Thánh_Tri đã viết:
alphatran đã viết:
Kính các vị đạo hữu,
Kính đạo hữu Thánh Tri, đạo hữu Ma Ha Bát Nhã,
Bát nhã tâm kinh (vui lòng xem:
http://www.budsas.org/uni/u-vbud/vbkin006.htm) có câu:
Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.
Dịch Việt:
Xá Lợi Tử! Tướng không các pháp đây, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt.
Xin hỏi tại sao đã KHÔNG mà có TƯỚNG để mà gọi TƯỚNG KHÔNG?
Người dịch sai nên đạo hữu hiểu sai thôi.
chữ Hán rõ ràng nói "Không Tướng" mà dịch là Tướng Không (đối đãi tướng Có) thì sai. Không Tướng chứ không phải Tướng Không!
Đã Không Tướng thì làm gì có Tướng nào mà cho là Tướng Có, Tướng Không. Ngay cả "tướng Có" đã bị phá huống gì là "tướng Không" ư?
Vã lại Có Tướng dù đó là Tướng Có hay Tướng Không cũng bị rơi vào sanh diệt. Như vậy đau trúng ý kinh bất sanh bất diệt!
alphatran đã viết:
Kính các vị đạo hữu,
Chớ nên vội vàng, hãy đọc lại:
Âm Hán: "Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm."
Nên nhớ đây là âm hán, chứ không phải âm Việt, trong âm Hán có chỉ 2 chữ có nghĩa phủ định là "BẤT" và "VÔ" nên ta có thể hỏi:
- Nếu như chữ KHÔNG có nghĩa là "không có" thì đoạn sau sao không dùng là "không sanh không diệt, không cấu không tịnh, không tăng không giảm" mà lại đi dùng chữ BẤT thành "bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm."
- Vì vậy rõ ràng, chữ KHÔNG trong "thị chư pháp không tướng" không phải nghĩa là KHÔNG CÓ.
Alpha có thể nhận định rằng câu dịch trện đây đã đúng. Các tổ thiền xưa nay ai cũng hiểu như vậy chứ không phải chỉ có mình alpha.
Nên các đạo hữu nên xem lại.
Chào bạn alphatran và bạn Thánh_Tri,
1. Bạn Thánh_Tri ơi, bạn alphatran nói đúng đó vì bạn mới là người hiểu sai . Trong câu kinh trên bạn Thánh Tri hiểu chữ KHÔNG = KHÔNG CÓ (tức là một từ phủ định) thì hiểu như vậy là sai . Là vì trong ngôn ngữ Tàu chữ KHÔNG 空 không được dùng như một từ phủ định mà chữ không chỉ mang nghĩa là KHÔNG = trống rỗng = emptiness . Để phủ định thì người Tàu dùng những chữ VÔ, BẤT, PHI, MỘT 沒.
Sở dĩ bạn Thánh Tri hiểu sai như vậy là vì có sự lẫn lộn giữa tiếng Việt và tiếng Tàu . Trong tiếng Việt thì chữ KHÔNG ngoài cái nghĩa không = trống rỗng như trong tiếng Tàu thì chữ KHÔNG còn là một từ phủ định chính, được dùng rất nhiều . Cho nên người Việt khi đọc chữ Hán gặp chữ KHÔNG thì dễ hiểu lầm (như trường hợp bạn Thánh Tri) rằng chữ không là một từ phủ định mang nghĩa là KHÔNG = KHÔNG CÓ .
Như vậy thì trong câu kinh trên "Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng" cụm từ 'chư pháp không tướng' không có nghĩa là: chư pháp không tướng = các pháp
KHÔNG CÓ tướng, mà có nghĩa là: chư pháp không tướng =
TƯỚNG KHÔNG của các pháp . Hai câu này "các pháp không có tướng" và "tướng không của các pháp" là hai câu hoàn toàn khác nghĩa nhau !
2. Ngài Huyền Trang dịch Tâm Kinh từ chữ Phạn (sanskrit) nên cũng nên tìm ở nguyên bản chữ Phạn xem nguyên văn là thế nào . Bản Tâm Kinh bằng tiếng Phạn có trong quyển "Buddhist Wisdom Books: The Diamond and the Heart Sutra" của Edward Conze . Dưới đây là câu kinh trên ở nguyên văn chữ Phạn và câu dịch tiếng Anh của Edward Conze ở trang 107 trong sách trên:
Iha Śariputra sarva-dharmāḥ śūnyatā-lakṣaṇā = Here, O Sariputra, all dharmas are marked with emptiness .
Chữ śūnyatā = emptiness = trống rỗng, là một danh từ và được ngài Huyền Trang dịch sang chữ Hán là KHÔNG . Chữ KHÔNG này là một danh từ và mang nghĩa KHÔNG = trống rỗng = emptiness, chứ không phải là một từ phủ định mang nghĩa là KHÔNG = KHÔNG CÓ . Điểm thú vị là lời dịch của ngài Huyền Trang thật sát với nguyên bản chữ Sanskrit giống như là "chuyển" dịch chứ không phải dịch (tức là "chuyển" từng chữ ở ngôn ngữ này sang chữ tương đương ở ngôn ngữ kia): sarva-dharmāḥ śūnyatā-lakṣaṇā = chư pháp không tướng (sarva = all = tất cả = chư; dharmā = pháp; śūnyatā = không; lakṣaṇā = mark, sign = tướng).