DUY LỰC NGỮ LỤC

Thảo luận tư tưởng thiền tông Việt Nam.

Điều hành viên: binh

Hình đại diện của người dùng
Nhật Châu
Bài viết: 9
Ngày: 27/12/07 17:15

DUY LỰC NGỮ LỤC

Bài viết chưa xem gửi bởi Nhật Châu »

LỜI NÓI ĐẦU

Quyển NGỮ LỤC này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư DUY LỰC trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời. Cứ hằng tháng Ngài cho mở một khóa tu bảy ngày ở mỗi Thiền Đường cho các hành giả tu Thiền, gọi là "đả Thiền Thất" để hướng dẫn đại chúng chuyên sâu trong sự nghiệp tu hành. Những lời dạy trước sau đều được đồ đệ ghi âm lại để làm tài liệu tham khảo.

Bởi là những giải đáp từ các câu hỏi trực tiếp nên có tính thực tiễn, giải tỏa được những gút mắc của người tham thiền.

Sau khi Ngài thị tịch, nhiều Tăng, Ni, Phật tử yêu cầu, khuyến khích chúng tôi ghi chép lại những lời khai thị trên để in thành sách.

Thuở sinh tiền, có người hỏi Thiền Sư : "Sau khi Sư phụ đi vắng , nếu có thắc mắc gì chúng con biết hỏi ai ?:

Ngài đáp : " Có thắc mắc thì gom lại viết thư để tôi trả lời; hoặc xem kinh sách, Ngữ Lục tôi đã dịch thuật, hoặc nghe băng rồi ghi lại lời giải đáp mấy năm qua, theo đó mà tu".

Nhận thấy đây là những lời di huấn vô cùng quý báu và cần thiết cho những hành giả tham thiền, nên chúng tôi không ngại sự nông cạn của mình, nguyện cố gắng thực hiện Ngữ Lục này hầu làm tài liệu cho người hiện tại và đời sau tham khảo.

Trong quá trình sao lục, chúng tôi vẫn trân trọng giữ trung thực những lời dạy của Người, chỉ xin mạn phép lược qua những phần trùng lặp, tránh đi đôi điều không cần thiết. Mặc dù hết sức cố gắng, tuy nhiên chắc chắn không thể tránh khỏi thiếu sót. Kính mong chư hành, đọc giả từ bi chỉ giáo.

Vì lời dạy của chư Phật, chư Tổ xưa nay vừa nói liền phá, chỉ là phương tiện tạm thời để trị bệnh chấp của chúng sanh, nay đem dây dưa bày ra, mong đọc giả được ý quên lời, nếu chấp lời nghịch ý, thì tội của những người thực hiện đã đáng ba mươi gậy !

Đại diện Nhóm thực hiện

MAI THẮNG NGHĨA
TIỂU SỬ

Thiền Sư Thích Duy Lực
Tọa Chủ Từ Ân Thiền Đường Hoa Kỳ

THỜI THƠ ẤU

Sư hiệu DUY LỰC, tự GIÁC KHAI, thế danh LA DU sanh ngày 05 tháng 05 năm 1923, là người làng Long Yên, huyện Phong Thuận phủ Triều Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Cha tên là La Xương và mẹ tên là Lưu Thị, làm nghề nông. Sau khi tốt nghiệp phổ thông cấp 1, thì Sư phải nghỉ học, theo cha sang Việt Nam sinh sống, lúc đó Sư được 16 tuổi (1938). Trú tại tỉnh Cần Thơ, Sư thường tranh thủ tự học trong lúc rảnh rỗi. Đến năm 26 tuổi (1948), thi đậu bằng giáo viên Hoa Văn và được mời dạy ở các trường tiểu học tỉnh Tà Keo Cao Miên (nay là Campuchia), và trường Khải Trí ở Cần Thơ, Trường Cái Vồn ở Vĩnh Long, Việt Nam trải qua 10 năm. Năm 1958, sau khi lấy bằng Đông Y Sĩ cấp 1, Sư được mời làm đông y sĩ cho tiệm thuốc Tế Ngươn Đường Cà Mâu và Minh Nguyệt Cư Sĩ Lâm tỉnh Cần Thơ để khám bệnh miễn phí cho dân trong thời gian 8 năm.

Trong tủ sách của Cư Sĩ Lâm có bộ Kinh Tục Tạng gồm 150 quyển, lúc đầu Sư định đọc hết toàn bộ, nhưng trải qua một năm chỉ xem được 7 quyển, sau quyết định chỉ xem phần Thiền Tông. Lúc đó Sư theo Pháp sư DIỆU DUYÊN tham học Tổ Sư Thiền (Pháp Sư Diệu Duyên đã nhiều năm thân cận Lai Quả Thiền Sư và Hư Vân Thiền Sư, và ngài tịch vào năm 1976 tại Chùa Thảo Đường Việt Nam).

THỜI KỲ XUẤT GIA HỌC ĐẠO

Vào mùng 08 tháng 02 năm 1973, Sư được Hòa Thượng, thượng Hoằng hạ Tu cho xuất gia tu học tại chùa Từ Aân Quận 11 Chợ Lớn. Tháng 05 năm 1974, Sư thọ giới Tam Đàn Cụ Túc tại Chùa Cực Lạc Malaysia.

Từ đó Sư chuyên tham câu thoại đầu "Khi chưa có trời đất ta là cái gì" trải qua nhiều năm, một hôm do đọc quyển "Trung Quán Luận" đến câu "Do có nghĩa KHÔNG nên thành tựu tất cả pháp" đốn ngộ ý chỉ "TỪ KHÔNG HIỂN DỤNG", lại tỏ ngộ câu KHÔNG sanh nơi đại giác, như biển nổi non bọt, vô số nước hữu lậu, đều từ KHÔNG sanh khởi trong Kinh Lăng Nghiêm, với câu "Lấy VÔ TRỤ làm gốc" của Ngài Lục Tổ; "Từ gốc VÔ TRỤ lập tất cả pháp" của Ngài Duy Ma Cật vốn cùng một ý chỉ, VÔ TRỤ tức TÁNH KHÔNG, thể Chơn Như vốn KHÔNG mà tự hiển bày sự dụng; thể và dụng của Chư Phật với chúng sanh vốn chẳng hai chẳng khác, cùng khắp không gian thời gian, nơi thánh chẳng thêm, nơi phàm chẳng bớt, dù là phàm phu mà sức dụng của Phật tánh chẳng kém hơn Phật, cũng chẳng từng gián đoạn, chỉ vì chúng sinh ứng dụng hàng ngày mà chẳng tự biết.

THỜI KỲ HOẰNGPHÁP

Ngày mùng 2 tháng 4 năm 1977 Sư thừa lệnh ân sư (Hòa Thượng Hoằng Tu) ra hoằng pháp Tổ Sư Thiền tại chùa Từ Aân đường Hùng Vương Quận 11 TP HCM. Hai năm sau, tứ chúng phật tử qui tụ ngày càng đông, Phật tử người Việt theo tu học pháp Tổ Sư Thiền hơn 4000 người, mỗi lần tham dự thiền thất đều vượt trên 300 người.

Tháng 02 năm 1989, Sư di cư đến tiểu bang California nước Hoa Kỳ và sáng lập Từ Ân Thiền Đường tại Orange County. Đến thiền đường học đạo có người Tây Phương và người Á Châu, trong đó người Việt Nam đông nhất. Những năm gần đây, Sư thường được thỉnh đến các nước như Chùa Chánh Giác ở Toronto, Canada, Chùa Quan Aâm ở Brisbane Australia, Hồng Kông, Tịnh Xá Đại Bi ở Đài Loan để hoằng pháp và các thiền đường ở Mỹ để giảng dạy pháp Tổ sư Thiền.

Riêng ở Việt nam, bất cứ nơi nào mời, Sư đều tùy duyên giảng dạy, như đả Thiền Thất tại chùa Từ Aân Quận 11, chùa Hưng Phước đường Cách Mạng Tháng 8 quận 3, Chùa Pháp Thành Quận 6, Chùa Sùng Đức Quận 6, Chùa Huệ Quang Quận Tân Bình, , Đại Tòng Lâm, Ni Viện Thiện Hòa Bà Rịa Vũng Tầu, và tại các tỉnh Long An, Sóc Trăng, Tây Ninh Khánh Hòa, Bình Định..

Năm 1996 Sư lập một nông thiền trồng rau sạch không dùng phân bón và thuốc sát trùng tại Củ Chi, Sai Gòn.

Đến năm 1998, Sư đã được Ban Hoằng Pháp Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, mời thỉnh vào Ban Hoằng Pháp Trung Ương, với cương vị Uûy Viên Ban Hoằng Pháp Trung Ương, Sư đã được Giáo Hội phân thỉnh giảng tại các Khóa Bồi Dưỡng Hoằng Pháp ngắn hạn cho các tỉnh Miền Trung tổ chức tại Bình định, cho các tỉnh Miền Đông, TP Saigon và Miền Nam tại Văn Phòng 2 Trung Ương Giáo Hội.

Đến năm 1999 Sư thành lập phòng khám bệnh và phát thuốc miễn phí tại huyện Long Thành tỉnh Đồng Nai cũng nhằm tùy duyên hóa độ chúng sinh, trong hoàn cảnh khó khăn của sự phát triển tôn giáo tại Việt Nam.

DỊCH THUẬT CÁC KINH SÁCH VÀ TRƯỚC TÁC

Ngoài ra Sư còn truớc tác, dịch thuật và chú giải từ tiếng Hán sang tiếng Việt các kinh điển và ngữ lục của Tổ sư hơn 20 loại, lượng sách phát hành tại Việt nam trên mấy mươi ngàn quyển. Các kinh sách tiếng Việt và một số bằng tiếng Hoa được phát hành bao gồm:

DỊCH THUẬT và CHÚ GIẢI:

o Kinh Lăng Nghiêm
o Kinh Lăng Già
o Kinh Pháp Bảo Đàn
o Kinh Viên Giác
o Kinh Duy Ma Cật
o Đại Huệ Ngữ Lục
o Tham Thiền Cảnh Ngữ (tác giả: Hòa Thượng Bác Sơn)
o Thiền Thất Khai Thị Lục (tác giả: Lai Quả Thiền Sư)
o Bá Trượng Quảng Lục và Ngữ Lục
o Truyền Tâm Pháp Yếu
o Trung Phong Pháp Ngữ
o Cội Nguồn truyền Thừa
o Chư Kinh Tập Yếu
o Tín Tâm Minh Tịch Nghĩa Giải

TRƯỚC TÁC:

o Góp Nhặt Lời Phật Tổ và Thánh Hiền
o Công Aùn Của Phật Thích Ca & Tổ Đạt Ma
o Phật pháp với Thiền Tông
o Đường Lối Tham Tổ Sư Thiền
o Danh Từ Thiền Học
o Vũ Trụ Quan Thế Kỷ 21
o Yếu Chỉ Trung Quán Luận
o Yếu Chỉ Phật Pháp...

VIÊN TỊCH

Sư biện tài vô ngại, tùy duyên hóa độ và tận tụy với hoằng pháp lợi sanh, chẳng kể gian lao, không từ khó nhọc. Người xưa có nói "Bồ Tát dĩ lợi sanh vi bổn hoài", (Bồ Tát luôn luôn vì lợi ích chúng sanh mà cứu giúp) thật khế hợp với Sư biết bao.

Hóa duyên kỳ tắc, Sư thị tịch vào lúc 10 giờ 30 phút ngày 07-1-2000 tại California Hoa Kỳ,tức ngày mùng 01 tháng 12 năm Kỷ Mão, nhằm lúc 01 giờ 30 phút giờ Việt Nam ngày 02tháng 12 năm Kỷ Mão (tức ngày 08 tháng Giêng năm 2000).


Bồ-đề bổn vô thọ
Minh kính diệc phi đài
Bổn lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai


Nghĩa là:
Bồ đề vốn không cây
Gương sáng chẳng phải đài
Xưa nay không một vật
Chỗ nào vướng trần ai
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Google [Bot]17 khách