- XÁ LỢI TỬ! THỊ CHƯ PHÁP KHÔNG TƯỚNG, BẤT SANH BẤT DIỆT, BẤT CẤU BẤT TỊNH, BẤT TĂNG BẤT GIẢM
Nầy Xá Lợi Phất! Tướng không của các pháp, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng nhơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt.
Đoạn nầy lại gọi Xá Lợi Phất, là chạm mặt có tri giác nên đích thân bảo ông. Ý kiến cho ông Xá Lợi Phất mỗi mỗi hồi quán
(8) tự chiếu pháp thân chân như bản lai không tịch.
Tướng không của các pháp, câu nầy nêu đoạn trên soi thấy năm uẩn thể
(9) không. Khi ấy chỉ thấy thể chiếu soi độc lập của Chân như không tịch, tức chỉ cho tướng chiếu thể diệu viên, nên nói là Tướng không của các pháp.
Một chữ Tướng nầy, chẳng phải là tướng của bốn đại, năm uẩn, sum la vạn tượng. Mà nói Tướng, là vì các pháp tuy có tướng mà rỗng không, là tướng giả chứ chẳng phải tướng thật. Thể chiếu soi không tịch, tuy chẳng có thể hình dung mà là linh quang rỡ rỡ, chói ngời, thể chiếu cùng khắp đó là thật tướng của các pháp. Khi đó chẳng khởi thấy các pháp, bốn đại, năm uẩn, nên nói các pháp không. Chỉ quán Bát Nhã thể chiếu hiện tiền, tròn đầy sáng rỡ, rỗng rang không ngằn mé, ắt rõ tất cả tướng đều là thể chiếu thật tướng của chân không, nên nói là tướng không của các pháp.
Tướng không của các pháp tức là tướng pháp thân. Cổ đức nói: "Tất cả sắc đều là sắc Phật, tất cả tiếng đều là tiếng Phật". Kinh Lăng Già chú nói: "Chạm mắt không gì chẳng phải là Phật". Kinh Kim Cang nói: "Tất cả pháp đều là Phật pháp". Ngài Vĩnh Gia nói:
- Anh thấy chăng!
Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân,
Chẳng trừ vọng niệm chẳng cầu chân,
Tánh thật vô minh tức Phật tánh,
Thân không huyễn hóa tức Pháp thân,
(Quân bất kiến!
Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân,
Bất trừ vọng niệm bất cầu chân,
Vô minh thật tánh tức Phật tánh,
Huyễn hóa không thân tức Pháp thân).
Chẳng sanh chẳng diệt nghĩa là cái thể Bát Nhã chiếu soi hiện tiền, liền tự biết bốn đại, năm uẩn, tất cả các pháp xưa nay chẳng sanh. Tại sao chẳng sanh? Vì năm uẩn vốn không, nên chẳng sanh. Năm uẩn vốn không, nên chẳng diệt. Giả tướng của bốn đại năm uẩn cũng như hoa đốm trong không, nguyên không có thể tánh, nên chẳng sanh. Nó đã không sanh, thì xưa nay vắng lặng tịch diệt. Chẳng phải xưa có nay không, mà gọi là diệt. Bởi hoa đốm trong không là chất huyễn, đương thể tức không, có sanh diệt gì đâu để nói! Năm uẩn của chúng sanh, cũng như hoa đốm trong không, đương thể hư giả, hư giả là tức không, nên nói chẳng sanh chẳng diệt.
Kinh nói: "Tất cả chúng sanh xưa nay tịch diệt, chẳng còn diệt nữa". Kinh Viên Giác nói: "Tất cả chúng sanh xưa nay thành Phật. Sanh tử Niết Bàn như giấc mộng đêm qua". Vì như giấc mộng đêm qua, nên biết sanh tử cùng với Niết Bàn, không khởi không diệt.
Thế nên biết năm uẩn như hoa đốm trong không, vốn không sanh diệt. Nhưng thể Bát Nhã chiếu soi, là thể chân thật của tất cả các pháp. Trải qua nhiều kiếp mà chẳng biết chỗ khởi đầu, tột đời vị lai mà chẳng thấy chung cuộc. Suốt xưa nay, như như bất động. Bền chắc thường còn, chẳng biến chẳng hoại như chất Kim Cang. Đó là thể chân thật rốt ráo chẳng sanh chẳng diệt.
Chẳng nhơ chẳng sạch là thể Bát Nhã chiếu soi, là tướng không của các pháp, bản tánh nguyên tự trong sạch, vốn chẳng nhiễm ô nên nói chẳng nhơ. Nguyên tự trong sạch, chẳng phải do rửa nhơ để được sạch, nên nói chẳng sạch. Vì thể tánh của nó không tịch, nên nhơ sạch chẳng thể được. Nhân chúng sanh trái giác hợp trần, tự quên thể chiếu soi. Do thấy vọng, biết vọng, thấy có thân tâm bốn đại, năm uẩn, tham nhiễm sáu trần, năm dục thế gian, nên nhơ, bụi nhơ là gì? Kinh nói: "Tướng tưởng là bụi, tình thức là nhơ". Hiện tiền chỉ thấy thân tâm bốn đại, năm uẩn, sáu trần thế gian, cảnh giới sum la, lăng xăng vẩn đục, che phủ thể chân như không tịch. Do vọng tâm đối vọng cảnh, buông lung tham sân si khởi hoặc tạo nghiệp, nên gọi là nhơ. Nếu nhận được tham sân si là nhân khổ của ba đường ác, tu giới định tuệ để diệt nhân khổ, nên nói là sạch.
Nếu nương theo thể Bát Nhã chiếu soi không tịch hiện tiền, thì bốn đại, năm uẩn, sáu căn, sáu trần, vọng cảnh của muôn tượng vốn là rỗng không, nên chẳng nhơ. Đã biết vọng cảnh nguyên rỗng, chẳng nhọc tu hành để dứt, rồi nhơ mới sạch, nên nói: Chẳng sạch. Kinh nói: "Phàm những gì có tướng đều là hư vọng". Biết là hư vọng, nên chẳng tưởng là nhơ. Lại nói: "Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, tức thấy Như Lai, nghĩa là lúc thấy các tướng rõ biết tướng vốn rỗng không, thì toàn tướng tức tánh. Do các tướng vốn rỗng tức chẳng phải tướng, mà toàn tướng tức tánh, tánh không viên dung, tức là thấy Như Lai, chẳng lại tìm Như Lai nào khác. Tánh không hiện tiền, nên chẳng khởi tướng sạch, chẳng nhơ chẳng sạch là tướng thật xưa nay trong sạch.
Chẳng tăng chẳng giảm là vì tâm vọng thấy cảnh vọng, nên thấy có Phật có chúng sanh, có thánh có phàm, có thông minh, có đần độn, có trí tuệ, có ngu si, có trong có đục, có sạch có nhơ, tự có phân chia cao thấp hơn kém, do đó nói có tăng có giảm, nương thể Bát Nhã chiếu soi vắng lặng hiện tiền, nên chẳng khởi tưởng sạch thì thể chiếu soi lắng sâu rộng lớn không bờ mé. Năm uẩn vốn không, nên nói năm uẩn pháp không, thể trùm các cõi nhiều như cát bụi. Thế nên biết tướng không của các pháp, tất cả bình đẳng, ở thánh chẳng tăng, ở phàm chẳng giảm, rốt ráo không phân chia cao thấp hơn kém, nên nói chẳng tăng chẳng giảm.
CHÚ THÍCH:
(8)
Bản khác ghi là quang.
(9)
Chữ thể bản xưa ghi là bản.
- THỊ CỐ KHÔNG TRUNG VÔ SẮC, VÔ THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC
Cho nên trong tướng không, không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức.
Cho nên, là lời chuyển từ trên xuống đoạn dưới. Bởi đoạn trên nói Tướng không của các pháp, thì tất cả pháp bình đẳng, vật và ngã đều như, tự và tha cùng một thể. Chẳng còn có cái thấy sai biệt sanh diệt, nhơ sạch, tăng giảm. Chỉ là thể Bát Nhã chiếu soi trác nhiên độc lập, rỗng rang vắng lặng. Trong đó không có năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
Nói Trong không, Không nghĩa là các pháp năm uẩn không, tức chỉ cho tướng không của các pháp ở đoạn trước. Trong nghĩa là thể chiếu soi vắng lặng, lắng sâu thường sáng, lìa cả hai bên, tức chỉ hai bên chẳng sanh diệt, chẳng nhơ sạch, chẳng tăng giảm, ở trước. Hai bên đã lìa, thì thường ở Trung đạo. Hợp lại nói là Trong không. Trong không là căn cứ trong tướng không của các pháp ở trên, nói gọn là Trong không.
Nói Không sắc, nghĩa là trong tánh không tịch, chỉ vì tự tánh tự chiếu, không tướng sắc thân, cho đến không tướng cảnh giới.
Nói Không thọ, tưởng, hành, thức, nghĩa là trong tánh không tịch, chỉ dùng thể hư linh chẳng mờ tối làm tâm xưa nay, mà chẳng dùng tâm phân biệt phan duyên thiện ác, tốt xấu, khổ vui. Bởi do chúng sanh mê tâm hiện ra cảnh, cảnh theo tâm sanh. Do cảnh đối tâm, tâm theo cảnh chuyển. Nếu rõ thân và cảnh đều không, thì tâm không chỗ nương, vắng lặng thường tịch, nên nói Không sắc, không thọ, tưởng, hành, thức. Đây là căn cứ trong tướng không của các pháp ởtrên, chẳng những bình đẳng không sai biệt, cũng không thân tâm năm uẩn.
- VÔ NHÃN, NHĨ, TỸ, THIỆT, THÂN Ý
Không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
Đây tiếp theo trên trong không, chẳng những không năm uẩn, cũng không sáu nhập.
Sáu nhập cũng gọi là sáu căn, là chỗ sáu trần theo vào, nên gọi là sáu nhập. Lại, thức tinh của sáu chỗ, hấp thụ sáu trần, dẫn vào tạng thức, nên gọi là sáu nhập.
Sáu căn nghĩa là sáu tinh: thấy, nghe, ngửi, nếm, giác, biết; Sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, vốn từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, mà được hiện sinh, nên gọi là sáu căn. Căn của sáu nhập, nương thân mà có, thấy, nghe, ngửi, nếm, giác, biết, đối cảnh mà hiện. Nếu rõ thân và cảnh đều không, thì sáu căn không chỗ gá. Sáu căn đã lặng thì sáu trần cũng không từ đâu vào, do đó nói không sáu nhập.
Thể chân như chiếu soi chẳng giữ tự tánh, theo vọng thấy có thân và cảnh, năng đối gọi là căn, sở đối gọi là trần. Do căn hay đối, hấp thu sáu trần, dẫn vào tạng thức, nên cũng gọi là sáu nhập. Vì mắt hay thấy dính vào sắc, tai hay nghe dính vào tiếng, mũi hay ngửi dính vào hương, lưỡi hay nếm dính vào vị, thân hay cảm giác dính vào xúc, ý hay hiểu biết dính vào các pháp. Nhưng năng đối sở đối, đồng là năm uẩn. Nếu rõ uẩn không, tất nhiên năng sở đều bặt, thể chiếu soi tròn sáng, vắng lặng thường hằng, ngoài không đối cảnh, trong không sanh tâm, thì trong thể không tịch viên dung chiếu soi lẫn nhau. Thế nên trong không, không tướng căn của sáu nhập.
- VÔ SẮC, THANH, HƯƠNG, VỊ, XÚC, PHÁP
Không sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Đây tiếp theo trên, trong không, chẳng những không năm uẩn, các căn của sáu nhập, cũng không sáu trần của mười hai xứ. Trên nói các căn của sáu nhập, là từ tính hay thấy, hay nghe, hay ngửi, hay nếm, hay cảm giác, hay hiểu biết, gọi là căn bên trong nương vào thân tâm mà có tánh hay biết, bởi chúng gần gũi nương tựa thân, nên gọi là căn. Đây nói sáu trần của mười hai xứ. Sáu căn ở trên, sáu trần ở đây. Vì căn và trần đối nhau nên thành mười hai. Mà căn trần mỗi thứ có xứ sở riêng, nên gọi là mười hai xứ.
Nói Trần, là che phủ chân tánh. Bởi căn tánh vắng lặng sáng suốt, như ánh sáng của gương, nhưng hay chiếu vật, mà trần như bóng trong gương. Bóng có xanh, vàng, đỏ, trắng muôn ngàn sai khác. Bóng tuy rỗng không, mà cùng gương đồng thể, huyễn hiện các tướng lộn lạo trong gương. Người không biết, chỉ thấy các tướng, mà chẳng thấy được sự sáng suốt của gương, do các tướng che phủ, lộn lạo, nên gọi là trần. Cũng như tánh của căn tròn sáng, hay chiếu soi các vật, mà bị tướng vật sáu trần khuấy loạn trong căn. Người mê vin theo sáu trần, bên trong mờ tối, che lấp mất đi, chỉ thấy sáu trần, chẳng thấy căn tánh. Nếu nương thể Bát Nhã chiếu soi, quán các pháp không, thì biết sáu trần chẳng từ bên ngoài đến, nhân căn mà có tướng. Sáu căn chẳng phải bản nhiên, nhân trần mà có thấy. Nay quán các pháp vốn không, thì năm uẩn không. Năm uẩn đã không, thì thân cảnh làm sao có? Thân và cảnh đều không, thì sáu căn đâu còn chỗ nương tựa. Sáu căn đã lặng, thì sáu trần vốn không, thế nên trong không, không sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp của mười hai xứ.
- VÔ NHÃN GIỚI NÃI CHÍ VÔ Ý THỨC GIỚI
Không nhãn giới, cho đến không ý thức giới.
Đây tiếp theo trên, trong không chẳng những không năm uẩn, sáu nhập, mười hai xứ, mà sáu thức của mười tám giới cũng không.
Thức, liễu biệt sáu trần gọi là thức, nghĩa là căn trần đối nhau, thức sanh phân biệt. Nếu thấy các pháp không, thì căn trần cũng không, thức phân biệt cái gì? Thế nên trong không không sáu thức của mười tám giới.
Đoạn nầy nói Không nhãn giới, cho đến không ý thức giới. Nghĩa là căn của sáu nhập, sáu trần của mười hai xứ, thức của sáu thức, cả ba hòa hợp thành mười tám giới. Mười tám giới, mỗi giới đều có phạm vi riêng nên gọi là giới. Như mắt chỉ hay thấy mà chẳng hay nghe, đó là giới hạn của nhãn căn. Sắc trần chỉ từ mắt vào, chẳng thể từ tai vào, đó là giới hạn của sắc trần. Nhãn thức chỉ phân biệt sắc trần, chẳng thể phân biệt thanh trần v.v... Đó là giới hạn của nhãn thức. Bởi chúng sanh bị năm uẩn ngăn che, vọng hiện căn trần, thức tình phân biệt, nên tất cả danh tướng các pháp hữu vi thế gian, chỉ là tình và khi phan duyên tham ái chẳng thể lìa ra. Hoặc, nghiệp và chướng kết tụ nhau như chùm ác xoa, thiện ác thăng trầm, không lúc nào tạm dứt.
Nếu người tu hành nương tuệ Quán Tự Tại, soi thấy năm uẩn không thì sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới đều không. Thể chiếu soi rỡ ràng, linh minh rỗng suốt, soi chiếu viên dung, lại còn giới hạn nào để nói. Cho nên Kinh nói: "Một căn đã về nguồn, sáu căn thành giải thoát". Thế nên Trong không, sáu thức của mười tám giới cũng không. Người tu hành đến đây chứng được lý nhân không, lìa cái thấy thố chấp ngã của phàm phu. Từ đây trở lên là không pháp thế gian. Từ đây trở xuống là Trong không cũng không pháp xuất thế gian.
- VÔ VÔ MINH, DIỆC VÔ VÔ MINH TẬN, NÃI CHÍ VÔ LÃO TỬ, DIỆC VÔ LÃO TỬ TẬN
Không vô minh, cũng không hết vô minh, cho đến không già chết, cũng không hết già chết.
Đây tiếp theo trên nói: Trong không chẳng những không pháp thế gian, mà pháp xuất thế gian của ba thừa Thánh nhơn cũng không. Nay đoạn nầy nói không mười hai nhân duyên, là pháp sở quán của Duyên giác.
Vô minh là phàm phu tăm tối, chẳng biết, chẳng hay, chẳng rõ đệ nhứt nghĩa đế, nên gọi là vô minh. Chẳng ngộ tự tánh gọi là vô minh, bị năm uẩn ngăn che gọi là vô minh, tham sân si phiền não chướng nặng gọi là vô minh, đắm trước sáu trần năm dục thế gian gọi là vô minh. Các thứ vô minh nói chẳng hết được.
Tất cả chúng sanh từ nhiều kiếp đến nay ngụp lặn trong cảnh giới vô minh, mà chẳng tự biết là vô minh. Ở trong vô minh, vọng sanh thấy biết lầm cho là hữu minh, tự dùng kiến giải thông minh thế gian cho là minh, mà hoàn toàn chẳng biết trọn là vô minh. Như người trong mộng, có các sự thấy biết, mà chẳng biết là cảnh giới chiêm bao. Cũng như cá trong biển, chẳng hay mình mặn. Tất cả chúng sanh, ở trong vô minh, đi đứng ngồi nằm, sinh hoạt ăn uống, thấy biết làm việc, thảy đều ở trong cảnh giới vô minh, mà chẳng tự biết. Cho đến tuy được xuất gia học đạo, nếu chẳng tự ngộ bản tánh, dầu cho thuộc làu mười hai bộ kinh, kiến giải thông minh, cũng chỉ là cảnh mộng trong vô minh. Có nói diệu nói huyền gì, trọn là trong mộng nói chuyện mộng, có thấy biết làm việc gì cũng trọn là sự nghiệp trong mộng mà chẳng tự biết. Lạ thay! Đáng thương!
Nhưng vô minh có nhiều thứ, khó trình bày cho hết được. Vả lại, người sơ tâm học đạo làm sao liễu biệt được cội gốc vô minh.
Dốt!
Kinh đã nói rõ "Từ gốc vô trụ, lập tất cả pháp". Bởi chân như chẳng giữ tự tánh, một niệm tối sơ bất giác vọng động, bèn là vô minh.
Luận về biển giác nguồn tâm, vốn là chân như, tánh vốn tròn sáng, khắp giáp pháp giới. Chẳng nhân ngộ mới có, chẳng từ tu mà được. Chỉ nhân vọng niệm bất giác, bèn vào vô minh. Nên Kinh nói: Tri kiến lập tri tức gốc vô minh". Lại nói: "Mê lý cưỡng giác, gọi là vô minh". Lại Kinh nói: "Khởi tâm động niệm, không gì chẳng phải là nghiệp". Tổ sư dạy: "Dấy tâm thành nghiệp, dấy tâm tức lầm, động niệm liền trái". Thế thì biết một niệm tâm động, bèn là vô minh.
Mười hai nhân duyên gồm bốn thánh đế, có hai môn lưu chuyển, hoàn diệt. Kinh Pháp Hoa nói: "Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử, đó là mười hai nhân duyên, môn sanh tướng lưu chuyển. Nếu vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh diệt, sanh diệt thì lão tử diệt, đó là mười hai nhân duyên môn diệt tướng hoàn diệt". Tướng nhân duyên sanh là hai đế: khổ, tập của phàm phu thế gian. Nếu như tướng nhân duyên diệt là hai đế diệt và đạo của thánh nhân xuất thế gian.
Bậc thánh Nhị thừa Duyên giác quán mười hai nhân duyên, từ đầu là vô minh duyên hành, đến sanh duyên lão tử. Ba đời tuần hoàn, quả khổ chẳng dứt, chán cái khổ luân hồi trong ba cõi, dứt cái nhân khổ tập của ba cõi, hâm mộ vui tịch diệt, chứng tịch diệt mới thôi. Các ngài lấy quả tịch diệt làm chỗ về an ổn rốt ráo. Đắm trước định lặng lẽ, chẳng cầu tiến lên Bồ đề vô thượng. Không hay phấn phát tu tập đạo phẩm, trên hoằng Phật đạo, dưới hóa chúng sanh của tâm Bồ tát. Đó là chỗ chứng của Nhị thừa Duyên giác, tu quán mười hai nhân duyên. Bởi hàng Nhị thừa quán nhân duyên chứng tịch diệt, được tịch diệt bèn thôi, chẳng cầu tiến nữa. Vì thế các Ngài muốn đoạn vô minh, nhưng vẫn chưa hết vô minh. Do còn chấp vi tế về ngã kiến, mà chấp thô về pháp kiến cũng còn. Các ngài thấy ba cõi là thật có, sợ khổ của ba cõi, như con hươu chạy một mình, chẳng ngó lại đàn phía sau. Thế nên biết Nhị thừa cũng gọi là Độc giác. Hoặc nói: Ra đời nhằm lúc không Phật, gọi là Độc giác. Ra đời gặp Phật gọi là Duyên giác, cũng gọi là thừa thiên lệch. Do sự an lạc riêng mình chẳng cùng chúng sanh chung hưởng, nên gọi là thừa thiên lệch.
Nay nói không vô minh cũng không hết vô minh, là người tu hành nương tuệ Quán Tự Tại, soi thấy năm uẩn vốn không, linh quang riêng sáng, thể chiếu soi tròn đầy. Đây là căn trần thức đều không, trong ngoài rỗng lặng thì vô minh vọng niệm từ đâu mà có? Thế nên trong không không vô minh. Vô minh đã không, sao gọi là hết vô minh? Bởi có nhân duyên, quyết có quả báo, có quả báo hẳn có sanh diệt. Tuần hoàn ba đời, chẳng ngoài hai chữ nhân quả. Vả như không vô minh, từ đâu lập nhân? Đã không nhân vô minh, từ đâu có quả báo? Vô minh đã không nhân quả, thì bản nhiên rỗng lặng, sao gọi là không hết vô minh? Thế nên trong không, cũng không hết vô minh. Hết là dứt sạch vậy. Vì thật tướng Bát Nhã là chân không, vốn không vô minh, nên không sanh diệt.
Cho đến không già chết cũng không hết già chết, Cho đến là nêu lên trước sau để bao quát cả chặng giữa. Nghĩa là bắt đầu từ vô minh, bất giác làm duyên, vọng niệm nổi lên, khởi hoặc tạo nghiệp gọi là hành. Đây là nhân duyên quá khứ, nghiệp hành duyên cảm, kéo lôi thức thần, gieo vào thai mẹ, thọ thân có danh sắc. Thân ở trong thai thành căn sáu nhập. Ra khỏi thai sáu căn tiếp xúc với sáu trần, lãnh thọ tất cả sự khổ vui, tốt xấu v.v... của thế gian, đây là thọ quả của hiện tại. Đối với sự thọ dụng hiện tại, yêu thích sáu trần, đắm nhiễm năm dục, chấp trước các cảnh. Tạo tác nghiệp nhân thiện ác hữu lậu, để kết thành quả hữu lậu ở đời vị lai, đây là nhân đã tạo trong hiện tại. nghiệp nhân hữu lậu, kết thành thân tâm năm uẩn, quả báo hữu lậu đời sau. Thân tâm đời sau, lại già rồi chết, bởi vậy sanh cùng với già chết, là quả báo đời sau. Như thế từ trên vô minh đến lão tử gồm cả nhân quả ba đời, lần lựa tuần hoàn luân hồi chẳng dứt. Nếu vô minh diệt thì hành diệt, cho đến sanh diệt thì lão tử diệt.
Người tu hành nương tuệ Quán Tự Tại soi thấy uẩn, căn, trần, thức vốn không, thì vô minh cho đến già chết cũng không. Không, tức là Vô. Bởi vì có sanh
- VÔ KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO
Không khổ, tập, diệt, đạo.
Đây tiếp văn trên. Trong không chẳng những không pháp mười hai nhân duyên của Nhị thừa Duyên Giác, mà cũng không pháp bốn Thánh đế của Tiểu thừa Thanh văn.
Khổ, ba cõi sáu đường thọ sanh có sanh thì có già, bịnh , chết, đó là bốn khổ. Lại còn có nỗi khổ yêu thương phải xa lìa, nỗi khổ gặp gỡ người mình oán ghét, nỗi khổ mong cầu chẳng toại ý, nỗi khổ năm ấm xí thạnh v.v... gồm có tám khổ. Ngoài ra các thứ khổ ở thế gian nói chẳng thể hết, lại có các thứ tội khổ bị thiêu nấu ở địa ngục. Loài súc sanh si ngoan, bị mang nặng đánh đập, để đền bồi nợ trước, cho đến nỗi khổ sớm sanh chiều chết. Ngạ quỷ chịu nỗi khổ đói khát bức ngặt, chẳng được uống ăn, lửa dữ đốt thân. Các thứ khổ não của tất cả chúng sanh khó nói hết được, đều gọi chung là khổ.
Tập, là nhân khổ hoặc nghiệp. Tập là từ vô thủy đến nay ở trong sanh tử vô lượng, bị vô minh che phủ, vọng tưởng làm mê lầm, buông lung thân, miệng, ý, phóng túng tham sân si, tạo nghiệp thiện ác hợp thành nhân thọ báo trong ba cõi sáu đường. Ở trong vô minh, tích chứa tụ tập. Như ong hút trăm hoa, tích chứa thành mật, thì nghiệp tập thiện ác, thành quả thọ báo trong ba cõi sáu đường, nên gọi là Tập.
Khổ và Tập nầy là nhân khổ quả khổ thế gian.
Diệt là dứt kiến hoặc, tư hoặc, lìa tham, sân, si, thì tập nhân khổ quả vĩnh viễn đoạn dứt không còn dư thừa, sanh tử liền dứt, chẳng còn thọ thân hậu hữu, gọi là Diệt đế.
Đạo, là ba mươi bảy phẩm trợ Bồ đề đạo pháp, gọi là Đạo đế. Diệt và Đạo là nhân vui quả vui xuất thế gian. Hàng Tiểu thừa biết khổ, dứt tập, hâm mộ tịch diệt, tu đạo, chứng quả vô sanh, gọi là chân A La Hán. Nếu bậc độn A La Hán chẳng hồi tâm thì chỉ biết khổ, dứt tập, mộ diệt, ở trong diệt rồi nghỉ, đắm trước cảnh tịnh, chẳng ưa Đại thừa, tự cầu Niết Bàn, nên chẳng tiến tu đạo phẩm, đây gọi là Tiểu thừa độn A La Hán. Bốn Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo nầy, là pháp Tiểu thừa Thanh văn. Nhưng Kinh nầy nói không, nghĩa là người tu hành nương tuệ Quán Tự Tại, soi thấy năm uẩn không, thật tướng Bát Nhã chơn không xưa nay rỗng lặng. Vốn không các pháp năm uẩn, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới v.v... Như thế thì ba cõi sáu đường, tất cả danh tướng, đâu chẳng phải là vốn không. Nếu đã vốn không, thì không khổ đáng sợ, không tập nên dứt, không đạo phải tu, xưa nay vắng lặng lại chẳng còn hâm mộ diệt nữa. Do vì các pháp tướng không, nên Trong không đó không các pháp khổ tập diệt đạo hay tu hay chứng.
- VÔ TRÍ DIỆC VÔ ĐẮC
Không trí cũng không đắc.
Tông chỉ của Kinh xét kỹ là ở đoạn nầy.
Đây tiếp văn trên. Trong Không, chẳng những không pháp thế gian, mà cũng không pháp xuất thế gian của Nhị thừa, Tiểu thừa, Bồ tát thừa.
Trí, tức là trí Bát Nhã. Người tu hạnh Bồ tát dùng trí dẫn đường đi trước. Từ đó, trên cầu quả Phật, dưới hóa chúng sanh, thành tựu quốc độ.
Nhưng Bát Nhã có ba thứ:
- 1. Văn tự Bát Nhã.
2. Quán chiếu Bát Nhã.
3. Thật tướng Bát Nhã.
Nếu Bồ tát nghe lời Phật dạy, phát tâm Đại thừa, tin ưa thọ trì, biên chép đọc tụng, là Văn tự Bát Nhã.
Nếu nghe kinh liễu nghĩa, siêng năng tu hành sáu độ muôn hạnh, là Quán chiếu Bát Nhã.
Nếu thấy tánh rõ ràng, ngộ uẩn vốn không, chạm mắt gặp duyên, không gì chẳng phải thật tướng, là Thật tướng Bát Nhã.
Bởi vì phàm phu ngu si, bị vô minh che phủ, khởi hoặc tạo nghiệp, theo nghiệp thọ báo. Nghiệp có thiện ác, báo có khổ vui. Ba cõi sáu đường, thăng trầm chìm nổi như vòng bánh xe quay. Kẻ không trí tự độ, không đạo để tự tu, nên Phật nói trí tuệ vì độ kẻ ngu si. Dứt hẳn nhân vô minh, đến được bờ Niết Bàn, là pháp có tu nhân chứng quả.
Kinh nầy nói: "Không trí cũng không đắc", nghĩa là người tu hành nương tuệ Quán Tự Tại Thật tướng Bát Nhã, soi thấy uẩn, căn, trần, thức vốn không. Quán thấy chúng sanh, tánh đồng chư Phật, xưa nay rỗng lặng, thế thì chúng sanh vốn không. Chúng sanh đã vốn không, thì nhứt chân bình đẳng. Dưới không chúng sanh, để độ, trên không quả Phật để cầu, rốt cuộc chỉ tâm tức Phật. Vậy thì Thật tướng Bát Nhã là trí tánh căn bản, chẳng phải do ngộ mà có, nên nói Không Trí. Tâm vốn là Phật, chẳng từ tu mà được, nên nói cũng không đắc. Nhưng trí không đắc là Đại thừa. Tối thượng thừa, lý cũng tột rốt ráo không tu không chứng, chỉ có người chân thật minh tâm kiến tánh mới có thể được. Vì thật tướng chân không thanh tịnh bản nhiên, nên nói: Trong không, không trí cũng không đắc. Người tu hành đến đây, chứng lý pháp không, lìa pháp chấp, kiến chấp vi tế của Bồ tát. Nên Kinh Kim Cang nói: "Nếu Bồ tát thông đạt không ngã, pháp, thì Như Lai nói đó là Bồ tát chân thật".