I. THƯ ĐÁP VỀ PHÁP YẾU
THƯ ĐÁP LÝ HIẾN THẦN
1. Phật nói:
- Nếu người muốn biết cảnh giới Phật.
Ý căn thanh tịnh như hư không.
Xa lìa vọng tưởng và chấp thủ.
Khiến tâm khắp nơi đều vô ngại.
Cảnh giới Phật chẳng phải cảnh giới có tướng Phật bên ngoài. Ấy là cảnh giới của thánh trí tự giác vậy. Nếu muốn biết cảnh giới này, chẳng nhờ trang nghiêm tu chứng mà được, phải ở nơi ý căn tẩy sạch các thứ ô nhiễm phiền não từ vô thủy đến nay khiến cho trống rỗng như hư không, xa lìa những chấp thủ trong ý thức và những vọng tưởng hư ngụy chẳng thật. Ý căn nếu như hư không thì Diệu Tâm vô công dụng này tự nhiên khắp nơi chẳng chướng ngại.
2. Đã học đạo này, trong mười hai thời, nơi tùy duyên tiếp vật không cho ác niệm tương tục, hoặc khi sơ sót khởi một niệm ác phải gấp kéo đầu trở lại. Nếu để mặc nó tương tục không dứt, chẳng những chướng đạo, cũng gọi là người không trí tuệ.
Khi xưa Quy Sơn hỏi Đại An:
- Ngươi trong mười hai thời việc làm thế nào?
An nói:
- Chăn trâu.
Sơn nói:
- Ngươi chăn như thế nào?
An nói:
- Một phen vào lúa mạ, liền kéo mũi trở về.
Sơn nói:
- Ngươi là người chăn trâu chân thật.
Người học đạo kiềm chế ác niệm nên như Đại An chăn trâu thì lâu ngày tự thuần thục vậy.
3. "Cung người, ta chớ cầm, ngựa người, ta chớ cưỡi, việc người, ta chớ biết". Lời này dù tầm thường cũng có thể làm trợ duyên để đi vào đạo. Hàng ngày thường nên tự kiểm điểm từ sáng tới tối đã làm việc gì tự lợi, lợi tha
(lợi mình, lợi người)? Nếu cảm thấy hơi nghiêng một bên thì phải tự cảnh sách, chẳng nên khinh thường.
Xưa kia thiền Sư Đạo Lâm kết am trên cây tùng nơi núi Tần Vọng, người thời ấy gọi Ngài là Hòa Thượng "ổ chim". Khi Bạch Cư Dị làm quan Thị Lang ở Tiền Đường có vào núi thăm Sư. Ông thưa:
- Chỗ ở của Sư rất nguy hiểm.
Sư Nói:
- Lão Tăng có gì nguy hiểm. Thị Lang càng nguy hiểm hơn.
Dị hỏi:
- Đệ tử trấn thủ giang sơn có gì nguy hiểm?
Sư đáp:
- Củi lửa lẫn lộn, tánh thức chẳng ngừng, há chẳng phải nguy hiểm ư!
Dị lại hỏi:
- Thế nào là đại ý Phật pháp?
Sư nói:
- Việc ác chớ làm, việc thiện phụng hành.
Dị nói:
- Con nít ba tuổi cũng biết nói như thế.
Sư đáp"
- Con nít ba tuổi dù nói được, ông già tám mươi hành chẳng được.
Dị liền lễ bái cáo từ.
Nay muốn ít phí tâm lực chớ màng đến con nít nói được hay nói chẳng được, ông già tám mươi hành được hay hành chẳng được, hễ việc ác chớ làm thì xong. Lời này tin hay không tin xin nghĩ kỹ!
ooOoo
Vô minh của người đời tuy đang hiện hành, nếu làm thiện thì phước dù chưa đến cũng hơn người không liêm sỉ mang danh thiện mà làm ác. Trong Kinh nói: "Nhân địa chẳng chơn thì chiêu quả quanh co". Hể trực tâm, trực hành, thẳng đến Vô Thượng Bồ Đề mới gọi là việc làm của đại trượng phu chân thật. Việc từ trần sa kiếp chỉ ở hiện nay, nếu hiện nay hội được thì việc trần sa kiếp tức thời tan rã. Nếu hiện nay chẳng hội thì lại trải qua trần sa kiếp nữa, cũng chỉ như thế thôi. Cái pháp như thế xưa nay thường vậy, chưa từng có một chút dời đổi.
Việc trần lao trong thế gian như mắt xích nối nhau không dứt. Hễ giảm bớt được thì cứ bớt, vì tập khí từ vô thủy đã quá quen thuộc, nếu không ra sức chống lại thì lâu ngày bất tri bất giác lún đầu xuống sâu, đến khi lâm chung ắt tay chân rối loạn. Nếu muốn khi lâm chung không rối loạn thì phải từ cuộc sống hàng ngày hiện nay làm việc gì cũng phải không rối loạn mới được.
Có một hạng người sáng thì xem kinh niệm Phật sám hối, tối thì tạo khẩu nghiệp chửi mắng người, hôm sau lễ Phật sám hối như cũ. Từ đầu năm đến cuối năm, mỗi ngày làm thời khóa như thế, ấy thực là quá ngu si. Không biết chữ sám là tiếng Phạn, chữ hối là tiếng Hán, nghĩa là phải đoạn dứt cái tâm tương tục. Hễ sám hối thì dứt hẳn, chẳng còn tạo tội nữa. Theo ý Phật nên sám hối như thế, người học đạo phải biết đúng như vậy.
Người học đạo trong mười hai thời, tâm, ý, thức thường nên yên tịnh. Lúc rảnh cũng nên yên tịnh, khiến thân tâm chẳng buông lung. Tập lâu thành quen thuộc, tự nhiên thân tâm hướng về đạo.
Nhưng yên tịnh Ba La Mật chỉ để trị bịnh vọng giác tán loạn của chúng sanh mà thôi. Nếu chấp ở nơi yên tịnh cho là cứu cánh thì sẽ bị lọt vào tà thiền Mặc Chiếu.
ooOoo
Bát Nhã là tiếng Phạn dịch là trí tuệ. Chưa có người đã thấu rõ Bát Nhã lại còn tham sân si ái, cũng chưa có người đã thấu rõ Bát Nhã mà lại còn độc hại chúng sanh, vì làm những việc này là trái nghịch Bát Nhã, đâu thể gọi là trí tuệ.
ooOoo
Hằng ngày đem việc sanh tử thường để trong niệm thì tâm trí đã chánh. Tâm trí đã chánh thì khi ứng dụng hàng ngày tùy duyên làm việc, chẳng phí sức buông bỏ tà ác. Chẳng tà ác thì chánh niệm độc thoát, chánh niệm độc thoát thì lý tùy sự biến, lý tùy sự biến thì sự đắc lý dung, sự đắc lý dung thì ít phí sức lực. Khi vừa cảm thấy ít phí sức lực tức là chỗ đắc được trong việc học đạo này. Chỗ đắc được ít phí sức vô cùng. Chỗ ít phí sức là chỗ đắc sức vô cùng.
ooOoo
Việc này cho người thông minh lanh lợi gánh vác, nhưng nếu ỷ thông minh lanh lợi thì chẳng có phần để gánh vác. Kẻ thông minh lanh lợi dù dễ nhập đạo mà khó nơi bảo nhiệm, vì chỗ nhập cạn mà sức yếu. Vì người thông minh lanh lợi vừa nghe thiện tri thức nói ra liền đem tâm ý thức lãnh hội ngay vậy. Nếu cứ lãnh hội như thế là tự làm chướng ngại, suốt kiếp không khi nào được ngộ, vì ma quỷ bên ngoài gây họa còn có thể trị, còn chính tự tâm mình chướng ngại thì vô phương trị.
Chứng Đạo Ca rằng: "Tổn pháp tài, diệt công đức, tất cả đều do tâm ý thức".
4. Học giả rộng xem nhiều sách vốn để nuôi dưỡng và lợi ích cho tánh thức. Nay ngược lại, chỉ ghi nhớ lời người xưa chứa trong bụng cho là sự nghiệp, dùng để đàm luận, mà chẳng biết ý thuyết giáo của bậc thánh. Cũng như suốt ngày đếm tiền của người khác, tự mình lại chẳng có được nửa xu. Xem đọc kinh giáo của Phật cũng vậy, nên nhìn thấy mặt trăng mà quên ngón tay, chớ nên y văn giải nghĩa.
Cổ đức nói:
- Phật thuyết tất cả pháp
Vì độ tất cả tâm
Ta chẳng tất cả tâm
Đâu cần tất cả pháp.
Kẻ có chí khí xem kinh đọc sách nên theo cách như thế mới thể hội được ít phần của bậc thánh.
5. Phật nói: "Chẳng nên ở nơi một pháp, một việc, một thân, một quốc độ, một chúng sanh mà thấy Như Lai. Nên cùng khắp tất cả nơi mà thấy Như Lai".
Phật nghĩa là giác, ở nơi tất cả chỗ thường giác. Nói thấy khắp nghĩa là thấy bổn nguyên tự tánh thiên chân Phật của chính mình, không có một lúc nào, một chỗ nào, một pháp nào, một sự nào, một việc nào, một thân nào, một cõi nước nào, một chúng sanh giới nào mà không khắp. Chúng sanh mê cái này mà luân chuyển trong ba cõi
(Dục, Sắc và Vô sắc giới), chịu các thứ khổ. Chư Phật ngộ cái này mà vượt khỏi ba cõi, thọ sự vui thù thắng nhiệm mầu. Nhưng khổ vui đều không có thực thể, chỉ vì có mê ngộ sai biệt mà có các đường khổ vui khác nhau đó thôi. Cho nên Ngài Đỗ Thuận
(sơ tổ tông Hoa Nghiêm) nói: "Pháp thân lưu chuyển trong năm đường
(trời, người, súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục) gọi là chúng sanh. Lúc chúng sanh hiện thì pháp thân chẳng hiện vậy".
6. Thiện ác đều từ tự tâm sanh khởi. Thử nói xem: Lìa đi đứng ngồi nằm, suy nghĩ phân biệt ra, lấy cái gì làm tự tâm? Tự tâm từ đâu mà khởi? Nếu biết được chỗ khởi của tự tâm thì vô biên nghiệp chướng nhất thời tan rã, các thứ thù thắng không cầu mà tự đến vậy.
Thêm nữa, biết được chỗ đi chỗ đến mới gọi là người học Phật. Biết kẻ sanh tử là ai? Biết thọ sanh tử là ai? Kẻ chẳng biết chỗ đi chỗ đến là ai? Kẻ bỗng biết được chỗ đi chỗ đến lại là ai? Khán thoại đầu này con mắt ngơ ngơ hiểu không được, trong bụng trồi lên hụp xuống, trong tâm giống như một đống lửa, lại là ai? Nếu muốn biết, chỉ cần hướng vào chỗ "hiểu không được" mà nhận lấy. Nếu nhận được rồi mới biết sanh tử vốn chẳng dính dáng gì cả. Lại nói, phàm xem kinh giáo và nhân duyên nhập đạo của Cổ Đức tâm chưa sáng tỏ, cảm thấy mê muội, không mùi vị, giống như đang cắn cục sắt, ngay đó chính là lúc nên dụng công phu, không được buông bỏ, ấy là chỗ ý thức ngưng vận hành suy nghĩ chẳng thể đến, tuyệt phân biệt, bặt lý lẽ. Bình thường nếu có thể nói được đạo lý, phân biệt được chỗ hành, đều là việc bên tình thức. Nhiều người thường hay nhận giặc làm con, cần phải biết việc này vậy.