Cành Triêu Nhan

Thảo luận tư tưởng thiền tông Việt Nam.

Điều hành viên: binh

Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Cành Triêu Nhan

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Hình ảnh

CÀNH TRIÊU NHAN
Hòa thượng Thích Phước Tịnh
Nhà xuất bản Đông Phương

LỜI ĐẦU SÁCH
Triêu nhan vốn là một loại dây leo bình dị, gần gũi có thể mọc khắp mọi nơi. Màu sắc và hình dáng của hoa luôn ở bên cạnh bước chân và cái nhìn của ta. Thế nhưng đôi khi chúng ta quên lãng sự có mặt của nó, có lẽ vì nó quá bình thường. Nhưng sẽ có một lúc nào đó bất chợt, sự hiện diện của hoa bừng sáng trước mắt ta, trong lòng ta và ta nhận thấy một lần hoa nở là thiên thu tức khắc tròn đầy trong một niệm.

Tập sách này được tuyển từ những bài pháp thoại chia sẻ ở nhiều nơi tại các đạo tràng thiền tập. Mặc dù chúng tôi đã nhuận văn cẩn trọng, nhưng có lẽ vẫn không tránh khỏi những dòng chữ quê vụng được phiên tả từ các băng giảng.

Mong rằng sự góp mặt mộc mạc đơn sơ của tập sách này cũng giống như sự hiện diện bình dị, gần gũi của hoa triêu nhan, mà tên dân gian gọi là "hoa bìm bìm", mọc khiêm tốn bên vệ đường có thể làm thư giãn lòng người qua lại khi dừng chân chợt ngắm.

  • Tu viện Lộc Uyển
    Tháng đầu hạ 2009
    Phước Tịnh
TA LÀ AI?
  • Pháp thoại tại Tu viện Lộc Uyển
    ngày 03-04-2005)
Nhìn núi đồi Lộc Uyển thênh thang xanh ngát ngoài kia, tôi chợt muốn đọc lên một vài câu thơ nổi tiếng của đời Đường. Như chúng ta đã biết, đời Đường của Trung Quốc là thời cực thịnh của văn học, thi ca và cũng là thời cực thịnh của Thiền tông, và nếu có điều kiện đi sâu vào các tác phẩm của thời kỳ này, chúng ta sẽ thấy chân trời Phật học mở ra thật bát ngát. Tuy nhiên, hôm nay chúng ta sẽ đề cập một điều quan trọng và khá thú vị về thân phận của chính mình trong cuộc sống, mà thiết nghĩ không một ai trong chúng ta không đôi lần khởi lên niềm khắc khoải, khao khát muốn tìm hiểu, thăm dò. Ta là ai, ta từ đâu tới, tại sao ta có mặt trong đời? Và những câu thơ của Trần Tử Ngang sau đây được xem như những câu hỏi đánh động lòng người:
  • Tiền bất kiến cổ nhân
    Hậu bất kiến lại giả
    Niệm thiên địa chi du du
    Độc thương nhiên nhi thế hạ.
Tạm dịch:
  • Người đi trước ta chừ mất bóng
    Người sau còn ẩn khuất chưa sinh
    Giữa vùng trời đất mông mênh
    Thân người cô quạnh bồng bềnh thương thay.
Cuộc sống của chúng ta nếu nhìn một cách tổng quát thường có ba vấn đề lớn. Thứ nhất là vấn đề cơm áo của đời sống vật chất bình thường; vấn đề thứ hai những khó khăn bất trắc của đời sống, niềm vui, nỗi buồn... trong lĩnh vực tình cảm; thứ ba là vấn đề của đời sống tâm linh. Ba vấn đề này nếu nhìn ở phạm vi rất ngắn của một đời người từ trẻ cho đến già, chúng ta ai cũng đều có dịp kinh qua, và những công trình kiến tạo, phát minh lớn nhỏ của toàn bộ xã hội cũng đều qui chiếu đáp ứng cho ba vấn đề này. Ví dụ như nền văn minh vượt bực mà chúng ta đang được thụ hưởng hiện tại, những phát minh khoa học trong các lãnh vực như không gian, nhân chủng học, y khoa... đã làm cho đời sống vật chất chúng ta ngày càng phong nhiêu và tiện ích. Tất cả đều được đặt trên nền tảng căn bản giải quyết cho nhu cầu đời sống bình thường như cơm áo, nhà cửa, tiền của tài sản, phương tiện giải trí... Nhưng đây chỉ mới là mức độ bình thường ban đầu. Mức độ quan trọng hơn là niềm vui, nỗi buồn, tình đôi lứa, tình nhân loại... của đời sống tình cảm, và cao hơn nữa là các phương tiện nghệ thuật như văn chương, thi ca, hội họa, âm nhạc..., cũng đều nằm trong phạm trù thứ hai này. Trên tầng mức của tình cảm là khuynh hướng muốn thăm dò vào chiều sâu của đời sống tâm linh nơi con người và đây là phạm trù thứ ba. Bất kỳ một xã hội nào dù chậm tiến hay phát triển, tất cả mọi diễn biến trong đời sống đều phản ánh ba lãnh vực mà chúng ta vừa chia sẻ.

Chúng ta thử nhìn lại trong phạm vi hạn hẹp của một con người, thì sẽ thấy rằng mỗi người chúng ta đều đi qua con đường này. Lúc còn thanh xuân, chúng ta đều mơ ước phát triển một đời sống vật lý toàn hảo; thành đạt công danh, tiện nghi vật chất đầy đủ (nhà cửa, của tiền, xe cộ). Nhưng đến một lúc nào đó nhu yếu tình cảm phát sinh, chúng ta thương yêu, muốn được thương yêu và cần có đối tượng để thương yêu. Thế rồi từ đây mang đến nhiều hệ lụy cho một đời người, và dường như nỗi khổ lớn nhất là những hệ lụy gắn liền với tình cảm. Đến tuổi bóng chiều đổ xuống đời mình, cảm nhận cuộc sống bắt đầu co lại như cây trút lá vào mùa thu, nhựa sống thu phục lại trong thân thì con người có khuynh hướng nghiêng về đời sống tâm linh. Chính từ khía cạnh này, các nền triết học, tôn giáo đã nhận định có tính cách khái quát rằng đây là những vấn đề lớn của con người mà xã hội nào, thời đại nào cũng phải trực diện. Và tự trong thâm thức con người ai cũng có khuynh hướng muốn thăm dò, tìm kiếm vào con đường này. Điều quan trọng chúng ta muốn tìm hiểu ở đây là câu hỏi: Ta là ai? - là câu hỏi vẫn thường nảy sinh trong tâm thức chúng ta.

Ví dụ như khi đang ở chặng đường thứ nhất, ta có thể cho rằng ta là hình hài này, ta là những vật sở hữu ta đang nắm giữ. Nếu đang ở chặng đường thứ hai, chúng ta có thể loại trừ cái chấp thủ ta là hình hài, nhưng lại nghĩ ta là niềm vui, nỗi buồn nằm trong lãnh vực tình cảm rất quan trọng của đời sống con người. Cơm ăn áo mặc đôi lúc không đọa đày ta, không làm chết ta, nhưng sầu đau của một đời người, nhưng hy vọng, thất vọng có thể đã làm tổn thương, đôi khi dìm chết chúng ta trong đó. Điều này chúng ta có thể nhìn thấy rất rõ trong những sinh hoạt đời thường ngoài xã hội. Đời sống tình cảm này không loại trừ một ai, dù già bảy mươi hay tám mươi tuổi thì đời sống tình cảm vẫn có những nhu yếu tất nhiên; những phiền muộn hay hân hoan bên ngoài cuộc sống vẫn đánh động vào tâm thức ta rất nhiều. Có thể những buồn vui của người lớn tuổi cường độ biểu hiện không như thời trai trẻ, nhưng vẫn có những vui buồn tất yếu của người già. Đó là những cảm nghiệm về xã hội, về đời sống tự thân như nỗi cô đơn, trống vắng, rồi nỗi sợ chết kéo đến..., tất cả đều là những dạng thức của nếp sống tình cảm. Nếu chúng ta thấy mình là niềm vui, là khổ đau, là hạnh phúc đang có mặt thì quả thật mệt mỏi, bởi vì cả cuộc đời ta chỉ biết dong ruổi xoay vần trong những tâm hành này.

Nhưng nếu ta bước sâu vào một tầng mức nữa trong đời sống tâm linh, tức bước đến tôn giáo thì vấn đề đặt ra cho những người lớn tuổi lúc bấy giờ vẫn là vấn đề muôn thuở của con người. Ta là ai? Ta từ đâu mà có mặt giữa chốn nhân gian, có mặt trong hình hài này, và đến lúc rời hình hài này ta còn hay mất? Ta đã đến đây bằng con đường nào và sẽ đi về đâu? Nếu còn trở lại sao ta không biết? Đây là những vấn đề lớn mà mọi tôn giáo đều cố gắng giải thích, tìm cách trả lời.

Tất nhiên có nhiều cách giải thích. Nhưng mọi cố gắng đều chưa đưa đến câu trả lời thỏa đáng cho khát khao tìm về nguồn cội con người. Chẳng hạn như giải thích rằng: Ta hãy có niềm tin và dâng hiến niềm tin vào một đấng thần linh, hay đấng cứu thế nào đó. Đem hết đời sống phụng sự con người, làm những điều hiền thiện, tốt lành để trong tương lai khi rời bỏ hình hài này mình sẽ được xóa sạch hết tội lỗi, sẽ được đền đáp bằng một cuộc sống giàu có, sung túc..., giống như mình đã đặt trước một tấm vé cho một chỗ ngồi tốt nơi nào đó theo ý muốn (như trong rạp hát, trên phi cơ, ở buổi trình diễn...). Đây là cách giải thích dễ chấp nhận nhất.

Thông thường chúng ta dễ dàng gắn niềm tin vào cách giải thích này, và chúng ta cũng rất dễ dàng phó thác đời mình cho một người ta cảm thấy đáp ứng cho những tiện ích mà ta đặt ra. Như trong đời sống gia đình, ta luôn nghĩ người hôn phối là người mình giao phó hết cuộc đời, là nơi vững chắc cho mình nương tựa, là cây cổ thụ cả đời cho mình bóng mát. Và ngược lại, người kia cũng cùng ý nghĩ như vậy, vô hình trung chúng ta đã ký một hợp đồng khoán trắng cuộc đời cho nhau, dù rằng hợp đồng không được viết bằng văn bản. Cả hai đều cảm thấy mình là sở hữu của nhau, sự có mặt của nhau đã thổi niềm tin vào tình yêu, vào cuộc sống. Và nhất là mỗi người là điều kiện lấp trống hố thẳm hư vô, cô liêu của bản thân người kia. Do vậy không lạ gì với nỗi đau khổ vô ngần khi một trong hai người tưởng đang yêu nhau, cần cho nhau đến hơi thở cuối cùng, nay bỗng nhiên quay lưng lại. Thứ nhất là nỗi đau vì sự phản bội làm tan nát, đổ vỡ niềm tin vào mọi thứ trong đời. Thứ hai là vì ta mất đi điểm tựa về đời sống vật chất, hụt hẫng bơ vơ về đời sống tinh thần, bởi từ lâu có thể ta chưa một lần tự chủ trong mọi tình huống. Hơn nữa, một khi người kia ra đi vĩnh viễn thì đời sống ta trở nên khủng hoảng, còn ai có thể lấp đầy cái tịch liêu, hoang vắng của tâm thức đây!

Cho nên tôn giáo có mặt là trước tiên để cho con người trao gửi niềm tin và nương tựa cuộc đời, thoa dịu, lấp đầy khoảng trống của tâm thức ở tầng thâm sâu; ở mức độ vừa phải thì có thể an ủi, khuây khỏa cuộc sống tình cảm. Như vậy, tôn giáo hiện diện ở cả hai phương diện trong đời người: Đáp ứng cho lãnh vực tình cảm, và đồng thời giải quyết đời sống tâm linh.

Tuy nhiên cách giải thích thứ nhất như vừa chia sẻ chưa làm cho chúng ta thỏa mãn, vì những hứa hẹn của tôn giáo về một cỗ tốt lành trong kiếp lai sinh để chúng ta giao phó cuộc đời là khó có thể kiểm nghiệm được. Và việc khích lệ tin tưởng vào một lời hứa mơ hồ rằng cứ làm hết sức mình hôm nay để ngày mai ở một nơi chốn biệt mù nào đó ta sẽ có một chỗ ngồi tốt, đối với đời sống văn minh, tiên tiến của khoa học thực nghiệm trên hành tinh này là rất khó có thể thuyết phục được, có khi còn tạo nhiều hoài nghi trong tâm thức con người.

Một cách giải thích khác về đời sống sau khi chết cho rằng quá khứ có mặt trong hình hài này, và lai sinh nó cũng có mặt trong hình hài này. Mình không còn nữa nhưng không phải mình mất hẳn, mà mình còn có mặt ở dòng chảy tương lai. Mình còn biểu hiện dưới một hình thái khác, một con người khác: con của mình, cháu của mình... được tiếp nối, kế thừa qua nhiều kiếp, là bản sao của chính mình. Điều này chúng ta có thể tin được không? Cũng có thể, nhưng để tin tưởng hoàn toàn thì chắc có lẽ mình vẫn chưa. Và đây là cách giải thích theo lý nhân duyên của đạo Phật.

Dĩ nhiên giáo lý nhân duyên là một giáo lý có nền tảng vững chắc, đã hiến tặng tuệ giác đạo Phật cho xã hội. Giáo lý nhân duyên bao hàm trong rất nhiều lãnh vực và khi hiểu thấu đáo sẽ thấy rằng giáo lý này trao cho chúng ta niềm tin vào đời sống con người được hình thành qua các hiện tượng thiên lưu biến dịch, từ nguyên lý tất yếu: "Cái này có nên cái kia có", có ông bà, cha mẹ rồi có con cháu tiếp nối... là bản sao của đời người. Thế nhưng chúng ta vẫn chưa tin. Tại sao?

Từ sâu trong tâm thức, ta vẫn tin là hình hài này, nếu hình hài này phải ra đi thì cũng ra đi với những phẩm chất sẵn có: nào tài ba, nào trí thức, nào học thuật... của mình. Nếu còn trở lại thì ta sẽ là một con người như vậy, chứ không thể nào chỉ vào con, cháu mình rồi bảo đó là mình thì làm sao ta có thể tin được. Vì vậy, ta vẫn chưa cảm thấy hài lòng đối với những giải đáp cho câu hỏi Ta là ai?.

Chúng ta có thể đặt câu hỏi: Ta là ai, ta từ đâu tới đây, khi rời hình hài này ta sẽ đi về đâu? Và cái ta chính thật là gì? Đây là câu hỏi luôn khởi lên trong tâm của mỗi người. Thông thường khi chỉ vào tự thân, ta nghĩ ta là thân này, nhưng mình phải hỏi lại, nghĩ kỹ lại, mình có phải là thân này không?

Có một câu chuyện cổ sau đây có thể chia sẻ một điều ý vị và cũng thật dễ thương. Ngày xưa, có một vị hoàng tử bị bệnh hoang tưởng, tự thấy mình là con gà. Nhà vua rất đau lòng khi thấy không ai chữa trị được bệnh tình của người con trai duy nhất sau này sẽ kế vị mình. Bao nhiêu danh y đều đã được mời đến để chữa trị cho hoàng tử, nhưng bệnh vẫn không thuyên giảm. May mắn thay, cuối cùng có một vị đạo sĩ tìm đến và ông hứa sẽ trị lành căn bệnh này. Nhà vua tuy đã mất nhiều niềm tin, nhưng vì thương con biết đâu người này có thể làm cho hoàng tử khỏi bệnh; vả lại nếu không khỏi được thì âu đó cũng là số phận, nên chấp thuận. Vị đạo sĩ như "được cởi mở tấm lòng" tức khắc bắt tay điều trị. Ông lập tức cởi bỏ hết áo quần, luồn mình xuống dưới gầm bàn, đập hai tay vào hông và gáy lên một tràng dài ò ó o o... rền vang cung điện. Hoàng tử rất kinh ngạc bởi chiêu trò kỳ dị ấy, nhưng đạo sĩ liền bảo: "Nè, ta là bậc thầy của ngươi về loại gà, ngươi hãy bắt chước ta". Sau những lần trổ tài và chỉ cách cho hoàng tử làm theo, hoàng tử thấy ông này tài nghệ thật đáng nể, nên những lần kế tiếp, điều gì vị đạo sĩ kia làm, hoàng tử thấy đều rất có lý. Vào hôm sau, đạo sĩ gọi gia nhân dọn thức ăn lên một cái bàn, và ông lên trên đó ngồi ăn. Vị hoàng tử hỏi: "Tại sao ông lên bàn ngồi ăn, trong khi ông vốn là gà?" Vị đạo sĩ nói: "Đúng, ta là gà, nhưng ngồi ăn như con người thì đâu có sao. Mình tuy là gà nhưng cũng vào bàn ngồi ăn chứng tỏ mình có khả năng ăn như con người". Và hoàng tử bắt chước làm theo những gì đạo sĩ chỉ dạy. Vị đạo sĩ dẫn dụ lần lần từng bước, cuối cùng chữa được hoàng tử khỏi chứng bệnh hoang tưởng nghĩ mình là gà.

Câu chuyện rất hay ở chỗ, tự thân người kia vốn là hoàng tử dòng dõi vua chúa sang quí, tự nhiên cảm thấy mình là gà nên sống đời sống của loài gà, và bị mọi người cho là bệnh. Nhưng vị đạo sĩ tài trí, thông minh đã giúp anh từ bỏ ý tưởng điên đảo ấy, hồi phục lại dần đả thấy mình là một vị hoàng tử. Và có thể chúng ta cũng như vậy. Qui chiếu lại tự thân, ta vốn không phải là thân này nhưng ta thường thấy hoặc chấp mình là thân này. Ở mức độ cạn khi nhìn anh chàng kia mình có thể cho là "điên", nhưng qua cái nhìn của những bậc giác ngộ, chắc chắn các ngài thấy cũng "điên" giống như vị hoàng tử kia, vì ta cũng nhìn, cũng chấp cái thân này là mình.
Sửa lần cuối bởi battinh vào ngày 20/11/13 04:44 với 1 lần sửa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Cành Triêu Nhan

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Thân này chỉ là một phần của mặt cạn nhất trong đời sống chúng ta - nó vốn không phải là ta. Nếu mình cứ gắn chặt cuộc đời vào hình hài này, vào tấm thân cao bao nhiêu thước, nặng bao nhiêu cân; gắn liền với gia đình, dòng họ, quốc gia... thì đâu khác gì tâm thức hoang tưởng của vị hoàng tử kia gắn liền cuộc đời mình với con gà. Ý niệm và ảo tưởng tuy có khác, cấp độ của sự mê tối có khác nhau nhưng cũng là một tính chất hoang tưởng như nhau.

Đây là điều chân xác nhất để chúng ta quay lại nhận ra một sự thật: con người đích thực của mình không phải là thân này. Tại sao ta không phải là thân? Nếu dùng con mắt vật lý thì cuộc sống là một dòng chảy, và những phát minh khoa học cận đại cũng đã trao cho ta những hiểu biết để nhìn vào thực chất của mọi sự vận hành trong vũ trụ. Vật chất là năng lượng được cô đọng lại và khi vật chất tan ra sẽ trở thành năng lượng, nên không có gì gọi là mất đi trong cuộc đời này cả. Năng lượng bên ngoài không gian mênh mông, không sợ, không thấy được, nhưng khi có điều kiện xúc tác, cô đặc lại sẽ hình thành vật chất. Đó là hình thái vật chất vô sinh bên ngoài như đất dá, cây cỏ, sông núi... Hình hài con người cũng là một dạng vật chất cô đặc lại (đất, nước, gió, lửa) mà thành, nhưng sở dĩ người ta cho rằng con người đặc biệt giá trị hơn các loài động vật khác do bởi con người có được khả năng hết sức bén nhạy, vô cùng tuyệt vời tiềm phục trong hình hài này.

Một hình hài như bao nhiêu sinh vật, cũng hít thở, cũng ăn uống, cũng bài tiết... nhưng chỉ riêng con người có được khả năng kỳ diệu đó là biết tư duy, biết cảm xúc và phát triển tuệ giác. Nếu không, thì chúng ta chẳng khác gì những loài động vật kia. Ba yếu tố tình cảm, ý thức và trí tuệ này tồn tạo ở tầng thăm thẳm sâu trong hình hài ngũ uẩn. Và khi hình hài vật lý tan rã trả về cho đất, nước, gió, lửa thì còn lại cái năng lực kỳ diệu của tâm thức. Năng lực này không bao giờ mất và chắc chắn là không bị yếu tố thời gian, không gian bào mòn hay hủy diệt. Đó là điều ta hãy tự hỏi mình để xác định ta có phải là hình hài bèo bọt này chăng? Nếu chúng ta thấy mình là thân này thì cái gì có mặt trong thân ta? Ta sẽ thấy hình hài người khác cũng thật giống mình. Và từ đó, những lao xao sầu khổ, vui buồn, yêu thương, thù ghét... có mặt. Từ cái nhìn vướng chấp ta là thân này, thủ đắc thân này; thân này là tôi, đẹp, xấu của tôi, duyên dáng, dễ thương của tôi... nên mình thấy đối tượng kia cũng có những nét như thế, hợp với mắt, với ý của mình. Ngàn vạn nỗi khổ, niềm vui phát sinh trong cuộc đời đều từ âm bản này - từ chỗ thấy con người chúng ta là thân thể này. Khi mình có một chút tuệ giác, nhìn sâu hơn vào hợp thể ngũ uẩn, thấy rằng ta không phải là thân này thì có thể loại trừ sạch tất cả nguyên nhân của mọi nỗi bất an, lo lắng, ưu tư khắc khoải của một kiếp người do nhận thức lầm lẫn nói trên.

Bước thêm bước nữa, ta hãy nhận diện ta không phải là nhưng vui buồn, thương ghét này... Những tình cảm vui buồn, thương ghét luôn diễn hiện, đến đi không hẹn hò ta bao giờ. Ta không đủ khả năng nắm giữ cũng như không thể tống khứ chúng ra khỏi tâm thức được. Hơn nữa, với bản chất lắt lay, đổi thay liên tục của lãnh vực tình cảm thì dù hạnh phúc có đến đâu đi nữa rồi cũng sẽ ra đi và được thay thế bằng những bất mãn, phiền muộn... Cái vui của ta nhưng có thể là nỗi buồn của người; hạnh phúc của người kia nhiều khi là nỗi thống khổ của mình. Sáng vui, chiều buồn, nay yêu, mai ghét... có gì là bền bĩ. Những thực tế này trong cuộc sống cho chúng ta thấy rõ; tất cả mọi hiện tượng đều đến đi, mất còn, sinh diệt luôn luôn, chưa từng dừng lại. Ấy mà chúng ta lại thường gắn chặt cuộc đời mình vào đó, luôn đắm chìm trong giấc mộng đời.

Chúng ta đều biết Lý Bạch là nhà thơ Trung Hoa nổi tiếng. Ngoài đời sống tiêu dao phóng khoáng và đôi khi ngạo nghễ thì thơ của ông chỉ tuôn tràn, thoát ra thật nồng nàn khi đã ngất ngây trong men rượu. Cái chết ngập màu nguyệt ảnh khi ông nhảy xuống dòng nước ôm trăng vào một đêm dạo thuyền trên sông nói lên cái tuyệt đỉnh của chất thơ và tính lãng mạn trong con người ông. Xin dẫn ra đây vài câu trong trong bài "Xuân dạ yến đào lý viên tự" của ông, đã khắc khoải họa lên niềm vui, nỗi buồn khi đời ta gắn chặt vào những gì ta nghĩ là giá trị:
  • Phù thiên địa giả, vạn vật chi nghịch lữ
    Quang âm giả, bách đại chi quá khách
    Nhi phù sinh nhược mộng, vi hoan kỳ hà?
Tạm dịch: "Hành tinh này là quán trọ của muôn loài. Ngày tháng là khách ngàn đời tới lui thăm viếng. Mà kiếp phù sinh của chúng ta như giấc mộng, niềm vui thoáng chốc không được bao nhiêu?" Ở câu thứ ba đượm chất triết lý với cảm nhận ở bình diện tâm thức thâm sâu thì, đời người chỉ là một giấc chiêm bao. Như Trang Tử một hôm chiêm bao thấy mình là bướm bay dạo khắp đó đây, lúc tỉnh giấc ông bồi hồi tự hỏi: Ta là người hóa bướm trong chiêm bao hay bướm kia đang chiêm bao thấy nó là người? Chúng ta đang sống đây cũng là đang sống trong mộng, kiếm tìm, rượt đuổi những niềm vui phù du trong giấc mộng đời. Dù thức giấc rồi đôi lúc vẫn nuối tiếc muốn trở lại sống trong giấc mơ cũ, chạy đuổi theo ảo ảnh. Cuối cùng cái thân này là gì? Và không biết khi nào ta mới tỉnh giấc mơ sinh tử nhiều đời?

Đời sống chúng ta năm, bảy mươi năm là chuỗi ngày dài của những vui buồn, chạy vạy, đuổi bắt, lao xao kiếm tìm không ngưng nghỉ. Nhưng bất hạnh là ta không nghĩ ra được kiếp sống này như mộng ảo, nay còn mai mất. Từ cõi mịt mù không hề biết, rồi hiện thân tới đây, lăn trôi từ quá trình ấu niên, thành niên, đến già chết. Đôi bờ bên này, bên kia ta không thấy được, chỉ thấy nhịp cầu lửng lơ treo trên dòng sông sinh tử. Đến khi trả hình hài này, thần thức ta chìm trong nghiệp lực tái hiện lại không biết bao nhiêu lần, ngang qua không biết bao nhiêu kiếp. Khi nhìn lại thì mỗi kiếp sống như trong giấc mộng.

Trở lại câu hỏi: Ta là ai? Nếu chúng ta đã từng quán chiếu về thân tâm này: Ta không phải là vui buồn, vậy ta là tiếng thì thầm cho vui buồn có mặt, tức là những suy nghĩ, tư duy xao động này sao? Những suy nghĩ có mặt ở đây vốn sinh diệt; không vào có là sóng thức lao xao có nghĩa là chúng ta đang theo sinh diệt mất còn. Cũng như khi ta thấy mình là con gà, tức thì ta chui vào gầm bàn đời sống của con gà. Nhưng nếu ta là người thì ta vươn vai đứng lên, ăn uống sinh hoạt như một con người. Cũng một hình hài, cũng một tâm thức đó, nếu bị bệnh hoang tưởng thì ta thấy ta là con gà, hết bệnh thì thất ta là con người. Và chúng ta có thể nhận thấy có ba mức độ bệnh tưởng trong câu chuyện kể trên, đó là thấy mình là con gà, thấy mình là con người và thấy mình không phải là con người mà là tâm thức lao xao vọng động. Do vậy phương pháp trị bệnh gần nhất là phải hồi phục cho được cái thấy ta là con người. Kế đó, từ con người, cho ta nhận biết, ta không phải là hình hài vật lý này, mà ta còn là niềm vui, nỗi buồn bên trong. Khi chữa được căn bệnh chấp rằng ta là vui buồn, sướng khổ, sẽ nhận ra thêm một điều nữa: ta là tư duy, suy nghĩ đang biểu hiện.

Và khi đi đến cái thấy ta là tư duy, suy nghĩ này, chúng ta trở nên sợ hãi những giây phút trống rỗng, vắng lặng lúc tâm thức không có suy nghĩ. Ta luôn nghĩ rằng phải tư duy thì mình mới hiện hữu. Chúng ta chưa bao giờ chấp nhận có trạng thái không suy nghĩ mà mình hiện hữu, nên không có khả năng thăm dò vào chiều sâu của đời sống tâm thức chính mình bằng con đường dứt bặt tất cả những suy nghĩ. Hãy làm một thử nghiệm để biết không suy nghĩ, ta có thể vẫn sống hay sẽ chết? Rõ ràng ta vẫn sống được. Có một trạng thái mà chúng ta có thể cảm nghiệm, đó là khi tâm thức ta xao động, lo âu, suy nghĩ trăm điều vận chuyện thì mình cảm thấy bấn an vô cùng và chính lúc đó ta không thực sống. Lúc bấy giờ năng lực bén nhạy tư sự phản ứng, tiếp xúc của mình với đất trời, với con người... có thể suy giảm đến 50%. Thay vì chúng ta có thể tiếp xúc với vạn vật trong cuộc đời bén nhạy đến 100%, nhưng vì trong tâm ta đầy suy tưởng, vọng động nên khi nhìn người, nhìn cảnh, nói một lời hoặc làm một cử chỉ đều thể hiện sự tiêu cực, gây thêm bất an cho chính ta và cho người khác. Lúc ấy dù mắt nhìn vẫn không thấy sắc màu, tai nghe mà vẫn không nhận ra âm thanh, lưỡi nếm vẫn không cảm nhận được mùi vị... Rõ ràng ta đã mất đi rất nhiều năng lực sống. Ấy là chướng ngại đầu tiên mà chúng ta thường vấp phải, và có khi cả ngàn đời ta cũng không có năng lực thoát ra khỏi sự xao động trên bề nổi của tâm thức để tiếp xúc với tầng thâm sâu hơn, tức là tự thể của chính ta. Từ điểm này qui lại, chúng ta thấy rằng sức sống dào dạt nhất là lúc tâm thức ta yên lắng, tĩnh tại, rỗng rang không có những suy nghĩ thì thầm. Đó là lúc sự sống mình, năng lực mình thực sự có mặt trọn vẹn.

Ở tầng thâm thức sâu này ta hãy có niềm tin, rằng mình không khải là tiếng lầm thầm, không phải là sóng thức lao xao. Dừng lắng được tiếng thì thầm, năng lực sống của ta sẽ trở nên bát ngát và vô cùng kỳ diệu. Khả năng tiếp xử của ta với đời sẽ thuần nhã hơn, đẹp hơn, trong sáng hơn. Câu trả lời cho vấn đề đặt ra ta là ai có thể là: Ta không phải là hình hài, không phải là vui buồn, ta không phải là tiếng nói thì thầm. Nhưng loại trừ hết tất cả như vậy thì chúng ta còn lại gì để gọi là mình?

Như đã từng chia sẻ, nếu chúng ta có niềm tin vững vàng rằng ta không phải là thân này, ta không phải là cái chết, cuộc sống của ta không phải chỉ có mặt bằng hình hài rồi chấm dứt nơi nấm mồ. Sự sống của ta đã được xác định rõ ràng trước khi ta có mặt. Sau khi hình hài này tan rã, ta vẫn còn có dòng năng lượng của nghiệp thức bất định, thăng trần nối dài qua hằng triệu triệu kiếp dù thân xác này đã tan theo tro bụi. Điều này có thực chứng minh cho niềm tin của ta?

Trong cuộc đời, chúng ta đã từng chứng kiến người thân, bạn bè vĩnh viễn ra đi. Ta có thể đã từng thấm thía nỗi đau của những cơn bệnh ngặt nghèo đến với mình, nhưng chưa bao giờ ta nghĩ mình sẽ chết như người kia. Dù có khi cảm thấy từ thần đến rất gần, mình vẫn không tin, vẫn nghĩ rằng mình không bao giờ chết. Bởi từ trong tận cùng sâu thẳm của tâm thức chúng ta đã sẵn có niềm tin, và ta muốn tìm về cội nguồn của sự sống để tiếp xúc với con người vô sinh bất diệt của mình. Dù có ngàn vạn cách lý giải về sự tồn tại của ta, chẳng hạn nói rằng sau khi chết ta được lên Thiên quốc, rồi nối tiếp qua con cháu... thì ta vẫn không thể tin điều này. Ta vẫn nghĩ rằng mình phải đi vào đào xới trong tự thân để nhận ra cái không sinh không diệt, chứ không phải như lối lý giải cho rằng ta là những phiên bản di truyền qua con cháu để kéo dài sự sống. Đó là điều đầu tiên ta vững tin ta là sự sống bất diệt. Nhưng điều quan trọng là làm sao ta có thể nhận ra được sự sống bất diệt trong thân tâm này?

Con đường khám phá tự thân đã được đức Phật khai triển trong một đoạn của kinh Lăng Nghiêm như sau: Đức Phật gọi vị đệ tử lớn của mình là tôn giả Ca Diếp đến hỏi: "Ông hãy nói cho ta nghe ông chứng được quả Thánh bằng con đường nào?" Tôn giả Ca Diếp thưa: "Bạch đức Thế Tôn, con chỉ nghe đức Thế Tôn dạy con hai chữ 'khách trần' mà con chứng được Thánh quả. Một buổi sáng, nhìn ánh nắng xuyên qua khe cửa, thấy bụi bay lao xao con nhận ra được một điều: bụi (trần) thì bay lao xao, nhưng không gian bao la thì bất động. Nhìn vào trong nhà, con thấy người khách đến rồi đi, người chủ vẫn ở trong nhà không đến, không đi. Quay nhìn lại trong thân tâm, con thấy niềm vui, nỗi buồn và những suy nghĩ của con cũng đến rồi đi, chưa bao giờ dừng lại lâu, nên gọi chúng là khách. Còn con là người chủ nhìn khách đến rồi đi; nhận diện được khi khách đến, nhận biết được lúc khách đi".

Từ bài học trên, ta quay vào bên trong tự thân để nhận diện rõ vui buồn, thương ghét... là những cảm thọ, là khách đến đi, là những hạt bụi bay lao xao, và chính ta là khả năng nhận diện: đây là buồn, đây là vui... Ta không đồng hóa mình với những cảm thọ ấy tức chúng ta đang làm công việc hồi phục lại chính mình, đang trụ trong vùng đất vô sinh bất diệt của chính mình. Chúng ta hãy luôn quay về để chiêm nghiệm, cảm nhận cái khả năng vô sinh và bất diệt vốn sẵn có trong thân tâm mình. Và ngay nơi đây, giờ phút này mình có khả năng mời gọi năng lực giác ngộ có mặt bằng sự nhận biết.

Nhận biết mà có tiếng nói về đối tượng thì sinh diệt liền có mặt, là sóng thức khởi động lao xao; như khi ta nhìn một đóa hoa, một con người... rồi khởi lên tiếng thì thầm đây là hoa màu đỏ, đây là người đàn ông... và một chuỗi ngôn ngữ bên trong lên tiếng. Nhận biết mà không có tiếng nói thì thầm là trong tâm thức không có gì sinh ra và không có gì mất đi. Tận sâu bên trong, sự nhận biết không hề có tiếng nói. Nó là năng lượng chánh niệm nhận biết mọi đối tượng mà không phải là đối tượng. Khi vui buồn có mặt, ta nhận biết vui buồn đang có mặt thì vui buồn trở thành đối tượng của sự nhận biết; còn ta là chủ thể, là khả năng nhận biết. Khả năng nhận biết này rất bén nhạy, không tiếng, không lời. Chỉ cần làm được điều này là ta đã trở về vùng đất chân thật của chính ta, nhận ra được tự thể tâm không sinh không diệt của mình, biết đươc Ta là ai - Ta chính là sự nhận biết vô ngôn, tỉnh sáng dang hiện hữu mọi nơi, mọi lúc.

Có một vị tăng đến đảnh lễ ngài Tuệ Trung: "Thưa thầy, con không biết con từ đâu đến, rồi sẽ đi về đâu? Cái chết với người đời quá chóng vánh khiến con sợ hãi. Xin thầy chỉ cho biết con đường vượt thoát sống chết". Ngài Tuệ Trung liền nói hai câu thơ:
  • Trường không túng sử không phi cốc
    Cự hải hà phòng nhất điểm âu.
Tạm dịch: "Không gian bao la này mặc tình cho đôi vầng nhật nguyệt đi về. Biển mênh mông kia ngại gì một chút bọt sóng lao xao chìm nổi". Ở bình diện cạn, chúng ta biết bọt sóng chìm nổi giữa đại dương mênh mông kia có lớn nhỏ, cao thấp. Ví thử những bọt sóng kia biết mình không phải là bọt sóng mà chính là đại dương bao la, thì nó mặc tình vô ngại khi xuống thấp, khi lên cao, khi đến đi, còn mất. Khi gió xô sóng dạt, bọt sóng nổi lên thì biểu hiện, khi bọt sóng vỡ tan thì trở về với lòng biển. Mặt trời, mặt trăng và hành tinh của chúng ta đều theo vòng quay quỹ đạo thành một ước lệ, có ngày, tháng, năm có nghĩa gì so với không gian không ngằn mé này.

Bước vào chiều sâu hơn, khi nhận ra ta không phải là bọt biển nổi chìm mà chính là đại dương bát ngát, thì niềm đau của sự mất mát, biến hoại... sẽ không cón có mặt. Khi trực nhận ta không phải là hình hài này thì nỗi lo âu của đời người lúc già, bệnh, cho đến khi trút hơi thở cuối cùng cũng không làm cho ta hoảng loạn. Ta không cần làm gì mà vẫn vượt qua được tất cả những buồn vui, khổ não có mặt trong kiếp người.

Khi tự quay về đào sâu vùng đất tâm của mình, ta thấy được ta là khả năng nhận biết mà không phải là đối tượng bị nhận biết. Nhận biết trên bề mặt cạn là nhận biết về hình hài; bước vào sâu thêm một bước là nhận biết cảm thọ vui buồn; bước sâu hơn nữa là nhận biết những suy nghĩ, tư duy, sóng thức lao xao đang có mặt hay vắng mặt. Vượt lên tất cả những đối tượng ấy, ta lúc này là chủ thể. Chủ thể này không sinh không diệt, không đến không đi. Nếu ta luôn an trụ trong trạng thái "nhận biết" tỉnh sáng, không hóa thân, không thể nhập vào đối tượng, không để đối tượng cuốn mình trôi theo, thì chúng ta đang an trú trong tự thể vô sinh bất diệt của chính mình, an trú trong tâm Phật của chính mình. Và lúc ấy chắc chắn mình đã nhận ra Ta là ai.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Cành Triêu Nhan

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Hình ảnh

CÀNH TRIÊU NHAN
  • Pháp thoại tại Tu viện Lộc Uyển
    ngày 18-05-2008
Hôm nay ngày rằm tháng tư âm lịch, là ngày quan trong nhất trong mùa Phật đản. Theo truyền thống, khắp mọi nơi đều tổ chức lễ Đản sinh của đức Thích Ca Mâu Ni rất trọng thể, kéo dài đến cuối tháng tư (âm lịch). Nói về ngày Phật đản, người con Phật chúng ta lại nhớ về những tính cách và phẩm hạnh của đức Phật, bậc Đại giác đã đóng góp rất lớn cho sự an lạc, hạnh phúc đối với hành tinh này.

Đời người đến rồi đi rất nhẹ nhàng. Ai đến rồi cũng ra đi; chúng ta từ đất mẹ sinh ra, loay hoay một lúc rồi lại trở về với đất mẹ. Tuy nhiên, cái quan trọng cần phải kể đến là sự đóng góp của con người cho cuộc đời. Sự ra đời, có mặt của một người đôi khi chi phối và ảnh hưởng đối với dòng chảy lịch sử rất lâu dài, có thể làm chuyển biến tâm thức của một dân tộc. Điều này có thực.

Ví dụ như trong quá khứ có những con người xuất hiện làm kinh động cả địa cầu, gây đại họa cho nhân loại, đồng thời bên cạnh đó vẫn có những con người đến để đóng góp các phát minh đem lại lợi ích, nâng đời sống nhân loại lên một tầng cao như hiện tại. Và nếu có những người mà sự xuất hiện của họ hiến tặng cho con người, cho cuộc đời một tôn giáo hòa bình, yêu thương, tạo thành mảng văn hóa rất lớn, thì cũng có những tôn giáo có mặt mang đến cho nhân loại nỗi hãi hùng. Điều này lịch sử đã chứng minh thông qua sự bành trướng của họ suốt bao thế kỷ.

Ngoài con người thì các loài thực vật, thảo mộc cho đến đất đá cũng vươn lên góp mặt nơi đây bằng mọi cách, dù có những loài cây cỏ đời sống của chúng vô cùng ngắn ngủi. Chắc không ít người chúng ta đã có đôi lúc lặng người, ngẩn ngơ trước một loài hoa dại mọc bên đường, cạnh bờ tường hay trong kẽ đá... lặng lẽ tặng cho đời sắc hương bằng những cánh hoa nhỏ bé mỏng manh của mình. Hoa nở không vì mục đích gì cả, nở chỉ để mà nở thế thôi.

Đối với con người. sự viên mãn của một đời sống không quan trọng ở sự phô trương tự thân hay những sở hữu mình thủ đắc, mà việc thực sự quan trọng là phải quay lại bên trong hoàn thiện tinh cách, phẩm chất và năng lực giác ngộ của mình. Nhìn lại quá khứ, chúng ta thấy các bậc Thánh thể hiện mọi việc tu tập, giáo hóa, độ sinh một cách rất tự nhiên: do họ thành tựu viên mãn đời sống, khai triển tiềm năng làm Phật nơi chính họ, làm cho mình trở thành đúng nghĩa là một con người. Đây mới là đời sống đích thực. Nếu chúng ta tự làm được điều này cho chính mình, tự nhiên chúng ta cũng sẽ tỏa hương.

Tại Nhật Bản, có một nhà thơ không những rất nổi tiếng trong nước mà còn được nhiều người ở nước ngoài biết đến, đó là Basho, và chúng ta cũng thường gọi là Ba Tiêu. Những câu thơ ít chữ, cô đọng và bát ngát thiền vị đã đưa ông trở thành một bậc thầy trong lĩnh vực thi ca thiền tông Nhật Bản.

Dưới đây là một trong những bài thơ rất hay, đầy tuệ giác của Ba Tiêu:
  • Giữa mùa thu tàn
    Vươn lên từ rác
    Một cành triêu nhan.

    (Nhật Chiêu dịch)
Giữa đống rác trong một ngày cuối thu, một cành triêu nhan nở ra tinh khôi hương sắc. Nhìn đóa triêu nhan dịu dàng nở và tàn rất mong manh giữa rác bụi trong buổi ban mai, như nói lên dùm ta thân phận con người; người và hoa đều phù du như nhau. Hoa từ rác và con người cũng từ chốn bụi trần đầy nước mắt, hệ lụy, khổ đau mà có mặt; đến và đi như trong mơ.

Tuy vậy, con người có khả năng biết tự đứng lên, làm tỏa hương cho cuộc sống chính mình và hiến tặng cho đời, ấy mới là điều quan trọng. Nếu đọc vào kinh điển Phật giáo thì chúng thấy những điều này đức Phật đã từng khai triển. Thông điệp của ngài muốn gởi gắm là làm thế nào cho đời sống chúng ta tự nở hoa, như dóa triêu nhan nơi chốn rác bụi kia, dù không bền lâu nhưng chỉ cần một lần thôi thì cũng đã viên mãn một kiếp người.

Đức Phật từng dạy nơi cõi đời này, ngay nơi chốn nhân gian ô trược này, con người được sinh ra, nhưng ai cũng có khả năng tu tập và thành đạo. Chưa có một vị Thánh, một vị Phật nào thành đạo tại thiên giới. Các đức Thế Tôn đều thành đạo ngay tại chốn này, ngay tại đời sống này, hay nói một cách cụ thể hơn là ngay nơi hình hài này, ngay nơi từng thân phận của mỗi con người. Và trong văn học A Hàm rất nhiều lần lặp lại câu: "Chư Phật giai xuất nhân gian, chung bất ư thiên giới thành đạo giả": Các đức Thế Tôn đều được sanh ra từ cõi nhân gian này, chưa có vị nào thành Phật, chứng quả Chánh giác ở các cõi trời.

Từ bài học này, chúng ta cùng quay lại để thấy đôi khi mình có thói quen nghĩ rằng phải làm một điều gì khác biệt hơn trong tương lai, hay phải đứng khác vị trí hiện tại mới thực hành được điều mình muốn; ví dụ như muốn tu tập phải đến chùa mới tu được, muốn học đạo phải tìm một vị thầy thật giỏi mới học được. Chúng ta thường nghĩ phải nương vào thầy, nương vào ngôi chùa, một tự viện nào đó mới tu được, mới trở thành tài giỏi được. Chúng ta hay thích gắn cuộc đời mình vào những gì bên ngoài, không tự tin vào nơi chính mình. Những quan niệm như vậy chưa hẳn đúng. Đôi khi là điều hoàn toàn trái với tinh thần của đạo Phật. Đạo Phật dạy rằng chúng ta chính là chủ nhân của đời mình, chủ nhân của hình hài, của dòng sinh mạng, của vui buồn, sầu khổ, bất an này. Vận mệnh mình, mình nắm trong lòng bàn tay. Và khi nhận thức được điều này thì chúng ta giải quyết được, vượt thắng được mọi niềm đau nỗi khổ ngay chính nơi thân phận mình. Khả năng, tài ba hay giác ngộ, giải thoát đều tự phát từ bên trong mỗi người, không một bậc đạo sư hay thần linh nào giúp ta tạo nên được. Đem lại hạnh phúc hay vượt thoát khổ đau đều do chính ta làm lấy cho mình mà thôi.

Hạnh phúc ư? Ta tạo lấy. Sầu khổ, bất an ư? Ta có trách nhiệm. Người kia dễ thương hay không dễ thương? Không phải họ dễ thương mà chính ta làm cho họ dễ thương. Người kia đáng ghét ư? Không có một người nào trên nhân gian này đáng ghét cả. Tất cả đều từ cái nhìn của chúng ta thôi. Do vậy, điều đầu tiên cần nhớ: chúng ta chính là chủ nhân của đời sống mình, chịu trách nhiệm về cuộc đời mình. Đừng bao giờ gắn đời mình vào bất cứ nơi đâu hay giao phó cho bất kỳ ai. Rõ ràng nhất là khi chúng ta gắn đời mình vào một ai đó thì sầu khổ, bất an từng bước liền theo sau. Thông thường nếu chúng ta là người có nhiều niềm vui, có hạnh phúc thì ta mang niềm vui, hạnh phúc cho người đến với mình. Nhưng nếu ta và người cùng tìm đến nhau bằng hai tâm hồn cô quạnh thì sự nương tựa, gắn chặt hai mảnh đời với nhau lại càng đan dày thêm nỗi cô quạnh. Và chính điều này làm cho đôi bên càng thấy đối tượng kia vô cùng cần thiết cho mình. Vì vậy, nỗi lo lắng, sầu khổ, bất an lớn dần khi mối quan hệ có vẻ bất ổn, không còn tươi đẹp như ngày nào.

Cho nên, điều người con Phật phải làm là hãy sống hùng, sống mạnh. Đứng vững trên hành tinh này bằng đôi chân mình, an trú ngay nơi thân tâm này, chuyển hóa nghiệp thức phiền não của chính mình. Ta hãy như dóa triêu nhan kia vươn lên từ rác, nở hoa dâng cho đời chút hương sắc dù chỉ một lần trong buổi tàn thu.

Từ bình diện cạn của cuộc sống đời thường cho đến chiều sâu của sự tu tập, nếu chưa có năng lực tự tin thì ta chưa phát triển được đời sống tâm linh. Trong cuộc sống mà ta không tin vào khả năng vươn lên của mình thì không thể làm nên sự nghiệp, tạo dựng cơ đồ được. Nếu không vững tin ta có thể học hành tới nơi tới chốn, thì không thể thành công trên con đường khoa bảng. Con đường tu tập cũng thế, một khi ta chưa khơi mở trong trái tim mình niềm tin sâu chắc rằng ta sẽ thành Phật, thể nghiệm được an lạc, giải thoát ngay trong hiện đời thì chúng ta không thể nào tu tập giỏi được.

Các vị Phật xuất hiện trên cõi dời, chưa có một vị Phật nào trụ mãi ở hành tinh này đến trăm năm. Nhưng nơi đây, chính ngay cõi ô trược này là môi trường tốt lành nhất để con người tu tập, thành tựu trí tuệ, an lạc và giải thoát. Ngay nơi hình hài này, thân phận này, có biết bao nhiêu điều kiện tuyệt vời mở ra cho chúng ta tu tập. Chúng ta không cần tìm kiếm một hành tinh nào khác xinh đẹp hơn trái đất này mới có thể tu tập được. Mỗi con người chúng ta đều có hạt giống thiện lành, chỉ có điều chúng ta không biết chăm sóc hay không nhận ra hình hài ta đang cưu mang đây vốn có một giá trị hơn bất cứ loài động vật nào khác. Dù rằng kiếp người không bền lâu: bảy, tám mươi năm không là gì so với chiều dài của các loài động vật hay thực vật khác (có những loài cây, loài thú sống đến cả ngàn năm), nhưng bên trong ta có điều kiện tuyệt vời của sự tỉnh giác; biết quay lại để đổi thay, để hoàn thiện. Nên câu kinh trong văn học A Hàm: "Các đức Thế Tôn đều xuất hiện trong cuộc đời, chưa có vị nào thành đạo ở các cõi trời" là nguồn cảm hứng khích lệ rất lớn cho các vị thầy. Câu này trao cho chúng ta niềm tin vững chắc về khả năng thăng tiến của thân phận con người. Tuy chưa thể thành tựu giải thoát, tối thiểu chúng ta cũng nắm được trong tay vận mệnh của mình. Chúng ta có thể làm cho mọi thứ quanh mình trở thành nguồn an vui, là mật ngọt hạnh phúc. Nếu chúng ta tu tập giỏi thì suốt đời không có gì gọi là phiền muộn, bất hạnh, đối kháng đến với ta. Tất cả đều được ta chuyển hóa thành dòng nước mát ngay nơi đây, nơi quả đất này.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Cành Triêu Nhan

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Trong đêm cuối cùng lúc thái tử Sỉ Đạt Ta sắp thành tựu đạo quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác, ma vương dùng mọi cách cố hủy diệt ngài bằng binh tướng, đao thương, lũ lụt... nhưng ngài vẫn an trụ trong thiền định nên vũ khi chạm đến ngài, tất cả đều trở thành những đóa sen tươi thắm. Đây là biểu tượng nói lên rằng khi một con người với tâm thức an trụ vững vang trong chánh niệm, thì có thể dễ dàng hóa giải mọi chướng ngăn khiến trở thành thắng cảnh. Nếu chúng ta tu tập giỏi, luôn chánh niệm trong từng ý nghĩ, trong từng động tác thì mọi thế lực xấu ác từ hoàn cãnh xã hội bên ngoài, hay phiền não, lo âu, bất an... khởi lên từ trong ta, tất cả đều trở thành hương hoa tươi mát.

Chia sẻ những lời dạy của đức Phật để chúng ta y cứ thực tập, thấy rằng ta chính là chủ nhân của đời sống, tất cả mọi việc đều do ta quyết định, làm chủ. Ta là Thượng đế tạo nên đời sống Thiên đường, Niết bàn cho chính ta, và ta có thể làm được điều này bằng sức dũng mãnh cùng với niềm tin vững chắc. Đây là điều rất quan trọng. Làm được điều này chúng ta mới chấm dứt được kiếp lang thang, mới trọn vẹn nhân cách của một con người và bừng nở như một đóa triêu nhan. Bằng như chưa làm được, thì ta vẫn còn mãi soay vần trong sống chết, đến đi, vui buồn, khổ lụy kéo dài muôn triệu kiếp.

Làm thế nào để vươn lên, viên mãn kiếp người trong cuộc đời này? Bước đầu tiên trên con đường tu tập, chúng ta phải luôn phát khởi niềm tin vào Phật tánh nơi chính mình, bước thứ hai là ta phải thể nhập trọn vẹn với Phật tánh đó. Và chỉ cần sống thường trực trong tâm thái này là chúng ta có thể vượt thoát ngoài ba cõi. Đời sống thường nhật dù tiếp cận với bao nhiêu khó khăn, phiền toái, khổ đau nhưng ta không giao động, vẫn an nhiên đi đứng, nói cười vì ta an trú được trong trạng thái bất động của tâm Phật để hành xử.

Hai câu sau đây được trích trong bài kệ dài do đức Bảo Tích xướng lên ca ngợi đức Phật khi các vị Bồ tát về thăm ngài (Kinh Duy Ma Cật- Phẩm Phật Quốc): "Năng thiện phân biệt chư pháp tướng. Ư đệ nhất nghĩa nhi bất động" - Có thể khéo phân biệt tướng của các pháp, nhưng nơi nghĩa chân thật thì vẫn luôn bất động.

Nghĩa là chúng ta có cái hiểu biết rõ ràng, tường tận về các pháp các pháp của nhân gian như một vị thầy thuốc giỏi, nhìn là sáng tỏ mọi điều, phân biệt mọi việc, nhận biết mọi đối tượng đến với tai, mắt, mũi... thế nhưng tâm luôn trụ trong vùng trời bất động của Như Lai. Khi ta bước vào cõi giới này, tức là ta đang an trú trong tâm Phật sáng chói, an nhiên bất động của chính mình. Ta phân biệt, nhận biết rõ ràng mọi thứ, ta vẫn sống và xử sự như mọi người trong cuộc đời nhưng ta không giống mọi người, vì tâm ta là cảnh giới tịch tĩnh bất động. Phương pháp phát khởi niềm tin và nhận diện vị Phật trong ta là phương pháp chúng ta cần ứng dụng để thực tập.

Nếu đọc thêm kinh Duy Ma Cật, ta sẽ thấy có một chương đặc biệt nói về cảnh giới bất động của đức Phật quá khứ, và khi Thế Tôn giới thiệu về cảnh giới này thì các vị Thanh Văn, các vị Trời đều muốn được nhìn thấy. Và đức Phật bảo ngài Duy Ma Cật có thể giúp các vị ấy thấy được cảnh giới bất động của đức Phật A Súc (Akshobya).

Sau khi Thế Tôn dạy lời này, ngài Duy Ma Cật vươn dài cánh tay của mình đến tận cảnh giới bất động xa hàng triệu năm ánh sáng, nâng cảnh giới ấy lên tay mình như cầm quả cam, trân trọng đặt trước mặt thính chúng. Đây là một hành tinh xa xôi, đầy sinh dân đang cư trú nay tự nhiên có người mang đặt lên cõi Ta Bà mà vẫn không bị thu nhỏ lại. Các vị Bồ tát trên cảnh giới ấy cảm nhận được hành tinh đang rung chuyển và không hiểu vì cớ gì bị người khác mang đi. Đức Phật Bất Động trả lời: "Đấy là do thần lực của Duy Ma Cật". Điều kỳ lạ và ngạc nhiên là không một ai nhận ra được độ rung của hành tinh khi di chuyển, hoặc một sự đổ vỡ nào đó khi chạm phải địa cầu. Và không gian của cõi Ta Bà cũng không thay đổi một mảy may.

Khi nghe chuyện chúng ta chắc sẽ nghĩ rằng đó chỉ là huyền thoại. Nhưng nếu chúng ta tu tập giỏi, có định lực lớn thì ta có thể cảm nghiệm rõ được điều này. Tuy còn tâm thức của một con người ở cõi phàm trần, nhưng ta cũng có thể an trú trong định bất động để hành xử như các vị Bồ tát ngày xưa. Làm thế nào khi đứng trong thân phận con người với tâm thức của phàm phu nơi cõi ô trược thế này mà chúng ta có thể chứng nghiệm và nhìn được cảnh giới bất động của người xưa? Một ví dụ thực tế rất gần với chúng ta, đó là những khi tâm ta xao động, bất an vì lo âu, phiền muộn thì hoàn cảnh, không gian chung quanh trở nên tù túng, ảm đạm và hắt hiu. Nhưng khi lòng ta thanh thản, rộn rã niềm vui, thì cũng trong không gian ấy, hoàn cảnh ấy, cũng ngôi nhà này, nhưng ta thấy hình như rộng hơn, hoa cỏ tươi hơn, không gian thênh thang hơn. Và trong đời sống vật lý người ta đã từng làm được điều này. Chỉ với một vuông sân vừa phải nhưng tùy theo cách bài trí của chủ nhân; một viên đá, một gốc tùng, một đám cỏ xanh cũng làm cho không gian trở thành khoáng đạt, cho ta cảm giác thư thái khi ngắm nhìn.

Từ ví dụ nhỏ này, chúng ta có thể quy chiếu về tâm thức mình để thực tập và thẩm thấu từ trong tim; từ đó tạo ra không gian tương hợp cho đời sống gia đình, cho hoàn cảnh ta đang sống. Và cũng từ trái tim, ta có thể làm cho năng lượng bình yên, yêu thương tràn đầy trong ta. Làm được như vậy, không những chỉ mình ta thừa hưởng được sự an bình, thanh thản mà những người bên cạnh ta, chung quanh ta cũng cảm nghiệm được điều ấy. Đây là mức độ cạn trong trạng thái tâm bất động.

Tiến vào mức độ sâu hơn của tâm thể bất động: khi những hoàn cảnh khó khăn đến với ta, phủ lên đời ta bao nhiêu là nhọc nhằn, nếu chưa có năng lượng tu tập thì người đứng bên cạnh sẽ nhìn thấy ta rất tội nghiệp. Nhưng khi ta thực sự bước vào chỗ thâm sâu trong tâm thể bất động thì dù hoàn cảnh có đổi thay thế nào, khó khăn hay buồn khổ ra sao cũng chỉ là trò chơi, chẳng có quan hệ gì đến ta.

Tất cả đều sinh khởi, biểu hiện từ tâm thức của chính ta chứ không phải do những sự kiện, đối tượng đến từ bên ngoài; nhưng do ta tự gắn cuộc đời mình vào hoàn cảnh, vào con người mà trở nên khổ lụy. Đến đi, mất còn là chuyện rất thường, vậy mà người đến thì lòng ta mở hội. Người chưa đi ta đã cảm thấy buồn, vắng một ngày là ta thấy sầu nhớ, tưởng tượng vu vơ rồi thấp thỏm lo âu. Rõ ràng là không phải chuyện đến, đi làm mất mát muộn phiền, mà do tâm thức của chính ta tạo nên đau thương, mất mát cho đời ta. Ta có mặt trên nhan gian này không vì một ai, đến đi chưa hề vì ai. Ta đến nơi đây đơn độc một mình, rồi ta đi vào cõi mịt mù cũng chỉ mình ta. Chưa hề có một cuộc sống gắn liền với ai đó từ kiếp này qua kiếp khác. Ta có nhau nhiều lắm là năm, ba mươi năm, thế mà ta mượn những tạm bợ, bấp bênh của đời, của người gắn liền vào mình, xem họ là một nửa của đời mình rồi loay hoay tìm kiếm, nắm giữ.

Nếu hiểu hợp tan là lẽ thường của đời sống thì chúng ta đủ thông minh để đừng bao giờ gắn mình vào bất cứ cái gì, vào bất cứ ai, mà an trú ngay trong chính mình và như vậy là có thể cắt đứt mọi ràng buộc, vướng mắc. Khi làm được điều này, chúng ta đã chứng nghiệm được tầng bất động thứ hai của tâm thức. Hãy thử quay lại quán chiếu tự thân, xem chúng ta đã an trú được trong trạng thái bất động này chưa?

Ở mức độ thâm sâu của tâm thể bất động chính là thể tánh Như Lai, có nghĩa là tâm Phật của chúng ta hay cũng là con mắt Phật rực sáng trong trái tim của mỗi người. Chỉ cần mở mắt ra là chúng ta đã nhìn thấy, là nhận biết. Năng lực nhận biết này là con mắt Phật vô sinh bất diệt, như nhiên bất động mà ta đang sử dụng hàng ngay. Những tiếng nói thì thầm, những cảm thọ vui buồn khởi lên rồi mất đi liên tục đều không vượt thoát khỏi sự "nhận biết" nằm trong hình hài năm uẩn này. Năm uẩn này được cho là phiền trược, nhiễm ô như bãi rác. Nhưng chính từ bãi rác đó có thể nở ra cành triêu nhan: "Giữa mùa thu tàn. Vươn lên từ rác. Một cành triêu nhan".

Nhân mùa Phật đản năm nay, điều cuối cùng chúng ta cần nhắc đến đó là chúng ta ai cũng sở hữu một gia tài quý giá. Gia tài đó không phải là vật chất chúng ta đang có, không phải là nhiều tiền trong ngân hàng, không phải là được nhiều người mến thương, quí trọng bao quanh. Tất cả những thứ kể trên, người xưa ví chỉ như đóa phù dung sáng nở tối tàn, như làn hương thoảng qua không giữ lại được. Nhưng phù du hơn tất cả là chuyện khổ vui, thương ghét... của con người. Hãy thử nhìn lại để thấy mình trong một ngày thương đây, ghét đó bao nhiêu lần. Vậy mà ta than phiền, muốn mọi người, mọi việc đều phải theo ý mình. Ta đầu tư đời mình cho những chuyện thương ghét, ưu sầu, giận hờn, khổ lụy không đâu - ta tự làm cho đời sống ta khổ héo. Trong khi quan trọng nhất của mỗi kiếp sống đó là ta cần làm cho đống rác hình hài này vươn lên thành cành triêu nhan, nở một đóa hoa toàn vẹn trong trái tim mình. Làm được như vậy là ta đã tiếp nhận và sử dụng trọn vẹn cái gia tài quý giá nhất của mình.

Đức Thế Tôn chỉ một lần nở hoa đã mang vô vàn hương sắc tặng cho hành tinh này. Từ những lời dạy của ngài đã hình thành một tôn giáo với đặc tính từ bi và trí tuệ siêu việt có khả năng nâng đỡ đời sống cho nhân loại trên mọi lãnh vực. Chúng ta tuy chưa thực hiện viên mãn một kiếp người như đức Thế Tôn, thì ít nhất cũng làm cho hoàn cảnh sống của mình trở nên đẹp, lành, mang cho những người đến với mình suối nguồn của sự an lạc.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Cành Triêu Nhan

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

LÝ DUYÊN KHỞI
  • Pháp thoại tại trường Mc. Garvin
    ngày 26-02-2005
Đây là lần thứ hai chúng tôi, tăng thân Lộc Uyển, đến hội trường này có dịp để chia sẻ một chủ đề mà có lẽ chúng ta đã từng nghe nói đến rất nhiều, đó là lý Duyên Khởi.

Duyên Khởi là một giáo lý có mục đích hướng dẫn người Phật tử tu tập để có cái nhìn đúng, chính xác về sự hiện hữu của vạn pháp. Nội dung giáo lý Duyên Khởi rất bao quát, trong một tiếng đồng hồ tiếp xúc, chúng ta khó có thể trình bày tường tận được, vả lại nếu trình bày một cách đầy đủ thì sau đó chúng ta có thể cũng sẽ quên đi ít nhiều. Tuy nhiên câu chuyện trong nhà thiền khá thú vị được kể sau đây, có thể sẽ đọng lại trong chúng ta một chút gì đó.

Trong thiền sử ghi rằng: Có một vị tăng tha thiết học đạo đến đảnh lễ thiền sư Duy Khoan, thưa rằng: "Thưa Thầy, đạo ở đâu?" Ngài Duy Khoan bảo: "Đạo trước mắt ông". Vị tăng thưa: "Sao con không thấy". Ngài Duy Khoan bảo: "Tại vì ông có ngã (tức có cái chấp về bản thân) nên ông không thấy được". Dĩ nhiên vị tăng kia rất thông minh nên hỏi thêm: "Bạch Thầy, con có ngã nên con không thấy đạo, nhưng Thầy là bậc tu hành lâu năm, vô ngã rồi, Thầy phải thấy đạo chứ!" Thiền sư Duy Khoan bảo: "Ta cũng không thấy". Vị tăng thưa: "Tại sao lạ kỳ vậy?", "Tại vì có ông, có ta, có hai người nên ta không thấy được". Vị tăng bèn hỏi thêm câu nữa: "Vậy nếu không có con, không có Thầy, thì Thầy có thấy đạo không?" Thiền sư trả lời: "Nếu không có ông, không có ta thì ai cần thấy làm gì".

Chúng ta đều biết giáo lý Duyên Khởi bắt nguồn từ sau khi đức Thế Tôn chứng ngộ. Vào tuần lễ đầu tiên trước khi nói kinh Chuyển Pháp Luân", đức Thế Tôn có bốn mươi chín ngày trầm tư, thưởng thức niềm pháp lạc do mình vừa chứng nghiệm. Và trong ngày cuối của tuần lễ đầu, ngài đã chiêm nghiệm về lý Duyên Khởi; ngài chiêm nghiệm bằng hai chiều hướng thuận và nghịch. Chiều hướng thuận có từ điểm khởi đầu là vô minh, qua hành... cho đến sinh, lão tử, rồi theo chiều ngược lại, tức từ lão tử trở lại vô minh.

Giáo lý Duyên Khởi được xem là giáo lý nền tảng quan trọng của đạo Phật, bởi vì trước đó chưa có một trường phái triết học hay tôn giáo nào khai triển giáo lý này một cách bao quát và tường tận như vậy. Chúng ta hãy nhớ một điều là trước khi đạo Phật có mặt trên đất nước Ấn Độ, đã có trên sáu mươi trường phái triết học, tôn giáo, và tất cả đều có vẻ giống nhau về quan niệm "độc thần". Với quan niệm đó, mọi người trên hành tinh này, kể cả sự có mặt của dãy thiên hà, là đều do một vịthần linh sinh ra.

Nhưng từ lúc đức Thế Tôn đạt được giác ngộ dưới cội Bồ đề, ngài thiền quán, chiêm nghiệm sâu xa về sự hình thành của các pháp, rồi trực ngộ lý Duyên Khởi, và đã triển khai giáo lý này rất đơn giản:
  • Cái này sinh thì cái kia sinh
    Cái này diệt thì cái kia diệt
    Cái này có thì cái kia có
    Cái này không thì cái kia không.
Như chúng ta đã biết trái tim của đạo Phật là giáo lý Vô ngã vốn được xây dựng trên bốn câu kệ trên, để từ đó đức Phật triển khai một dòng giáo lý mà nền tảng căn bản, trọng yếu bao gồm: Tứ Diệu Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Vô ngã, Niết bàn...

Cũng từ nền tảng Duyên sinh, Vô ngã này rất nhiều trường phái của đạo Phật đã xây dựng nên luận thuyết của mình, thiết định các phương thức tu tập, hình thành thêm nhiều tông phái khác như: Thành Thật tông, Duy Thức tông, Tam Luận tông...

Và chúng ta có thể xác định mà không sợ lầm lẫn rằng cho mãi đến hôm nay, giáo lý Duyên sinh, Vô ngã này vẫn là một giáo lý căn bản, vững chắc hiến tặng tuệ giác đạo Phật cho xã hội loài người qua mọi thời đại.

Bước vào lãnh vực thực dụng nhưng rất căn bản của giáo lý Duyên Khởi, chúng ta cần tìm hiểu một chút về khái niệm duyên sinh, duyên khởi, tiếp đến chúng ta chia sẻ với nhau những nhận thức để có cái nhìn thực tiễn về phương pháp thực tập hay hành trì. Và cuối cùng là làm thế nào để chứng nghiệm được tuệ giác Duyên Khởi. Từ chứng nghiệm này, chúng ta xét xem có thể đóng góp được gì cho xã hội trong lãnh vực tâm linh, văn hóa, đạo đức ở hiện tại để mang lại niềm an lạc, hạnh phúc cho chính mình và những người chung quanh.

Điều đầu tiên chúng ta nên nhớ, danh từ Duyên Khởi, Duyên Sinh hay Nhân Duyên là ba tên gọi được thay đổi tùy theo cách sử dụng trong toàn bộ văn hệ giáo điển của đạo Phật. Cụ thể ở đây chúng ta cần phân định rõ ràng các danh từ này thường được dùng trong hai trường hợp sau:

Trường hợp thứ nhất, Nhân Duyên là một trong mười hai thể tài văn học đức Thế Tôn vận dụng để thuyết kinh, như ta thường nghe các thể tài Trường Hàng, Trung Tụng, Cô Khởi... Vấn đề chia sẻ ở đây tuy có tính cách chuyên môn trong lãnh vực Phật học, nhưng cần thiết để chúng ta khỏi phải nhầm lẫn trong sự nhận định. Trong mười hai thể tài thì Trường Hàng là loại văn xuôi chúng ta thường gặp có câu mở đầu: "Như thị ngã văn, nhất thời Phật tại Xá Vệ quốc...". Trong thể tài này, có lúc đức Thế Tôn cần nhấn mạnh ý nghĩa của bài kinh, nên ngài trùng tuyên thành một bài kệ. Ví dụ trong kinh Phổ Môn chúng ta có một đoạn kệ được gọi là thể Trùng Tụng, như sau:
  • Thế Tôn diệu tướng cụ
    Ngã kim trùng vấn bỉ
    Phật tử hà nhân duyên
    Danh vi Quán Thế Âm?
    ....................
Và trong mười hai thể tài kinh điển được sắp xếp, thể tài thứ sáu gọi là Nhân Duyên, tức nguyên nhâh nói kinh. Có nhiều trường hợp dưa đến nhân duyên đức Phật nói kinh: hoặc do thính chúng có những thắc mắc, khát khao về sự tu học thì tham vấn với Thế Tôn, bấy giờ Thế Tôn mới nói; hoặc trong tăng đoàn có những thắc mắc cần giải quyết, nên ngài có nguyên nhân hình thành những giới điều để giúp ổn định sinh hoạt, từ đấy mà hình thành nền văn học gọi là Kinh, Luật, Luận. Những giới điều này cũng thuộc thể tài Nhân Duyên.

Trường hợp thứ hai không nằm trong mười hai phần giáo (thể tài văn học Phật giáo), Nhân Duyên được đề cập ở đây là lý Duyên Khởi, là giáo lý Thập Nhị Nhân Duyên.

Giáo lý Nhân Duyên bao hàm trong rất nhiều lãnh vực. Khi thấu hiểu sâu sắc giáo lý này, chúng ta có thể vận dụng nó trong cuộc sống đời thường để chuyển hóa bản thân và hoàn cảnh, làm cho đời sống ngày càng có phẩm chất. Chúng ta cũng có thể từ nguyên lý Nhân Duyên để nhìn vào những điều kiện cấu thành các hiện tượng thiên lưu, biến dịch của thân tâm cũng như quan sát mọi sự vận hành ngoài xã hội. Và điều quan trọng chúng ta cần hiểu ở đây, đó là thâm nhập vào giáo lý Nhân Duyên để nhận thức được vấn đề rất căn bản rằng những gì gọi là ta: hình hài này, cảm thọ này... tất cả đều vô ngã. Nếu chúng ta đi ngang qua thể tính vô ngã với một nhận thức sâu sắc và tu tập một cách vững chãi, ta sẽ bắt gặp đằng sau vô ngã là tự thể vô sinh bất diệt, thường gọi là Niết bàn.

Tự thể Niết bàn nói một cách khác dễ hiểu hơn là một danh từ chỉ cho trạng thái tịch tĩnh, vốn sẵn có trong trái tim ta. Do vậy, cách thức chúng ta tiếp cận ở đây sẽ không nặng về phần giải thích ngôn ngữ, khái niệm mà đặt trọng tâm vào một nền tảng cốt lõi, đó là làm thế nào để chúng ta quay trở lại được với đời sống nội tại, làm thế nào để thực tập nhận diện cho được thể tính vô ngã của tự thân.

Từ nhận thức rốt ráo về vô ngã, sẽ khơi mở cho chúng ta rõ nguyên nhân mọi sự có mặt vốn liên hệ với nhau, duyên vào nhau như mắc xích trong sự hình thành của vạn pháp. Và giáo lý Duyên Khởi với nguyên lý tương tức, tương nhập đã đáp ứng toàn diện cho nhu cầu trở về gột sạch mọi chấp thủ vào tự ngã của chúng ta.

Trong văn học A Hàm có một đoạn rất hay kể về ngài Mã Thắng đọc bài kệ vốn đã được đức Thế Tôn chỉ dạy cho tăng chúng như sau:
  • Thử hữu tắc bỉ hữu
    Thử vô tắc bỉ vô
    Thử sinh tắc bỉ sinh
    Thử diệt tắc bỉ diệt.
Để bớt trùng lập, Tạp A Hàm ghi rằng:
  • Chư pháp tùng duyên sinh
    Diệt phục tùng duyên diệt...
Tạm dịch:
  • Các pháp từ duyên sinh
    Cũng từ duyên mà diệt...
Tỳ kheo Mã Thắng là một trong năm người đệ tử xuất gia đầu tiên của đức Phật, khi đi khất thực đã gặp Xá Lợi Phất, lúc bấy giờ chưa ở trong tăng đoàn đức Phật. Thấy phong cách đoan trang, an bình, tịnh lạc của ngài Mã Thắng, Xá Lợi Phất nhìn theo để xem ông thầy tu này hành xử trong các sinh hoạt đi, đứng, ăn, uống... như thế nào. Điều này nghe qua chúng ta có thể cảm thấy lạ. Thật ra chẳng có gì lạ bởi phong cách, phẩm chất của con người bên ngoài một phần lớn biểu hiện từ trong tâm thức. Đệ tử của Phật tuy chỉ mới an cư ba tháng, nhưng đã thực tập và nếm được hương vị giải thoát từ đức Phật, từ đó mà có một đời sống thảnh thơi, vững chãi, một phong thái an tịnh thể hiện qua cách đi, đứng, nằm, ngồi, ăn cơm, uống nước... Do vậy khi nhìn thấy tỳ kheo Mã Thắng, Xá Lợi Phất đã có niềm cung kính liền bước theo sau và khi có cơ hội, Xá Lợi Phất bèn hỏi: "Xin Thầy cho biết, thầy của thầy là ai? Thầy đã học được điều gì mà có một phong cách hành xử đẹp như thế?" Ngài Mã Thắng trả lời: "Thú thật với ông, tôi chỉ mới tu đây thôi, chưa thực tập bao nhiêu cả, và chưa hiểu biết gì nhiều". Xá Lợi Phất năn nỉ: "Dù không hiểu biết bao nhiêu nhưng xin thầy cũng vui lòng chỉ bày cho tôi, ít cũng được. Thầy hiểu chút gì thì xin cứ nói chút đó, tôi rất hoan hỷ". Thế là ngài Mã Thắng đã đọc bài kệ như trên.
  • Thử hữu tắc bỉ hữu: Do cái này có nên cái kia có.
    Thử vô tắc bỉ vô: Do cái này không nên cái kia không.
    Thử sinh tắc bỉ sinh: Do cái này sinh ra nên cái kia sinh ra.
    Thử diệt tắc bỉ diệt: Do cái này mất đi nên cái kia mất đi.
Đây là bài kệ nói về giáo lý Duyên Sinh, Duyên Khởi một cách súc tích, cô đọng nhất mà chúng ta biết.

Do chúng ta có mặt trong hội trường này nên mới có tăng thân Lộc Uyển ở đây; nếu không có các vị sẽ không có buổi nói chuyện này. Bởi có các vị nên mới có gia đình, có xã hội, có quốc gia. Do vì có chúng ta dặt chân lên vùng đất này, nên văn hóa Việt Nam mới có cơ hội đến với mọi người Tây phương, thức ăn Việt Nam mới có dịp được giới thiệu cho người thưởng thức. Chùa, tự viện tôn giáo của người Đông phương mới có dịp thâm nhận vào vùng đất này. Và rõ ràng vì có ta nên có mọi thức, khi ta không còn thì mọi thức cũng biến mất theo. Đây là điều thật giản dị mình vẫn nhận thấy trong đời sống hàng ngày.

Hay có thể nói đơn giản hơn, gần gũi hơn, khi quay về chính ta thì, do tâm thức của ta sinh khởi niềm vui, nỗi buồn nên làm cho không gian quanh ta có niềm vui, nỗi buồn. Do vì lòng mình có sân hận, hờn giận nên tạo cho cuộc sống bất an, làm không khí gia đình trĩu nặng. Khi lòng thảnh thơi, tràn đầy niềm vui, mình có thể làm cho niềm vui, sự an bình lan tỏa ra chung quanh. Năng lượng tích cực này có khả năng nuôi dưỡng mình, nuôi dưỡng người thân và nuôi dưỡng xã hội.

Ở mức độ rộng hơn, bốn câu kệ này cũng đã cho ta thấu rõ sự hình thành nên thiên hà, vũ trụ; vì có một hạt bụi nên mới có hành tinh. Do vì hành tinh có mặt trời, có trăng, có sao, có đại dương, sông ngòi nên có con người. Do vì có con người nên mới có những điều kiện sống chung quanh; lịch sử, văn hóa và các nền văn minh có mặt. Do có nhưng nhân duyên hủy hoại, tác động lên môi trường, làm cho đổ vỡ nên hành tinh này rồi sẽ biến mất...

Ở cấp độ phổ quát của giáo lý Duyên Khởi, chúng ta có thể quan sát bên trong con người chúng ta tà hình hài cho đến niềm vui, nỗi buồn, dòng cảm xúc suy tư...; rồi nhìn ra bên ngoài từ hoàn cảnh xã hội, các chủ thuyết, môi trường sống cho đến dãy thiên hà, hành tinh..., tất cả đều hình thành từ nguyên lý tất yếu "Cái này có nên cái kia có". Chẳng hạn, nếu không có hoàn cảnh xã hội châu Âu thời ấy thì không có chủ thuyết của Các Mác, cũng như không có hoàn cảnh xã hội như thế nào đó, thì không hình thành thể chế tự do như thế này...; cho nên mỗi việc, mỗi cái đều trùng trùng nhân duyên mà hình thành. Ngay nơi chính chúng ta, mối thù hận hay những đam mê dại khờ lớn lên cũng đều do điều kiện này, điều kiện kia mà có mặt; không phải bỗng dưng mà ta đam mê, ta thù đời, ta hận người.

Chúng ta chấp nhận giáo lý Duyên Khởi khi thấu hiểu nguyên lý tương tức như vừa chia sẻ. Rồi từ nền tảng nhận thức các phép duyên sinh, vô ngã, chúng ta biết lấy ra, loại trừ những nhân duyên vô minh gieo vào tâm thức, làm cho cuộc đời ta nhẹ gánh, lòng ta thanh thản và tim ta do tâm từ bi thúc đẩy mở rộng, sẽ mang lại hạnh phúc cho mình và cho những người có mặt quanh ta.

Từ đó, chúng ta có thể thấy rõ rằng giáo lý Duyên Khởi có một công năng trị liệu rất tuyệt vời. Nó đánh đổ quan niệm cứng nhắc, chấp thủ của chúng ta đối với nhiều lãnh vực trong cuộc sống: niềm tin tôn giáo, tình cảm, nhận thức, triết lý, hạnh phúc, khổ đau... Chỉ cần đạt được một chút tuệ giác về giáo lý Duyên Khởi là đủ để mở ra cánh cửa tâm linh, tri thức, làm vơi đi tranh chấp, giảm nhẹ mức dộ bất ổn trong đời sống gia đình và xã hội.

Bước vào con đường thực hành, vấn đề đặt ra là làm thế nào để ứng dụng được giáo lý Duyên Khởi một cách thiết thực?

Ai cũng thấy rõ một điều là nhận thức của chúng ta rất quan trọng. Vấn đề tu tập ban đầu cũng là cạn nhất đó là làm sao để chuyển đổi được quan niệm, nhận thức của mình về cuộc đời, về cách sống. Muốn làm cho đời sống hạnh phúc, cho niềm vui luôn có mặt đó là cả một nghệ thuật. Cũng hoàn cảnh ấy, cũng những khó khăn ấy, thế nhưng cái nhìn của chúng ta khác đi thì tức khắc hoàn cảnh thay đổi ngay. Cũng điều kiện vật chất ấy, con người ấy nhưng khi cái nhìn của chúng ta chứa đầy ý niệm tiêu cực thì thấy nó là ngục tù, bất an, ràng buộc, do đó chúng ta thấy khổ sở vô cùng. Cho nên vấn đề chuyển đổi quan điểm, chuyển đổi nhận thức là vô cùng quan trọng. Và ta chỉ làm một điều cạn, rất gần gũi là chuyên đổi nhận thức của mình về cuộc đời, về con người thì niềm vui liền có mặt, mà chưa cần đi sâu vào những giáo lý cốt lõi hay sự tu tập nào cao siêu.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Cành Triêu Nhan

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Thông thường, khi gặp những khó khăn, bất an, sầu muộn, chúng ta hay làm một điều giản dị là đổ lỗi tất cả cho người kia, đổ thừa cho hoàn cảnh. Nếu chịu khó nhận diện một cách tích cực dựa trên nền tảng giáo lý Duyên Khởi, chúng ta sẽ điều chỉnh được mọi vấn đề một cách dễ dàng. Thế nào là tích cực? Như ta đã biết, không việc gì phát sinh mà không tùy thuộc vào các nhân và duyên. Chúng ta cứ tưởng sự đổ vỡ của đời sống hiện tại là điều gì xảy ra thật tình cờ. Một lời nói gây tổn thương không là gì cả, có thể như làm gió thoảng qua, nhưng nếu nhiều lời gây tổn thương ngày qua ngày chồng chất sẽ trở thành giông bão làm sụp đổ. Tuy người Việt chúng ta thường rất giỏi chịu đựng, nhưng không có nghĩa là chịu đựng thì mọi chuyện đến với mình đều trôi qua ngay rồi biến mất.

Tâm ta không phải là mặt nước - nếu ta vẽ lên mặt nước thì ngay liền sau đó mặt nước trở lại bình yên, phẳng lặng. Nhưng tâm thức ta một khi được vẽ lên những vết hằn của phiền muộn, bất an, tổn thương nó lưu giữ không bao giờ mất. Nó sẽ cất giữ vào bên trong để chờ đợi cơ hội tái hiện và lần thứ hai biểu hiện thì không phải biểu hiện với hình dạng cái mầm lúc ban đầu mà nó đã mọc thành cái cây. Nhưng chưa hết, nếu ta cố tình chế ngự, ra sức loại trừ thì những xung động tiêu cực bị dồn sâu vào tiềm ẩn trong tâm thức, hứa hẹn lần thứ ba có dịp sinh khởi, sẽ sinh khởi lên như khu rừng chứ không còn là một cây nữa. Từ vấn đề này ta có thể nhận diện được một sự thật rằng những phiền muộn bất an, đổ vỡ phát sinh trong đời sống, đưa đến những bất hạnh đều bắt nguồn từ những hạt mầm bé nhỏ. Muốn chuyển hóa những tâm hành tiêu cực này của chính mình, điều quan trọng đầu tiên là hãy chuyển đổi nhận thức của chúng ta. Chuyển đổi nhận thức bằng cách nào? Trước hết, ta phải quay lại nhìn vào bản thân, xem những sự kiện xảy ra đem đến khó khăn là do mình, không phải nhìn vào người. Ta hãy vỗ lòng tự nhủ, ta là tác nhân, là người gây nên phiền não kiết sử... Thay vì đòi hỏi người kia phải có được mọi điều ưu tú thì ta phải quay lại đòi hỏi nơi mình trước. Chúng ta có khuynh hướng chung hay đòi hỏi người khác làm theo ý mình mà không muốn mình làm, đòi hỏi người kia phải dễ thương trong khi đối với mình dễ thương hay không là chuyện của riêng mình.

Thực tế thì việc đòi hỏi người khác bao giờ cũng khó hơn đòi hỏi chính mình. Cho nên chuyển đổi nhận thức trong đời sống, gần nhất là ta chuyển đổi mình. Phải đòi hỏi nơi mình trước. Làm được điều này thì hoàn cảnh bên ngoài tự nhiên cũng nhẹ nhàng, có thể giúp ta dễ ứng phó hơn. Không gian quanh ta bao la hơn, không khí dễ thở hơn và nhất là không còn vung vãi ghét ghen, bực bội, giận hờn làm đau khổ người khác. Chúng ta sẽ nhẹ tênh khi đi giữa cuộc đời.

Cuộc đời dù có trải đầy gai góc, khổ nhọc đọa đày trước mặt nhưng khi ta đã trang bị những yếu tố rất đẹp, rất lành của một tâm thức đã được chuyển hóa thì trên vạn nẻo đường ta bước, không nơi nào là bất an sầu khổ, đời sống chúng ta bấy giờ là lễ hội của tình thương và hạnh phúc. Đấy là mức độ cạn nhất của việc tu tập giáo lý Duyên khởi. Hãy thực tập, hãy thử chuyển đổi nhận thức, chuyển đổi cách nhìn của mình về đời sống hàng ngày.

Trong đời sống thường nhật, mọi biểu hiệu của thân hay tâm đều phát sinh trong chiều dài của mười hai Nhân Duyên. Nhân Duyên có nghĩa là hạt giống và điều kiện để tác thành, từ đó sinh ra quả. Như đã nói, giáo lý Duyên Khởi rất bao quát, chúng ta chỉ chia sẻ, giải thích một vài chi phần trương mười hai Nhân Duyên để từ đó có thể dễ dàng tiếp nhận và ứng dụng vào việc tu tập của mình của mình nhằm chuyển hóa dòng chảy của mọi nỗi khổ trong cuộc sống đời thường và thâm sâu hơn là chấm dứt nỗi khổ lang thang qua nhiều kiếp sinh tử.

Niềm mơ ước lớn lao của con người trong đời sống là làm thế nào vượt qua được nỗi buồn khổ, đau đớn của bệnh tật, già yếu và sự biệt ly. Có thể người trẻ chưa có ý niệm gì về cái chết, nhưng những người trên sáu mươi tuổi đã bắt đầu cảm thấy bất an, lo sợ. Lo già, lo bệnh, thấy tóc bạc cũng lo, không muốn tóc bạc mà tóc bạc vẫn cứ lai rai... Sau mỗi năm thấy mình bệnh nhiều hơn, đi bác sĩ nhiều hơn nên nỗi sợ hãi về bệnh tật, già yếu, cái chết cứ lớn dần, bao trùm lên đời sống. Người trẻ có những nỗi khổ khác, nhưng nếu có ít nhiều nhận thức về cuộc đời, chúng ta đều cảm nghiệm được rằng dường như niềm vui sướng, hạnh phúc của cuộc sống tặng cho ta thì ít, nỗi buồn khổ, lo lắng lại rất nhiều. Bên cạnh đó, áp lực của xã hội đè nặng, vây quanh, đặt lên chúng ta những lo toan, tính toán rất căng thẳng.

Do vậy, mức độ khổ cao nhất của đời người là sinh, lão tử. Mức độ trung bình của nỗi khổ là ghét mà phải gặt mặt, thương mà phải chia tay; và mức độ cạn nhất của đời sống bình thường là sự lo lắng, bất an. Tất cả những điều này nằm trong chi phần sinh, lão tử - là hai chi phần sau cùng trong mười hai Nhân Duyên. Nhân Duyển đầu là vô minh, và tiếp đến là hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh và lão tử.

Động cơ cho sinh, lão tử có mặt là do hữu. Tất cả những nỗi khổ có mặt là do hữu; vì tôi có người tôi thương nên tôi sợ mất người thương. Do người thương của tôi rất đáng yêu nên tôi mới ghen hờn, lo âu, nghi hoặc. Tức là từ cái "có" mà tạo thành một chuỗi dài những nỗi khổ nối đằng sau. Chiêm nghiệm sâu về yếu tố hữu, những gì ta có như hình hài này, tình cảm vui buồn này, kỷ niệm quá khứ, tri thức... là những điều cần thiết cho sự sống, nhưng nếu chúng ta xem chúng là không thì điều gì sẽ xảy ra? Có nghĩa là chúng có mặt ở đó nhưng ta không nắm giữ, không bám víu, chấp thủ. Khi đã chấp thủ những gì ta có, thường theo sau là nỗi lo âu và bất an (như khi có gia đình, người thương, con cái... chúng ta phải lo lắng ra vào, ngồi đứng không yên). Nếu dùng tuệ giác của lý Nhân Duyên mà nhìn, sở dĩ những dứa con có mặt với ta trong đời là bởi có ta và có người hôn phối của ta. Khi đã đủ điều kiện, nhân duyên thì một sinh linh mượn ta để đến với đời. Nếu không sinh ra trong gia đình ta, nó cũng sẽ xuất hiện ở một nơi khác, môi trường khác, nên nó đâu phải là sở hữu của ta, ta chưa hề là chủ nhân của nó. Cho nên, tuệ giác của lý Nhân Duyên cho ta nhận biết sự thật không có gì trên đời là sở hữu của ta cả. Và cũng không ai là sở hữu riêng của ai. Thấy được như vậy ta nhẹ tênh đối với những gì ta sở hữu, gọi là có (hữu) mà không nắm giữ (thủ).

Thế thì, khi có một chút giác ngộ về giáo lý Nhân Duyên, chúng ta xả ly được chấp thủ về vật chất, tiền của, nhà cửa, con cái, người thân... và khi xả ly được sự chấp thủ này là ta đã làm vơi nhẹ rất nhiều nỗi ám ảnh từ những tác nhân đưa đến cho ta niềm đau, nỗi khổ. Tất cả mọi sanh linh trên hành tinh này sở dĩ có khổ đau là vì không thoát ra được những tâm hành này, tức là không ra ngoài ái, thủ và hữu. Từ tình trạng chấp thủ này, chúng ta nhìn sâu xa hơn một chút, thấy rằng nó có gốc rễ từ ái, tức là sự ưa thích.

Sự thật, có cái gì ta không thích, không thương mà ta muốn nắm giữ Ta nắm giữ mọi thứ trong tay là vì ta ưa thích, ta yêu chuộng. Biết rằng sự yêu thương do nhiều nhân duyên mà hình thành, nhưng hãy tự hỏi trong những nhân duyên đó thì cái gì là nguyên nhân chủ yếu? Rõ ràng trong ta luôn có những tiếng thì thầm, một rừng ngôn ngữ xao động, cuộn chảy thúc đẩy mọi tạo tác. Điều này nói lên sự liên hệ khắng khích giữa áithọ.

Khi nhìn một người mà tâm ta rỗng lặng, không sinh khởi tiếng nói thì thầm bên trong thì thọ không có mặt. Do vậy, ái sở dĩ có mặt là vì có thọ nên đưa đến nỗi khổ là điều tất yếu. Thọ sinh khởi từ xúc tức là từ sự tiếp xúc như tai khi nghe âm thanh, mắt khi nhìn cảnh vật...

Nếu khi nghe, khi nhìn (tiếp xúc) mà thần trí chúng ta dạo chơi năm non bảy núi thì dù dòng nhạc có hay, đóa hoa hồng có rực rỡ đến mấy cũng không tác động gì đến ta. Ta nghe mà nghe như tiếng gió thoảng; nhìn mà không thấy màu sắc tươi thắm của hoa. Nhưng khi tiếp xúc mà có ý thức ta dẫn đạo, có tiếng thì thầm khởi lên bên trong cho ta biết đây là bản nhạc của Trịnh Công Sơn. Song, với lời ca: "Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa...", bỗng dưng quá khứ, kỷ niệm vui buồn ngày cũ như sóng lùa về, thì sự tiếp xúc lại đưa đến thọ, ái, thủ (tiếp nhận, say đắm, bám víu). Chúng ta có thể gọi sự tiếp xúc bên ngoài là xúc chạm vật lý, không đáng quan ngại. Nhưng sự tiếp xúc ở trong chiều sâu tâm thức, có hạt giống của quá khứ, hạt giống của kỷ niệm, của buồn khổ, của phân tích... biểu hiện dẫn dắt thì sự tiếp xúc này sẽ kéo theo một chuỗi những sầu, bi, khổ, ưu, não phía sau như một đoàn quân diễn hành trong tâm thức.

Cho nên tu tập giáo lý Duyên Khởi ở tầng sâu hơn một chút là chúng ta làm thế nào trong mỗi tiếp xúc hàng ngày của mình, dừng lại không để cho thọi có mặt. Và sự khác nhau giữa Thánh hay phàm, giữa thiền sư và người thường, đức Phật và chúng ta chỉ ở chỗ này mà thôi.

Đối với các bậc Thánh, các ngài cũng như chúng ta, cũng đi ngang qua cuộc đời đầy phiền lụy khổ đau, nhưng có điều các ngài không để cho bất cứ đối tượng nào ràng buộc, dính mắc, ngôn ngữ nhà thiền mô tả là: "Đi khắp hành tinh nhưng chân không dính một hạt bụi". Tiếp xúc thì vẫn là tiếp xúc nhưng cảm thọ không phát sinh. Cảm thọ không phát sinh không có nghĩa là uống nước không biết nóng, lạnh; nhìn bông hoa không biết màu sắc, mà có nghĩa là khi tiếp xúc ta nhận biết rõ ràng nhưng không khởi lên tiếng thì thầm bên trong, không độc thoại hay đối thoại để mời gọi ký ức kỷ niệm sinh khởi; đó gọi là xúc mà không sinh thọ. Ngay ở đây ta có thể cắt đứt chuỗi phát sinh của áithủ, và đồng thời cũng chấm dứt chuỗi vô minh, hành, thức... trong mười hai Nhân Duyên. Mười hai Nhân Duyên là một vòng tròn gồm mười hai mắc xích. Ta chỉ cần chặt đứt một mắc xích bất kỳ nào đó thì vòng tròn mười hai mắc xích kia tự tan rã.

Đức Thế Tôn sau khi thành đạo, ngài đã thiền quán, chiêm nghiệm và bừng sáng giáo lý mười hai Nhân Duyên quan trọng này. Sau này các vị luận sư đã dùng giáo lý Duyên Khởi khai triển thành hệ thống để nhận diện về toàn thể cấu trúc vật chất hữu hình, cũng như sự vận hành của tất cả mọi ý niệm và hình thành học thuyết Tánh Không, Chúng ta tu tập chỉ cần thực hành thế nào ngay nơi sự tiếp xúc nà đừng để cho cảm thọ sinh khởi. Thực tập không để cho cảm thọ của quá khứ tràn về tức khắc, chúng ta có thể cắt đứt dòng chảy phiền não của sinh tửphía sau, đồng thời diệt trừ gốc rễ vô minh phía trước.

Cuối cùng, chúng ta chia sẻ vấn đề chứng nghiệm giáo lý Duyên Khởi. Có hai con đường để bước sâu vào đạo, tiến gần đến chân lý.

Thứ nhất là ngộ lý khởi tu. Ngộ lý khởi tu là con đường vận dụng trí tuệ để nhận diện rốt ráo mọi đau khổ của cuộc đời vốn là do nhân duyên mà sinh ra. Ai có được niềm tin chắc thực như vậy và từ đó mà chuyển đổi nhận thức, quan niệm chấp thủ sai lầm của mình thì gọi là người thể nhận được ly (ngộ) để bắt đầu vận dụng vào cuộc sống.

Con đường thứ hai là khởi tu (ứng dụng) trước rồi dần dần nhận ra đạo lý. Dưới lăng kính của tuệ giác Duyên Sinh vô ngã, chúng ta có thể nhìn mọi việc dù thành công hay thất bại đều có giá trị tích cực giúp ta tu tập thiện hạnh và vươn lên trong mọi tình huống. Khi hiểu được mọi biểu hiện không phải chỉ dành cho một mình ta mà có sự tương tác trùng trùng, thì một việc lành mình làm, một ý niệm tốt đẹp khởi lên..., tất cả không bao giờ mất. Hiện nay có những ngành khoa học thử nghiệm chứng minh tâm thức con người chúng ta có một khả năng trị liệu rất lớn đối với hình hài, đối với sự sống. Ta gởi một ý niệm thiện lành để cho một người để chuyển hóa tâm thức người kia là gởi tặng hạnh phúc cho người ấy. Khi tâm ta rạng rỡ niềm vui, tự nhiên người chung quanh ta cũng vui theo, đó là món quà từ bên trong ta gởi tặng đến người mà không cần làm thêm gì cả.

Bằng con đường sử dụng trí tuệ, sử dụng nhận thức, chúng ta đi vào giáo lý Duyên Khởi để từ đó nhận ra các pháp trên thế gian đều hình thành bằng nhân duyên. Và bằng con đường thực hiện thiện hạnh trong đời sống thâm thức chúng ta khi cơ duyên hội đủ, tự nhiên bừng sáng tuệ giác: Mọi hiện hữu đều được cấu thành bởi duyên sinh vô ngã. Và ta sống trong sự tiếp xúc với mọi thứ, mọi điều mà không hề vướng mắc vào cảm thọ, không đắm chìm vào ái, thủ, hữu. Ta thong dong trong cuộc đời, không có bóng dáng lo âu, khổ đau đè nặng lên tâm thức.

Chúng ta đều biết nền tảng xuyên suốt của giáo lý đạo Phật là Duyên sinh đưa đến vô thường, vô ngã và hình thành tam pháp ấn, cuối cùng quy về tự thể là Niết bàn. Con đường tu tập của chúng ta ở mức độ thâm sâu nhất là làm thế nào thể nhập tự thể Niết bàn không sinh không diệt. Trong đời sống thế gian, sự nghiệp của chúng ta tạo dựng một đời nếu khéo léo thì giữ được đến lúc trăm tuổi, rồi cũng để lại cho con cháu nào của cải, tiền tài, danh phận..., có thể cao sang hơn hết thảy mọi người, nhưng thử hỏi những thứ ấy có tồn tại mãi không? Hay tất cả cũng đều mất đi khi ta không còn hơi thở. Sự thật này cho ta cơ hội thể nghiệm rõ ràng hơn về giáo lý Duyên Khởi để từ đó đưa đến đoạn cuối của con đường thể nghiệm tự tánh Niết Bàn.

Giáo lý Duyên Khởi trao cho ta chiếc chìa khóa mở tung cánh cửa thay đổi nhận thức, ta không phải là hình hài này, không phải là vui buồn, sướng khổ, thương ghét này, không phải là suy nghĩ này. Giáo lý Duyên Khởi có công năng phá tan mọi bản ngã mà ta chấp chặt bất lâu nay, và giúp ta nhận diện con người thật của mình vốn là cái ở sâu bên trong hợp thể ngũ uẩn này. Điều này được chỉ ra rất rõ trong Thiền sử qua câu chuyện Phá Táo Đọa rất hay sau đây:

- Ở một làng kia, người ta đồn rằng có một ông thần Táo rất linh hiển. Ai cầu điều gì đều được toại nguyện. Ai mất bò, dê, trâu, heo đến khấn vái là ông giúp cho tìm lại được, đem về. Thần Táo linh quá nên dân làng thường đem heo, gà đến cúng cho ông ở cái lò đặt bên gốc cây đa. Ngày nọ, một nhà sư đi ngang qua vùng này, nghe đồn chuyện thần Táo, bèn lò mò đến xem cái miếu thờ ấy. Nhà sư nhìn cái lò một lúc, rồi lấy gậy gõ ba cái trên đầu lò bảo: "Ôi, tôi tưởng gì ghê gớm lắm, hóa ra chỉ là cái bếp lò do đất nặn lên có gì mà linh hiển". Sau câu nói của nhà sư, cái lò vỡ ra từng mãnh, đổ sụp xuống. Lát sau, một ông thần mũ cao, áo rộng đi đến phục lạy dưới chân nhà sư mà thưa rằng: "Bạch thầy, con bị đọa ở đây năm trăm năm rồi, hôm nay nhờ lời khai thị của thầy nên con ngộ được lý Duyên Sinh, thoát kiếp đọa đày". Nhà sư cười bảo: "Lý duyên sinh là tự tánh của ông, không phải do tôi khai thị mới có". Ông thần thưa: "Đành là như vậy, nhưng không có thầy khai thị con đâu có ngộ được". Nói xong ông thần biến mất. Các đệ tử của vị thầy thấy lạ, đến thưa: "Thầy có phép mầu gì mà có thể khai thị để ông thần Táo kia liễu ngộ, xin nói lại cho chúng con nghe". Nhà sư nói: "Các thầy cùng đi với tôi đều thấy đó. Tôi chỉ nói: Ông vốn là đất tạo thành, có gì là linh hiển trong ông đâu!" Các đệ tử rất ngạc nhiên không biết trong lời nói kia có điều gì lạ mà thần Táo thoát được kiếp bị đọa năm trăm năm. Điều kỳ diệu đó là gì? Nếu nhận ra được cái kỳ diệu trong đó tức khắc mình đã nhận biết con đường Niết bàn để quay lại.

Thần vốn không có hình thể vật lý, nên ông thần Táo có thể biến mất nơi này, hiện ra chỗ khác một cách nhẹ nhàng. Ông đi bằng tâm thức: sáng chơi non Nam, chiều dạo biển Bắc, chưa hề bị ràng buộc, ngăn ngại bởi một vật gì. Một hôm, ngồi vắt vẻo trên cành cây, tình cờ thấy có người đến đốt hương khấn vái trước cái lò cầu xin gì đó. Ông nghĩ là người ta khấn vái mình liền chạy đi tìm heo hay bò lùa về cho họ. Một vài lần thấy linh hiển, người ta rủ nhau đến khấn xin trước cái lò đông hơn, thế là ông vất vả ngược xuôi để giúp tìm kiếm trâu, bò, heo... cho dân làng tội nghiệp. Chưa hết, nếu một hôm có đứa trẻ chăn bò vào nghịch phá, lấy chân đá cái lò, vậy là xúc phạm đến ông, ông bẻ gãy chân nó. Rồi khi gặp chuyện không như ý, ông cũng nổi giận, bất an, sầu não..., vì ông đã gắn đời ông vào cái lò, ông thấy ông là cái lò bể kia.

Vị sư đã nhìn thấy điều ấy, chỉ nhẹ nhàng bảo ràng ông không phải là cái lò đất. Cuộc đời thần Táo không phải tất tả ngược xuôi như vậy để thỏa mãn mọi người. Ông không phải là cái lò kia, mà là một người khác ở bên sau cái lò ấy. Từ câu chuyện này, chúng ta có thể nhìn lại để xem thân này là ta hay thân của ta? Sự thật thân này chỉ là vật sở hữu của ta.

Chúng ta cần nhớ một điều quan trọng. Cái gì được cho là của tôi tức cái đó đều là vật sở hữu. Khi mọi vật đã là sở hữu thì nó không phải là "mình" mà là "cái của mình". Nhưng chúng ta thường để mình gắn chặt vào mọi thứ tình cảm (niềm vui, nỗi buồn, thương giận...) cho đến vật chất (nhà, xe, tiền của, con cái, người thân...), cho đó là ta nên bị ràng buộc khổ sở vô cùng. Chúng ta đồng hóa mình vào trong những thứ ấy, luôn thấy mình là "cái lò bể" giống như ông thần Táo kia. Và việc tu tập ở đây là ta chỉ cần quay lại nhận rõ chính mình là "ông thần Táo" chứ không phải là "cái lò" dưới gốc đa, mình là tuệ giác "nhận biết" bên trong chứ không phải thân này. Mình là cái không đến đi, không sinh diệt.

Những gì có tính chất sinh diệt như niềm vui, nỗi buồn, dòng suy nghĩ... đều không bao giờ hiện hữu mãi trong ta. Tình yêu thương nào rồi cũng có lúc phai nhạt. Mọi thứ đều đổi thay, cho nên mọi hiện tượng cấu thành từ suyên sinh, duyên khởi đều chỉ là sở hữu của ta. Ta hãy nhận diện nó như một người khách; ta có quyền mời giữ nó ở lại với mình và cũng có quyền khước từ hay mời nó ra khỏi nhà theo ý mình. Thông minh làm được điều này là ta đang loại trừ tất cả những nỗi đau khổ đến với ta trong cuộc sống. Chúng ta tu tập là thực hành mỗi ngày nhìn mọi thứ đi qua trong tâm thức ta, đến với ta qua những sinh hoạt, giao tiếp hằng ngày bằng sự nhận biết. Tất cả có đến và đi, nhưng khả năng nhận biết của ta không dến không đi bao giờ; nó luôn có mặt ngay nơi đây và giờ phút này.

Sống được với cái nhận biết ấy thì ngay lúc tiếp xúc chỉ là tiếp xúc. Có xúc mà không có thọ, tưởng, ái, thủ, hữu, ưu bi, khổ não. An trú ngay chỗ nhận biết này, ta ngắt được dòng chảy của vô minh phía trước, chấm dứt được khổ đau phía sau. Ngay nơi đây tỉnh sáng thấy mình không phải là chiếc lò bể, tức chúng ta đang an trú trong tự thể Niết bàn, an trú trong tâm Phật chiếu sáng chính mình. Với niềm tin chắc thực vào điều này, thì dú có sống bất cứ nơi nào trên trái đất, chúng ta vẫn thong dong không vướng mắc, vì ta đã trở về với quê hương đích thực của mình. Trong ta là niềm hạnh phúc tỏa rạng, là hương vị an lạc tràn đầy và ta có thể dâng tặng những phẩm chất đó đến với mọi người.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Cành Triêu Nhan

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

ĐỨC PHẬT GIỮA NHÂN GIAN
  • Pháp thoại tại Tu viện Lộc Uyển
    Ngày 30-03-2007
Hôm nay là ngày đản sanh của đức Phật, Phật lịch 2548. Chúng biết Phật lịch năm thứ nhất được tính từ năm đức Thế Tôn nhập Niết bàn. Như vậy để biết Phật đản năm nay là bao nhiêu, chúng ta phải cộng theo 80 năm cho Phật lịch mới đúng ngày Phật đản (2548 + 80 = 2628). Trong truyền thống Phật giáo cổ, ngày sinh của Phật được tính theo lịch số phương Bắc (Trung Hoa), và tại đại hội Phật giáo thế giới lần đầu tiên mở ra tại Tích Lan vào năm 1950, hai truyền thống Nam Tông và Bắc Tông cùng quyết định lấy ngày rằm (15 tháng 4 âm lịch) làm ngày Phật đản.

Theo truyền thống Nam Tông, vào ngày đản sanh của đức Từ Phụ, các thầy thường tổ chức lễ rất trang nghiêm và trọng thể. Vào dịp này, các câu chuyện về tiền thân của đức Phật thường được kể cho các Phật tử nghe, cũng như ôn lại thiên ký sự về cuộc đời mang đậm tính cách giáo dục đi sâu vào lòng người của đức Phật. Nhiều câu chuyện tiền thân của đức Phật khi được đem vào những vùng văn hóa như Trung Quốc hay các nước Đông phương khác, đã đóng góp rất lớn cho gia tài văn học, nghệ thuật, thi ca, kịch nghệ... và hơn hết là đem đến nhiều hạnh phúc, an lạc cũng như giá trị tâm linh. Các câu chuyện được kể lại trong Bản Sanh Truyện chủ đích nói lên phần cốt tủy chúng ta cần phải thực hành là lòng từ bi. Theo tinh thần Phật dạy, những nấc thang tiến hóa của tâm thức con người đều được đặt nền tảng trên tâm từ ái rộng mở.

Nhân ngày lễ trọng đại này, tôi muốn kể vài câu chuyện về tiền thân đức của đức Thế Tôn rất dễ thương như một quà tặng gởi đến cho mọi người, nhất là để các cháu thiếu nhi đang có mặt nơi đây. Dĩ nhiên câu chuyện nào về ngài cũng đều mang dấu ấn của lòng từ bi mênh mông, nói lên đặc tính rất nhân ái và rất người của ngài.

Vào một kiếp xa xưa, đức Phật từng là một con khỉ chúa, các trách nhiệm bảo vệ đàn khỉ khoảng 500 con. Một hôm, cánh rừng mà chúng đang sinh sống bỗng nhiên bốc cháy, khỉ chúa có nhiệm vụ phải tìm đường đem đàn khỉ thoát ra khu rừng. Gió lớn làm lửa rừng càng lúc càng lan rộng, nên đàn khỉ bị đẩy dần về một hướng. Cuối cùng để sống còn, chúng phải tìm cách băng qua một con suối nước đang chảy xiết, thật nguy hiểm. Khỉ chúa phải dùng trí thông minh để giữ mạng sống cho cả đoàn; nó leo lên một cây tre cạnh bờ suối, dùng hết sức mạnh của mình làm cho cây tre ngã oằn qua bờ bên kia. Nhưng tội nghiệp thay, cây tre không đủ dài để có thể vươn qua như ý muốn bắc một nhịp cầu nối liền giữa hai bờ. Khỉ chúa nhìn quanh tìm cách, chợt thấy một cành cây bên kia bờ suối, rất thông minh, nó bám hai chân trên ngọn tre, hai tay vươn dài nắm lấy cành cây, và gọi đàn khỉ chạy qua cây tre, dẫm lên mình nó để qua bờ. Khi cả đàn khỉ 500 con qua hết bên kia bờ thì sức lực của khỉ chúa cũng suy kiệt. Nó buông tay rơi xuống và chìm dần vào lòng suối nước đang cuồn cuộn chảy.

Câu chuyện cảm động này cho chúng ta bài học của lòng yêu thương đồng loại và sự hy sinh, quên mình vì người, chỉ biết đem tấm lòng mình trải lên mặt đất cho người bước qua. Câu chuyện cũng mở ra trong ta không gian lồng lộng của tâm đại bi đối với tha nhân, sống và chết vì tha nhân. Khỉ chúa với lòng từ ái, đức hy sinh không ngằn mé kia chính là một tiền thân của đức Phật.

Từ ngàn xưa, chúng ta cùng với những loài sinh vật cấp thấp (không có năng lực trí tuệ, hay không phát triển như con người) đều hít thở và chung sống trong một môi trường như nhau. Và cũng thời hồng hoang xa xưa đó mà con người tiến hóa, phát triển cho đến bây giờ. Theo quy luật đào thải tự nhiên, sinh vật nào không đổi thay nhịp sống để thích ứng được với môi trường mới sẽ tự đào thải, không thể tồn tại. Nhưng có loài do sự run rủi tình cờ của thiên nhiên, thúc đẩy tiến hóa trở thành loài động vật đứng thẳng được trên hai chân sau và sử dụng hai chân trước làm tay, não bộ trở nên thông minh hơn, đó là loài người. Điều đó không có nghĩa loài động vật đặc biệt là con người này đã không từng có sự liên hệ với những loài động vật khác. Như vừa chia sẻ, loài người chúng ta và các loài động vật khác đều là anh em.

Đức Phật qua những câu chuyện tiền thân của mình đều nói đến tình anh em giữa con người và các loài động vật, muông thú... Thế nhưng, chúng ta vì mưu cầu sinh tồn, để phục vụ cho mạng sống mình đã đang tâm giết hại, hủy hoại đời sống của những loài động vật khác không có đủ khả năng tự vệ. Ta dùng thịt xương của chúng làm thực phẩm, và thực phẩm ấy chính là huyết nhục của những người anh em thấp kém hơn mình. Đã vậy, con người còn ra sức phung phí không thương tiếc nguồn năng lượng đã cung ứng cho họ tiêu thụ. Chúng ta nhẫn tâm phí phạm, tàn phá môi trường thiên nhiên đã nuôi dưỡng mình từ cây cỏ, rừng xanh, nguồn nước, cho đến các sinh vật trong lòng suối, đại dương...

Chúng ta sống được ở đây không phải chỉ nhờ thở bằng hai lá phổi của mình, mà còn nhờ vào cỏ cây, thảo mộc. Hãy nhìn vào từng chiếc lá xanh ngoài kia, mỗi chiếc lá đang phe phẩy là một nhà máy thanh lọc tối tân lấy đi thán khí, tạo nên không khí trong lành cho ta thở, ta sống. Dù khoa học thực nghiệm có tiến bộ đến mức nào, nền văn minh hành tinh này có đưa con người đến sao Hỏa, sao Kim.... cũng không thể tạo ra một chiếc lá tươi xanh làm được chức năng kỳ diệu như thế. Nhìn cho thật sâu sắc những gì ta sử dụng, chẳng hạn đơn giản như tờ giấy, chúng ta cũng có thể thấy cả rừng cây đang có mặt. Do vậy, khi chúng ta sử dụng giấy một cách thiếu ý thức là rõ ràng ta đang cắt bỏ từng tế bào phổi, đang tự loại trừ mạch sống ra khỏi hình hài mình từng giây, từng phút. Ngoài ra, con người cũng không thể chế tạo được một giọt nước để uống. Các nhà khoa học có thể phân tích được sự hình thành của nước là từ H2O, nhưng chắc rằng họ không thể dùng H2O chế tạo ra nước uống. Tất cả đều do thiên nhiên ban tặng. Thế nhưng dưới mức độ tàn phá, hủy hoại, hoang phí tài nguyên một cách vô tâm của con người như hiện nay, môi trường trở nên ô nhiễm, hành tinh này đâu còn xanh, quả đất này sẽ cạn nguồn, có thể không còn đủ năng lượng để đáp ứng, cung cấp nuôi sống con người.

Con người may mắn hơn các loài động vật khác là có khả năng khai mở trí tuệ, vậy mà chúng ta vẫn chưa học thuộc bài vỡ lòng nào áp dụng vào đời sống thực tập xây dựng nền tảng thương yêu của mình, mở rộng lòng từ bi hướng đến mọi loài, xem mọi loài trên hành tinh này đều là người thân, là bạn của mình. Khi tìm hiểu về đời sống, cách sinh hoạt của đức Phật hàng ngày, chúng ta thấy ngày luôn khuyến khích việc giữ gìn, bảo vệ môi trường sống. Ngài dạy những điều rất thiết thực: Các thầy Tỳ kheo không được chặt cành bẻ lá, không được dẫm đạp cây cỏ. Phải biết tri ân sự có mặt của từng cội cây bên vệ đường đã cho ta bóng mát và chỗ nghỉ chân. Trong kinh A Hàm, chúng ta thấy đức Phật từ việc xử sự với thiên nhiên, con người cho đến những sinh vật bé nhỏ, tất cả đều trân quý nhất mực. Và ngài từng dạy, sự có mặt của chúng ta là một liên hệ không thể tách rời với sự có mặt của mọi loài từ thảo mộc, đất đá cho đến các loài động vật khác. Ngài cũng từng dạy không được hủy hoại sinh mạng, dù là sinh mạng nhỏ bé như con sâu cái kiến. Do vậy, tâm từ bi không phải chỉ dành cho đồng loại, mà phải được mở ra, trải rộng đến mọi tầng lớp, đến muôn loài. Nếu chúng ta chưa thiết lập được tinh thần căn bản này trong đời sống thì tiến trình tu tập của chúng ta khó có thể vươn cao hơn được.

Khi ta đến với những trung tâm tu học là mong nếm được chút hương vị của Phật pháp, để làm giàu cho đời sống tâm linh, làm cho đời mình hạnh phúc. Mà nếu muốn hạnh phúc có mặt trong đời sống, chúng ta cần phải được hun đúc tâm thức yêu thương, tấm lòng rộng mở từ thuở bé.

Tấm lòng mở ra với tha nhân một không được phân biệt còn được đức Phật chỉ dạy cho tôn giả A Nan lúc đức Phật trên đường vân du khất thực, qua câu chuyện rất dễ thương sau:

Ngày nọ, khi đi ngang qua một thôn nghèo, đức Phật nhìn thấy đám trẻ con đang chơi ngoài đường. Chúng dùng đất cát xây đắp thành trì, kho đụn chứa gạo thóc, giả làm quân lính, vua quan... Ngài bước từng bước rất chậm và dừng lại nhìn chúng. Một đứa bé trong nhóm thấy ngài, nó dùng hai tay vốc một nắm "thóc" trong kho của nó (dĩ nhiên bằng đất), rồi cung kính dâng lên dức Phật: "Con xin cúng dường đức Cồ Đàm". Đức Thế Tôn mỉm cười đưa bát ra đón nhận nắm thóc (bằng đất) của em bé. Nhận xong, ngài gói nắm đất lại đưa cho A Nan và bảo: "Ông hãy đem nắm đất này về hòa chung với nước rồi quét lên tường tịnh thất của ta". A Nan thưa: "Bạch đức Thế Tôn, đất này ở đâu cũng có, duyên cớ gì mà đức Thế Tôn phải cẩn trọng như vậy?". Đức Thế Tôn dạy: "Ông nên biết, dù là đất, nhưng đây là tấm lòng cung kính của một em bé cúng dường, ta không nên xem thường. Ông hãy làm theo lời ta. Một trăm năm sau khi ta Niết bàn, đứa bé này sẽ có dịp sinh trở lại Ấn Độ, trở thành vị quốc vương hộ trì chánh pháp của Như Lai phát triển vượt ra ngoài biên giới Ấn Độ đến những vùng đất khác".

Quả thật, một trăm năm sau khi đức Thê Tôn nhập Niết bàn, tại Ấn Độ có một người được sinh ra với làn da sần sùi và đen như đất, tên là Asoka (A Dục), sau này trở thành vua nước Ấn Độ. Với tánh tình rất hung dữ, ông đã tạo ra bao ác nghiệp để tranh giành vương quyền, bành trướng lãnh thổ, đất đai, gây nên bao thống khổ. Một lần, sau khi tiến chiếm được một vùng lãnh thổ, nhìn cảnh tan tác của vùng đất mênh mông với xác người chồng chất, máu loang thắm đỏ dưới chân, ánh nắng chiều vàng vọt hắt lên cảnh vật khiến càng nhuộm thêm nỗi thê lương trên bãi chiến trường, và trong giây phút ấy lòng ông cũng là bãi chiến trường ngổn ngang trăm mối. Cuối cùng, ông giác ngộ, ném thanh gươm, trở về thu mình trong cung điện và sau đó, ông trở thành một Phật tử hộ đạo rất thuần thành.

Từ ngày ấy, ông nhất tâm trở về phụng trì Tam Bảo. Ông bắt đầu cuộc lữ hành tìm lại dấu vết của đức Phật. Nơi ngài đã sinh ra, nơi thành đạo, nơi bài pháp đầu tiên, và nơi ngài nhập Niết bàn. Mỗi di tích ông đều cho dựng trụ đá, khắc văn bia để tưởng niệm, lưu dấu. Đặc biệt tại vườn Lâm Tỳ Ni, ngoài trụ đá đã dựng lên, phía sau ông còn chôn một phiến đá khắc dòng chữ: "Nơi đây dòng họ Sakya đã sinh ra thái tử Sỉ Đạt Ta. Con người mang đến hòa bình, yêu thương và hạnh phúc cho cả đất nước rộng lớn này".

Ấn Độ ngày xưa là một đất nước mà tôn giáo mang nặng tính huyền bí, thần quyền. Họ thờ rất nhiều bị thần với tính chất thần kỳ và tôn sùng, tin tưởng tuyệt đối, Dù vậy, khi những người Anh đặt bước chân đầu tiên đến vùng đất này, họ không tin đức Thế Tôn là một nhân vật lịch sử có thật. Họ cho đây nhân vật tưởng tượng do cộng đồng người Phật tử thêu dệt, tôn xưng, suy diễn ra mà thôi. Không thể có một con người như thế bằng xương, bằng thịt, có tên tuổi, ngày tháng năm sinh... trên lãnh thổ này... Cho đến khi những nhà khảo cổ người Anh tìm ra được những trụ đá, bia văn ghi khắc rõ ràng, họ mới tin đức Phật là một con người có thật trong dòng lịch sử cổ đại Ấn Độ. Dần dần người ta tính được chính xác niên đại, ngày sinh của đức Phật và những thư tịch ghi chép rõ ràng lời dạy của ngài được phát hiện, cho biết tất cả được nói ra từ một con người thực sự có mặt đương thời.

Chúng ta biết rõ được lịch sử của đức Thế Tôn là nhờ công đức của Asoka (A Dục Vương); vị vua sinh ra sau khi đức Thế Tôn nhập Niết bàn một trăm năm. Và thật kỳ lạ, người công bố bản khai sinh để cho chúng ta ngày hôm nay, hằng năm vân tập làm lễ tưởng niệm ngày đản sinh của bậc Đại giác, là những nhà khảo cổ người Anh. Họ đã mang văn minh Châu Âu đóng góp cho sự soi sáng cuộc đời đức Phật, chứ không phải do những người con Phật kiếm tìm, khám phá.

Những điều vừa chia sẻ trên đây cho chúng ta biết rằng qua lịch sử, đức Phật là một con người có mặt trên nhân gian này một cách bình thường như mọi con người. Ngài không phải từ trên trời hiện xuống, cũng không phải sinh ra từ hoàng hậu Ma Da còn đồng trinh. Ngài được sinh ra từ một người nữ bình thường. Mẹ ngài trên đường về quê nhà để sinh con theo tục lệ hoàng tộc thời ấy, bất chợt chuyển dạ phải dừng lại bên vệ đường và khi bà đưa tay vin vào cành cây Vô ưu, ngay lúc ấy ngài được sinh ra dưới tán cây, giữa thiên nhiên chứ không phải trong cung son, điện ngọc. Nơi ngài thành đạo cũng không phải là nơi cao sang, mà bên gốc cây Bồ đề. Rồi bằng đôi chân trần, ngài đi khắp cùng thôn trang, làng mạc trong suốt bốn mươi chín năm để thuyết giảng giáo hóa. Cuối cùng khi sắp lìa bỏ cuộc đời, ngài cùng tăng đoàn ngược về phương Bắc, đến một vùng quê hẻo lánh, nghiêng mình nằm giữa hai cây Sa la mà vào tịch diệt. Ấy là cuộc đời thực, rất đẹp của một bậc Đạo sư.

Dù là con vua nhưng Sĩ Đạt Ta khước từ đời sống của một vị thái tử, khước từ mọi vật chất nhung lụa xa hoa, chọn sống cuộc đời một hành giả khất thực; ôm bát xin ăn, tối ngủ dưới gốc cây hay trong hốc đá. Ngài sống đơn giản, bình đẳng giáo hóa mọi người, mọi giai cấp, mọi tầng lớp trong xã hội. Khi đến tuổi già ngài cũng như chúng ta - đừng nghĩ ngài là một con người với tám mươi vẻ đẹp, ba mươi hai tướng tốt, mà hãy hình dung một ông già gầy gò, da nhăn, chân yếu, cũng đau ốm, cũng có những cơn đau nhức trên hình hài... Và đến khi trả lại thân vô thường này, ngài nào có thi triển thần thông, hiển thánh bay vào không gian hay phóng hào quang, mà ngài bị chứng kiết lỵ như mọi người. Cho nên điều đầu tiên là ta hãy có cái nhìn chân thực về đức Phật như một con người bình thường tựa hồ bao nhiêu con người khác. Một con người bình thường đúng nghĩa trong mọn lãnh vực lịch sử, đời sống, văn hóa, đạo đức, cũng như trong cách hành xử với các môn đồ, đệ tử.

Đối với nhân gian, sống giữa nhân gian như một con người bình thường; có gia đình, có vợ con, cũng yêu thương, khổ đau, bất an như chúng ta, nhưng ngài tìm ra con đường siêu việt khổ đau cho chính mình và đưa dần chúng ta đi đến hạnh phúc. Ngài luôn đứng trên thân phận con người mà giáo hóa con người. Có một điều chắc chắn rằng khoa học càng tiến xa trên con đường thực nghiệm, loài người càng văn minh tiến bộ thì càng làm cho lịch sử cuộc đời đức Phật thêm đậm nét, sáng tỏ hơn.

Chúng ta có thể thấy rõ trong tất cả kinh sách ghi lại lời dạy của đức Thế Tôn, không một chỗ nào xác định lời ngài nói qua trung gian của thần linh. Tất cả những gì ngài nói ra đều xuất phát từ sự chứng nghiệm của bản thân mình. Điều này đặc biệt khác xa với những vị giáo chủ của các tôn giáo khác. Lời dạy của ngài bình dị, chắc thực, gần gũi với con người và luôn mang đầy tuệ giác. Rất là người. Ngài không viện dẫn tích cách thần linh để con người phải có niềm tin nơi ngài. Ngài đã sống và nhận thức khổ đau như con người, rồi tìm phương cách thoát khỏi khổ đau, và cuối cùng ngài trút bỏ hình hài như một con người. Các văn bản kinh của truyền thống Đại thừa thường thần thánh hóa ngài qua chuyện kể như khi ngài mới sinh ra đã bước bảy bước trên hoa sen, đã biết nói, có rồng phun nước..., thêu dệt chung quanh ngài bằng những huyền thoại. Trong khi truyền thống Nam tông nói đến ngài thường lột bỏ hết tính cách thần thông, huyền bí... bao quanh, trả ngài về lại là một con người như chúng ta.

Vốn là một con người bình thường mà vươn lên trở thành bậc Giác ngộ, nên những gì đức Phật dạy ở lần đầu tiên cho các môn đồ rất là giản dị, thực tiễn, có thể áp dụng cho mọi người. Với tâm từ bi, ngài giáo hóa khắp mọi tầng lớp, từ hàng vua chúa cho đến bần dân; từ các bà hoàng phi trong cung điện tráng lệ của dòng họ Thích Ca cho đến những cô gái phấn hương (Liên Hoa Sắc), hay thân phận người gánh phân (Ni Đề), hoặc những tay sát thủ khét tiếng (Vô Não)... không phân biệt một hạng người nào. Có thể nói chưa có một bậc Đạo sư nào thương yêu, gần gũi chăm sóc môn đồ, đệ tử như đức Phật đã làm.

Một lần nọ, đức Phật đi khất thực về, nghe có tiếng rên, ngài hỏi thì giả: "Giờ khất thực của chư tăng, ai ở trong lều mà có tiếng rên như vậy?" A Nan thưa: "Bạch đức Thế Tôn, có một tỳ kheo già bị bệnh nặng không thể đi khất thực được, quý thầy trẻ không dám đến gần vì ông bệnh lâu ngày nằm liệt một chỗ, lở loét rất hôi hám". Thế Tôn im lặng mang bát cơm về tịnh thất của mình xong, gọi A Nan nấu nước rồi cùng ngài đến tắm rửa, lau vết lở loét trên người vị tỳ kheo già kia. Sau đó ngài dạy: "Người tu chúng ta đã rời bỏ gia đình, cách ly mọi tình cảm thế nhân, nên cần phải đối xử với nhau như ruột thịt. Hãy chăm sóc cho nhau lúc già, lúc bệnh". Ngài còn dạy thêm: "Thân vốn vô thường, bệnh là do nghiệp". Vị tỳ kheo nghe xong thực tập quán chiếu và chứng đạo quả an lạc.

Trong quá trình văn minh tiến hóa của nhân loại tính đến ngày nay, đối với ý hướng từ bi, có thể nói chưa có một tôn giáo nào tuyên dương và thực hành tuyệt đối như đạo Phật. Người ta cũng chưa tìm thấy một vết đen nào trong dòng chảy lịch sử phát triển của đạo Phật qua thời gian, bởi đạo Phật chưa từng làm tổn hại, đổ máu cho bất kỳ một sinh dân nào trên con đường truyền đạo. Hương từ bi trong giáo lý đạo Phật nhẹ nhàng lan xa, tỏa rộng đã 2600 năm, ngang qua nhiều quốc gia, nhiều địa vực, nhiều vùng văn hóa, tự nhiên như nước thấm dần vào lòng đất.

Điều tuyệt vời nhất nơi bậc Đại giác là những tuyên ngôn của ngài: Ta chỉ là một người Thầy chỉ đường. Các ông chính là chủ nhân của đời sống mình. Giải thoát, an lạc có mặt trong tự thân các ông. Các ông thừa tự nghiệp quá khứ của chính mình. Hoặc: Mỗi người đều nơi trái tim mình một vị Phật. Quay về nhân ra vị Phật của chính mình thì giác ngộ như ta. Đây là những lời tuyên bố sực kỳ quan trọng.

Những tuyên ngôn trên của đức Thế Tôn nếu chúng ta biết nắm lấy để tu tập là ta đang trên con đường quay về. Quay trở về với tâm ban sơ, từ dạo còn non dại cho đến ngày nhận ra được vị Phật trong chính mình. Có ai ta mà thành đạt giải thoát trong tích tắc.
  • Vầng trăng non dại
    Theo ta từ dạo ấy
    Ai có ngờ đêm nay...

    (Nhật Chiêu dịch)
Những câu thơ theo thể hài cú của một thi sĩ thiền sư nổi tiếng người Nhật (Basho) ở trên như một lời chia sẻ, cho biết trăng đã theo người lữ hành qua đoạn đường dài "từ dạo ấy". Và trải qua thời gian - thời gian của quá trình tu tập - thì "Ai có ngờ đêm nay..." Câu thơ bỏ lửng với những dấu chấm, nhưng chúng ta có thể thầm hiểu là đêm nay bất chợt trăng đã tròn. Rõ ràng là nó luôn theo ta, theo ta từ lúc đầu khi mới còn là mảnh trăng lưỡi liềm cho đến một ngày ta nhận ra được vị Phật tỏa chiếu, rạng ngời trong tâm. Và có gì hạnh phúc hơn, an lạc hơn khi trở về ngôi nhà năm uẩn của ta và nhận ra được Phật.

Đời sống không có mặt ở phía trước hay sau lưng. Quá khứ dù vàng son cũng đã qua, những mơ tưởng tương lai thì vẫn còn xa vời vợi. Cuộc sống chỉ diễn ra ngay nơi đây, trong giờ phút hiện tại, cho nên từng ngày, từng ngày, chúng ta tu tập làm thế nào khởi phát niềm tự tin mình có khả năng thành Phật. Khi có niềm tin vững chắc vào điều này, ta làm cho năng lực giác ngộ hiện khởi, thì vầng trăng trong tâm tự khắc tỏa chiếu, rạng ngời. Ngay lúc ấy dù vô thường có đến cũng không thể tác động, hủy hoại được thể tánh Phật có mặt trong ta. Người Phật tử thông minh hãy nương vào giáo lý ngộ của đức Thế Tôn đã khơi mở, khéo nhận ra ánh sáng Bụt, nhận ra mảnh trăng tơ nay bất chợt đã tròn:
  • Mưa tháng năm rơi
    Trần gian còn lại
    Ánh sáng Bụt thôi.

    (Thơ Basho, Nhật Chiêu dịch)


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Cành Triêu Nhan

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

KIM CƯƠNG CỦA BẠN
  • Pháp thoại tại chùa Phật Tổ
    Ngày 13-02-2006
Trên khoảnh đất bỏ hoang từ lâu, một người ăn mày đến dựng lên mái lều vừa làm chỗ ở vừa làm kể kiếm sống. Với gia tài vài ba món vật dụng tồi tàn đựng trong chiếc thùng gỗ, một chiếc thau bể hàng ngày dùng để đi ăn xin, người ăn mày cảm thấy nơi đây đã là nhà của mình. Hôm nào chiếc thau bể đầy thức ăn, nghĩa là được một bữa no đủ, anh cảm thấy rất hạnh phúc.

Ngày nọ, có một người đi qua, ông ta đưa tay gõ vào cái thùng gỗ bảo người ăn mày: "Nếu con nghe lời ta dẹp cái thùng này, vứt bỏ cái thau bể ăn xin đi rồi đào dưới nền đất này, con sẽ có một kho châu báu rất lớn. Ta là người ở đây từ lâu, đã nhìn thấy bao cuộc biển dâu dời đổi, đây không phải là nơi tồi tàn như con tưởng. Ngay nơi chỗ con đứng là cả một kho tàng vô giá; con sẽ là sở hữu chủ của kho báu dưới chân mình". Người ăn mày không thể nào tin, nói: "Tôi đã làm kiếp ăn mày nhiều năm, chưa ai nói với tôi những lời như ông cả. Chắc ông muốn phá lều tranh của tôi, chứ làm gì đào chỗ này mà có kho tàng, tôi không tin". Nhưng ông già kia rất kiên nhẫn, ngày ngày ông vẫn đến nhắc đi nhắc lại câu nói: "Hãy nghe lời ta, con sẽ là chủ nhân, sở hữu kho tàng kim cương vô giá ở đây".

Ngày qua ngày, người ăn mày vẫn sáng chiều chìa chiếc thau bể để xin thức ăn. Nhưng có một hôm gặp phải mưa gió không ai bố thí, anh lả người vì đói. Chợt nhớ đến lời nói của ông già, anh bèn khiêng chiếc thùng gỗ bỏ qua một bên rồi cố đào xới miếng đất để thử vận mình. Thật kỳ diệu, mới đào được chừng năm, mười nhát cuốc đã thấy một chiếc thùng sắt bên dưới; anh mừng rỡ kéo lên, bật nắp thùng thì ôi... toàn là vàng, ngọc, kim cương. Choáng ngợp trước kho châu báu tỏa chiếu ánh sáng người, anh thầm nghĩ, với số tài sản đang có này, chỉ cần dùng một phần nhỏ là có thể tậu nhà, mua trâu... và làm được bao nhiêu việc.

Câu chuyện vui trong nhân gian kể trên khi nghe xong chắc hẳn ai cũng đã nhận ra một nội dung rất quen thuộc, gần gũi với chúng ta qua những lời đức Phật dạy trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Trong phẩm Thường Bất Khinh Bồ tát kể rằng có một vị tỳ kheo chỉ làm một điều là khi gặp ai cũng lạy một lạy và nói: "Ông vốn là một vị Phật, tôi không dám khinh thường". Khi tiếp xúc với vị thầy này, các tỳ kheo nghĩ ông này chắc bị bệnh, không được bình thường vì tự nhiên đưa ra những lời thọ ký thật vu vơ. Làm sao tin được ai cũng là Phật? Nhưng thời gian trôi qua, khi sắp rời bỏ hình hài, vị tỳ kheo kia đã thi triển nhiều thần thông, lúc bấy giờ đại chúng mới tin đây là một vị Bồ tát hóa thân bảo cho biết trong tự thân mỗi người ai cũng có một vị Phật, là kho tàng châu ngọc vô giá.

Thông thường chúng ta không tự tin, và có khi còn xem thường chính mình. Chúng ta cứ nghĩ rằng mình là kẻ nghèo khó, chỉ biết chìa cái thau bể đi xin để sống qua ngày, chưa bao giờ thấy ta là sở hữu chủ của một kho tàng rất lớn đang ở dưới chân mình. Thử nhìn cuộc đời chúng ta, nghiệm cho thật kỹ, có phải ta đang chia tay xin từng món, từng món của nhân gian? Ta đưa chiếc thau bể để góp thâu vật thực, tích chứa từng chút của cải vật chất làm giàu cho riêng mình, và hun dúc quan niệm chấp thủ vật chất là thể hiện con người chính ta. Rồi vất cả, trăn trở, lo âu chuyện đến đi, mất còn đối với những gì ta đang có. Tâm thức chung của con người thường là như thế. Và ta thấy tự mãn vô cùng, tự hào vô cùng khi nắm giữ trong tay được nhiều tài sản. Chúng ta hiếm khi nhìn lại để thấy nhà cửa, của tiền vật chất bạc bẽo với con người như thế nào! Nó đến có thể bằng rất nhiều mồ hôi, nước mắt của chính ta, nhưng ra đi thì rất nhanh, nó đến và đi theo con đường của riêng nó. Không một ai có thể thủ đắc, sở hữu vật chất lâu dài trong tay mình, ấy thế mà ta vẫn nghĩ rằng nó là gia sản muôn đời của mình. Trong nhân gian, có những con người từng là tỷ phú hôm nay, nhưng chỉ qua một đêm trở nên trắng tay. Họ đầu tư năng lượng đời sống đến hàng chục năm, bận bịu tìm kiếm, lo lắng, chắt chiu cho những sở hữu phù du như bọt nước. Đến khi của tiền bất chợt ra đi, họ bị dìm chết trong sự hụt hẫng, khổ đau và tuyệt vọng. Điều này rất thực, đã và đang xảy đến hàng ngày trong đời sống.

Bước vào đời sống tình cảm, chúng ta cũng thường vui, buồn như nước triều lên xuống tùy thuộc vào tình thương của bao nhiêu người khác. Chúng ta thường đi kiếm tìm hạnh phúc, yêu thương hay nói rõ hơn là đi ăn xin một chút tình, mong người ta ban tặng cho một nụ cười, một lời thăm hỏi dịu dàng, một tia nhìn đầm ấm...

Khi những điều này được đáp ứng, ta cảm thấy hưng phấn, cảm thấy hạnh phúc; nếu ta không ủ ê, thất vọng. Rõ ràng hạnh phúc của ta được quyết định từ người và ta lệ thuộc vào người. Thông thường những gì lệ thuộc vào người khác sẽ đưa ta vào trạng huống rất khốn khổ, ta bất an, lo sợ mất mát. Vì những gì ta ban cho thì người ta cũng có quyền lấy lại rất dễ. Cho nên hạnh phúc, tình thương hay bất cứ loại tình cảm nào mà phải lệ thuộc vào người, phải xin mới có thì đó là thứ hạnh phúc rất mong manh, không bao giờ bền bỉ. Ta thử nhìn lại đời sống mình để thấy tình thương, niềm vui mà mình đang có được là do người ban phát hay đã sẵn có trong tay? Ta đã bao giờ tin rằng chúng ta có khả năng chế tác hạnh phúc?

Chúng ta hay sợ mất - sợ mất người mình thương. Sợ mất có nghĩa người kia là điều kiện để mình hạnh phúc, nên ta lệ thuộc hẵn vào đối tượng mình thương yêu. Và như thế, tình thương luôn song hành với sự nghi hoặc, ghen hờn, bảo thủ, bám víu. Khi những tiêu cực này có mặt thì tác động đầu tiên là giảm bớt niềm hạnh phúc trong tim ta. Không thể có hạnh phúc thực sự khi bên cạnh là sự bất an, hồi hộp, lo âu và nếu có cái gọi là hạnh phúc thì đó chỉ là mẫu bánh trong chiếc thau ta xin được từ người hàng xóm mà thôi.

Giữa cõi nhân gian này chưa bao giờ có một liên hệ tình cảm mà không bị ràng buộc, không được dệt thành từ nhiều yếu tố và điều kiện. Vì từ nhiều nhân duyên mà có mặt, nên một lúc nào đó, nếu thiếu mất đi một nhân tố, căn bản của yêu thương sẽ chênh nghiêng tổn thương và đau khổ oằn bên trong chính bản thân ta. Có bao giờ ta thông minh nhận ra chính lòng mình là suối nguồn ban phát hay là người dính mắc vào sự chờ đợi ban cho hoặc lệ thuộc từ người khác? Tình cảm yêu thương đó, hạnh phúc đó là không thực sự đối với chúng ta. Vậy mà tất cả chúng ta thường đi vào ngõ cụt bất hạnh này, chẳng khác gì người ăn xin kia hàng ngày với chiếc thau bể trên tay. Nếu khéo thực tập, chúng ta hãy dành năng lượng của mình đầu tư vào những điều kiện đưa đến niềm hạnh phúc cao hơn.

Ở bình diện cạn, nguồn hạnh phúc, tình thương là một quà tặng tự nhiên không phân biệt, không điều kiện. Tất cả dều từ trong ta khởi phát, từ niềm tự tin rằng ta chính là chủ nhân kho tàng châu báu vô giá, tỏa sáng rạng ngời. Nếu mở được cửa kho tàng ấy có nghĩa là ta đã mở rộng tầm nhìn về cuộc đời bằng tất cả cảm thông, thương yêu, bởi vì trong ta vốn sẵn đầy những châu ngọc, kim cương an vui, hạnh phúc. Ta có thể dễ dàng làm được điều này từng phút, từng giây trong cuộc sống. Chẳng hạn, một buổi chiều nào đó thấy con mình không được vui, ta hãy đặt tay lên vai con với lời hỏi han nhẹ nhàng, chia sẻ, an ủi. Ta cũng có thể nói đôi điều thật dễ thương, tặng một cái nhìn hòa ái, một cử chỉ thân tình... với người thân đang cau có, giận hờn. Với những hành xử như vậy, cũng một hoàn cảnh ấy, con người ấy thế nhưng tâm thức ta đổi thay thì tự nhiên hoàn cảnh cũng đổi thay. Khi lòng ta mênh mông, bao la thì dù con người kia có đáng ghét, hoàn cảnh có u ám, ngột ngạt khó thở đến mức nào cũng chỉ như là môi trường, là điều kiện cho ta trui rèn nhẫn nhục, cho trái tim ta mở ra tha thứ và yêu thương hơn. Khả năng này không phải khó tìm kiếm, nó tự sẵn đầy trong tâm thức ta. Hãy trở về tiếp nhận cái kho tàng chứa đầy tình thương trong trái tim mình, hãy khéo sử dụng châu ngọc đang có dưới chân mình và ý nghĩa đích thực của đời sống là sự hiến dâng chứ không phải van xin, tìm kiếm.

Kho châu báu đầu tiên chính là hình hài này, là con người bằng xương bằng thịt được hợp thành bởi tứ đại, bởi năm uẩn này. Có thể nói rằng chư thiên ở cõi trời phước lực nhiều hơn chúng ta, nên khi ý thức vừa khởi lên thì mọi điều mong muốn lập tức được đáp ứng. Họ sung sướng hơn chúng ta rất nhiều. Thế nhưng chưa hẳn người cõi trời có đầy đủ điều kiện để tu tập như chúng ta. Có thể họ không có cơ hội cọ xát với niềm đau, nỗi khổ của trần gian để kích phát tâm thức, sinh khởi tâm Bồ đề tu tập. Cho nên nếu chúng ta sinh ở đời chịu bao nhiêu nỗi thăng trầm, nhọc nhằn trong cuộc sống thì hãy xem đây là điều kiện tuyệt vời nhất cho ta tiếp cận khổ đau, giúp ta phát triển trí tuệ giác ngộ, cho tâm Bồ đề của ta khởi phát. Đấy chính là kho báu.

Nếu chúng ta chấp nhận và biết vận dụng hình hài mình đang có, thì đây là món quà lớn nhất, không có của cải nhân gian nào có thể sánh bằng. Trong Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi, để khuyến tu vua Trần Thái Tông có nói đại ý: Ví thử có người mặc áo giáp vàng, đội mũ bạc, cầm kiếm kim cương ra trận, khi bị quân giặc rượt đuổi thì việc đầu tiên là anh ta phải tìm cách thoát thân cứu mạng mình chứ không thể nào lo giữ mũ bạc, giáp vàng, kiếm kim cương..., vì mạng sống lúc bấy giờ là trên hết. Cũng như khi gặp bệnh tật, ốm đau, chúng ta phải tìm đủ mọi cách chạy thầy chạy thuốc, lên non xuống biển để tìm thuốc hay dù tốn hao đến bao nhiêu, chỉ cần làm sao cứu được thân mạng mình. Những gì chúng ta đã làm để cho thân thể còn có được hơi thở vào ra đã tự nói lên hình hài này rất quí giá. Thỉnh thoảng chúng ta nhìn lại thấy mình có khi thật vụng về đã để cho lo âu, sầu não đè nặng lên thân tâm thật là tội nghiệp. Ta hãy làm cho thân, cho lòng mình nhẹ đi bằng cách trút bỏ hết tất cả để vươn lên sống xứng đáng, toàn vẹn chu kỳ của cuộc sống. Và đây chỉ là mức độ cạn của một người giác ngộ đạo Phật.

Ở cấp độ thâm sâu hơn, chúng ta tu tập không có nghĩa là phải làm thật nhiều việc, mà chỉ cần trở lại tìm cho ra cái gì nằm sau năm uẩn, nằm sau cảm thọ vui buồn này. Kinh nghiệm trong đời sống cho ta thấy sau một ngày chạy vạy, ngược xuôi với công việc, nếu chúng ta có cơ hội nằm yên một mình, nghỉ ngơi thư giản thì trong những giây phút tĩnh lặng ấy, năng lực, sức sống hồi phục rất nhanh chóng và ta có thể cảm nhận được hạnh phúc tức thì. Điều này nói lên khuynh hướng của tâm thức ta là nhắm đến sự yên bình tĩnh lặng. Đó là bản chất thực của tâm thức con người. Những cuồn cuộn xao động, bồn chồn trong ta chỉ là mặt nổi của đại dương, trong khi bản chất của đại dương là tĩnh lặng. Nếu chúng ta mãi lao xao không một phút giây yên bình thì sự sống của ta không có mặt ngay hiện tại và ta không thể trở về với bản chất tự nhiên sẵn có nơi ta.

Vượt qua được những chấp thủ đối với của cải, ta có thể quay về với kho tàng châu báu nằm sâu bên trong hình hài này, khá hơn một chút là ta vượt qua được sự chấp trước về hình hài. Tuy vậy, dù loại trừ được sự thủ chấp đối với thân thể nhưng có một sự vướng mắc sâu hơn, đó là danh vị - là cái mà chúng ta rất khó vượt thoát. Ai cũng biết bản ngã của ta được cấu tạo bàng danh; nếu có ai chạm đến danh dự, uy tín của ta thì bằng mọi cách ta bảo vệ nó đến cùng. Ta không thể để cho bất cứ ai làm mất phẩm giá, danh dự của mình, và luôn tự hào về tính cách của mình, đó là loại bản ngã chấp danh. Chúng ta dù ở ngoài đời hay trong môi trường tu tập, chưa thành đạt chức phận gì, nhưng đôi lúc cũng có vô cùng khổ sở và đuổi theo danh lợi, dù biết rằng bên cạnh đó sẽ là nỗi bất hạnh bủa vây. Ấy thế mà chúng ta vẫn đầu tư năng lượng của đời mình vào chút hư danh, sống chết trôi nổi theo chữ danh không thực có, làm tiêu hao năng lượng thiện lành của mình một cách vô ích.

Càng lao về phía trước thì nỗi lo lắng, áp lực của đời sống càng đè nặng lên tâm thức. Cho nên việc cần làm là chúng ta phải biết dừng lại. Dừng lại tâm rượt đuổi, lao về phía trước để cảm thấy hạnh phúc với tất cả những điều kiện ta đang có và tận hưởng niềm an lạc, thảnh thơi nơi chính mình. Chúng ta đã quên lãng, để vuột trôi, vụng về không thật sự sống những tháng ngày hạnh phúc lẽ ra ta được thừa hưởng. Chúng ta quên bên trong chính mình là một kho báu, nên không biết đào xới để tận thấy những châu ngọc. Giờ đây ta hãy làm đầy trái tim mình bằng cách biết sử dụng quà tặng hạnh phúc mà ta đã có sẵn trong tay. Tiếp nhận hạnh phúc không phải là điều gì khó khăn, xa vời như trong ước mơ mà là những gì thật sự giản dị gần gũi quanh mình.

Đời người không thể kéo dài bất tận, nếu chúng ta cứ thả trôi theo những gì chạy đuổi tìm cầu, thành bại lợi danh, nổi chìm theo từng buồn thương, giận hờn, thắc thỏm, lo âu thì trong ta đâu còn chút không gian nào để thở hơi thở hạnh phúc. Tất cả những đối tượng ấy đều là phù vân sinh diệt. Hãy khéo quay trở lại các chặng đường của tâm thức mình để tập nhận diện. Và khi nhận diện được từng đợt sóng ngầm ở cấp độ ý thức, chắc chắn ta sẽ làm chủ được tâm mình, làm chủ được cuộc đời mình. Khi nắm vững căn bản phép thực tập này, chúng ta không những chỉ làm cho mình trở nên giàu có hạnh phúc trong hiện tại, mà còn có thể làm chủ được đời mình trong tương lai. Cuộc sống chúng ta là một hành trình không bến đợi, nên ngay trong lúc còn hơi thở vào ra, hãy tìm cho ra mặt mũi thật của mình, tìm cho ra kho tàng châu ngọc sẵn có nơi chính mình.

Chúng ta có thể chiêm nghiệm để thấy những sở hữu từ thân mạng, tài sản vật chất cho đến những cảm thọ vui buồn, sướng khổ, lợi danh... đến đi không hò hẹn, chưa bao giờ trao cho ta một hợp đồng dài lâu vĩnh viễn. Ta cũng sẽ nhận ra tất những gì từ ý thức sinh khởi đều ở ngoài ta; tất cả chỉ là những triềm sóng dâng lên từ miền sâu của tâm thức, không phải là con người đích thực của ta.

Con người đích thực của ta là cái gì tuyệt vời hơn, trong sáng, rạng ngời hơn, là cái thường tỏa chiếu, nhận biết từng đối tượng từ bên trong lẫn bên ngoài đang diễn hành trước mắt. Và ta chỉ cần trú ngụ ngay nơi sự nhận biết này. Đó cũng là tâm Phật sáng chói thường trực bên trong chúng ta. Tâm Phật ấy không một ai trong cõi nhân gian này mà không đang sở hữu. "Kho báu chất đầy thế giới, long lanh chiếu sáng đêm ngày...". Kim cương, châu ngọc có đầy trên hành tinh, thế nhưng ta sẽ không thể thụ hưởng được nếu chưa mở được kho tàng châu báu bên trong ta. Bạn hãy nhận ra viên kim cương trong hình hài năm uẩn của bạn!

Xem tiếp CHIẾC LÁ THU VÀ THIỀN QUÁN


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Cành Triêu Nhan

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

CHẬU HOA NGÀY LỄ TẠ ƠN
  • Pháp thoại tại Tu viện Lộc Uyển
    Ngày 27-11-2005
"Chúng con rất bận rộn. Làm thế nào để tu đây?" Đó là một câu hỏi rất hay của một Phật tử nêu lên trong buổi pháp thoại và tôi nghĩ câu hỏi này cũng đang có mặt trong tâm thức chúng ta hôm nay. Câu trả lời được một giáo thọ trẻ chia sẻ rất ngắn gọn: "Chúng ta có thể tu tập liền ngay bây giờ, không cần đợi đến ngày mai, không cần chờ hoàn cảnh thuận lợi hơn".

Chúng ta thường hay nghĩ rằng phải có đủ điều kiện, hoàn cảnh hay thì giờ cho phép thì mới tu tập được. Có một điều gì đó chưa ổn trong suy nghĩ này. Nếu ta không tu tập được ngay bây giờ có nghĩa là mình không bao giờ tu tập được. Nếu ta không làm cho niềm vui có mặt ngay bây giờ thì cũng không thể làm cho niềm vui có mặt vào ngày mai được; chờ đợi điều kiện ngày mai để tu tập thì sẽ không có cái ngày mai đó. Ngay bây giờ, hay là không bao giờ! Chúng ta cứ chờ đợi, mong ước có được một đời sống như quí thầy, quí cô trong tu viện thì không bao giờ ta thực tập được. Vì mỗi người đều có hoàn cảnh riêng, môi trường riêng, và nhất là ta không thể trút bỏ tất cả những gì ta đang mang cho bất cứ ai, để tìm riêng cho mình một không gian tu tập. Thế nên từ trong chỗ đứng của mình, điều kiện của mình, nếu ta làm bất cứ việc gì dù lớn hay nhỏ mà đều có thể đem đến hạnh phúc cho người có duyên tiếp xúc với mình tức là ta đang tu tập. Khi làm được điều này thì bất cứ nơi nào mình bước chân đến đều là hạnh phúc, là thiên đường cho chính ta và cho mọi người.

Chẳng hạn, hạnh phúc gần nhất trong cuộc sống đời thường mà ta có thể có được đó là niềm tri ân của chúng ta đối với bao người chung quanh. Khi niềm tri ân trong ta được biểu hiện thì cuộc sống, cách hành xử của chúng ta trở nên chan hòa tình thương và sự trân trọng. Trong truyền thống của các dân tộc, Tây phương cũng như Đông phương, ngày lễ Tạ Ơn là ngày vui, là ngày hạnh phúc, mang đến cho chúng ta nhiều ý nghĩa rất quý giá. Ngày lễ Tạ Ơn hay tri ân được người dân bản xứ nơi đây xem như ngày hội quan trọng. Theo năm tháng đi qua, do bận rộn với đời sống chúng ta không có dịp hồi tưởng hay tiếp xúc với ý nghĩa sâu sắc của lễ hội này: đó là tinh thần tạ ơn đất trời, tạ ơn con người và nhất là tạ ơn cha mẹ.

Ngày lễ Mẹ đặc biệt được tất cả mọi người, mọi nơi hướng đến. Qua nhiều lãnh vực nghệ thuật như thi ca, âm nhạc, hội họa..., các thi nhân, nhạc sĩ, nghệ sĩ đã để lại biết bao tác phẩm tuyệt vời nói về mẹ. Nhưng khi tâm ta không đủ yên lắng để nhớ về, để cảm nhận sự nhiệm mầu của tình mẹ đang tuôn chảy, đang có mặt trong từng tế bào của mình thì dù đi bất cứ nơi đâu chúng ta vẫn cô đơn, vẫn không hạnh phúc cho dù mẹ còn sống hay đã mất.
  • Tôi nhớ mẹ tôi thuở thiếu thời
    Khi người còn sống, tôi lên mười
    Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội
    Áo đỏ người đưa trước giậu phơi.

    (Lưu Trọng Lư)
Những câu thơ mộc mạc, đơn giản không trau chuốt, không ca tụng hay than thở nhưng chúng ta có thể cảm nhân nỗi cô quạnh của người con mất mẹ, và cũng thấy được niềm hạnh phúc của những ngày thơ ấu, khi còn mẹ trong màu áo đỏ phơi trước giậu. Hạnh phúc ấy nồng ấm, trong như màu nắng mới, thắm như màu áo của mẹ ngày nào. Và đối với mẹ, chúng ta có chờ cho đến khi quá muộn rồi nhớ thương, tiếc nuối? Có một câu chuyện nhỏ rất dễ thương và đầy ý nghĩa dành cho ngày lễ Mẹ.

Có một người đàn ông vào tiệm hoa, đặt một bó hoa gởi cho mẹ nhân ngày lễ Tạ Ơn. Trong tiệm hoa lúc ấy, đứng trước ông là một em bé cũng định mua hoa tặng mẹ. Em muốn một chậu hoa đẹp cho mẹ nhưng không có đủ tiền. Người chủ tiệm nói với em rằng nếu không có đủ tiền thì em nên chọn một loại hoa khác, nhưng cậu bé bảo rằng mẹ cậu thích loại hoa này nên câu phải mua chậu này thôi. Cậu bé nói: "Xin bán cho cháu, ngày mai có tiền cháu sẽ mang đến trả". Người bán hoa không thể tin là thằng bé có tiền để trả, nên không chịu bán. Người đàn ông nọ nghe thấy như vậy cảm động nên bỏ tiền mua chậu hoa cho cậu. Rất vui mừng, cậu bé ôm chậu hoa cám ơn và bước ra.

Người đàn ông mua hoa xong, trên đường đến bưu điện gửi hoa cho mẹ, ông thấy cậu bé hai tay ôm chậu hoa vừa đi vừa hát. Ông nghĩ nhà nó chắc gần đâu đây, nên dừng xe lại hỏi: "Nhà cháu ở đâu để bác chở về?" Thằng bé nói: "Nhà mẹ con gần đây thôi!" Người đàn ông chở thằng bé đi một vòng theo lời nó chỉ, lúc sau ông thấy mình chạy vào một miếng đất rộng, và nó bảo dừng lại: "Mẹ cháu ở trong này". Thì ra đây là nghĩa trang. Sự tò mò kèm theo nổi ngạc nhiên và xúc động cùng cực, người đàn ông đi theo. Cậu bé ôm chậu hoa trân trọng đặt lên mộ mẹ, nói: "Mẹ à, con nhớ ngày trước mẹ rất yêu hoa này, con không đủ tiền nhưng nhờ một người tốt bụng đã mua cho con. Con xin mẹ nhận tấm lòng của con, và nhận cho lòng tốt của bác đứng bên cạnh". Nói xong em sờ tay lên mộ mẹ, đi quanh một vòng và ra về. Người đàn ông sau khi thấy việc làm của cậu bé, thay vì định gửi bó hoa đã mua cho mẹ bằng đường bưu điện, ông đổi ý và đã lái xe trên mấy trăm dặm về nhà vào giữa khuya ngày lễ Tạ Ơn. Ông đã tặng bó hoa tận tay mẹ mình.

Câu chuyện thật hay và cảm động. Và một điều rất đẹp và có ý nghĩa nhất ở đây đó là khả năng chuyển hóa tâm thức. Bao nhiêu năm ta nghĩ rằng ta thương mẹ, nhớ đến mẹ, vẫn mua hoa tặng mẹ ngày lễ Tạ Ơn, nhưng như thế đã đủ chưa?

Đời sống chúng ta vốn sẵn đầy châu ngọc và những giếng nước ngọt ngào cũng rất gần ta; nhưng chúng ta không nhận thấy có lẽ vì quá gần, vì vô tình và vì thói quen quên lãng. Ta đợi khi có một điều kiện, một cơ hội nhỏ nhoi bên ngoài tác động ta mới nhớ. Phiêu bạt vất vả ngược xuôi vì đời sống áo cơm, ta từng có một người thương quý mà ta bỏ quên. Hãy thử nghĩ, nếu ta có một người thương như thằng bé kia mà chẳng may nằm xuống, khi ấy ta có muốn tặng một chậu hoa đẹp nhất thì cũng đã muộn mất rồi. Ta sẽ vô cùng ân hận! Vì vậy ta hãy nhận diện người thương đã và đang có mặt quanh ta, bên ta và nếu nhìn sâu hơn, ta thấy họ đang luân lưu trong tế bào của ta từ hình hài đến tâm thức. Một người đã đưa ta vào đời, đã dâng hiến, hy sinh cả cuộc đời mình cho ta khôn lớn, trưởng thành, đó là mẹ, là tình mẫu tử.

Nói về tình mẫu tử, một trong những câu chuyện thật cảm động về tiền thân của đức Phật kể rằng: Ở trong cánh rừng nọ, có hai con vượn với bộ lông trắng tuyệt đẹp, rất thông minh và khả năng leo trèo của nó cũng vô cùng nhanh nhẹn; không một thợ săn nào có thể đuổi bắt được. Một ông vua rất mê bộ lông trắng của hai con vượn kia, nên ra lệnh bằng mọi giá phải bắt cho được chúng để lấy bộ da làm áo choàng. Thế là đoàn thợ săn do một người mà từ lâu cũng đã có ý định muốn bắt con của hai con vượn kia về làm bạn với con trai mình, dẫn đầu cuộc săn bắt vợ chồng vượn đang trú ngụ trên một cây đại thọ.

Tuy có tài leo trèo và chạy nhảy nhanh nhẹn, nhưng lần này với mưu chước thâm độc của người dẫn đầu toán thợ săn, cùng với rất nhiều thợ săn khác đi theo, hai con vượn không thể nào chạy thoát được. Một mũi tên bắn ra, con vượn cha đưa ra lưng hứng lấy nhưng không kịp, tên độc đã trúng nhằm vượn mẹ. Bị trúng tên độc, vượn mẹ biết chắc mình không thể nào sống được, nó trao con cho chồng. Khi vượn cha ôm con vào lòng (loài vượn có đặc trưng là thường ôm con trước lồng ngực), vượn mẹ lấy cành cây quấn lại thành cái phễu, vắt hết chút sữa còn lại của mình đưa cho chồng, rồi buông tay rơi xuống đất. Đám thợ săn vì thấy vượn mẹ rơi xuống sợ hư bộ da nên cũng leo xuống. Lúc bây giờ, vượn cha thấy vượn mẹ rơi xuống đất đau lòng quá, nó liền để con ôm lấy cành cây và chạy xuống. Vừa leo xuống một đoạn ngắn, thì nghe tiếng con kêu la hốt hoảng, nó liền chạy lên. Chạy đến giữa thân cây, nhìn thấy xác vợ với bộ lông trắng như tuyết giờ đang loang máu nằm dưới kia, quá đau xót nó lại chạy xuống. Và cứ như thế, nó chạy lên chạy xuống không ngừng trong tiếng lêu la, sợ hãi của con, trong cơn hoảng loạn của mình vì thương vợ. Cuối cùng thấy không còn hạnh phúc gì trên cuộc đời này, vượn cha buông mình rơi xuống đất.

Sau khi thủ đắc hai bộ da của loài vượn trắng, người thợ săn cuối cũng cũng đã bắt được con vượn con đem về nuôi. Vượn con được nuôi trong chiếc lồng sơn son thếp vàng rất đẹp; người ta để thức ăn, nước uống tinh khiết cho con vượn, và tìm những loại sữa hảo hạng cho nó uống. Người thợ săn còn ủ ấm vượn con bằng loại nỉ tốt nhất. Thế nhưng suốt đêm người ta nghe tiếng gào thảm thiết như từng giọt máu từ tim nhỏ xuống, vì vượn con nhớ mẹ. Sáng hôm sau, khi không còn nghe tiếng kêu, người thợ săn mở cửa lồng thì thấy vượn con đã chết, đầu nó gác trên chén sữa.

Ở đây chúng ta thấy mối liên hệ gắn bó của tình cảm gia đình đã được đưa vào cốt chuyện. Ngoài ý nghĩa tình thương, đức hy sinh để người khác được sống, chuyện còn gợi lên trong chúng ta ý nghĩa sâu đậm của tình mẫu tử. Không có gì nuôi dưỡng ta mà có thể sánh bằng tình mẫu tử. Cũng là tình cảm gia đình, nhưng bên trong tình mẫu tử, ngoài hương sắc dịu ngọt của tình thương (như chuối ba hương, như xôi nếp một, như đường mía lau...), còn có sự biểu hiện của lòng từ được ví như biển rộng: "Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào", hay:
  • Mẹ là vạn vật muôn loài
    Mẹ là nhật nguyệt sáng ngời biển đông...

    (Diệu Đức - Vu Lan nhớ mẹ)
Do vậy, nói về mẹ, nghĩ về mẹ ta cảm được niềm hạnh phúc rất lớn, vì không ai thương yêu ta bằng mẹ và đôi lúc ta vô cùng ân hận vì chưa làm được cái gì để gọi là tri ân hay tạ ơn mẹ. Tuy vậy, muốn làm những điều này cũng không khó nếu chúng ta biết tu tập. Hãy thử làm một việc giản dị là mở rộng lòng, nhìn những người thân đang có mặt (như người hôn phối, con cái, bạn hữu của mình...), thấy rằng họ đều là người để cho ta thương quý, và ta luôn nghĩ đến họ như một người dễ thương đáng yêu quí như mẹ của mình.

Có lẽ chúng ta chưa bằng lòng với điều vừa chia sẻ. Có thể chúng ta sẽ nói rằng có người dễ thương nhưng có người lại làm cho ta đau khổ thì làm sao ta thương hết được. Nếu ta may mắn có người hôn phối cùng một cung bậc tâm hồn thì đời sống gia đình dĩ nhiên là một thiên đường nhỏ. Ngược lại, có gia đình chỉ sau một thời gian ngắn chung sống, những nụ cười, niềm vui ngày trước không còn, chỉ có chì chiết, dằn vặt, khổ đau là thường trực. Nhưng nếu nhìn ở một khía cạnh nào đó, có khi hoàn cảnh ấy chính là mảnh đất màu mỡ cho ta thực tập tưới tẩm hạt giống thương yêu có sẵn trong ta nẩy mầm. Cho ta cơ hội nhìn lại mình xem tình thương thực sự có mặt bên trong hay chưa. Nếu ta nhìn đời sống, nhìn mọi người bằng con mắt yêu thương, với tấm lòng rộng mở thì bất cứ nơi đâu, hoàn cảnh nào cũng có người cho ta thương; huống chi người mà ta đã từng đeo đuổi, từng nói lên những lời êm dịu để có nhau. Đối tượng dù thế nào đi nữa, trong bản chất vẫn có ít nhất vài điều dễ thương, chỉ tại mình chưa chịu nhìn họ bằng con mắt thương yêu mà thôi. Nếu như mở mắt ra, ta chỉ nhìn bằng đôi mắt kỳ thi, biên kiến, nhìn cái dở, cái xấu của người bằng tâm địa hẹp hòi thì dù cho thánh nhân có đứng trước mặt, ta cũng không thấy họ dễ thương chút nào. Thế nên có thể nói dễ thương hay khó thương là tùy cái nhìn của mình chứ không hẳn từ con người ấy.

Bước thêm bước nữa, đó là khi nhìn mọi người bằng đôi nắt thương yêu, thì niềm vui có được không phải đến với người kia mà trước hết là đến với chính mình. Sống trong đời khi tiếp xúc với mọi người mà ta để phát sinh tâm lý thù nghịch thì chứng tỏ hồ nước tâm của ta còn vẩn đục, ô nhiễm. Và khi trong ta còn mang ý niệm thù ghét bất kỳ ai thì tự nhiên tâm ta trĩu nặng, bất an.

Cũng một chu kỳ sống trên cõi đời đầy phiền trược, nhưng nếu thực tập sao cho những ngày tháng nơi đây, ngay trong hiện tại này ta có thể bước được những bước thong dong, thảnh thơi; không gieo xuống những buồn giận, ghen hờn thì ta là người hạnh phúc gấp nhiều lần so với những người bên cạnh. Thực tập điều này không khó. An vui, hạnh phúc là những gì ta có thể làm ra được bởi vì tình thương đã có sẵn trong trái tim ta. Và ta có thể dễ dàng hiến tặng cho người bên cạnh - dù thân quen hay xa lạ - niềm an vui, hạnh phúc đó vì chúng là suối nguồn không bao giờ cạn. Hạnh phúc có được từ sức mạnh tình thương của chúng ta sẽ thấm đẫm vào mọi người chung quanh, tác động ngay vào trong môi trường sống, có khả năng cải thiện xã hội để làm giàu có cho các thế hệ tương lai.

Hãy thực tập dừng tâm lại ngay nơi đây và ngay giờ phút này. Khi dừng lại được sự vô tâm quên lãng của mình, chúng ta sẽ cảm thấy hoa cỏ trở nên đẹp hơn, trời trong xanh hơn, mọi người quanh ta dễ thương hơn. Và khi mình dừng tâm lại không còn rong ruổi hướng ngoại tìm cầu, lúc ấy ta mới có thể nhận diện sự có mặt của người thương một cách sâu sắc, đồng thời làm cho năng lượng yêu thương tuôn chảy tự nhiên; ấy mới là tình yêu thương đích thực. Nếu ta chưa dừng lại, chưa buông bỏ được, chưa quay về để nhìn lại tự thân thì ta mãi chỉ là kẻ lang thang, rong ruổi trên con đường dài của cuộc đời mà bỏ quên châu ngọc mình đang có.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Cành Triêu Nhan

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

TÌM CÁI ĐÃ CÓ
  • Pháp thoại tại làng Cây Phong, Canada
    Ngày 11-10-2008
Sáng nay khí trời lành lạnh, phong cảnh ở đây thật đẹp và thanh bình. Tôi vừa được gợi ý nên nói chuyện với các cháu ở đây để các cháu có một chút ý niệm về đạo Phật. Và tôi sẽ kể cho các cháu nghe vài câu chuyện vui dễ thương về đức Thế Tôn.

Trong cuộc đời đức Thế Tôn từ khi bắt đầu hành trình tu tập cho đến ngày nhập Niết bàn, ngài đã đôi lần được các em bé cúng dường rất dễ thương. Sau khi rời bỏ lối tu khổ hạnh, ngài đi vào rừng tìm một gốc cây để tọa thiền và rồi ngài nhìn thấy cây Bồ đề cành lá xanh tươi, tán xòe rộng mát mẻ, ngài quyết định ngồi lại nơi đây để thiền định. Lúc ấy, có một chú bé đang cắt cỏ cho trâu ăn, đến hỏi đức Thế Tôn: "Ngài có cần cỏ này để trải ngồi không?" Đức Thế Tôn trả lời: "Ồ, tốt quá, cám ơn con". Đó là một loại cỏ rất mềm có tên là Sukkha và ngài đã lấy nắm cỏ trải làm tòa ngồi.

Đức Phật đã tiếp nhận món quà đơn sơ đó với tấm lòng trân quí. Và lành thay cho Svastika - chú bé đã tặng nắm cỏ êm mượt làm tòa ngồi cho đức Cồ Đàm: sau bốn mươi chín ngày đêm thiền định, vị thầy tu gầy gò kia đã đạt đến trí tuệ siêu việt, giác ngộ thành một vị Phật. Đây là món quà nhỏ đầu tiên đầy ý nghĩa mà đức Phật đã tiếp nhận. (Svastika là người đầu tiên gặp Phật và cũng là người đầu tiên được hầu chuyện sau khi ngài thành đạo).

Thông thường quà tặng dành cho những người thương mến, ta nghĩ phải là những thứ sang trọng, đáng giá; hoặc đối với những bậc tôn quí, ta cũng thường lựa chọn những vật phẩm giá trị, thật đích đáng để dâng cúng. Thật ra đôi khi điều đó không hẳn đúng - ta đã bỏ qua một lời khuyên xác đáng: Của cho không bằng cách cho. Khi có tấm lòng chân thành của ta đặt vào thì dù món quà là một vật nhỏ nhoi, có khi không đáng là gì cũng sẽ trở thành quí giá. Hơn thế nữa, nếu chúng ta đón nhận món quà bằng tất cả sự trân trọng, thì phẩm vật đó trở thành thượng hạng, và có thể nuôi dưỡng tâm thức người cho lẫn người nhận. Trong đời sống gia đình, những trường hợp như vậy chúng ta có thể gặp hàng ngày. Tuy gặp hàng ngày nhưng mình không thông minh để nhận biết, để đón nhận. Quà tặng của con cái gởi đến ta từng ngày: buổi sáng chúng đi vào phòng thăm bố mẹ, đó là quà tặng; buổi chiều đi học về chúng vào nũng nịu, làm eo làm xách, đó cũng là quà tặng. Thế mà mình vô tình không thưởng thức để cho giây phút ấy trôi qua mất. Chúng ta cứ nghĩ niềm vui, niềm hạnh phúc là cái gì to lớn xa vời, phải tìm kiếm ở nơi khác. Kỳ thực, hạnh phúc đang có mặt ngay bây giờ và ở đây, có mặt trong vòng tay chúng ta từng giờ, từng ngày.

Một ông bố nọ làm luật sư, có ba dứa con nhưng ông rất bận rộn, không đủ thì giờ dành cho con. Một ngày kia, đứa bé năm tuổi chạy vào phòng làm việc gọi ông: "Bố ơi, con có một món quà cho bố nè! Con mới họa xong cảnh nhà mình đẹp lắm. Bồ dừng lại nhìn một chút đi". Ông bố nói: "Bố bận lắm, ra ngoài chơi đi, chiều con đưa cho bố xem cũng được". Thằng bé đi ra, nhưng lúc sau nó lại chạy vào nói: "Bố ơi, bố dừng lại một chút, con muốn khoe món quà này con vừa làm xong". Ông bố bảo: "Để chiều đi, bố bận lắm". Nhưng đến chiều ông quên mất, không nhớ gì đến chuyện lúc sáng. Và ông thấy đứa bé vẫn bình thường tự nhiên không nhắc gì đến chuyện cũ.

Rồi mùa Giáng Sinh lại về, lần này đứa bé họa một bức tranh lớn để tặng gia đình. Dĩ nhiên là một em bé mới học lớp hai thì bức họa của nó không thể đẹp như ta mong muốn; nó vẽ mặt trời, căn nhà, mẹ nó, em nó...; bố cục cái lớn, cái nhỏ không cân xứng. Và khi ngày Giáng Sinh đến, nó mang bức họa mà nó đã dành rất nhiều thì giờ để vẽ tặng gia đình ra trước mọi người. Nó nói: "Bố nhìn xem có đẹp không?" Ông bố nhìn: đây là vợ mình, đây là đứa con lớn, đây là em nó, và đây là "tác giả"... nhưng điều quan trọng là ông tìm mãi vẫn không thấy mình - nó không vẽ ông. Và ông liền bảo: "Bố đâu không thấy trong đây, con? Đây là hình gia đình mà". Nó trả lời: "Bố lúc đó mắc bận, bố đang ngồi trong phòng để tư vấn cho nhiều khách hàng. Bố không có ở đây". Khi nghe thằng bé trả lời, ông bố bàng hoàng, xót xa tự nghĩ: "Mình làm mọi việc, sống vì con, lao động vất vả lo cho con nhưng mà mình không có trong trái tim của nó, mình bị nó khai trừ khỏi bức tranh gia đình mất rồi".

Chúng ta đừng nên nghĩ con em chúng ta cần đến những gì to tát. Có khi cái chúng cần chỉ là sự có mặt của mình: "Hãy dừng lại mẹ à. Hãy đi với con một chút". Thế là đủ. Đây là món quà thiết thân nhất mà hai bên có thể tặng cho nhau.

Sau đây là một câu chuyện thiền, xem như bước dẫn dắt để chúng biết được việc tu tập như thế nào.

Có một vị thiền sư vân du học đạo. Ông nghe nói có một vị thầy kia rất lỗi lạc, bèn tìm đến dảnh lễ: "Xin thầy từ bi dạy cho con tu, dạy cho con biết thế nào là Phật trong con". Vị thấy tuy rất uyên bác nhưng phải tật rất "hà tiện" không muốn dạy gì nhiều, ông liền bảo: "Ồ, Phật pháp đâu phải cá tôm mà sợ sình thối. Thong thả rồi ta sẽ dạy cho. Bây giờ chuyện cần nhất là đại chúng đang thiếu ăn, ông hãy đi xuống phố khất thực, mang một ít gạo về để nuôi đại chúng trong mùa này rồi ta dạy đạo cho". (Chuyện tu học Phật pháp chưa biết tới đâu, nhưng chuyện "thực pháp" đi trước, chuyện ăn uống được đặt ra hàng đầu, nơi nào cũng vậy).

Nghe vị thầy dạy bảo, thế là ông quảy túi đi hết mấy tháng trời mới có đủ gạo đem về chùa. Ông đến thưa với thầy: "Bạch thầy con đã xin đủ gạo ăn cho đại chúng. Xin thầy từ bi chỉ dạy Phật pháp cho con". Nhưng vị thầy lại bảo: "Ông đã đi qua hết mùa thu, nay đã đến mùa đông, đại chúng đang thiếu củi ông hãy vào rừng kiếm một ít củi về để đun nấu, sưởi ấm". Ông thầy hơi buồn, nghĩ mình bị gạt, nhưng Hòa thượng dạy thì mình phải nghe. Thế là phải mất một thời gian dài đi kiếm củi cho trung tâm tu học đến gần năm trăm người sử dụng. Thế nhưng khi trở về lại biết Hòa thượng được mời đi qua một ngôi chùa khác để giảng dạy. Ông thầm nghĩ, cuối mùa đông này, Hòa thượng sẽ đi, trước khi đi ngài bận rộn với bao nhiêu việc, đâu có thì giờ mà dạy cho mình. Vốn đã nhiều lần xin chỉ giáo mà chẳng được, nay ông quyết định xin đi theo vị Hòa thượng qua ngôi chùa kia. Ngay tối hôm vừa mới đến, ông lại vào liêu Hòa thượng đảnh lễ xin dạy cho "thế nào là Phật". Nhưng cũng như mọi lần, vịthầy bảo: "Ta mới đến đây với bao nhiêu là việc, nào ruộng vườn, sổ sách, tăng chúng vãng lai..., lại chưa có thư ký, thì giờ đâu mà dạy cho ông Phật pháp, thôi ông hãy làm thư ký cho ta". Ông thầy cảm thấy buồn, nghĩ sao mà Hòa thượng cứ trì hoãn hoài!

Một hôm đang tọa thiền dưới nhà bếp, trong cảnh tĩnh lặng, bỗng ông nghe một tiếng "ầm" do con mèo chạy làm rớt nồi niêu, soong chảo gì đó. Đột nhiên vấn đề từ lâu ông mơ ước, khắc khoải sáng bừng trong ông. Ông thể ngộ được cái gì là Phật của chính mình. Ông mừng rỡ, nước mắt tuôn trào, đến cửa thất Hòa thượng đảnh lễ tạ ơn. Ngay lúc ấy, vị Hòa thượng mở cửa nhìn ông cười bảo: "Ồ, chúc mừng ông việc lớn đã xong". Nước mắt vẫn còn đầm đìa, ông thưa: "Việc Phật pháp có gì khó khăn đâu sao thầy nỡ để con chạy quanh tìm kiếm bao năm tháng?" Hòa thượng trả lời: "Nếu ta không làm như thế thì ông không thể nào ngộ đạo, không thể nhận ra vị Phật nơi chính ông được". Từ đó ông hết lòng tri ân vị thầy đã dạy mình.

Trên con đường tu tập, chúng ta thường thao thức, mong đợi làm sao có được an lạc và giải thoát. Cuộc sống cho ta nếm đủ mùi vị của nỗi khổ; khổ vì thiếu thốn, khổ vì hình hài tật bệnh, vì hoàn cảnh gia đình, và buồn khổ vì sự cô đơn. Chưa có một ai có thể nói tôi là người hoàn toàn hạnh phúc. Chúng ta thử nhìn mà xem, từ bản thân mình, gia đình, họ hàng mình, bạn hữu của mình, cho đến người hàng xóm giàu sang quyền quí... ai cũng có nỗi khổ, cùng nếm chung hương vị của chữ khổ như nhau. Chúng ta mơ ước chấm dứt mọi khổ đau: khổ của thân, khổ của hoàn cảnh, khổ của sự thiếu thốn vật chất, khổ của bất như ý, khổ của vui buồn, thương ghét... đè nặng lên tâm thức và như vậy là chúng ta cố đi kiếm tìm hạnh phúc.

Cái khổ lớn lao nhất của đời người là sợ chết. Hầu như chúng ta đều giống nhau ở chỗ là thường băn khoăn không biết rồi mình sẽ đi vê đâu. Ai rồi cũng đi đến đoạn cuối trả hình hài về cho cát bụi, nên cái chết đến là chuyện chắc chắn. Tuy vậy, bản chất của cái chết vừa là một sự thật bất biến lại vừa rất bấp bênh, bất định. Nghe ra có vẻ mâu thuẫn. Thế nhưng nỗi hoang mang, lo lắng và sợ hãi của chúng ta lại nằm ở điểm này. Bấp bênh bất định là vì ta không biết chắc cái chết sẽ đến với ta lúc nào, và cái chết sẽ đến với mình ra sao. Nó gửi đến ta bản án treo không hẹn tháng ngày, để rồi có thể bất ngờ ập xuống đời ta một lúc nào đó. Có thể hôm nay, ngày mai, vài ba năm nữa, hai chục năm sau hay trong chốc lát... Rõ ràng ta không biết mình sẽ đi về đâu. Chúng ta sẽ rơi vào cõi mịt mù rất ghê sợ của hố thẳm hư vô? Đây là nỗi lo sợ lớn nhất của con người.

Ngay trong câu hỏi của vị tăng xin hòa thượng dạy cho biết Phật là gì cũng có thể giúp chúng ta trở về an trụ trong vùng đất Phật của chính mình, chấm dứt con đường lang thang vô định. Chấm dứt ở đây không có nghĩa là khi hiểu biết rồi, tu tập rồi thì thân này trở thành kim cương bất hoại. Chấm dứt là ta biết ta từ đâu mà có mặt trong đời; khi trả hình hài này cho vô thường ta còn lại gì:
  • Ta còn gì để lại không?
    Kìa non đá lở, này sông cát bồi...
    Lang thang từ độ luân hồi
    U minh nẻo trước, xa xôi dặm về.

    (Vũ Hoàng Chương)
Cuộc đời vốn luôn biến thiên, thay đổi không thể lường được. Núi non còn đó nhưng rồi sẽ thành sông hồ, và sống hồ, biển cả mai kia có thể là nương dâu. Chúng ta đã lang thang qua bao triệu kiếp luân hồi đến nay vẫn không biết mình từ đâu có mặt trong trần gian này. Ta cũng không biét khi rời bỏ hành tinh này ta sẽ đi về nơi nào. Nỗi sợ hãi của một người đi trên biển dù có lớn bao nhiêu nhưng vẫn còn chỗ bám bíu, biết rằng ta có bến bờ, có bạn đồng hành và ít ra còn có con thuyền. Nhưng nghĩ về cõi chết mịt mù, thăm thẳm kia chỉ có một mình ta trôi chơ vơ không bạn đồng hành, không bến đậu thì quả thật là nỗi hãi hùng.

Do đây, câu hỏi xin khai thị về Phật tánh của vị tăng sĩ ngày xưa chính là niềm khao khát tu tập làm thế nào để giải thoát, để có được an lạc ngay trong hiện đời, không còn tới lui trong vòng sinh tử luân hồi. Khi hành giả bước vào con đường tu tập là chỉ đặt vấn đề quan trọng ấy thôi. Còn chúng ta tu tập hôm nay chỉ để mong có vài ba ngày thư giãn, có chút thảnh thơi, an lạc là đủ rồi. Đâu cần đặt vấn đề gì quan trọng. Tối thiểu thì cũng đã để ra được vài ngày rời khỏi thành phố náo nhiệt, đến hưởng không gian núi đồi yên tĩnh là hạnh phúc rồi. Chúng ta không mơ ước hướng đến đời sống tâm linh cao hơn, đưa tâm thức siêu vượt như các vị thiền sư. Chúng ta rất khác người xưa là như vậy.

Vị thầy kia xin thiền sư dạy cho pháp hành làm thế nào để có thể đạt thẳng đến sự an lạc giải thoát ngay trong trái tim của mình. Vị thiền sư lỗi lạc kia đã không đáp ứng. Ông chỉ loanh quanh bắt học trò làm từ việc này đến việc khác, đến chín năm như thế cho đến lúc người học trò rất ham tu tập kia tự mình giác ngộ điều quá bất ngờ, đó là cái mình muốn tìm đã ở ngay trong mình, ngay nơi đây, và lúc này, không phải ở đâu khác.

Các vị thiền sư hướng dẫn đồ chúng thường hạn chế tối đa việc thi thiết phương tiện. Các ngài muốn chúng ta khao khát, bức xúc mỏi mòn phải tự khám phá và một ngày nào đó chân lý sẽ tự bừng sáng trong tâm thức. Cũng có khi họ đẩy sự đam mê của người học trò đến độ bùng cháy rồi mới bắt đầu hé cánh cửa cho người học trò bước vào. Tại sao các vị thích quanh co che dấu, mà chẳng chịu giải bày ngay? Điều này cũng thật dễ hiểu: việc gì mang đến sự thành công dễ dàng, người ta sẽ hay chủ quan xem thường - những gì mà tự ta phải khổ công, khó nhọc tìm kiếm, tạo dựng thì ta mới thực sự trân quí.

Cũng như chúng ta, nhiều người có cơ hội gần gũi những vị thầy giỏi, dạy cho mình những pháp môn thực tập căn bản như "thở vào biết thở vào, thở ra biết thở ra..." rất nhẹ nhàng, giản dị thì ta dễ phát sinh tâm lý xem thường, cho rằng sinh ra là đã biết thở rồi, cần gì phải học thiền, học thở. Thế nhưng nếu chúng ta có dịp lần mở những trang kinh Nguyên Thủy đọc để thấy đức Thế Tôn dạy các thầy tỳ kheo ngày xưa nương vào pháp quán hơi thở này mà có thể chứng quả A la hán trong hiện đời, mới biết đây không phải là pháp thực tập bình thường.

Những kinh như kinh Tứ Niệm Xứ, kinh Quán Niệm Hơi Thở trong văn học A Hàm là những bài kinh quan trọng giúp cho chúng ta tiếp xúc trực tiếp với pháp môn căn bản để thực tập và chứng nghiệm giải thoát, an lạc ngay trong hiện tại. Thế nhưng những kinh này nếu có đọc, chúng ta cũng chỉ đọc lướt rồi để qua một bên, vì những câu chữ nghe qua quá đơn giản, chân chất, bình thường và nhất là nó không thỏa mãn cho sự tò mò, hiếu kỳ của chúng ta. Ta phải học cái gì nghe cao siêu hơn như Tánh Không, Niết bàn, Bát nhã, Hoa Nghiêm, Trung quán..., hay nói những gì vượt trên chín tầng mây như thế giới Hoa tạng... thì mới lý thú. Tâm thức con người thường như vậy, thích những gì xa vời, huyền ảo, mông lung.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Cành Triêu Nhan

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Do vậy, các thiền sư nghĩ rằng muốn chỉ tâm Phật nằm ngay nơi mỗi người thì cách hay nhất là đừng nói gì cả mà hãy để cho sự khát khao của họ đủ lớn và khi trực nhận được chân lý họ mới sống chết với nó, mới không thể quên được. Nếu giải thích rõ ràng, chỉ dẫn từng tí một, người xưa gọi đó là ngôn ngữ chết. Trong nhà thiền gọi là tử ngữ, ý muốn chỉ lời nói rõ ràng, sáng tỏ dễ hiểu một khi người ta nắm bắt được rồi sẽ trở nên nhàm chán. Người ta không băn khoăn, thắc mắc, không mong chờ, mơ ước thành đạt nên trở thành hờ hững, không bận tâm. Nếu như vậy là chôn vùi người kia chứ không giúp được gì. Thế nên, các thiền sư luôn dấu kỹ những điều rất giản dị, không muốn nói rõ là như vậy.

Điều các vị thầy muốn nhắc nhở chúng ta là quay về quán chiếu cái mình đang đi tìm, để thấy cho được nó đã có mặt nơi chúng ta. Chúng ta mãi tìm kiếm vòng quanh, đến chừng quay trở lại thì thấy rõ ràng nó đã có sẵn nơi mình rồi. Từ những việc bình thường trong đời sống cho đến an lạc, giải thoát, Niết bàn thâm sâu cũng như vậy thôi. Ta tìm hạnh phúc ư? ta cứ tưởng thủ đắc cái này, cái nọ mới hạnh phúc. Quan niệm hạnh phúc đó đã lừa gạt chúng ta và nó luôn di chuyển mục tiêu khiến ta không bao giờ dừng lại việc miệt mài theo đuổi. Hãy thử quay lại nhìn vào tự thân, ta sẽ thấy tâm thức luôn mong mỏi, chưa bao giờ bằng lòng với những gì đang có. Khi chúng ta chưa vui sống với những gì ta có, chưa vui sống với chính mình, với cuộc đời mình, dù ta có tìm được những thứ gì khác để có hạnh phúc thì hạnh phúc đó cũng không bền vững. Trong chính đời sống của ta, hạnh phúc đã có mặt. Nên biết hạnh phúc hay bất hạnh đều từ trong ta: Nó là cái bóng của chính ta. Hãy quán chiếu thật sâu điều này để cảm nhận. Nếu ta là cây tùng thì ở đâu cũng là cây tùng, nếu là dây leo thì suốt đời bám leo, nương tựa. An lạc, hạnh phúc là cái đang có trong tay mình, ta chỉ cần thọ hưởng. Làm được điều này là chúng ta đã nắm được căn bản của sự tu tập.

Phương pháp thực tập đơn giản mà đức Thế Tôn đã chỉ dạy là đem tâm về an trú nơi hơi thở. Dừng lại, không để cho tâm thức rong ruổi, lang thang đó đây. Mời lòng dừng lại nơi đây để thấy cỏ dưới chân mình vẫn xanh, chứ không phải cỏ bên kia đồi xanh hơn. Nhà ta có hai phòng, con cái ta như vầy, ngay nơi đây ta đã có vô vàn điều kiện để hạnh phúc. Hãy ngắm nhìn và bằng lòng với những gì ta đang có là hạnh phúc tự nhiên nở hoa trong ta.

Trên một chuyến phi cơ từ Canada về Mỹ, có hai người một nam, một nữ ngồi gần nhau trên cùng một hàng ghế. Anh chàng người Mỹ cảm thấy bực bội và khó chịu vì cách tiếp đãi, cư xử của cô tiếp viên, hơn nữa thức ăn thì quá tệ, nên anh ta cau có, lầm bầm trong suốt chuyến bay. Người bên cạnh là một phụ nữ Trung Đông không giỏi tiếng Mỹ. Bà nhìn sang anh chàng người Mỹ cười rất tươi, nói: "Chuyến đi thật là hạnh phúc!" Bà khen ngợi từ tiếp viên cho đến thức ăn... cho rằng tất cả đều hoàn hảo. Anh ta trợn mắt hỏi: "Bà có chắc không?" Bà gật đầu, nói tiếp: "Anh biết không, đất nước tôi rất khốn khổ, thiếu thốn mọi thứ, thiếu cây xanh, thiếu nguồn nước, thiếu ăn, thiếu mặc..., lại không một ngày bình yên, bom đạn rơi như mưa, cái chết chực chờ giáng xuống người dân nước tôi bất cứ lúc nào. Tôi không biết tôi có còn sống được đến ngày mai hay không. Hôm nay tôi có được một ngày bình yên, thật là tuyệt vời. Ôi, ở đất nước tôi làm gì mà có được như vậy".

Chúng ta không cần nhìn qua Trung Đông, chỉ nhìn ở gần đây ta cũng thấy mình đang có vô vàn điều hạnh phúc. Biết bao nhiêu người còn bị sự nghèo đói vây quanh, nhiều trẻ em thất học, kẻ không nhà đầy dẫy... họ không được như chúng ta, vậy mà chúng ta thấy sao phiền não, bất an vẫn đến bủa vây mình. Chúng ta đang dẫm bước trên hạnh phúc, dạo chơi trên hạnh phúc, thở trên hạnh phúc. Hạnh phúc đang ở trước mặt, bên cạnh và chung quanh ta. Đời sống của chúng ta tươi đẹp như vậy, thế mà chúng ta không biết thưởng lãm. Mỗi ngày chúng ta tự làm khổ chính mình; tự dày xéo, làm đau thương mình bằng những giận hờn, ưu tư, buồn phiền... Đây là điều vụng về nhất mà chúng ta cần khắc phục.

Chung qui cũng tại chúng ta chưa biết dừng lại và cũng vì thế nên đức Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp rất nhiệm mầu: Đó là phương pháp thực tập đem tâm về an trú ngay nơi hơi thở, dừng tâm lại ngay nơi thân thì hạnh phúc, an lạc liền có mặt ngay lúc đó. Nếu chúng ta biết làm cho tâm dừng lại ngay bây giờ để tiếp nhận trọn vẹn, sâu sắc những điều kiện mình đang có là chúng ta đã thông minh biết thưởng thức hạnh phúc của chính mình. Đức Phật vẫn luôn khẳng định tất cả chúng ta đều có sẵn tự tánh Niết bàn, thể tánh của một vị Phật nơi mình, thế mà ta không sống được với thể tánh vốn có ấy. Chúng ta cam chịu làm chúng sinh nổi chìm trong sinh tử. Đức Thế Tôn ngay lúc thành tựu giác ngộ đã thốt lên: "Mọi chúng sanh đều có đức tướng trí tuệ Như Lai, thế mà không khám phá, không sử dụng". Phật đã tự có trong chúng ta, bình an, hạnh phúc là cái sẵn đủ không cần phải làm điều gì thêm. Chỉ vì chúng ta chưa đủ thông minh làm cho nó hiển lộ ra mà thôi. Bản chất từ bên trong của mỗi hình hài đều có tự tánh giác ngộ nằm sẵn. Gọi là Phật tự có. Trong thiền tông có một thiền ngữ rất quen thuộc đó là: "Thấy tánh ngộ đạo".

Từ ngộ đạo chúng ta thường sử dụng ở ý nghĩa phổ thông, ví dụ như khi thấy giá trị của Phật pháp, chúng ta phát tâm quy y Tam Bảo, thọ trì năm giới... Tuy nhiên, theo Thiền tông, ngộ đạo nghĩa là chúng ta có khả năng quay vào bên trong, nhận ra tự thể không sanh không diệt, thường hằng bất biến nơi mình, đó cũng chính là trạng thái Niết bàn như như bất động. Cũng theo Thiền tông, tất cả những gì làm được ở bên ngoài đối với một hành giả tu thiền đều chưa phải là ngộ đạo. Đó chỉ mới là những phát tâm tu tập hướng về con đường thiện lành, chưa phải là thấy đạo một cách rốt ráo.

Ngày xưa, từ ngộ đạo cũng được dùng để chỉ cho những hành giả chứng được quả Dự lưu (Tu đà hoàn). Quả Dự lưu không phải chỉ là quả chứng của riêng giới xuất gia, mà dành cho bất kỳ ai mở được con mắt chánh pháp (pháp nhãn). Khi hành giả thấu triệt được chánh pháp, mở rộng con mắt tâm thì từ đó cuộc đời bắt đầu trôi thẳng vào biển giải thoát (không còn lưu lạc trong cõi trần ai). Người xưa goi là chứng quả Dự lưu, Thiền tông Trung Hoa gọi là ngộ đạo. Chúng ta hôm nay thường dùng một từ dễ hiểu, gần gũi là nhận ra cái không sinh không diệt trong hình hài năm uẩn; trực ngộ bản chất thực của hình hài này là vô sinh bất diệt.

Trên hành trình trình tu tập Phật đạo, nỗi khao khát lớn nhất của hành giả là tiếp xúc cho được thể tánh không sinh không diệt này. Các tôn giáo cũng tìm kiếm cái bất sinh bất diệt, chỉ có điều tầm mức tâm linh của các vị giáo chủ có khác nhau. Đời sống con người là một hành trình tìm kiếm không ngừng nghĩ; lúc còn trai trẻ, chúng ta muốn có danh phận, đời sống vật chất đầy đủ; ở tuổi trung niên ta thường tìm kiếm lợi danh và khi đến già, tuổi đời kề cận với ly biệt nên ta muốn thăm dò vào lãnh vực tâm linh. Các vị vua chúa sau khi đánh đông dẹp bắc, ngồi trên vương vị thì điều mong ước lớn nhất của họ là được trường sinh bất tử. Sử sách ghi lại không hiếm các bậc đế vương (Trung Quốc) dùng đủ mọi phương tiện để kiếm tiên dược trường sanh, cải lão hoàn đồng. Và chúng ta đến một độ tuổi nào đó đều có niềm mơ ước như vậy. Đây là niềm mơ ước chung của con người trên trần gian này.

Thế nhưng phần lớn chúng ta đều không có cơ hội tiếp xúc với chánh pháp. Ngay cả một số người đủ duyên tiếp được xúc với chánh pháp, đôi khi cũng nghĩ rằng cái không sinh không diệt là cái cần phải tìm kiến bên ngoài con người này, hay cần làm sao sinh về một cảnh giới mà trong đó có lưu ly, xa cừ, trân châu, mã não... Trong khi giáo pháp đức Phật dạy rằng cái không sinh không diệt nằm ngay trong sinh diệt. Nếu chúng ta có khả năng quay về thì có thể nhận ra được cái không sinh diệt nơi chính mình. Khi nhận ra được thể tính này nơi mình thì mọi phù hoa thế trần không còn có thể dẫn dắt chúng ta được. Tự nhiên không có niềm đam mê nào lớn hơn niềm đam mê an trú vào tâm thể vô sinh bất diệt của chúng ta. Và khi đã nếm được hương vị của chánh pháp thì không có gì của nhân gian có thể lôi kéo làm chúng ta quên đi sự tu tập. Làm được điều này gọi là mở được con mắt chánh pháp. Thiền tông gọi là ngộ đạo hay kiến tánh; tổ Lâm Tế gọi là nhận ra con người thật của chính ta.

Chúng ta chỉ cần khéo quay lại thể nghiệm tự tánh vô sinh bất diệt thì nơi đây cũng là trạng thái Niết bàn, là tâm Phật của chính chúng ta. Đây là chỗ sâu nhất mà một người tu hành nhiệt huyết muốn thăm dò. Chúng ta cần phải có niềm tin vào thể tánh Phật nơi chính mình để không còn lang thang, lạc lõng, bơ vơ tìm kiếm ở bên ngoài.

Nếu nhìn sâu vào đời sống thân thể vật lý, ta có thể nhận thấy tất cả đều do nhân duyên hòa hợp mà hình thành, đều do vay mượn các yếu tố trong từng phút từng giây để tồn tại. Vay mượn khí trời để thở vào, thở ra, mượn thức ăn, nước uống để nuôi lớn từng ngày. Thế thì hình hài này là do vay mượn, do nuôi dưỡng chứ không phải là. "Con người thật" của ta hay Phật tánh trong ta không phải là cái gì được sinh ra; vì cái gì được sinh ra thì sẽ có lúc suy hao, mỏi mòn và có mất đi. Cái gì có sinh thì chắc chắn có diệt. Hữu sinh, hữu diệt. Cho nên thân này, hình hài này không phải là ta. Vị Phật đích thực trong ta không phải là do nhân duyên hòa hợp, không phải vay mượn, không phải lớn dần từng ngày. Và Phật tuy không rời hình hài này nhưng quyết không phải là hình hài này.

Trong sâu thẳm tâm thức, những gì lâu nay ta trân quí như niềm vui, niềm hạnh phúc... thì đó cũng chỉ là những cảm thọ phát sinh và biến hoại liên tục, không phản ảnh con người thật của chúng ta. Thân này bản chất của nó vốn vô tri, nhờ Phật tánh chiếu sáng bên trong nên trở thành hữu tri. Những gì ta gọi là niềm vui, nỗi buồn... đều được hình thành không phải chỉ thông qua sự tiếp xúc đơn thuần từ các giác quan, mà chúng được tạo ra từ ý thức hiện tại và quá khứ của chúng ta. Nói cách khác, niềm vui, nỗi buồn được tạo nên một phần là do cảm thọ, một phần do ý thức; hoặc bằng điều kiện, nhân duyên bên ngoài và bằng hồi ức, tưởng tượng bên trong của chúng ta. Và ý niệm giữ một phần quan trọng trong tiến trình tạo tác này, nhưng quan trọng nhất vẫn là những ý thức thầm thì ở sâu thẳm trong tâm thức.

Ý thức thì thầm thì luôn có mặt bên dưới làm nền cho những hạt mầm sinh khởi đưa đến tạo tác. Đó là những tiếng nói độc thoại, đối thoại âm thầm trong ta và bấy giờ ta vừa là chủ thể vừa là đối tượng; nó mang lại nhiều bộ mặt: quan tòa, luật sư, chủ nhân và cũng là khách. Có những trạng thái ý thức không nằm ở dạng độc thoại, đối thoại mà lăn tăn thầm lặng ở phía dưới; tinh mịn nhưng có mặt thường trực.

Thực tế hơn, ý thức chúng ta có con đường quen thuộc, có nơi chốn hướng đến nó. Và khi có chỗ hướng đến là có một điểm trong không gian; khi có mặt trong không gian là có mặt thời gian, có mặt trong chu trình sinh diệt, chịu qui luật vận hành của vô thường. Trong vật lý học, người ta cho rằng những gì vượt ngoài tốc độ ánh sáng sẽ không còn sinh, không còn diệt. Ánh sáng có vận tốc 280 ngàn dặm một giây, và chưa có một vật gì trên hành tinh này có thể vượt ra ngoài tốc độ ánh sáng. Người ta lấy ví dụ, nếu có một loại phi thuyền nào vượt qua được vận tốc ánh sáng, khởi hành ngay từ bây giờ, đi một vòng 80 năm của hành tinh, khi quay trở lại thì người hành tinh này đã già 80 tuổi, nhưng con người ngồi trên phi thuyền trong không gian vẫn như chưa đi một phút nào. Thế nhưng, ý thức của chúng ta còn tinh nhạy hơn ánh sáng; sự di chuyển vận hành của ý thức nhanh hơn ánh sáng rất nhiều. Ý thức ta đến đi, sinh diệt để dệt thành những tiếng nói có thể vượt xa tốc độ ánh sáng. Khi ngồi tại đây nhưng chúng ta nghĩ về Việt Nam, có ngôi nhà cũ của mẹ, ta thấy ao bèo, mảnh sân đầy nắng... thì lập tức ta có mặt ở Việt Nam và tâm ta lúc ấy chỉ bằng ngôi nhà, ao bèo, mảnh sân.

Nhưng "sự nhận biết" của chúng ta tì thầm sâu, mênh mông bao trùm cả ý thức sinh diệt và vượt ra ngoài tốc độ ánh sáng. Và theo nguyên lý cái gì không có mặt trong thời gian và không gian thì vượt ra ngoài sự sinh diệt. Vậy cái không sinh diệt ở chỗ nào? Thực ra, nếu chỉ ra được thì nó sẽ trở thành đối tượng, thành cái của người khác mất rồi. Trong trường hợp này nhà thiền gọi là thầm liễu ngộ, thầm nhận biết nơi chính mình và có niềm tin mà thôi.

Khi định tỉnh nhận ra được ý thức sinh diệt đang vận hành thì ta được ví như bóng đèn đang rọi sáng chứ không phải là dòng ý thức thì thầm ấy. Ta là ánh sáng của bóng đèn soi rõ những gì đang diễn hành trong ta. Ánh sáng bóng đèn của ta là gì? Đó chính là sự nhận biết. Khả năng nhận biết này không cần học, không cần cố gắng cũng không cần trình độ trí thức mới có. Kiến thức là loại sinh diệt chỉ vay mượn trong kiếp này mà thôi. Ví dụ tôi là người Việt suy nghĩ bằng tiếng Việt, tiếng Việt chảy thì thầm trong tôi; quý vị học tiếng Pháp, suy nghĩ bằng tiếng Pháp thì khả năng nói thầm của quý vi bằng tiếng Pháp... Dòng ý thức thì thầm của kiến thức là những hạt giống mới gieo sau này, mới vay mượn gần đây; nó sẽ thay đổi, sinh diệt tùy theo hoàn cảnh đời sống và tâm thức của mỗi chúng ta. Khi nhìn một đóa hoa, cái nhận biết bừng sáng ban đầu của mọi người đều giống nhau. Nhìn là liền nhận biết không cần phải khởi tiếng nói thì thầm. Tuy nhiên, bước qua giai đoạn nhận biết ban đầu này thì bắt đầu có sự khác biệt, chẳng hạn như chúng ta là kỹ sư nông nghiệp, sẽ nhìn doa hoa dưới con mắt phân tích của kiến thức sinh học, nếu ta là thi sĩ, sẽ nhìn đóa hoa dưới tâm trạng của một thi sĩ... và sự nhận biết như vậy là do khả năng, trình độ của từng người khác nhau, đôi khi còn kèm theo các cảm thọ vui buồn của quá khứ hay dự tính của tương lai. Tuy nhiên, sự nhận biết ngay giây phút đầu tiên đều đồng đẳng như nhau, vì nó vốn đã có sẵn, không cần tìm cầu, không cần thực tập, học hành, vay mượn gì cả, chỉ cần chúng ta biết sử dụng mà thôi. Nó vốn là bản nguyên, là tâm Phật chiếu diệu của chúng ta.

Để có kinh nghiệm sâu sắc về điều này, dĩ nhiên chúng ta phải thực tập hàng ngày. Những ai đã thể nhận "con người thật" và an trú vĩnh hàng nơi tâm Phật vô sinh bất diệt thì người đó có thể tự tại với sống chết, đến đi của chính mình; có thể làm chủ thọ mạng trong hiện đời, làm chủ sinh diệt trong tương lai.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Cành Triêu Nhan

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Hình ảnh

TRĂNG GIỮA TRỜI KHÔNG
  • Pháp thoại tại chùa Phật Tổ
    Ngày 29-03-2008
Bồ tát Quán Thế Âm được xem là biểu tượng từ ái của người mẹ hiền. Hình ảnh đó của ngài đã có mặt rất lâu đời trong truyền thống đạo Phật. Nếu ở Trung Hoa, ngài có mặt trong tâm khảm mọi người ngay từ lúc Phật giáo mới du nhập, thì vào kỷ nguyên đầu tiên, khi Phật giáo có mặt ở Việt Nam, Quán Thế Âm cũng là biểu tượng cho sự linh thành, cảm ứng và cứu độ.

Đặc biệt, Phật giáo dân gian ở phương Đông ngay từ đầu đã là tôn giáo của cầu nguyện. Dần dần niềm tin của quần chúng, Phật tử vào năng lực cứu độ của Bồ tát Quán Thế Âm ngày càng sâu chắc, đến mức trở thành một tín ngưỡng. Ngày nay tất cả mọi ngừi Phật tử hầu như không thể quên ba ngày khá quan trọng trong năm cho lễ vía của ngài: Ngày đản sanh 19 tháng 2, ngày thành đạo 19 tháng 6 và ngày xuất gia 19 tháng 9 (âm lịch).

Chắc chúng ta thầm nghĩ tại sao không có ngày ngài nhập Niết bàn? Bởi ngài là Bồ tát tha phương thị hiện độ sinh trong cõi đời, có mặt khắp mọi nơi theo bản nguyện; hành trạng của ngài đến đi siêu thế cho nên không có ngày nhập Niết bàn.

Chúng ta nên nhớ, Bồ tát Quán Thế Âm vốn là người nam, chứ không phải người nữ. Nhưng từ thế kỷ thứ II về sau, đến cuối đời Tống đầu đời Minh, hình ảnh Quán Thế Âm chuyển dần theo những câu chuyện về sự thị hiện của ngài bằng thân người nữ trong nhân gian và lúc bấy giờ người ta đã tạo tôn tượng của ngài qua hình ảnh người nữ, kéo dài đến hiện tại. Ở Việt Nam, vào thế kỷ thứ II, kinh Vô Lượng Thọ đã xuất hiện; kinh Pháp Hoa Tam Muội cũng dược dịch vào năm 255 tại Giao Châu và nhiều kinh khác, trong đó nói rất rõ về hạnh nguyện và năng lực lợi tha của Bồ tát Quán Thế Âm, đồng thời cũng đề cập đến phước đức và sự linh nghiệm của việc tôn kính, xưng tụng danh hiệu của ngài. Từ đó niềm tin Quán Thế Âm có mặt trong lòng người Phật tử Việt Nam và lớn dần cho đến hiện nay.

Các quốc gia như Nhật Bản, Đại Hàn, Trung Quốc đều sùng mộ, tín ngưỡng Quán Thế Âm, cũng như cung kính thờ phượng hình ảnh ngài. Và trong khi tạo dựng tôn tượng ngài, người ta thường thể hiện ngài qua ba mươi hai hóa thân. Ngài phát nguyện mang niềm vui đến cho chúng sanh với đức vô úy và năng lực cứu khổ. Ai có lòng tin nơi ngài là có thể đạt được tuệ giác, chứng nghiệm được Thánh quả hiện tiền bằng pháp tu nhĩ căn viên thông. Ngoài đức vô úy ngài thường ban cho mọi người, một điều gần gũi nữa đó là những ai có niềm tin nơi ngài thì đều qua được mọi khổ đau, tai ương, họa hoạn... Nhiều người trong chúng ta đã tu tập theo pháp môn niệm danh hiệu Quán Thế Âm, thế nhưng có khi nào cảm nghiệm được sự linh ứng từ ngài chưa?

Nếu về Việt Nam, có dịp đi Huế chúng ta có thể thăm đồi Tứ Tượng, cách thành phố Huế khoảng ba mươi cây số. Ngày xưa ngọn đồi chưa có tượng Quán Thế Âm, nhưng nay tôn tượng của ngài đã được dựng lên giữa đỉnh đồi rất uy nghi vì một sự linh hiển xảy ra.

Chuyện kể rằng vào một đêm nọ, ngài đã hiện thân một người nữ áo dài trắng thướt tha, đến vỗ vào vai người đại đội trưởng chỉ huy đoàn quân đang đóng ở ngọn đồi lúc đang ngủ, bảo hãy mau rời khỏi nơi đây. Người chỉ huy ấy giật mình thức dậy, ra lệnh cho nhổ trại, Chẳng bao lâu sau đó, ngọn đồi bị pháp kích tan hoang. Sau khi thoát chết, người lính trở về thưa với Ôn Từ Đàm (thầy Thiện Siêu) và Ôn Linh Quang (lúc ấy vẫn còn) xin thiết lập nơi ngọn đồi một tượng Bồ tát Quán Thế Âm. Hai Ôn chần chờ chưa quyết định, nhưng sau đó quý Ôn chiêm bao thấy Bồ tát Quán Thế Âm hiện về bảo hãy dựng một tượng Quán Thế Âm nơi ngọn đồi ấy để dân chúng thành phố Huế bớt khổ.

Huế đã vốn nghèo lại càng thêm xơ xác, tang thương bởi cuộc chiến kéo dài; hết nỗi kinh hoàng trong Tết Mậu Thân - 1968, lại đến nỗi đau trong mùa hè đỏ lửa năm 1972. Và từ ngày ngọn đồi Tứ Tượng được tôn trí thánh tượng Quán Thế Âm, trải qua bao nhiêu đợt binh lửa tàn phá, nhưng pho tượng vẫn không bị suy suyển một chút nào. Những năm gần đây, nơi ấy đã trở thành một trung tâm lớn để Phật giáo tỉnh Thừa Thiên tổ chức những lễ hội rất quy mô.

Những sự kiện kể trên nói lên niềm tin của người Phật tử Việt Nam nói riêng và của người Phật tử phương Đông nói chung đối với Bồ tát Quán Thế Âm.

Tuy nhiên, điều sâu xa chúng ta cần chia sẻ ở đây là trong cả ngàn người xưng tán, thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm, có người được ngài hiện thân cứu độ, gia hộ, có người thì chưa cảm nhận được năng lực từ bi của ngài. Tại sao? Có thể đức tin thì ai cũng có, nhưng mức độ của đức tin về ngài thì chúng ta có thể không giống nhau. Cũng là niềm tin nhưng tùy theo mức độ tâm thức, cách thức biểu lộ ứng dụng niềm tin khác nhau nên chúng ta chưa cảm được năng lượng từ bi nơi ngài. Thông thường chúng ta chỉ niệm danh hiệu ngài lúc cần đến: lúc khổ đau, gặp chuyện bất trắc ta mới cầu ngài, qua sông gặp sóng dữ thì mới niệm tên ngài, qua được rồi lại quên hết, vì thế nên chưa cảm được năng lượng từ bi của đức Bồ tát gia hộ. Khi niềm tin Bồ tát Quán Thế Âm được hình thành vững chắc trong ta, tâm ta khẩn thiết trì niệm danh hiệu ngài thì chắc chắn cảm ngay được năng lượng lành của ngài đến với mình.

Người Phật tử thuần thành là người có niềm tin bất hoại, là người biết trân quí từng giây phút tu tập để không lãng phí cuộc đời của mình. Thời gian của đời sống đi qua rất nhanh, hãy nhớ rằng một ngày nếu ta không gieo xuống một chút phước điền, thì chắc chắn những phiền não, lo âu, nghiệp chướng sẽ tràn ngập tâm thức. Hãy thường xuyên gieo vào tâm thức mình những thiện lành, những niềm tin chính đáng để trở nên xứng danh là người Phật tử thuần thành. Chúng ta không một ai có thể lường được những bất hạnh, rủi ro sẽ đến với đời mình. Có gì bảo đảm cho ta ngày mai, có gì bảo đảm cho đời sống ta luôn an bình. Cho nên vấn đề quan trọng nhất là hãy tạo những nghiệp lành từ những ý niệm trong sáng, thánh thiện, đó sẽ là nơi che chở cho chúng ta.

Có một bài kệ tán thán Bồ tát Quán Thế Âm rất hay được truyền tụng trong văn học Phật giáo, có thể giúp chúng ta trên con đường thực tập chuyển hóa, thanh lọc thân tâm:
  • Bồ tát thanh lương nguyệt
    Du ư tất cánh không
    Chúng sanh tâm cấu tịnh
    Bồ đề ảnh hiện trung.
Sư ông Làng Mai đã dịch như sau:
  • Bụt là vầng trăng sáng
    Đi ngang trời thái không
    Hồ tâm chúng sanh lặng
    Trăng hiện bóng trong ngần.
Đây là bài thi kệ thường được xưng tán trong các buổi lễ sám để tỏ lòng thành kính đức Bồ tát Quán Thế Âm. Hình ảnh gợi tả của bài kệ khiến chúng ta nhớ đến câu: "Thiên giang hữu thủy, thiên giang nguyệt" - Ngàn con sông có nước thì ngàn mặt trăng hiển hiện. Có nghĩa là một khi tâm chúng ta có niềm tin trong sáng, vững chắc thì Quán Thế Âm liền có mặt.

Khi tu tập theo hạnh nguyện Bồ tát Quán Thế Âm, chúng ta phải bước qua bốn giai đoạn: Thứ nhất là phát khởi niềm tin đối với ngài; thứ hai là thực hành thanh lọc tâm; thứ ba là phát khởi lòng từ bi; và thứ tư là làm cho tâm biểu hiện phẩm chất của Bồ tát. Trở thành một Phật tử thuần tín, có niềm tin sâu vào Tam Bảo là ta đã thực hiện bước đầu tiên. Tiếp đến, chúng ta cần phải thực tập chuyển hóa, thanh lọc tâm thức và làm phát khởi trong ta năng lượng tình thương rộng lớn của Bồ tát Quán Thế Âm. Và cuối cùng là làm cho thân tâm lắng sạch phiền não, làm cho con người mình trở thành một hóa thân của Bồ tát Quán Thế Âm.

Có thể nói không một ai thiếu niềm tin mà tồn tại. Chúng ta có thể là một người cang cường không tin vào thế giới vô hình, không biết e sợ điều gì, nhưng ít nhiều chúng ta cũng gắn niềm tin vào một cơ chế xã hội, một năng lực chánh trị. Nếu không gắn cuộc đời ta cho niềm tin về một cơ chế vận hành xã hội hay quyền lực chánh trị thì cũng gắn niềm tin vào thế lực của đồng tiền. Nhưng thông thường, khi đã lớn tuổi, nếm trải đủ ngọt bùi, cay đắng của cuộc đời, đối mặt với những bất ngờ đổ xuống đời mình thì người ta lại có niềm tin thiên hướng về bên trong, tin vào thế giới vô hình.

Con người là một sinh thể được cấu tạo bằng hai phần vật chất và tinh thần. Vật chất có thể biến hoại, nhưng tinh thần thì vẫn còn lại. Tinh thần làm chủ hình hài vật chất này, cho nên khi tâm thức được nâng cao ở một tầm mức nào đó thì niềm tin của ta hoàn toàn đặt vào thế giới tâm linh. Và nhu yếu tâm linh là nhu yếu phát sinh một cách tự nhiên, dù cơ chế xã hội đương thời có muốn hay không muốn thúc đẩy chúng ta hướng vào con đường đó. Tôn giáo phát sinh từ nhu cầu tâm linh, từ trái tim con người, từ sự thao thức, khát khao hướng đến một điều gì cao sâu hơn đáp ứng cho nội tâm và hoàn cảnh bên ngoài. Khi quan sát thực tế có thể nói rằng, nếu thiếu may mắn chúng ta sẽ lạc bước vào những tôn giáo cuồng tín và ngược lại, may mắn hơn thì chúng ta sẽ tiếp nhận một tôn giáo mà đạo đức, trí tuệ của tôn giáo đó có thể thúc đẩy chúng ta biết vươn đến một đời sống thanh cao đúng nghĩa. Chung quy, chúng ta thấy niềm tin là nền tảng ban đầu để một con người có thể tồn tại và thăng tiến tùy theo năng lực trí tuệ và phước duyên của họ.

Với nền tảng đức tin ban đầu đó, khi ta là người thực sự ưa thích tu tập, muốn cảm nghiệm được nhân quả trong đạo Phật một cách rõ ràng, ngoài niềm tin đặt vào các vị Bồ tát, Thánh hiền..., chúng ta cần phải làm một việc rất quan trọng nữa, đó là thanh lọc tâm hay chuyển hóa tâm thức của mình. Mặc dù có niềm tin lớn đối với các vị Phật, Bồ tát; miệng có niệm danh hiệu quý ngài bao nhiêu triệu lần nhưng lòng ta vẫn chứa đầy năng lực tiêu cực, thì ta vẫn không có khả năng tiếp xúc được với năng lực cảm ứng của chư Phật, Bồ tát. Chắc ta vẫn thường nghe câu: "Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu". Trong ta một khi đã tràn đầy năng lượng thiện lành, khi nhìn người tức khắc ánh mắt tỏa ra sự dịu mát, mọi lời nói ra đều hòa nhã, nghe êm ái. Nếu người tiếp xúc cảm được độ rung của ta thì họ là người có cùng cung bậc tâm thức như ta. Nếu tâm ta chứa đầy thị phi, ghen tị, nhỏ nhen... thì loay hoay ta cũng tìm đến một người cùng tâm thức như ta mà thôi. Trái tim nhân ái có thể thương người, tử tế với người, giúp đỡ người nhưng chắc chắn không thể hòa hợp và gắn bó thân tình với những người như vậy.

Thế nên, thực tập chuyển hóa tâm là phương pháp tất yếu nếu ta muốn chiêu cảm được năng lượng gia hộ của Bồ tát. Và khi lòng mình ở một tầng mức nào đó sẽ cảm ứng với dòng năng lượng, cùng hòa nhịp độ rung của tầng sóng bên ngoài giống như mình. Chúng ta nâng chiều cao tâm thức lên thì cảm được năng lượng ở chiều cao tương ứng. Cũng tương tự như cách chúng ta sử dụng máy radio, máy vô tuyến truyền hình... tu tất cả các tần số và mỗi tần số đều có độ rung của nó. Nếu bắt đúng vùng phủ sóng thì chúng ta sẽ nhận được đúng hình ảnh, âm thanh hiện ra.

Thực tập thanh lọc tâm là làm sao cho các chất liệu tiêu cực trong lòng ta ngày càng rơi rụng, tiêu tán đi, dành chỗ cho năng lượng tích cực lớn dậy, nở hoa. Nếu chúng ta làm được điều này thì năng lượng của Bồ tát Quán Thế Âm dễ dàng được cảm ứng, vì ngài là biểu tượng cho từ bi và trí tuệ. Để cho quá trình thanh lọc thân tâm được hiệu quả, chúng ta cần có không gian, cần hóa giải những điều kiện tạo nên năng lượng tiêu cực trong đời sống của mình. Chẳng hạn như việc niệm Phật là một trong những cách làm cho phiền não, sầu khổ rơi rụng bớt, và như vậy là ta cũng đang thanh lọc thân tâm.

Khi niệm Phật chúng ta có thể niệm lớn tiếng ra bên ngoài hay niệm thầm với những câu danh hiệu hiện lên liên tục trong tâm thức. Đây là bước căn bản để cho chúng ta làm quen với việc thực tập. Nếu chúng ta đọc thành tiếng liên tục các danh hiệu được ghi trong các quyển kinh (hay nghi thức tụng niệm), thì gọi đó là tụng danh hiệu Phật (cũng như tụng kinh vậy). Chúng ta cần lưu ý rằng việc niệm Phật có ý nghĩa rất quan trọng và sâu sắc. Khi chiết tự chữ niệm, ta có ở trên chữ kim có nghĩa là ngay hiện tại, bây giờ và ở đây; bên dưới là chữ tâm tức là đem sự nhận biết của ta dừng trụ ngay ở đây và bây giờ. Đó là ý nghĩa của chữ niệm. Chữ Phật nghĩa là giác ngộ, tỉnh thức; ở đây hàm ý trí tuệ luôn bừng sáng không vắng mặt phút giây nào, luôn mời gọi sự nhận biết an trú ngay nơi hiện tại, không để cho tâm thức đuổi chạy về quá khứ, rong ruổi ở tương lai, cũng không ở trong trạng thái mơ màng như chìm vào giấc ngủ. Trạng thái tỉnh sáng, nhận biết hiện tại gọi là trạng thái giác ngộ của tâm. Đó là ý nghĩa của việc niệm Phật.

Niệm Phật là một pháp môn rất thù thắng. Một lời kinh, một tiếng niệm Phật một khi đã gieo vào tâm thức sẽ đưa đến năng lực kỳ diệu có thể chuyển hóa mọi tập nghiệp của nhiều kiếp sống trong tàng thức của chúng ta. Do vậy, niệm Phật là một phương pháp gột rửa thân tâm dễ thực tập nhất. Tuy nhiên chúng ta cần phải biết niệm Phật theo đúng ý nghĩa chân chánh của nó, nghĩa là không phải chỉ đơn thuần đọc hay tụng lên một danh hiệu Phật hoặc Bồ tát. Chúng ta thường hay mắc phải thiếu sót này.

Ở mức độ sâu sắc, niệm Phật là an trú tâm trong trạng thái bất động, tỉnh sáng. Chúng ta đừng nghĩ những vị thiền sư không bao giờ niệm Phật, trái lại có khi các ngài còn niệm Phật giỏi hơn chúng ta nhiều. Bạch Ẩn Huệ Hạc là một thiền sư nổi tiếng của Nhật, ngài niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát hàng ngày. Một trong những thư pháp nổi tiếng của ngài viết để dạy đồ đệ có câu: "Thường niệm Quán Thế Âm Bồ tát".

Niệm danh hiệu Phật hay danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm... với công năng thanh lọc gần nhất là làm cho những hạt mầm tiêu cực như ghét thương, giận hờn, sầu lo... dần dần tiêu lặn theo từng âm thanh xướng niệm đang gieo vào trong ta. Thâm sâu hơn, một khi chúng ta an trú ngay nơi sát na hiệm tại, mời tâm Phật luôn có mặt thì không những chúng ta có thể thanh lọc những hạt mầm sầu khổ, bất an mà đồng thời những hạt mầm sinh tử nối dài qua nhiều kiếp cũng cùng lúc tiêu sạch. Bấy giờ lòng ta thênh thang, rỗng lặng và tâm từ bi bắt đầu khởi phát.

Niệm Phật, tụng kinh, trì chú, lễ bái, tọa thiền... không có pháp nào đối nghịch với pháp nào. Chúng ta vì tu chưa giỏi nên sanh tâm phân biệt pháp môn này hay hơn pháp môn kia. Chúng ta hãy có cái nhìn dung thông nhất quán, và phải nhìn xa hơn để thấy nội dung cốt tủy của kinh điển Đại thừa, Nguyên thủy, Mật Tông, Ngữ lục... đều là xiển dương chánh pháp của đức Thế Tôn.

Nếu đọc vào văn học Phật giáo Nguyên thủy cũng như văn học A Hàm, chúng ta sẽ gặp một câu thật hay mà khi đọc lên ta thấy lòng mát dịu và thật khó quên: "Đức Thế Tôn thường vào mỗi buổi sáng lúc mặt trời vừa mọc, ngài nhập từ bi quán, rải tâm từ thấm nhuần địa địa". Năng lượng từ bi nơi tâm đức Phật có thể làm dịu mát hành tinh như sương mai thấm đẫm, bao trùm đại địa, muôn loài từ con người đến cỏ cây, muông thú. Chúng ta hãy thực tập như đức Thế Tôn: bằng trái tim đầy tình thương của mình, ta nhìn con ta, người thân của ta, những người đối nghịch không thích ta... Ta hãy tập biểu hiện từ bi qua đôi mắt khiến cho năng lượng yêu thương tự nhiên lan tỏa, như sương mai phủ lên làm thấm mát họ. Chúng ta hãy thực tập để thấy công năng kỳ diệu của lòng từ bi, và chắc chắn từ bên ngoài lẫn bên trong, sự chuyển hóa sẽ được biểu hiện rõ ràng trong từng bước thực tập. Khi lòng ta chứa đầy chất liệu tình thương, dù kẻ thù có đứng trước mặt giận dữ, hùng hổ la hét, ta vẫn có thể bình thản, từ hòa và tự nhiên họ cũng chùn bước vì cảm được năng lượng mát lành của ta.

Nói như thế không có nghĩa là chất liệu từ bi có mặt thì ta sẽ trở thành người yếu đuối. Nên nhớ từ bi theo tinh thần Phật dạy luôn song hành cùng với trí tuệ và hùng lực. Ai đó có thể nghĩ rằng khi sân hận nổi lên cũng là một biểu hiện của sức mạnh (hùng lực); nhưng sức mạnh của sân hận là sức mạnh phát tiết từ vô minh và sức mạnh đó có thể quay lại hủy phá chính thân tâm mình. Khi thân tâm ta thanh lọc được nhiều nghiệp thức phiền não thì năng lực từ bi sẽ dễ dàng phát sinh và Bồ tát Quán Thế Âm sẽ thường hiển hiện trong trái tim mình.

Có một nhà thơ Nhật Bản rất nổi tiếng, một hôm lang thang từ miền Nam ngược lên miền Bắc, ông đi qua một xóm nhỏ giữa lúc đêm trăng. Dưới ánh trăng, những người nông dân trong làng đang tụ tập vui đùa, ca hát, làm thơ... Thấy ông lạc bước qua đây, họ mời ông ghé lại và bảo: "Chúng tôi đang uống trà, làm thơ. Ông có hứng thú ghé lại và sáng tác một bài thơ cho tiệc vui hôm nay không?" Ông trả lời: "Được, được chứ". Thế là ông cất tiếng đọc: "Vầng trăng non dại...", và chỉ mới nghe tới đó thì những người nông dân đã vội òa lên: "Không được đâu! Trăng hôm nay tròn, trăng rằm mà... không đúng!" Ông không nói gì, tiếp tục đọc:
  • Vầng trăng non dại
    Theo ta từ dạo ấy
    Ai có ngờ đêm nay...

    (Basho)
Bài thơ ngắn với kết thúc giữa chừng lững lơ... làm mọi người ngỡ ngàng, nhưng một thoáng sau họ cười vang, vỗ tay khen ngợi. Những câu thơ ngắn với những dấu chấm lửng lơ mời gọi, những âm tiết gieo vào lòng người nghe một nỗi bất ngờ không thể tả được. Ai có ngờ đêm nay... đêm nay trăng đã tròn. Vầng trăng theo ta từ độ ấy, từ lúc còn là mảnh trăng hình lưỡi liềm mỏng như lá liễu, theo chân ta trăng lớn dần cùng ngày tháng lang thang phiêu bạt, bất chợt đêm nay ánh sáng toa chiếu mênh mông, và nhìn lên, ta giật mình thấy nay trăng đã tròn.

Vầng trăng lúc nào cũng bắt đầu bằng một vành mỏng cong cong như lưỡi liềm treo nghiêng, rồi dần tròn đầy theo ngày tháng. Tâm chúng ta cũng như thế. Nếu mỗi ngày thực tập thanh lọc bằng cách gieo vào tâm từng chút thiện nghiệp, đến một ngày nó sẽ tròn đầy, viên mãn. Chúng ta thanh lọc là lấy đi những giận hờn, âu sầu, phiền não, ghét thương... để đến một lúc nào đó tâm ta cũng bất chợt bừng sáng, rạng ngời tuệ giác. Cho nên câu kệ tán: "Hồ tâm chúng sanh lặng. Trăng hiện bóng trong ngần" chỉ là nói lên cái kết quả tất yếu, hiển nhiên của việc thành tựu công phu thiền quán và tu tập.

Đọc vào kinh Phổ Môn, ta thấy năng lực của Bồ tát Quán Thế Âm có thể cắt đứt xiềng xích, tháo bỏ gông cùm, làm cho gươm kiếm gãy nát, địa ngục trở thành ao báu đầy hoa sen thơm ngát... Khi nghe những điều này xin đừng nghĩ rằng ngài có nhiều phép mầu huyền bí, hay ngài dụng thần thông biến hóa. Chúng ta nên biết rằng, tất cả đều do năng lượng từ bi rộng lớn, bao la của Quán Thế Âm Bồ tát mà mọi khổ đau, trói buộc đều được phá tan, bởi vì tâm đại bi của ngài có công năng diệu kỳ thể hiện khắp cùng vũ trụ. Thế nên khi chúng ta niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát một cách thâm thiết, thì đó cũng là thể hiện sự mong mỏi chuyển hóa, thăng tiến trên con đường cải đổi tâm tánh của chính mình và cũng là noi theo công hạnh của ngài đem yêu thương, đem niềm vui và lòng bao dung đến cho mọi người trong cuộc đời khổ lụy này. Nếu mỗi ngày chúng ta đều có thể tu tập chuyển hóa chính mình và thường khởi tâm từ bi gởi đến cho mọi loài là chúng ta đang niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát. Niệm danh hiệu Phật, Bồ tát trong ý nghĩa thâm sâu và diệu dụng nhất là thực hành thanh lọc, chuyển hóa và phát đại bi tâm.

Thực hành thanh lọc, chuyển hóa và phát tâm dại bi là con đường dài của những bước chân không ngừng nghỉ, chứ không phải một sớm mai thức dậy thì từ bi, cứu khổ đã có mặt như trong câu hát" yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ" (Trịnh Công Sơn). Ta phải làm cho tâm lắng trong, rộng mở, đầy tình thương, để hình ảnh của Bồ tát Quán Thế Âm có thể hóa hiện trong đó. Và một khi "hồ tâm chúng sanh lặng" thì "trăng hiện bóng trong ngần", đó là điều hiển nhiên tất yếu. Nhớ tưởng, trì niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm có nghĩa là huân tập trong ta những phẩm chất quý giá để ta có thể trở thành như Bồ tát Quán Thế Âm, chứ không có nghĩa chỉ trì niệm bên ngoài bằng miệng hay hướng đến một vị Quan Âm nào khác.

Từng ngày một nếu chúng ta không để cho sự thực tập bị gián đoạn, thì việc mời năng lượng từ bi của Bồ tát Quán Thế Âm có mặt trong ta là không có gì khó khăn, và lúc nào chúng ta cần, ngài liền có mặt vì ngài là hiện thân của tình thương đã có mặt trong ta và trong khắp mọi người. Khi ấy ta là năng lượng tỉnh thức và chuyển hóa, là vầng trăng Phật soi sáng vĩnh hằng trong hồ tâm của chúng ta, là năng lượng từ bi, yêu thương của Bồ tát Quán Thế Âm luôn tràn đầy thân tâm này. Bồ tát Quán Thế Âm đã hiện và tâm ta đồng với tâm chư Phật.
Sửa lần cuối bởi battinh vào ngày 02/12/13 16:39 với 1 lần sửa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.23 khách