảm". Này Cunda, các (quả chứng) ấy không gọi là đoạn giảm trong giới luật của bậc Thánh. Chúng được gọi là tịch tịnh trú trong giới luật của bậc Thánh.
Vị tu thiền vô sắc trước tiên phải tu chứng đắc bốn thiền sắc giới để qua kinh nghiệm này rồi mới tu qua thiền vô sắc, người này chưa tu chứng tứ thiền hữu sắc bắt chước tập các loại thiền này chỉ là ngồi yên phóng dật nghĩ tưởng tượng thôi, nhiều người học thiền hiểu lầm lắm, nên không đạt kết quả ngược lại dể bị tẩu hỏa nhập ma, đầu óc trở thành ngơ ngơ ngáo ngáo, thấy những chuyện bậy bạ do ham muốn chứng các loại thần thông.
Chư vị hãy dành thì giờ tu tập miên mật, chừng nào liễu ngộ pháp mầu rồi viết chia sẻ sau vẫn không muộn.