PHẬT PHÁP VỚI THIỀN TÔNG

Thảo luận tư tưởng thiền tông Việt Nam.

Điều hành viên: binh

Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: PHẬT PHÁP VỚI THIỀN TÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

NGỤY CÔNG THỈNH THĂNG TÒA
Sư khai thị:

- Muốn biết pháp chăng? Ấy là Bồ Đề, Niết Bàn, Chân Như, Phật Tánh. Muốn biết bệnh chăng? Ấy là tham sân, tà kiến, vọng tưởng, điên đảo. Mặc dầu như thế, nhưng lìa điên đảo vọng tưởng thì chẳng có Chân Như, Phật Tánh; lìa tham sân, tà kiến thì chẳng có Bồ Đề, Niết Bàn. Như thế phân là đúng hay là chẳng phân là đúng? Nếu phân thì còn một bỏ một, cái bệnh càng nặng. Nếu chẳng phân thì Chân Như, Phật Tánh mơ hồ, rốt cuộc làm sao nói rõ cái lý lẽ "trừ bệnh chẳng trừ pháp".

Có người vừa nghe những lời kể trên liền nói: "Tức pháp là bệnh, tức bệnh là pháp. Hễ có ngôn thuyết đều chẳng phải nghĩa thật. Nếu thuận theo Chân Như thì vọng tưởng, điên đảo, tham sân, tà kiến thảy đều là pháp. Nếu thuận theo điên đảo thì Chân Như, Phật Tánh, Bồ Đề, Niết Bàn thảy đều là bệnh". Nếu có kiến giải như thế thì chẳng những không đủ tư cách mặc đồ tu, mà muốn làm nô lệ cho Tọa chủ cũng không thể được. Tại sao? Như Cổ Đức nói: "Nếu có một pháp hơn pháp Niết Bàn, ta nói cũng như mộng huyễn". Nếu được ở trong mộng huyễn, như thực mà chứng, như thực mà giải, như thực mà tu, như thực mà hành, dùng cái pháp như thực đó khéo tự điều phục, rồi khởi tâm đại bi làm mọi phương tiện để điều phục tất cả chúng sanh, mà đối với chúng sanh chẳng có cái tư tưởng điều phục hay không điều phục, cũng chẳng nghĩ rằng đó là vọng tưởng, điên đảo, tham sân, tà kiến; chẳng nghĩ rằng đó là Chân Như, Phật Tánh, Bồ Đề, Niết Bàn, chẳng nghĩ rằng đó là "trừ bệnh chẳng trừ pháp", chẳng nghĩ là "còn một bỏ một", "phân hay chẳng phân". Nếu chẳng có những suy nghĩ như thế thì được nhứt đạo trong sạch, bình đẳng, giải thoát.
THƯ ĐÁP TĂNG THIÊN DU
1. Phụ thư hỏi:

Lúc tôi ở Trường Sa được thư của Lão sư Viên Ngộ nói: "Ông lúc tuổi già tham thiền sở đắc rất là kỳ vĩ". Tôi nhiều lần nghĩ đến điều đó, nay đã tám năm rồi, thường hận chưa được đích thân nghe lời dạy bảo. Thật xiết bao ngưỡng mộ!

Tôi từ ấu niên đã phát tâm tham lễ các bậc tri thức, cúi đầu đảnh lễ hỏi đến việc này. Từ tuổi trưởng thành về sau, bị việc hôn nhân và quan chức sai khiến nên việc dụng công chẳng được thuần nhât. Từ đó đến ngày nay, tuỗi đã già rồi, đối với điều chưa được học hỏi thường tự hổ thẹn thở than, lập chí phát nguyện nếu chẳng ngộ thì thôi, bằng ngộ thì phải thân chứng đến chỗ đại thôi nghỉ của người xưa mới thôi. Tâm này tuy chưa từng có một niệm lui sụt, nhưng tự biết công phu chưa được thuần nhất, có thể nói là chí nguyện lớn mà lực lượng nhỏ vậy.

Trước đây tôi có thống thiết thỉnh cầu Lão Sư Viên Ngộ khai thị, Lão Sư đã dạy cho tôi sáu đoạn pháp ngữ. Đoạn đầu tiên chỉ thẳng việc này, sau nêu ra hai công án "Núi Tu Di"(l) và "Buông xuống đi"(2) của Vân Môn và Triệu Châu. Ngài bảo suốt ngày âm thầm thường giữ nghi tình, lâu ngày ắt được ngộ nhập. Tâm Ngài từ bi thiết tha đến thế, ngặt vì tôi quá ngu dại.

Nay may mắn các việc trần duyên của tư gia đều xong cả, rảnh rang không bận việc gì, cũng chính là lúc tôi thống thiết tự cố gắng để thỏa mãn đền đáp lại cái chí nguyện ban đầu. Nhưng còn hận chưa được gần gũi để nghe lời Ngài dạy bảo.

Một đời bê bối đã cặn kẽ trình bày, chắc Ngài có thể soi thấu được tâm này, ngưỡng mong nhận được lời răn nhắc.

Hàng ngày tôi phải dụng công như thế nào, ngõ hầu chẳng lạc vào lối khác, ngay thẳng khế ngộ tự tánh?

Nói ra như thế cảm thấy rất hổ thẹn, nhưng tỏ lòng thành thật chẳng dám giấu giếm. Xin Ngài lượng tình thương xót cho.

Kính bái.

GHI CHÚ

(l): Có vị tăng hỏi Vân Môn: "Chẳng khởi một niệm có lỗi hay không?" Sư đáp: "Lỗi bằng núi Tu Di".

(2): Có vị tăng hỏi Triệu Châu: "Lúc một vật chẳng đem đến thì thế nào?" Sư đáp: "Buông xuống đi".


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: PHẬT PHÁP VỚI THIỀN TÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

2. Theo thư ông đã trình bày, từ ấu niên cho đến lúc làm quan, ông đã từng tham lễ các bậc đại tông sư, thời tráng niên ông bị khoa cử, hôn nhân, quan chức chi phối, lại bị các sự hiểu biết và thói quen cấu xa thắng thế nên công phu chưa thể thuần nhất được, và ông cho đó là một cái tội lớn. Ông lại hay thiết tha nghĩ đến thế gian vô thường, các pháp hư huyễn, không có chút gì gọi là vui mà chuyên tâm muốn tham cứu một đoạn đại sự nhân duyên này. Như thế các điều đó rất hợp lòng tôi.

Song đã là kẻ sĩ, sống nhờ lộc Vua thì khoa cử, hôn nhân, quan tước là những điều ở thế gian không ai tránh khỏi, cũng không phải là cái tội của ông. Vì một chút tội nhỏ mà sanh lòng lo sợ lớn, nếu chẳng phải do nhiều kiếp từ vô thủy đến nay đã từng thân cận bậc Thiện Tri Thức chân chánh, huân tập sâu xa chủng trí Bát Nhã thì đâu được như thế. Nhưng điều mà ông cho là cái tội lớn đó, hiền thánh cũng chẳng tránh được. Song, đã biết đó là pháp hư huyễn, chẳng phải cứ cánh, mà hồi tâm vào trong cửa này, dùng nước trí Bát Nhã (nghi tình) rửa sạch cấu nhiễm, ngay dưới chân cắt đứt tất cả tâm phan duyên không cho tương tục nữa là đủ rồi, không cần nhớ trước nghĩ sau vậy. Đã nói hư huyễn thì lúc làm cũng huyễn, lúc thọ cũng huyễn, lúc mê cũng huyễn, lúc giác cũng huyễn, quá khứ hiện tại vị lai thảy đều là huyễn. Hôm nay biết lỗi thì dùng thuốc huyễn để trị cái bệnh huyễn. Nếu bệnh lành ắt thuốc cũng bỏ, người thì vẫn y như củ, chỉ là người xưa kia thôi(1). Nếu đặt ra có người thật, có pháp thật, ấy là kiến giải của tà ma ngoại đạo vậy. Mong ông hãy suy xét kỹ!

Chỉ cần tham mãi như thế thì luôn luôn ở trong thắng tịnh. Nhất là không được quên hai công án: "Núi Tu Di" và "Buông xuống đi". Chỉ cần trong tâm chân thất tham cứi đi! Việc đã qua không cần lo sợ, cũng không cần suy nghĩ, vì suy nghĩ, lo sợ đều là chướng đạo.

Chỉ cần phát đại thệ nguyện được gặp bậc Thiện Trí Thức, ngay dưới một lời liền dứt sanh tử, chứng ngộ vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nối huệ mạng Phật hầu đền đáp thâm ân to tát của chư Phật.

Nếu như thế thì lâu ngày không có lý gì mà không ngộ. Phải biết Thiện Tài Đồng Tử lúc ở trước Ngài Văn Thù phát tâm trải qua một trăm mười thành, tham vấn năm mươi ba vị Thiện Tri Thức, sau cùng đến chỗ Đức Di Lặc, trong khoảng búng ngón tay tức thì quên hết các pháp môn đã đắc từ các bậc Thiện Tri Thức trước (nghĩa là ngộ). Lại y theo lời Đức Di Lặc dạy, nghĩ muốn thân cận Ngài Văn Thù. Ngay lúc ấy Ngài Văn Thù từ xa duỗi cánh tay mặt qua một trăm mười do tuần đến xoa đầu Thiện Tài và bảo: "Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Nếu lìa tín căn thì tâm yếu kém, lo âu, ăn năn, công hạnh chẳng được đầy đủ, lui sụt sự cần mẩn tinh chuyên. Đối với một thiện căn tâm sanh trụ trước, được ít ở một ít công đức bèn cho là đủ là chẳng khéo phát khởi hạnh nguyện, chẳng được thiện tri thức nhiếp hộ, cho đến chẳng thể biết rõ pháp tánh như vậy, chỉ thú như vậy, pháp môn như vậy, sở hành như vậy, cảnh giới như vậy. đối với những năng lực như cái biết cùng khắp, cái biết đủ thứ, cái biết triệt để, thấu triệt thâm sâu, diễn giải, phân biệt, ngộ giải, chứng đắc, thảy đều chẳng được".

Ngài Văn Thù dạy Thiện Tài như thế, Thiện Tài ngay dưới lời nói này liền thành tựu vô lượng pháp môn, đầy đủ vô lượng quang minh đại trí, vào cửa Phổ Hiền. Ở trong một niệm thấy hết các vị thiện tri thức số nhiều như vi trần trong tam thiên đại thiên thế giới và được thân cận, cung kính, cúng dường, thọ giáo, được trí "niệm chẳng quên", trang nghiêm giải thoát. Nơi một lỗ chân lông của Ngài Phổ Hiền, siêu việt số thế giới cõi Phật nhiều như vi trần, bất khả thuyết, bất khả thuyết, đồng như Phổ Hiền, đồng như chư Phật, cõi đồng, hạnh đồng và giải thoát tự tại cả thảy đều đồng, không hai không khác. Lúc ấy, mới có thể chuyển ba độc tham, sân, si thành ba tụ tịnh giới(2), chuyển sáu thức thành sáu trần thông, chuyển phiền não thành Bồ Đề, chuyển vô minh thành đại trí. Những điều kể trên chỉ ở tại một niệm chân thật cuối cùng của đương nhân mà thôi.

Như thế, Thiện Tài ở chỗ Đức Di Lặc trong khoảnh khắc búng ngón tay còn có thể bỗng quên tam muội sở chứng từ của các thiện tri thức, huống là những ác nghiệp, tập khí hư ngụy từ vô thủy ư! Nếu cứ cho các tội đã làm khi trước là thẫt thì cảnh giới trước mắt hiện nay cũng phải thật có, cho đến quan chức, phú quí, ân ái thảy đều là thật. Đã là thật thì địa ngục, thiên đàng cũng là thật, phiền não vô minh cũng là thật, người tạo nghiệp cũng thật, người chịu quả báo cũng thật, pháp môn đã chứng cũng thật. Nếu kiến giải như thế thì tận đời vị lai cũng không có người vào Phật thừa và các phương tiện của chư Phật chư Tổ trái lại trở thành vọng ngữ cả.

Theo lời ông nói, lúc gởi thơ này ông đã đốt hương lễ bái trước Phật, Tổ và từ xa hướng về am này cúi lạy rồi mới gửi. Ông thành tâm chí thiết đến thế, chúng ta tuy cách nhau không xa nhưng chưa có dịp giáp mặt đàm luận mà hôm nay ý trự nhiên nghĩ, tay tự nhiên viết, bất giác dông dài như thế này, đó chẳng qua là cũng xuất phát từ lòng chí thành, chẳng dám có một lời một chữ dối gạt nhau. Nếu như tôi dối ông là cũng tự dối vậy.

Tôi còn nhớ Thiện Tài tham kiến Bà La Môn tối tịch tịnh được "thành ngữ giải thoát". Chư Phật, Bồ Tát quá khứ, hiện tại, vị lai đối với vô lượng Bồ Đề đã không lui sụt, hiện không lui sụt, sẽ không lui sụt, phàm hễ cầu điều gì cũng được thành tựu viên mãn là đều do chí thành mà được. Ông đã cùng với ghế trúc, bồ đoàn làm bạn, chẳng khác nào Thiện Tài gặp Bà La Môn Tối Tịch Tịnh. Lúc gởi thư đến Vân Môn(3) này, ông còn đối trước Phật, Tổ và từ xa lễ lạy rồi mới gửi, và tha thiết muốn nhận được thư của tôi, đó là sự chí thành tột bực vậy. Hễ tin nhau thì hãy thực hành công phu như thế, tương lai nhất định sẽ thành tựu viên mãn Vô Thượng Bồ Đề không sai vậy.

GHI CHÚ:

(l) Bệnh là mê, hết bệnh là ngộ, ngộ rồi mà chẳng trụ nơi ngộ nên nói đồng như chưa ngộ, nghĩa là vẫn như người thuở xưa vậy.

(2) Ba tu tịnh giới:
  • a. Nhiếp Luật nghi giới.

    b. Nhiếp Thiện pháp giới.

    c. Nhiều ích hữu tình giới.
(3) Lời Ngài Đại Huệ tự xưng, vì Ngài trụ trì tại Chùa Vân Môn.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: PHẬT PHÁP VỚI THIỀN TÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

3. Ông xuất thân dòng phú quí mà chẳng bị phú quí trói buộc, nếu chẳng phải đời trước gieo trồng chủng trí Bát Nhã thì đâu thể được như vậy. Chỉ e ông quên ý này, bị thông minh lanh lợi chướng ngại, dùng cái tâm có sở đắc để cầu pháp vô sở đắc, nên chẳng thể ở nơi nguồn gốc cho một dao cắt đứt ngay đó thôi nghỉ như cổ nhân vậy. Bệnh nầy chẳng riêng sĩ phu trí thức mà tăng sĩ tham học lâu năm cũng mắc phải. Họ phần nhiều không chịu ở nơi ít phí sức làm công phu, chỉ dùng ý thức thông minh so đo suy nghĩ để hướng ngoại tìm cầu, chợt nghe thiện tri thức trước mặt khai thị về việc bổn phận vượt ra ngoài phạm vi ý thức thông minh so do suy nghĩ thì lại bỏ qua. Lại tưởng Cổ Đức có pháp thật cho người.

Ngài Nham Đầu (828-887) nói: "Buông vật là cao, chạy theo vật là thấp". Phải biết cương yếu của Thiền Tông cần nên biết cú (ngữ). Thế nào là cú? Khi chẳng nghĩ điều gì là chánh cú, cũng gọi là lịch lịch (rõ ràng), cũng gọi là tỉnh tỉnh, cũng gọi là thế ấy. Đem cái "thế ấy" đó để phá tan tất cả thị phi nhưng mới nói thế ấy thì chẳng phải thế ấy rồi, cho nên gặp cú quét cú gặp phi cú quét phi cú, giống như một đống lửa hồng, đụng gì cũng cháy, đâu thể có chỗ dựa.

Sĩ phu trí thức thời nay phần nhiều đem suy nghĩ so đo làm nơi nương náu, mới nghe lời nói "thế ấy" bèn cho là lọt vào "ngoan không". Khác chi chỉ vì nghi sợ ghe chìm mà đã vội nhẩy xuống nước trước để bị chết đuối. Thật rất đáng thương xót!

Gần đây, tôi có đến Giang Tây gặp Lữ Cư Nhân, Cư Nhân từ lâu, đã lưu tâm đến Tổ Sư Thiền này và cũng mang cùng một bệnh ấy. Ông ta đâu chẳng phải là người không thông minh ư!

Tông Cảo tôi có hỏi ông:

- Ông sợ tôi rơi vào không, vậy ông có biết được người sợ đó là không hay là chẳng không? Thử nói xem!

Ông ta ngẩm nghĩ muốn tìm câu trả lời, lúc ấy tôi liền hét cho một tiếng, cho đến ngày hôm nay ông ta vẫn còn mờ mịt, dò xét mặt mũi chẳng được. Đó là vì trước kia đã ôm cái tâm cầu ngộ, tự làm chướng nạn, chứ chẳng do việc gì khác. Nay Ông hãy thực hành Công phu tham Thiền như thế, lâu ngày chầy tháng tự nhiên sẽ được đến nơi.

Nếu muốn đem tâm chờ ngộ, đem tâm chờ thôi nghỉ thì dù tham mãi đến Di Lặc hạ sanh cũng chẳng thể ngộ, cũng chẳng thể thôi nghĩ, trái lại càng thêm mê muội mà thôi.

Hòa thượng Bình Điền nói:
  • Thần quang bất muội
    Vạn Cổ huy du
    Nhập thử môn lai
    Mạc tồn tri giải.
Dịch nghĩa:
  • Thần quang chẳng phải sáng tối
    Luôn luôn chiếu soi vạn cổ
    Những ai muốn nhập cửa này
    Cần phải quét sạch tri giải.
Cổ Đức nói: "Việc này chẳng thể dùng hữu tâm cầu, chẳng thể dùng vô tâm đắc, chẳng thể dùng ngữ ngôn tạo, chẳng thể dùng im lặng thông". Trên đây là những lời tha thiết bậc nhất để dạy bảo hậu học mà thường thường người tham thiền chỉ đọc qua rồi thôi, không chịu xét nét kỹ lưỡng xem đó là đạo lý gì. Nếu là người có chí khí, vừa nghe nói đến liền ngay đó đem bảo kiếm Kim Cương Vương chém một nhát đứt bốn sợi xiềng xích này (bốn sợi xiềng xích là hữu tâm, vô tâm, nói, nín) như vậy thì đường sanh tử đứt, đường phàm thánh cũng đứt, so đo suy nghĩ cũng đứt, đắc thất thị phi cũng đứt, dưới gót chân người ấy sạch trơn không còn gì để nắm. Há chẳng khoái thay! Há chẳng sướng thay!

Xưa kia Hòa thượng Quán Khê lúc đầu tiên đến tham học Lâm Tế (? - 867). Lâm Tế vừa thấy ngài, liền xuống thiền sàng, thình lình chụp ngay ngực ngài. Quán Khê buột miệng nói: "Lãnh rồi, lãnh rồi". Lâm Tế biết ngài đã ngộ liền buông ra và cũng không nói thêm một tiếng nào. Ngay lúc ấy Quán Khê làm sao suy nghĩ so đo mà trả lời được? Từ xưa đến nay thật ít có ai nêu được cái gương như thế, mà người ngày nay lại sơ sót chẳng để ý đến việc này, Quán Khê lúc đầu nếu sẵn tâm đợi ngộ, chờ chứng đợi thôi nghỉ, thì đừng nói bị Lâm Tế chụp ngực liền ngộ, dù cho có trói quách ông ta lại, dắt đi giáp vòng tứ thiên hạ cũng chẳng thể được ngộ, cũng chẳng được thôi nghỉ.

Những cái thường hay so đo sắp đặt ấy là tình thức tùy theo sanh tử trôi nổi cũng là tình thức,sợ hãi kinh hoàng cũng là tình thức. Thế mà người nay tham học chẳng biết đó là bệnh mà lại cứ mãi mê lặn hụp trong đó, trong kinh gọi đó là "Tu hành theo thức, chẳng theo trí", do đó che khuất cái "bản địa phong quang", cái "Bản lai diện mục". Nếu một khi buông xuống được những so đo suy nghĩ, bỗng nhiên trượt chân dẫm nhằm cái lỗ mũi (kiến tánh) thì tình thức tức là chân không diệu trí, chẳng còn trí khác để đắc. Nếu có sở đắc, sở chứng nào khác thì không đúng rồi. Như người lúc mê thì gọi là phương Đông làm phương Tây, đến khi ngộ thì chính phương Tây ấy tức là phương Đông, chẳng có phương Đông nào khác. Cái chân không diệu trí này tuổi thọ bằng với hư không. Trong hư không kia liệu có một vật nào làm chướng ngại nó được chăng? Dù chẳng bị một vật chướng ngại mà nó cũng không ngại các vật qua lại trong đó. Cái chân không diệu trí này cũng vậy, những sanh tử, phàm thành, nhơ sạch, dính nó một chút cũng chẳng được, dù dính nó chẳng được mà nó cũng không ngại sanh tử, phàm thánh qua lại trong đó. Như thế mà tin được nổi, thấy được suốt mới là người ra vào sanh tử được đại tự tại, mới có ít phần tương ưng với hai công án "Buông xuống đi" và "Núi Tu Di". Nếu không thì cứ gánh vác tòa núi Tu Di đi hành cước khắp nơi, kể rõ cho người sáng mắt đi!


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: PHẬT PHÁP VỚI THIỀN TÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

4. Bàng Uẩn(1) nói:
  • Chỉ cần bỏ hết các thứ hiện có
    Đừng đem vào cái mà mình không có.
Hành được hai câu này thì một đời tham học tất đã xong vậy.

Ngày nay có bọn ngoại đạo trọc đầu, mắt mình chưa sáng mà cứ sử dụng cái lời chết cứng, để dạy người thôi đi nghỉ đi. Nếu thôi nghỉ như thế đến ngàn Phật ra đời cũng thôi nghỉ chẳng được, lại càng khiến cho tâm mê muội. Họ còn dạy người tùy duyên ứng phó, mặc chiếu quên tâm, quên tâm mặc chiếu, chiếu đi chiếu lại, ứng tới ứng lui, lại càng thêm mê muội không biết đến lúc nào mới xong. Thực là làm mất hết phương tiện của Tổ Sư, lầm chỉ dạy người, khiến người uổng qua một đời. Họ còn dạy người việc này chớ măng, cứ như thế nghỉ đi, nghỉ được đến tình niệm chẳng sanh, đến lúc ấy chẳng phải mờ mịt vô tri mà ngay đó là tỉnh tỉnh rõ ràng. Bọn này thật độc hại, làm mù mắt người, chẳng phải việc nhỏ. Tôi thấy họ chẳng xem họ là con người. Bọn họ tự mình mắt chẳng sáng (chưa ngộ), chỉ đem lời trong kinh sách ra y theo đó dạy người (đọa vào văn tự). Cái ấy làm sao dạy được. Nếu tin bọn họ thì muốn kiếp tham chẳng được, vì Tổ Sư Thiền là "bất lập văn tự".

Tôi bình thường không phải không dạy người tọa thiền hướng vào chỗ tĩnh lặng để làm công phu, nhưng đó là tùy bệnh cho thuốc, chớ thật ra không có gì để chỉ thị người. Cũng như Hòa thượng Hoàng Bá (? - 850) nói:

"Thiền tông ta từ trước trao truyền đến nay chẳng từng dạy người cầu tri giải". Nói hai chữ học đạo cũng chỉ là lời tiếp dẫn mà thôi. Song, đạo cũng không thể học, ý toan học đạo lại trở thành mê đạo. Đạo chẳng phương sở, gọi là tâm Đại thừa. Tâm này chẳng ở trong, ngoài và chính giữa, thật không có nơi chốn, nhất là không được khởi tri giải. Chỉ nói với ông rằng, chỗ tình lượng hiện tại là đạo, tình lượng nếu sạch thì tâm thể trùm khắp mười phương. Đạo này thiên chân vốn không danh tự, chỉ vì người đời chẳng biết mà mê theo tình thức. Do đó, chư Phật ra đời nói rõ việc này, sợ người không rõ ên phương tiện đặt tên là đạo, không nên chấp thật danh tự mà sanh tri giải.

Nãy giờ đề cập đến, đó là bọn mắt mù dùng lời bậy bạ để hại người, vì họ nhận lầm mắt cá làm minh châu; là kẻ dạy người chấp lấy danh tự mà sanh tri giải. Kẻ dạy người tùy duyên ứng phó, đó là kẻ chấp lấy cái giác chiếu soi mà sanh tri giải. Kẻ đem lời chết cứng cũng dạy người thôi đi nghỉ đi, đó là người giữ lấy cái không tịch quên tâm mà sanh tri giải. Dù thôi nghỉ đến vô giác vô tri giống như gỗ đá mà được lúc ấy chẳng phải mờ mịt vô tri, đó cũng là kẻ nhận lầm lời nói phương tiện mở trói mà sanh tri giải. Kẻ dạy người tùy duyên quán chiếu đừng cho ác giác sanh khởi, đó là kẻ nhận lấy tình thức của hài cốt mà sanh tri giải. Kẻ dạy người chỉ cần phóng khoáng tự tại chớ màng đến việc sanh tâm động niệm vì niệm khởi niệm diệt vốn không có thật thể, nếu chấp là thật thì tâm sanh tử sanh khởi, đó là kẻ giữ lây cái thể tự nhiên cho là pháp cứu cánh mà sanh tri giải. Các bệnh kể trên chẳng phải lỗi của người học đạo, mà đều do các tông sư mắt mù chỉ dạy tầm bậy mà thôi.

Ông đã tự ở nơi thanh tịnh, giữ cái tâm hướng đạo kiên cố chân thật, chớ lo công phu thuần nhất hay không thuần nhầt. Chớ nên đem ngôn cú của người xưa chất thành cái tháp, hết lớp này đến lớp khác, uổng dụng công phu không biết lúc nào mới xong. Chỉ cần chú tâm ở một chỗ, thì thời tiết nhân duyên đến thì tự nhiên nghi tình bùng vỡ, muốn không ngộ cũng chẳng được.

Hỏi: Chẳng khởi một niệm có lỗi hay không?

Đáp: Lỗi bằng núi Tu Di.

Hỏi: Lúc một vật chẳng đem đến là thế nào?

Đáp: Buông xuống đi.

Chỗ này cái nghi phá vỡ thì phải ở chỗ này tham mãi, chớ nên tự sanh nhánh lá. Nếu ông tin được lời tôi thì cứ như thế tham đi, chẳng còn Phật pháp nào khác để dạy người.

Bằng tin không nổi:
  • Mặc tình hỏi khắp người thiên hạ
    Mọt hồ nghi thêm một hồ nghi.
5. Đọc kỹ thư mới biết ông trong bốn oai nghi (đi, đứng, ngồi, nằm) không có lúc nào công phu gián đoạn. Chẳng bị công vụ đoạt mất, lúc ở trong dòng thác lũ của thế sự cũng luôn tự tỉnh giác, không buông lung, đạo tâm càng ngày càng kiên cố. Như thế rất hợp lòng tôi.

Nhưng trần lao thế gian như lửa cháy hừng hực biết đến bao giờ mới tắt, phải ngay trong chỗ náo động mà chẳng quên việc tham cứu. Trước kia để tâm chỗ tĩnh lặng thì nay phải dụng tâm ở chỗ náo động. Nếu chỗ náo động chẳng đắc lực thì có khác nào chưa từng dụng công phu nơi tĩnh lặng.

Việc ông tự than: "Do có ác duyên kiếp trước mà nay phải chịu quả báo này". Thế thì không đúng, nếu ông nghĩ thế là chướng đạo vậy.

Cổ Đức nói:
  • Theo dòng nhận được tánh
    Chẳng buồn cũng chẳng vui.
Duy Ma Cật nói: "Tự tánh chẳng giữ chân như tùy duyên mà thành tựu tất cả pháp". Lại nói: "Tùy duyên mà cảm ứng khắp mọi nơi mà thường ở tại tòa Bồ đề". Như vậy há dối người ư!

Nếu cho chỗ tĩnh lặng là phải, chỗ náo động là chẳng phải, ấy là hoại tướng thế gian mà cầu thực tướng, lìa sanh diệt mà cầu tịch diệt. Ngay lúc thích tĩnh lặng, ghét náo động chính là lúc nên dụng công phu. Bỗng nhiên ở chỗ náo động đụng ngã cái tin tức của lúc tĩnh lặng (vỡ nghi tình) thì cái sức mạnh lớn hơn lúc ngồi im lặng trên bồ đoàn gấp vạn ức lần. Hãy nghe lấy lời tôi, chắc chắn không lừa gạt ông đâu!

Lại nữa, ông lấy hai câu của Bàng Uẩn làm châm ngôn trong lúc đi đứng nằm ngồi là tốt nhất. Nếu đang lúc náo động mà sanh lòng chán ghét đó là tự làm nhiễu loạn tâm mình. Nếu lúc động niệm chỉ cần nhớ hai câu của Bàng Uẩn thì như lúc bệnh nóng được uống thuốc mát vậy. Ông là người đại trí tuệ, đã đủ niềm tin quyết định dụng công trong chỗ tĩnh lặng lâu ngày rồi, nên tôi mới dám nói lời này. Còn đối với người khác tôi không nên nói. Nếu nói lời này với kẻ tăng thượng mạn nghiệp thức mang mang, ắt sẽ làm nặng thêm gánh ác nghiệp cho họ.

Các thứ bệnh trong thiền môn, ở thư trước tôi đã trình bày, không biết ông đã lý hội kỹ càng chưa?

GHI CHÚ:

(1) Bàng Uẩn: Đệ tử tại gia của Mã Tổ.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: PHẬT PHÁP VỚI THIỀN TÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

5. Thư ông nói rằng:

- Ngoài dứt các duyên, trong tâm không lay động là cửa phương tiện có thể vào đạo. Mượn cửa phương tiện đẻ vào đạo thì được, nếu nắm phương tiện chẳng buông thì trở thành bệnh.

Thực đúng như lời ông nói, sơn Tăng này đọc xong vui mừng biết bao. Ngày nay Tông Sư ở các nơi, nắm lấy phương tiện chẳng buông cho là pháp thật dùng để chỉ dạy người, thế nên làm mù mắt người chẳng ít. Do đó sơn Tăng cần phải phân biệt tà chánh để cứu giúp họ. Thời gian gần đây, ma mạnh pháp yếu, người chẳng chấp "Trạm nhập hợp trạm"(1) cho là cứu cánh nhiều không thể xiết, còn người nắm phương tiện chẳng buông làm Tông Sư cũng nhiều như hằng sa. Sơn Tăng lúc gần đây thường đem hai hạng người này nói với thiền giả. Thật chính là đúng như thư ông đã nói vậy, nếu chẳng phải ông lưu tâm trong Bát nhã, niệm niệm không gián đoạn, thì không thể nào thấu suốt cái phương tiện đặc biệt của chư Thánh thuở xưa.

Ông đã nắm được cái cán rồi, đã nắm được cán trong tay rồi còn lo gì mà chẳng bỏ cửa công phu để vào đạo ư! Chỉ cần thực hành công phu như thế này: Như xem những ngôn cú sai biệt trong kinh điển và Ngữ lục của người xưa cũng chỉ thực hành công phu như thế. Những công án "Núi Tu Di", "Buông xuống đi", "Con chó không Phật tánh"(2), thoại đầu "Cây gậy", "Một hớp hết nước Tây Giang"(3), "Cây bách trước sân"(4)..., cũng chỉ thực hành công phu như thế. Vậy không được sanh cái tri giải nào khác, cầu đạo lý nào khác để làm tài năng khéo léo. Ông có thể ở trong lúc công việc vội gấp mà luôn luôn thực àhnh công phu như thế, nếu đạo nghiệp không thành tựu thì Phật pháp không linh nghiệm vậy. Xin ông hãy nhớ cho!

Thư ông nói ban đêm chiêm bao thấy đốt nhang vào thất của sơn Tăng rất thong thả. Về việc này ông không nên cho là mộng, mà hãy cho là nhập thất chân thật.

Cũng như công án Xá Lợi Phất hỏi Tu Bồ Đề:

- Trong mộng nói sáu Ba la mật so với lúc thức nói là đồng hay là khác.

Tu Bồ Đề đáp:

- Nghĩa này rất thâm sâu, tôi không thể nói, trong hội này có đại sĩ Di Lặc, ông hãy qua hỏi ngài(5).

Ôi! thật quá lòng vòng.

Ngài Tuyết Đậu nói:

- Khi ấy nếu chẳng bỏ qua thì nên theo đó cho một dùi. Ai tên Di Lặc? Ai là Di Lặc? Liền thấy băng tan ngói bể.

Ôi! Tuyết Đậu cũng quá lòng vòng.

Có người hỏi:

- Cũng như Tăng Thiên Du lúc mới mộng thấy vào thất của sơn Tăng, thử hỏi xem lúc mộng với lúc thức là đồng hay là khác?

Sơn Tăng bèn nói với họ rằng:

- Ai là người vào thất? Ai là người vào thất? Ai là người mộng? Ai là người nói về việc mộng? Ai là người chẳng cho là mộng? Ai là người thật vào thất? Ôi! Cũng lòng vòng quá đi.

6. Thư đến tôi đọc kỹ mấy lượt, đủ thấy ông có tấm lòng sắc đá, lập chí quyếtđịnh chẳng chịu lôi thôi. Tham thiền được như thế thì đến ngày lâm chung cũng có thể cùng Diêm vương đối địch. Đó là chưa nói đến chuyện mở to con mắt trên đảnh (khai ngộ), nắm chuôi kiếm Kim Cương vương ngồi trên đảnh Tỳ Lô (triệt ngộ).

Tôi đã từng nói với các đạo hữu rằng:

- Ngày nay người học đạo chỉ cầu mau có hiệu quả mà chẳng biết thế là lầm. Trái lạo họ còn nói: "Vô sự ít duyên, tĩnh tọa thể cứu là uổng qua thời gìp, chẳng bằng xem vài quyển kinh, niện vài tiếng Phật, trước Phật lễ lạy sám hối những tội lỗi bình sanh đã tạo cốt để khỏi ăn gậy sắt của Diêm vương. Đấy là việc làm của kẻ ngu. Bọn đạo gia ngày nay toàn dùng tâm vọng tưởng, quán tưởng tinh hoa của nhật nguyệt, suốt sáng chiều hớp khí trời mà còn có thể lưu hình hài ở lại đời, chẳng bị lạnh nóng làm bứt ngặt. Huống là chuyển tâm này hoàn toàn vào trong Bát nhã ư!

Bậc Thánh xưa có nói rõ rằng: "Ví dụ côn trùng Thái mạc (vô cùng nhỏ) chỗ nào cũng đậu được kể cả hư không, duy chẳng thể đậu trên ngọn lửa. Chúng sanh cũng thế, chỗ nào cũng có thể duyên, duy chẳng thể duyên trên Bát nhã. Ví như niệm niệm chẳng thối sơ tâm, đem cái tâm thức duyên theo trần lao thế gian (tập khí) mình trở lại đặt trên Bát nhã để dụng công, đời này dẫu chưa thấu triệt thì đến lúc lâm chung nhất định cũng chẳng bị nghiệp ác kéo đi lưu lạc vào ác đạo. Đời sau vừa lọt lòng sẽ theo nguyện lực đời này mà quyết định được ở trong Bát nhã, sẵn sàng thọ dụng. Đó là việc chắc chắn không nên nghi ngờ.

Việc trong phạm vi chúng sanh chẳng cần học vì tập khí con người từ vô thỉ đã thuần thục, đường lối cũng đã quen, thì tự nhiên ham chấp lấy nó, khó mà bỏ được. Nay cần phải dụng công để trừ sạch nó đi!

Tâm xuất thế gian học Bát nhã, từ vô thỉ đến nay bị chống trái, nên khi chợt nghe bậc thiện tri thức nói đến nó thì tự nhiên chẳng lý hội được. Vậy cần phải quyết chí dùng Bát nhã để đối trị tập khí.

Bát nhã và tập khí không bao giờ cùng chung được. Có tập khí thì không có Bát nhã, có Bát Nhã thì không có tập khí. Nếu ở đây (nghi tình) được đi sâu vào thì tập khí chẳng trừ mà tự trừ và các tà ma ngoại đạo cũng tự nhiên chạy trốn mất. Công phu lâu ngày thì chỗ lạ (nghi tình) trở thành quen, chỗ quen (tập khí)[ trở thành lạ. Làm đúng như vậy thì chỗ thực hành công phu hàng ngày nắm được cán, dần dần cảm thấy ít phi sức, ấy là chỗ đắc lực rồi vậy.

GHI CHÚ:

(1) Trong kinh Lăng Nghiêm nói: "Trạm nhập hợp trạm" là bờ bến của thức ấm. Thức gọi là Trạm liễu (trong lặng sáng suốt), dụ cho đã diệt sanh diệt thì tánh thức nhập vào chỗ cội gốc trong lặng, mà hợp với trạm nhiên, có nhập có hợp, tức là bờ bến của thức ấm.

Vì trạm nhập là Thức ấm, trạm xuất là Hành ấm. Chân tánh chẳng gọi trạm nhập là vì cùng khắp pháp giới, nên chẳng có xuất nhập nay nói trạm nhập là dần dần đi vào, cho đến nhập vô sở nhập, mới đến chỗ chẳng sanh diệt vậy.

Xuất nhập ly hợp là pháp tương đối, cứu cánh là pháp tuyệt đối nên ngài Đại Huệ quở người chấp Trạm nhập hợp trạm cho là pháp cứu cánh là Tông sư mắt mù.


(2) Con chó không Phật tánh:

Tăng hỏi Triệu Châu: "Con chó có Phật tánh hay không?"

Sư đáp: "Không".


(3) Một hớp uống hết nước Tây Giang:

Bàng Uẩn hỏi Mã Tổ: "Ai là người chẳng cùng vạn pháp làm bạn?"

Mã Tổ đáp: "Đợi khi ông một hớp uống hết nước Tây Giang ta sẽ nói cho nghe".


(4) Cây bách trước sân:

- Tăng hỏi Triệu Châu: "Thế nào là ý của Tổ Sư từ Ấn Độ sang?"

Sư đáp: "Cây bách trước sân".


(5) Công án Xá Lợi Phất hỏi Tu Bồ Đề về việc trong mộng so với lúc thức:

- Trong mộng nói sáu Ba la mật so với lúc thức nói là đồng hay là khác.

Tu Bồ Đề đáp:

- Nghĩa này rất thâm sâu, tôi không thể nói, trong hội này có đại sĩ Di Lặc, ông hãy qua hỏi ngài.

Xá Lợi Phất qua hỏ Di Lặc. Di Lặc nói:

- Ai là Di Lặc? Ai tên Di Lặc?


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: PHẬT PHÁP VỚI THIỀN TÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

THƯ ĐÁP LÂU KHU MẬT
Chẳng biết sau khi chia tay chỗ ứng duyên hàng ngày ông chẳng bị ngoại cảnh lôi kéo chăng? Đối với những văn kiện chất trên bàn làm việc có thể gạt qua một bên chăng? Khi gặp người tiếp vật có bị lay động chăng? Ở nơi tịch tịnh có nổi vọng tưởng chăng? Đối với tham thiền có tạp niệm xen vào chăng?

Phật nói:
  • Tâm chẳng vọng lấy pháp quá khứ
    Cũng chẳng tham đắm việc vị lai
    Ở nơi hiện tại vô sở trụ
    Liễu đạt tam thế đều không tịch.
Việc quá khứ hoặc thiện hoặc ác chớ nên suy lường, suy lường thì chướng đạo. Việc vị lai chớ nên tính toán, tính toán ắt cuồng loạn. Việc hiện tại ở trước mắt hoặc thuận hoặc nghịch cũng chớ nên để ý, để ý thì trong tâm bị nhiễu loạn. Cuộc sống hàng ngày tùy duyên ứng phó, tất cả chỉ xem là tạm thời thì sẽ thích ứng tự nhiên.

Gặp cảnh giới nghịch còn dễ tu, gặp cảnh giới thuận mới là khó. Lúc nghịch ý ta chỉ cần một chữ nhẫn chốc lát liền qua được, lúc cảnh giới thuận thì thật là chẳng có chỗ để trốn tránh, vì cảnh giới thuận ý mình ham thích như nam châm hút sắt dính chặt một chỗ. Vật vô tình còn vậy huống là vô minh hiện hành toàn thân sống trong đó. Gặp cảnh giới này nếu chẳng có trí tuệ thì bất tri bất giác bị nó lôi kéo vào lưới ma, muốn tìm đường ra thật là khó. Cho nên bậc thánh xưa có nói: "Nhập được thế gian thì xuất thế gian không còn dư", tức là đạo lý này vậy. Gần đây có một số người tu hành lạc mất phương tiện, luôn luôn nhận vô minh hiện hành là nhập thế gian, bèn đem pháp thế gian cưỡng cho là việc "xuất thế gian không còn dư". Thật đáng thương xót! Duy Ma Cật có nói: "Phật vì những kẻ tăng thượng mạn mà thuyết pháp lìa dâm nộ si là giải thoát. Nếu những người không phải tăng thượng mạn thì Phật nói tánh dâm nộ si tức là giải thoát". Nếu tránh được lỗi này thì ở nơi cảnh giới thuận nghịch chẳng có tướng khởi diệt, ấy mới lìa được tên gọi tăng thượng mạn. Như thế mới có thể cho là nhập được thế gian và xuất thế gian không còn dư. Những điều nói trên đều là chỗ Diệu Hỷ tôi đã từng trải qua, hiện nay cũng chỉ tu hành như thế. Mong ông thừa lúc cơ thể còn khẻo mạnh cũng nhập tam muội này.
KHAI THỊ KHÔNG HUỆ
Dù được thân tâm yên tịnh vẫn cần phải nỗ lực, chớ nên hướng vào chỗ yên tịnh mà sanh tâm thích thú. Trong giáo môn nói đó là hầm sâu giải thoát rất đáng sợ hãi. Cần phải như hồ lô xoay chuyển trên mặt nước, tự do tự tại chẳng bị dính mắc, vào dơ vào sạch chẳng ngại chẳng chìm, mới được ở dưới cửa thiền có chút phần thân cận. Nếu chỉ ôm chặt được "đứa bé không khóc" thì đâu có tác dụng gì!
KHAI THỊ NGHIÊM TỬ KHAM
Ngài Lâm Tế nói: "Nếu ngươi luôn luôn ngưng được cái tâm tìm cầu thì so với Phật Thích Ca chẳng khác". Lời này chẳng phải dối người. Như Thất Địa Bồ Tát, cái tâm cầu Phật trí chưa đầy đủ còn bị gọi là phiền não. Thực là chẳng có chỗ để sắp đặt, dính mắc một chút vật gì bên ngoài cũng không được. Mấy năm trước có một vị cư sĩ họ hứa chỉ nhận được cái cửa bên ngoài, bèn gửi thư đến trình kiến giải rằng: "Ứng dụng hàng ngày nơi trống rỗng, chẳng có một vật để đối đãi, mới biết vạn pháp trong tam giới tất cả vốn là không có. Buông xuống hết thực là an lạc sung sướng". Do đó ta khai thị cho một bài kệ rằng:
  • Chớ luyến chỗ thanh tịnh
    Thanh tịnh khiến người mê
    Chớ luyến chỗ sung sướng
    Sung sướng khiến người cuồng
    Như nước theo đồ đựng
    Tùy vuông tròn dài ngắn
    Buông xuống, không buông xuống
    Lại xin suy nghĩ kỹ
    Tam giới và vạn pháp
    Có quê nào để về?
    Nếu cứ chấp như thế
    Việc này rất chống trái
    Báo cho Hứa cư sĩ
    Ngường nhà tự làm hại
    Mở rộng thiên thánh nhãn
    Chẳng cần sự mong cầu.
KHAI THỊ CHÂN NHƯ
Tâm chẳng tìm cầu, chẳng vọng tưởng, chẳng duyên các cảnh thì ngay chỗ nhà lửa trần lao này tức là chỗ giải thoát ra khỏi tam giới.

Phật chẳng nói sao: "Nơi tất cả cảnh vô y, vô trụ, vô phân biệt, thấy rõ pháp giới quảng đại an lập, liễu đạt tất cả pháp thế gian bình đẳng bất nhị nên Viễn Hành Địa Bồ Tát dũng sức trí huệ của mình tự động siêu việt tất cả nhị thừa, dù được cảnh giới Phật mà thì hiện trụ cảnh giới ma, dù siêu việt đạo ma mà hiện hạnh pháp ma, dù thị hiện hạnh đồng như ngoại đạo mà chẳng bỏ Phật Phát, dù thị hiện tùy thuận tất cả thế gian mà thường hành tất cả pháp xuất thế gian". Đây là chân phương tiện trong nhà lửa trần lao vậy.

Người học Bát Nhã nếu bỏ phương tiện này tùy thuận trần lao, ắt phải bị ma nhiếp trì. Lại còn ở nơi cảnh tùy thuận gượng nói đạo lý rằng: "Phiền não tức Bồ Đề, vô minh tức đại trí". Chân thì đuổi theo có, miệng thì đàm luận không, thật chẳng biết tư trách mình bị nghiệp lực lôi kéo, lại còn dạy người xóa bỏ nhân quả. Bọn này bị tà ma ác độc xâm nhập tâm căn, muốn ra khỏi trần lao cũng như tạt dầu để cứu hỏa. Thật đáng thương xót! Nên biết đã triệt ngộ rồi mới có thể nói: "Phiền não tức Bồ Đề, vô minh tức đại trí". Trong diệu tâm vốn quảng đại, tịch diệt, trong sạch, sáng tỏ cũng như hư không chẳng có một vật gì có thể làm chướng ngại. Vậy thì chữ Phật cũng còn là vật bên ngoài, huống chi còn có vô minh, phiền não để làm đối đãi ư!
THƯ ĐÁP TỪ ĐÔN TẾ
Việc này tỏ rõ như ban ngàn, trong trẻo, sáng sủa, không biến, không động, không thêm, không bớt, chỗ tiếp xúc hàng ngày ở ngay mỗi người đều ứng hiện rõ ràng, nắm giữ nó thì không được, buông xả nó thì thường còn thênh thang vô ngại, bát ngát rỗng không, như trái hồ lô trên mặt nước, lôi kéo chẳng được, cột trói nó chẳng được. Các bậc đắc đạo từ xưa đến nay được nó rồi, vào trong biển sanh tử trồi lên hụp xuống toàn thể thọ dụng không thiếu, không dư, như chiết cây chiên đàn thì mỗi nhành đều là chiên đàn, vậy sanh tử trần lao từ đâu khởi. Lúc thu nhận kết quả lại dính mắc vào chỗ nào?

Đã không có chỗ dính mắc thì Phật là huyễn, pháp là huyễn, tam giới, thập nhị xứ, thập bát giới đều rỗng không. Đến được chỗ này thì một chữ Phật còn không dính dáng. Vậy Chân Như, Phật Tánh, Bồ Đề, Niết Bàn chỗ nào mà có? Nên Bố Đại Sĩ nói: "Sợ người sanh đoạn kiến, mới tạm lập giả danh". Người học đạo không hiểu, cứ trong nhân duyên học đạo của cổ nhân cầu huyền cầu diệu, cầu kỳ lạ, tìm tri giải, chẳng thể "thấy trăng quên ngón" ngay đó một dao cắt dứt.

Cũng như ngài Vĩnh Gia nói:
  • Trong nắm tay không chấp có thật,
    Tâm cảnh tương sanh vọng kiến lập.
Cứ ở trong trần lao vọng sanh kiến chấp, tự trói buộc mình. Như Lai nói là kẻ đáng thương xót.

Hòa Thượng Nham Đầu nói: "Ngươi chỉ cần vô dục, vô y, tức là Phật". Thực ra chỉ có một cục thịt do cha mẹ sanh, nếu một hơi thở không đến liền biến thành vật khác. Ngoài cục thịt này ra đâu còn cái gì khác. Vậy lấy gì làm kỳ lạ, huyền diệu, lấy gì làm Bồ Đề, Niết Bàn, lấy gì làm Chân Như, Phật Tánh? Bậc sĩ phu trí thức muốn tham cứu việc này, không hướng theo thực tế, lại ở trên công án người xưa cầu tri cầu giải, dẫu cho tri cùng, giải tận, biết hết cả đại tạng giáo điển, khi ngày cuối cùng sanh tử đến thì một chút cũng dùng không được.

Còn có một số người mới vừa nghe thiện tri thức kể việc này, lại đem tâm ý thức so sánh suy lường rằng: Nếu như thế chẳng phải lọt vào "không" sao? Đối với những người này, Diệu Hỷ bất đắc dĩ nói với họ: "Ông chưa từng được 'không' lấy gì để sợ, như đi ghe chưa chìm đã vội nhảy xuống nước". Thấy họ chưa hiểu nên tôi không tiếc khẩu nghiệp nói dài dòng thêm: "Cái sợ lọt vào không đó còn có 'không' được chăng?" Nghĩa "không" là hiển bày sự dụng: Mắt ông nếu chẳng không thì lấy gì để thấy sắc, tai ông nếu chẳng không thì lấy gì để nghe tiếng, mũi ông nếu chẳng không thì lấy gì để ngửi, lưỡi ông nếu chẳng không thì lấy gì để nếm, thân ông nếu chẳng không thì lấy gì để cảm giác, ý ông nếu chẳng không thì lấy gì để phân biệt vạn pháp.

Phật nói: "Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô thập nhị xứ, thập bát giới, cho đến Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật, và Bồ Đề, Niết Bàn, Chân Như, Phật Tánh, tất cả pháp của Phật thuyết và kẻ thuyết pháp này, kẻ nghe pháp này, kẻ thuyết ra như thế, kẻ thọ cái thuyết như thế, thảy đều chẳng có". Được như thế rồi gọi là không ư? Gọi là bất không ư, gọi là Phật ư, gọi là Bồ Tát ư, gọi là Thanh Văn ư, gọi là Duyên Giác ư, gọi là Bồ Đề, Niết Bàn ư, gọi là Chân Như, Phật Tánh ư?

Nếu tự cho ta thông minh lanh lợi chẳng bị người gạt thì xin hướng vào chỗ này xem xét cho đúng. Nếu xem xét ra được thì ở trong am cũng như ở ngoài cửa, còn xem xét chẳng ra thì rất kỵ khoa trương nói lời quá lố. Kẻ đại trượng phu muốn tham cứu việc đại sự nhân duyên này cần phải không màng đến thể diện, tâm dũng mãnh đứng thẳng, chớ chiều theo tình cảm, đem chỗ nghi của mình dán lên trên trán, hàng ngày tự như thiếu nợ người muôn triệu, bị người đòi nợ đuổi theo, chẳng có gì để trả nợ, sợ bị người sỉ nhục, không muốn gấp cũng phải gấp, không muốn bận rộn cũng phải bận rộn, không việc gì lớn hơn việc này, như thế mới có phần xu hướng. Suốt ngày suốt đêm, lúc uống trà ăn cơm, lúc vui lúc giận, chỗ sạch chỗ dơ, chỗ vợ con tụ tập, chỗ tiếp khách, chỗ làm việc, chỗ con cái cưới gã, đều là thời tiết cảnh giác để làm công phu.

Xưa kia Lý Văn Hòa làm thừa tướng trong phú quí tham thiền được đại ngộ, Dương Văn Công làm quan chức hàn lâm tham thiền được ngộ, Trương Vô Tận đốc xứ tỉnh Giang Tây cũng tham thiền được ngộ, chỉ ba ông này đủ làm mô phạm "chẳng hoại tướng thế gian mà chứng thực tướng" vậy. Cần phải bỏ vợ con, từ quan chức, ăn mặc cực khổ, tránh náo động cầu vắng lặng, vào trong hang quỷ ngồi thiền như cây khô rồi mới được ngộ đạo?

Bàng Uẩn nói:
  • Hễ tự vô tâm nơi vạn vật
    Đâu sợ vạn vật thường nhiễu quanh
    Trâu sắt không sợ sư tử rống
    Giống như người gỗ thấy con chim
    Bản thể người gỗ vốn vô tình
    Con chim gặp người cũng không sợ
    Tâm cảnh như như chỉ thế này
    Lo gì Bồ Đề đạo chẳng thành.
Ở trong trần lao thế tục được không quên việc sanh tử, dù chưa thể kiến tánh nhưng cũng gieo được hạt giống Bát Nhã thâm sâu, kiếp khác ra đời cũng ít phí sức, cũng không đến nỗi lưu lạc trong ác đạo, hơn người đắm nhiễm trần lao chẳng cầu giải thoát, cứ nói việc này không dễ gì. Người đời phần nhiều có kiến giải như thế, thực đáng thương xót!


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: PHẬT PHÁP VỚI THIỀN TÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

KHAI THỊ TĂNG THÚC TRÌ
Cổ Đức nói: "Từ xưa nay vốn chẳng có pháp để cho người, chỉ vì người chỉ đường mà thôi". Lại nói: "Hễ có sở đắc là chó sói kêu, vô sở đắc là sư tử rống". Phật là người thông suốt, trong bốn mươi chín năm thuyết pháp hơn ba trăm sáu mươi hội, tùy căn tánh chúng sanh mà dẫn dắt họ, nên ở trong mười pháp giới giảng thuyết một âm, chúng sanh tùy loại mỗi mỗi đều được lợi ích. Ví như gió đông thổi qua một cái thì muôn ngàn bông hoa cùng rộ nở, Phật thuyết pháp cũng như thế. Nếu có ý nơi mười pháp giới để làm lợi ích cho là có ta thuyết pháp, cho là có chúng sanh được độ, vậy thành có ngã chấp rồi.

Như Xá Lợi Phất ở trên hội Bát Nhã hỏi Văn Thù rằng: Chư Phật có giác ngộ pháp giới chăng?

Văn Thù đáp: Không. Xá Lợi Phất! Chư Phật còn bất khả đắc thì làm sao có Phật mà giác ngộ pháp giới! Pháp giới cũng bất khả đắc thì làm sao có pháp giới cho chư Phật giác ngộ!

Xem qua sự vấn đáp của hai ngài thì đâu từng trụ vào chỗ nào. Từ xưa chư Phật chư Tổ thuyết pháp đều có thể cách như thế, chỉ vì con cháu sau này thất lạc tông chỉ, mỗi mỗi tự lập môn phái, tác yêu tác quái mà thôi.
THƯ ĐÁP HỨA THỌ NGUYÊN
Ông đủ lòng tin chân chánh, lập chí chân chánh, đó là nền tảng để thành Phật làm Tổ vậy.

Kẻ quê mùa này lấy hai chữ Trạm Nhiên đặt làm danh hiệu cho ông, như nước trạm nhiên (lóng trong) chẳng động thì hư minh tự chiếu, chẳng nhọc tâm lực. Pháp thế gian và xuất thế gian chẳng ngoài trạm nhiên, không mảy may sót lọt. Chỉ dùng cái ấn này ấn định hết thảy chỗ, không gì phải, không gì chẳng phải, mỗi mỗi đều giải thoát, mỗi mỗi đều minh diệu, mỗi mỗi đều chân thật, lúc dùng cũng trạm nhiên, lúc không dùng cũng trạm nhiên.

Tổ Sư nói: "Hễ có tâm phân biệt so đo cái tự tâm hiện lượng thì thảy đều là mộng". Nếu tâm thức tịch diệt, chẳng có chút động niệm, gọi là chánh giác. Giác đã chánh thì hàng ngày trong mười hai thời thấy sắc, nghe tiếng, ngửi mùi, nếm vị, cảm giác, phân biệt, đi, đứng nằm, ngồi, nói, nín, động, tịnh thảy đều trạm nhiên, cũng chẳng tự khởi tưởng điên đảo, có tưởng, không tưởng thảy đều thanh tịnh. Đã được thanh tịnh, lúc động thì hiển bày cái dụng của trạm nhiên, lúc bất động thì quy về thể của trạm nhiên. Thể dụng tuy khác mà trạm nhiên là một, như chiết cây chiên đàn thì mỗi nhánh đều là chiên đàn.

Ngày nay có một bọn tà sư "đặt điều", sự ngộ của họ chẳng thật cứ dạy người nhiếp tâm tĩnh tọa, ngồi đến bặt hơi thở. Bọn này thật đáng thương xót!

Ông hãy thực hiện công phu như lời tôi chỉ dạy. Kẻ quê mùa này có dạy ông như thế cũng chỉ là chuyện bất đắc dĩ, nếu thật có việc thực hiện công phu như thế tức là làm nhiễm ô ông. Tâm này vốn chẳng thực thể thì làm sao thu nhiếp được? Thu nhiếp rồi đặc ở chổ nào? Đã không có chỗ đặt thì vô thời, vô tiết, vô cổ, vô kim, vô phàm, vô thánh, vô đắc, vô thất, vô tịnh, vô loạn, vô sanh, vô tử, cũng không có cái tên trạm nhiên, cũng không có cái thể trạm nhiên, cũng không có cái dụng trạm nhiên, cũng không có người nói trạm nhiên, cũng không có người nhận lời nói trạm nhiên.
KHAI THỊ TRẦN MINH TRỌNG
  • Phật thuyết tất cả pháp
    Vì độ tất cả tâm
    Ta chẳng tất cả tâm
    Đâu cần tất cả pháp.
Pháp vốn vô pháp, tâm cũng vô tâm, tâm pháp đều không, là tướng chân thật. Hiện nay người học đạo phần nhiều sợ lọt vào không, kiến giải như thế là lầm nhận phương tiện, cho bệnh là thuốc, rất đáng thương xót! Nên Bàng Uẩn nói: "Ngươi chớ sợ lạc vào không. Lạc vào không cũng chẳng phải xấu". Lại nói: "Nguyện không những gì mình đã có, chớ nhận những gì mình đã không". Nếu thấu rõ được lời này thì vô biên ác nghiệp vô minh ngay đó tan rã. Cả đại tạng giáo điển do Phật thuyết cũng chú giải câu này không được.

Hành giả nếu đủ lòng tin quyết định biết được có pháp đại giải thoát như thế, chỉ ở chỗ biết được đó "BẤt chợt đụng nhằm quan khiếu(1)" thì một lời của Bàng Uẩn với cả đại tạng của Phật thuyết chẳng hai chẳng khác, chẳng trước chẳng sau, chẳng xưa chẳng nay, chẳng thiếu chẳng dư, cũng chẳng thất có tất cả pháp, cũng chẳng thấy có tất cả tâm, mười phương thế giới mênh mông trống rỗng. Cũng chớ cho là không, nếu cho là không thì có kẻ thuyết không, có kẻ nghe thuyết không, có tất cả pháp để nghe, có tất cả tâm để chứng, đã có nghe có chứng thì trong có tâm năng chứng, ngoài có pháp sở chứng, nếu bệnh này chẳng trừ, giáo môn gọi là chấp "có ta thuyết pháp". Cũng gọi là phỉ báng Phật Pháp Tăng. Như kinh nói: "Nếu chấp pháp tướng tức dính mắc ngã, nhân chúng sanh, thọ giả. Nếu chấp phi pháp tướng cũng dính mắc ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả". Ở trên nói "trong có tâm năng chứng, ngoài có pháp sở chứng" tức là đạo lý này vậy.

Có một Phật tử tên Trần Thuần biết thân là vọng, biết pháp là huyễn, ở nơi mộng huyễn khán công án "con chó không Phật tánh", bỗng khi rửa mặt "đụng nhằm lỗ mũi" (tỉnh ngộ) đã viết đến trình kiến giải về thiền như: "Cọp mới sanh ba ngày, sức mạnh đã đủ nuốt con trâu". Chỗ trình kiến giải của ông ấy tuy còn gơi dính mắc nhưng cơ bản đã chánh, dù đại pháp chưa rõ, cũng chỉ là cái bệnh của người mới nhập đạo mà thôi. Nếu được biết việc này rồi gạt qua một bên, lại đem diệu môn của chư Phật chư Tổ nhất thời cắt dứt, hướng về phía bên Oai Âm Vương để làm công phu, mới có thể ở nơi pháp được tự tại vậy.

Phật nói: "Nếu chỉ tán thán Phật thừa thì chúng sanh lặn hụp nơi biển khổ". Đã tin biết việc như thế, nên dùng sở chứng của mình để khuyếch sung thêm rồi mới chẳng bị pháp trói buộc, chẳng cầu pháp giải thoát, như thế cũng được, chẳng như thế cũng được, như thế chẳng như thế đều được. Phàm có ngữ cú, phàm có thọ dụng đều như "tráng sĩ xuất chiêu" chẳng nhờ tha lực, như tên đã lìa cung không thể trở về ấy chẳng phải cố tình mà vì pháp vốn như thế. Được đến chỗ này rồi mới có thể nói những việc vô thiện, vô ác, vô Phật, vô chúng sanh. Nếu đại pháp chưa rõ mà nói những lời như thế, e sợ đọa vào chỗ ngài Vĩnh Gia nói:
  • Trống rỗng không, xóa nhân quả
    Mênh mênh mông mông chiêu tai họa.
Việc này nên biết.

Hễ được gốc chớ lo ngọn, huân tập lâu ngày thuần thục khỏi lo công phu chẳng thành khối. Gắng tham đi!
KHAI THỊ TRỊNH THÀNH TRUNG
Hiện nay người chưa rõ tâm địa thì phải nghi rằng. "Thế giới từ đâu sanh khởi? Sau này lại hướng chỗ nào mà tiêu diệt? Lại thế giới có trước hay là con người có trước?" Nếu nói thế giới có trước thì Cổ Đức chẳng nên nói "Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức". Nếu nói con người có trước, vậy thế giới có trước vậy thế giới chưa có, con người cư trú ở chỗ nào? Như thế, nói thế giới có trước cũng không phải, nói con người có trước cũng không phải. Nếu đại pháp được rõ thì chẳng cần suy lường mà tự nhiên rõ ràng.
THƯ ĐÁP VƯƠNG ĐẠI THỤ
Chẳng biết sau khi từ biệt nhau hàng ngày ông thực hiện công phu như thế nào? Nếu như đã từng ở trên lý đánh được mùi vị, trong kinh giáo được mùi vị, trên lời nói Tổ Sư được mùi vị, chỗ mắt thấy tai nghe được mùi vị, chỗ đi đứng nằm ngồi được mùi vị, chỗ tâm nghĩ, ý tưởng được mùi vị thì tất cả mùi vị đó đều chướng ngại sự tham thiền. Nếu muốn thôi nghĩ triệt để thì hãy chớ màng đến những chỗ mùi vị đã được trước kia, lại hướng vào chỗ không thể mò bắt được, chỗ không có mùi vị, xem đó là cái gì? Nếu xem xét chẳng được, mò bắt chẳng được, càng thấy không có cán để nắm, ý thức, nghĩa lý đều chẳng thông, như gỗ đất, ngói đá..., khi ấy chớ nên sợ lọt vào không. Đây là chỗ buông thân xả mạng của hành giả. Lưu ý! Lưu ý!
THƯ ĐÁP LÝ TỰ BIỂU
Ông muốn Diệu Hỷ này viết thư khai thị cho ông chỗ cốt yếu thì ngay cái niệm cầu khai thị chỗ cốt yếu ấy đã là đút đầu vào chỗ trói buộc rồi. Chẳng nên trên đầu lại mọc thêm đầu, tuy nhiên có người hỏi thì chẳng thể không đáp. Xin ông hãy đem hết các thứ đã đắc được ngày trước như tự xem kinh giáo, thoại đầu, hoặc nhờ người dạy bảo khai thị, mà được mùi vị hoan hỷ, đều nhất thời buông hết, y như trước vẫn là trăm điều chẳng biết trăm điều chẳng hội, giống như đứa bé ba tuổi có thức tánh mà chưa biết dùng. Lại hướng vào chỗ trước kia chưa khởi một niệm cầu khai thị cốt yếu đó mà khán. Khán đi khán lại, cảm thấy càng không mùi vị, trong tâm càng không yên ổn, lúc ấy càng phải tiến lên. Chỗ này chính là "chỗ cắt đứt đỉnh đầu" của ngàn thánh (sắp ngộ). Thường thường người học đạo phần đông đến chỗ trước khi chưa khởi một niệm cầu khai thị cốt yếu đó mà khán. Khán đi khán lại, hốt nhiên như nằm mơ thức dậy, việc này không sai.
THƯ ĐÁP TRƯƠNG DƯƠNG THÚC
Trong mọi hành vi của lão cư sĩ đều đã thầm hợp với đạo, như chưa thể đến được chỗ bùng vở cuối cùng. Nếu hàng ngày ứng duyên chẳng mất công phu, dù chưa được "ồ" lên một tiếng (kiến tánh) thì lúc lâm chung Diêm Vương còn phải chắp tay đầu hàng huống là một niệm tương ưng ư!

Diệu Hỷ tuy chưa đích thân gặp mặt, nhưng biết ông làm việc lớn nhỏ tùy nghi, không thái quá, không bất cập, như thế tức là chỗ hợp với đạo. Đến đây chẳng cần cho là trần lao, chẳng cần cho là Phật pháp. Phật pháp, trần lao đều là việc bên ngoài, cũng chớ nên cho là việc bên ngoài. Chỉ cần hồi quang phản chiếu xem những cái suy nghĩ kể trên từ đâu mà có? Lúc làm việc có hình thái gì? Khi làm việc đã xong, thỏa mãn ý mình chẳng có thiếu sót, đang lúc ấy là nhờ ân lực của ai? Thực hiện công phu như thế như người học bắn lâu ngày chầy tháng tự nhiên bắn trúng đích vậy.

Chúng sanh điên đảo mê mình mà theo vật, tham đắm một chỗ hương vị của dục lạc mà cam thâm chịu vô lượng khổ. Mỗi ngày lúc chưa mở mắt ra, lúc chưa bước xuống giường, lúc nửa thức nửa ngủ, tâm thức đã lăng xăng theo vọng tưởng trôi nổi rồi. Làm thiện tạo ác, tuy chưa phát lộ, nhưng lúc chưa bước xuống giường, thiên đường địa ngục ở trong tâm đã nhất thời thành tựu rồi, đâu cần đợi đến lúc phát ra. Phật nói: "Tất cả các căn đều do tự tâm hiện ra. Thế giới, thân, tâm đều từ tướng vọng tưởng biến hiện như suối chảy, như giống mầm, như đèn đuốc, như gió thổi, như mây bay, biến đổi từng sát na, loạn động như khỉ vượn, ham hôi thối như ruồi, nhặng chẳng nhàm chán như gió thổi lữa. Tập khí hư ngụy từ vô thủy như cái bánh xe quát nước v.v...". Nếu hiểu thấu được bèn gọi là cái trí vô ngã vô nhân. Phải biết thiên đường địa ngục chẳng ở nơi khác, chỉ ở trong tâm người hành giả lúc nửa ngủ nửa thức, lúc chưa bước xuống giường, chứ không phải từ bên ngoài đến. Khi phát hay chưa phát, khi giác hay chưa giác đều cần phải tham cứu. Lúc tham cứu cũng chớ nên cố dùng sức cố dùng sức ắt phí sức vậy. Tam Tổ nói: "Ngưng động để trở về tịnh, cái ngưng ấy lại càng thêm động". Cho nên hàng ngày trong trần lao, khi vừa biết dần dần ít phí sức tức là chỗ đắc lực của hành giả, chỗ thành Phật làm Tổ của hành giả, chỗ biến địa ngục thành thiên đường của hành giả, chỗ ngồi yên ổn của hành giả, chỗ ra khỏi sanh tử của hành giả, chỗ giúp vua trị nước của hành giả, chỗ bệnh nặng được lành của hành giả, chỗ để phước đức cho con cháu của hành giả. Đến chỗ này rồi nói Phật, nói Tổ, nói tâm, nói tánh, nói huyền, nói diệu, nói lý, nói sự, nói tốt, nói xấu, tất cả việc tương đối đều là việc bên ngoài. Những chuyện như thế còn thuộc bên ngoài, huống là làm những việc mà bậc thánh xưa thường quở sao? Làm việc tốt còn không cho là tốt, há lại cho làm việc không tốt ư? Nếu tin nổi lời này thì lời ngài Vĩnh Gia (665-713) nói:
  • Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền
    Nói nín, động tịnh tự an nhiên.
Chẳng phải là lời nói dối vậy.

Hãy y theo đây thực hành chẳng bao giờ thay đổi thì dù chưa chứng ngộ, chưa thấy được bản lai diện mục của chính mình, nhưng chỗ lạ (nghi tình) đã thành quen, chỗ quen (tập khí) đã thành lạ rồi. Hãy ghi nhớ lấy!
THƯ ĐÁP LÝ BỈNH (tự Hán Lão)
1. PHỤ THƯ HỎI:

Bỉnh gần đây được vào thất thân cận, nhờ Ngài khích lệ và khai phá ám muội cho, bỗng có tỉnh ngộ.

Con tự xét căn cơ thấp kém, một đời học hỏi hiểu biết đều lọt vào tình thức (kiến chấp), buông cái nầy bắt cái kia như mở dây xích này lại buộc dây xích khác. Ngày nay nhờ Ngài bỗng được mở trói, vui mừng biết bao! Nếu chẳng phải Đại Tông Sư rủ lòng từ bi thì đâu được như thế.

Từ khi được mở trói thì mặc áo ăn cơm, dắt con bồng cháu mỗi mỗi vẫn y như nhưng tình cảm trói ngại đã quen và cũng chẳng cho là kỳ lạ. Ngoài ra, những tập khí xưa, nghiệp chướng cũ tự nhẹ bớt dần dần.

Lời dặn của Ngài con chẳng dám quên. Song nghĩ lại con mới được vào cửa đại pháp chưa thấu, ứng cơ tiếp vật gặp việc chưa thể vô ngại, nên con rất mong được Ngài dạy bảo thêm, khiến cho tiến tới để khỏi làm hổ thẹn giáo pháp của Ngài.

THƯ ĐÁP[:

Đọc thư ông viết: "Từ khi mở trói mặc áo ăn cơm, dắt con bồng cháu mỗi mỗi y như cũ nhưng tình cảm trói ngại đã quên cũng chẳng cho là kỳ lạ. Ngoài ra những tập khí xưa nghiệp chướng cũ cũng tự nhẹ bớt dần dần". Biết được ông như vậy, đọc đi đọc lại tôi cảm thấy rất hoan hỉ. Đây là học Phật có hiệu nghiệm vậy.

Nếu chẳng phải bậc đại trượng phu ngộ một cái liền siêu việt số lượng, thì chẳng thể biết nhà mình quả thật có cái diệu dụng chẳng thể truyền. Nếu không được như thế thì hai chữ NGHI, NGỘ trong Pháp môn, đến tận cùng vị lai cũng chẳng thể tiêu hoại. Dẫu cho miệng tôi bằng hư không, cây cỏ ngói đá đều phát ra ánh sáng trợ giúp tôi thuyết pháp cũng chẳng làm gì được, mới tin rằng việc nhân duyên này chẳng thể truyền, chẳng thể học, cần phải tự chứng tự ngộ mới đến triệt để. Ông nay nhất ngộ đã quên sở đắc thì đâu còn gì để nói nữa.

Phật nói:
  • Chẳng chấp ngôn thuyết của chúng sanh
    Tất cả hữu vi đều hư vọng
    Dù chẳng y theo lời ngôn ngữ
    Nhưng cũng chẳng chấp vô ngôn thuyết.
Trong thư ông nói đã quên tình cảm trói ngại cũng chẳng cho là kỳ lạ, ấy là âm thầm phù hợp với lời Phật. Thuyết nầy gọi là Phật thuyết. Lìa thuyết này gọi là tà ma thuyết.

Sơn Tăng trước kia có đại nguyện: "Thà đem thân này thay tất cả chúng sanh chịu khổ địa ngục, chứ không bao giờ dùng miệng này lấy Phật pháp vị nhân tình mà làm mù mắt tất cả chúng sanh".

Ông đã đến nơi điền địa này, tự biết việc này chẳng từ người khác mà được, vậy cứ y như trước đâu cần hỏi nữa. Đại pháp rõ hay chưa rõ? Ứng cơ ngại hay chẳng ngại? Nếu còn nghĩ vậy thì chẳng phải như trước rồi.

Trước kia thấy ông hoan hỉ quá nên chẳng dám nói trắng ra, e ngại kẹt trong lời nói. Nay sự hoan hỉ đã qua mới dám chỉ ra việc này. Ông được đến mức này chẳng phải là dễ nhưng vẫn cần phải sanh tâm hổ thẹn mới được.

Thường thường kẻ lợi căn thượng trí khi chứng đắc cảm thấy chẳng phí sức liền sanh tâm cho là dễ quá, chẳng chịu tu hành. Phần nhiều bị cảnh giới trước mắt lôi kéo đi, làm chủ chẳng được, lâu ngày dài tháng mê muội mà chẳng thể trở về. Đạo lực không thắng nghiệp lực thì nhất định sẽ bị bọn ma nhiếp trì. Lúc lâm chung cũng chẳng đắc lực. Hãy nhớ lấy cho.

Lời nói hôm trước: "Lý thì đốn ngộ, theo ngộ cùng tiêu. Sự thì tiệm trừ lần lần mới hết". Đi đứng ngồi nằm chớ nên quên mất. Ngoài ra đủ thứ lời sai biệt của cổ nhân đều chẳng thể cho là thật cũng chẳng thể cho là giả. Lâu ngày thuần thục tự nhiên âm thầm khế hợp bản tâm vậy. Chẳng cần cầu kỳ lạ thù thắng nào khác.

Xưa kia hòa thượng Thủy Lạo hỏi Mã Tổ (709 – 788):

- Thế nào là ý của Tổ Sư từ Ấn Độ đến?

Tổ nói:

- Lại gần đây ta nói cho nghe.

Thủy Lạo vừa đến gần định để bái, bị Mã Tổ dùng chân đá nhào.

Thủy Lạo bất giác đứng dậy vỗ tay cười ha hả.

Tổ bảo:

- Người thấy đạo lý gì mà cười?

Thủy Lạo nói:

- Muôn ngàn pháp môn, vô lượng diệu nghĩa, hôm nay bị đá một trận thì biết được nguồn gốc sát đáy.

Mã Tổ cũng không nói gì thêm.

Tuyết Phong (822-908) biết Cổ Sơn cơ duyên đã thuần thục. Một hôm Ngài bỗng chụp ngay ngực Cổ Sơn hỏi rằng:

- Cái gì vậy?

Cổ Sơn ngay đó liễu ngộ. Luôn cả cái tâm liễu cũng mất luôn chỉ mỉm cười và khoát tay mà thôi.

Tuyết Phong hỏi:

- Ông được đạo lý sao?

Cổ Sơn lại khoát tay nói:

- Hòa thượng! Đâu còn có đạo lý nào nữa.

Tuyết Phong liền thôi.

Thuở xưa, Thiền Sư Đạo Minh đuổi theo Tổ Huệ Năng đến Đại Du Lãnh để đoạt y bát. Ngài Huệ Năng để y bát trên tảng đá nói: Y này là biểu tín (vật tiêu biểu để làm tin), há có thể dùng sức tranh dành ư? Ông cứ lấy đi.

Đạo Minh tận sức giở lên không nổi mới kinh hãi thưa:

- Tôi nay cầu pháp chứ chẳng vì cầu y bát, xin hành giả khai thị.

Huệ Năng nói:

- Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, ngay lúc ấy cái gì là bản lai diện mục của thượng tọa?

Đạo Minh ngay đó đại ngộ, toàn thân xuất mồ hôi, rơi lệ đảnh lễ rằng:

- Ngoài mật ý mật ngữ kể trên, còn có ý chỉ nào nữa chăng?

Huệ Năng nói:

- Nay vì ngươi nói ra thì chẳng phải mật ý rồi. Ngươi nều tự phản chiếu diện mục mình thì mật ở bên ngươi. Nếu ta nói được thì chẳng phải là mật vậy.

Đem ba công án kể trên so với cái ngộ của ông, hay dở thế nào xin ông tự đoán xem. Đâu còn có đạo lý kỳ lạ gì khác nữa. Nếu còn có cái khác thì chẳng thể gọi là ngộ rồi. Chỉ cần biết làm Phật, chớ đừng lo Phật chẳng biết nói. Xưa nay những người đắc đạo, tự mình đã viên mãn, đều dùng cái của mình sẳn có tùy cơ tiếp vật như gương sáng trên đài, ngọc sáng trong tay, Nam đến thi hiện hình Nam, nữ đến thì hiện hình nữ, mà chẳng cần tác ý vậy. Nếu có tác ý ắt có pháp thật cho người rồi. Ông muốn thấu rõ đại pháp ứng cơ vô ngại, hãy cứ vẫn y như trước, chẳng cần hỏi người, lâu ngày sẽ tự gật đầu vậy. Lời tôi nói khi chia tay xin chép lại để cạnh chỗ ngồi. Ngoài ra chẳng có lời khác để thuyết. Dẫu có thuyết, đối với bổn phận của ông cũng thành lời thừa rồi. Nói lòng vòng nhiều quá, nay tạm gạt qua một bên đi.

2. PHỤ THƯ HỎI:

Vừa được lời đáp khai thị đã thấu ý chỉ thâm sâu. Bỉnh tự thấy có ba điều hiệu nghiệm. Một là gặp việc nghịch thuận tùy duyên ứng phó, chẳng lưu lại trong lòng. Hai là tập khí lâu đời chẳng cần dứt trừ mà tự nó nhẹ dần dần. Ba là đối với công án của Cổ Đức trước kia cảm thấy mờ mịt, nay lại thấy rõ ràng, không còn ám muội nữa.

Thư trước nói đại pháp chưa rõ là vì sợ rằng được ít cho là đủ nên muốn được khuyếch sung (mở rộng) thêm, chứ đâu dám cầu kiến giải thù thắng nào khác. "Tẩy trừ tập khí" hiện hành, lúc ấy chẳng phải không! Lời dạy của Ngài, con rất khâm phục.

THƯ ĐÁP:

Được thơ sau thấy có tiến thêm, chẳng biết gần đây được tùy duyên phóng khoáng, như ý tự tại chăng? Thức ngủ, nhị biên được như một chăng? Chỗ "vẫn y như cũ" có dời đổi chăng? Tâm sanh tử còn tương tục chăng?

Chỉ cần tẩy sạch làm phàm tình, thực chẳng có thánh giải khác. Ông đã được ngộ, khai mở chánh nhãn, tin tức sở đắc xưa bỗng quên mất thì đắc lực hay chẳng đắc lực như người uống nước lạnh nóng tự biết vậy. Nhưng trong cuộc sống hàng ngày nên y theo lời dạy của Phật: "Một là tu tập trừ các trợ nhân; hai là chơn tu nạo sạch chánh tánh (tánh dâm dục)(l); ba là tinh tấn xoay ngược hiện nghiệp”. Đây là chân phương tiện trong vô phương tiện, chân tu chứng trong vô tu chứng, chân thủ xả trong vô thủ xả của người xong việc (đã ngộ).

Cổ Đức nói: “Lớp da đã lột hết, chỉ còn một chân thật”. Cũng như nhánh lá của cây chiên đàn róc sạch hết, chỉ còn lại cây chiên đàn chân thật. Ấy là lý cùng tột của ba việc “trừ các trợ nhân, nạo sạch chánh tánh và xoay ngược hiện nghiệp” vậy. Ông thử nghĩ xem, lời nói như thế đối với bổn phận của người đã xong việc mặc dù như cây quạt trong mùa đông, song e miền Nam khí trời lạnh nóng bất thường nên thiếu nó chẳng được. Một tiếng cười.

Lúc Phú Quí Thân ở Tam Cù có thư đến hỏi đạo, nhân đó bất đắc dĩ tôi buông lời phương tiện chẳng ít. Nhưng ông ta vẫn kẹt nơi Mặc Chiếu, chắc chắn đã bị bọn tà sư dẫn vào hang quỉ.

Nay tôi được thư kế tiếp, biết ông ta vẫn còn chấp tỉnh tọa cho à là tốt. Ông ta cố chấp như thế làm sao tham được Tổ Sư Thiền? Lần này đáp thư, tôi không tiếc khẩu nghiệp, dài dòng thống thiết phá chấp cho ông ta, nhưng chẳng biết ông ta có chịu quay đầu lại khán câu thoại đầu hay không.

Bậc Thánh xưa nói: "Thà có thể phá giới lớn như núi Tu Di, quyết chẳng để bị tà sư huân một tà niệm nhỏ như hạt cải vào trong tàng thức, như đổ dầu vào trong bún thì không làm sao lấy ra được". Ấy là tình trạng của ông ta vậy.

Nếu ông có gặp ông ta thì hãy đọc thử thư tôi đáp cho ông ta nghe. Theo đó mà làm phương tiện cứu vớt ông ta. Trong Pháp Tứ Nhiếp của Bồ Tát, đồng sự nhiếp là mạnh nhất, ông nên khai triển pháp môn này khiến ông ta tăng cường lòng tin "Tin tự tâm", như vậy chẳng những tiết kiệm được một nửa sức Sơn Tăng, mà cũng khiến ông ta chịu xa lìa hang ổ cũ vậy.

GHI CHÚ:

(l) Chánh tánh (tánh dâm dục):

Chúng sanh đều dùng dâm dục làm chánh nhân để sanh ra sinh mạng nên gọi tánh dâm dục là chánh tánh.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: PHẬT PHÁP VỚI THIỀN TÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

THƯ ĐÁP GIANG THIẾU MINH
Đời người một trăm năm, thời gian có là bao. Ông xuất thân từ nhà nghèo hèn tiến lên quan chức, ấy là có phước nhất thế gian. Ông lại biết hổ thẹn hồi tâm hướng về đạo, học pháp xuất thế gian để thoát ly sanh tử, ấy là người khéo lựa chọn nhất trên đời. Cần phải quyết tử dụng công phu, chẳng màng đến việc khác, chẳng để cho người khác chi phối, tự làm chủ cho mình. Chỗ cuối cùng được chứng tỏ rõ ràng mới là bậc đại trượng phu đã xong việc thế gian và xuất thế gian vậy.

Liên tiếp mấy ngày ông cùng với Lý Hán Lão đàm luận về đạo, lành thay! Lành thay! Cho ông ta là đã dứt được tâm dong ruổi tìm cầu, đến chỗ "đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành diệt", ngay chỗ muôn ngàn sai biệt thấy được chân tay cổ nhân, chẳng bị phương tiện văn tự của cổ nhân trói buộc. Sơn Tăng thấy ông ta như thế chẳng hề bảo ông ta một chữ, vì e làm trở ngại ông ta. Đợi khi ông ta muốn nói chuyện với Sơn Tăng, lúc ấy mới cùng ông ta giải rõ việc này. Chứ chẳng phải ngưng luôn đâu. Người học đạo nếu tâm tìm cầu chẳng dứt thì dẫu có cùng họ giải rõ việc này cũng vô ích, vì họ là kẻ ngu si cuồng loạn chạy ở vòng ngoài.

Cổ Đức nói: "Gần gũi người lành như đi trong sương móc, tuy chẳng ướt áo nhưng cũng được thấm nhuần". Ông thường qua lại hầu chuyện với Lý Hán Lão, tôi rất mong, rất mong!

Ông chớ nên đem lời dạy của Cổ Đức ra bày đặt bậy bạ. Như Nam Nhạc nói với Mã Tổ rằng: "Ví như trâu kéo xe, nếu xe chẳng đi thì đánh xe là phải hay đánh trâu là phải?" Mã Tổ nghe xong ngộ ngay. Về mấy lời này, Tông Sư các nơi chẳng hội được, lại đoán mò bậy ba, dù thuyết pháp như sấm sét cũng chỉ là hiểu theo lời nói. Ấy là phỉ báng Tổ Sư. Xem thư ông gửi Châu Phong, ông tự ý đặt điều chú giải cho Như Lai Thiền là Tổ Sư Thiền, Sơn Tăng đọc qua bất giác bật cười.

Bài tụng gửi đến kỳ này xem kỹ thấy khá hơn hai bài tụng trước, nhưng từ nay hãy ngưng hẳn, nếu cứ tụng đi tụng lại mãi thì đến chừng nào mới xong. Như Lý Hán Lão, ông ta há chẳng biết làm kệ tụng sao, tại sao ông ta không làm một chữ? Vì là người biết pháp nên sợ phạm pháp mà thôi! Ông ta ngẫu nhiên lộ ra một đầu sợi lông thì tự nhiên gãi nhẳm chố ngứa của Sơn Tăng. Như câu "gặp người khắp nơi, gạt trước mặt:(1) trong bài tụng Xuất Sơn Tướng, đáng làm thuốc điểm nhãn cho tòng lâm. Một ngày nào đó ông sẽ tự thấy, chẳng cần Sơn Tăng nói trắng ra.

Gần đây, tôi thấy ông bỗng nhiên thay đổi và rất nỗ lực về việc này, nên tôi viết thơ này hơi dài dòng.

CHÚ THÍCH:

(1) "Gặp người khắp nơi, gạt trước mặt"

Cồ Đức nói: “Người học chẳng thấy được ý của chư Tổ thì phải bị chư Tổ lừa gạt. Cũng như người không qua được sông hồ thì bị sông hồ chướng ngại vậy”.
THƯ ĐÁP PHÚ QUÍ THÂN
1. Lúc tuổi trẻ ông đã biết phát lòng tin hướng đến Tổ Sư Thiền, nhưng về tuổi già bị tri giải làm chướng nên chưa có chỗ ngộ nhập, ngày đêm mong muốn biết phương tiện thể cứu đạo này. Ông đã có lòng chí thành, tôi đâu dám từ nan.

Theo lời thỉnh của ông, tôi nói ra ít lời sau đây. Chỉ cái tâm cầu ngộ nhập này tức đã là tri giải chướng đạo rồi, lại còn tri giải nào làm chướng ngại ông nữa? Thực ra gọi cái gì là tri giải? Tri giải từ đâu mà dến? Người bị chướng ngại là ai? Chỉ một câu này điên đảo có ba:
  • - Một là tự nói bị tri giải làm chướng.
    - Hai là tự nói chưa ngộ, cam đành làm kẻ mê.
    - Ba là ở trong mê đem tâm chờ ngộ.
Ba thứ điên đảo này là cội gốc sanh tử. Cần phải chớ sanh một niệm, ngay đó tâm điên đảo bặt, mới biết không có mê để phá trừ, không có ngộ để chờ đợi, không có tri giải để làm chướng, như người uống nước lạnh nóng tự biết, lâu ngày tự nhiên không còn những kiến giải này. Chỉ cần nhìn ngay chỗ cái tâm hay biết tri giải đó khán xem còn chướng được hay không? Trên cái tâm hay biết tri giải đó còn có những kiến giải kể trên hay không?

Từ xưa, các bậc đại trí huệ, đều lấy tri giải làm bè bạn, dùng tri giải làm phương tiện. Ở trên tri giải thực hành lòng từ bình đẳng, ở trên tri giải làm các Phật sự như rồng gặp nước, như hổ ở núi, chẳng bao giờ lấy đó làm bực dọc. Chỉ vì các Ngài biết được chỗ khởi của tri giải. Đã biết được chỗ khởi của tri giải thì chính tri giải này tức là nơi giải thoát, cũng là chỗ thoát sanh tử. Đã là nơi giải thoát sanh tử thì cái tri giải đó bản thể vốn là tịch diệt. Tri giải đã tịch diệt thì kẻ năng biết tri giải đó chẳng thể không tịch diệt. Vậy Bồ Đề, Niết Bàn, Chân Như, Phật tánh cũng chẳng thể không tịch diệt. Theo lý này suy ra thì còn có vật nào có thể làm chướng ngoại, và nhằm vào đâu để cầu ngộ nhập.

Phật nói:
  • Các nghiệp từ tâm sanh,
    Nên nói tâm như huyễn.
    Nếu lìa tâm phân biệt,
    Ắt đường sanh tử tuyệt.
Tăng hỏi Hòa Thượng Đại Châu:

- Thế nào là Đại Niết Bàn?

Sư đáp:

- Chẳng tạo nghiệp sanh tử.

Tăng hỏi:

- Thế nào là nghiệp sanh tử?

Sư đáp:

- Cầu đại Niết Bàn là nghiệp sanh tử.

Cổ Đức nói: "Người học đạo có một niệm chấp thật sanh tử, tức là rơi vào ma đạo, một niệm khởi các kiến chấp tức sa vào ngoại đạo".

Duy Ma Cật nói: "Chúng ma ưa sanh tử, Bồ Tát ở nơi sanh tử mà chẳng nhiễm, ngoại đạo ưa các kiến chấp, Bồ Tát ở nơi các kiến chấp mà chẳng động". Như thế chứng tỏ người lấy tri giải làm bè bạn, dùng tri giải làm phương tiện, ở trên tri giải thực hiện lòng từ bình đẳng, ở trên tri giải làm các Phật sự, là người thực hành đúng theo lời dạy của Phật, Tổ. Tại sao? Chỉ vì bậc thánh liễu đạt thời gian tánh không, sanh tử Niết Bàn vốn là tịch diệt.

Người chưa đến được chỗ này chẳng nên nghe theo lời bậy bạ của bọn tà sự dẫn vào hang quỉ, ở đó nhắm mắt nổi vọng tưởng. Gần đây chánh pháp suy đồi, bọn này nhiều như mè như lúa, cũng như một người mù dẫn cả bọn mù cùng nhau vào hầm lửa. Thật đáng thương xót! Mong ông thẳng thắn chớ theo bọn này. Nếu theo bọn này, dù tạm thời giữ được cái xác thân này chẳng bị lay động, lại cho là đạo cứu cánh, nhưng tâm thức vẫn lăng xăng trôi nổi như bụi trần. Dẫu cho tâm thức tạm ngưng thì cũng như đá đè cỏ, vậy muốn đến chỗ cứu kính an lạc của Vô Thượng Bồ Đề làm sao mà được. Xưa kia, tôi cũng từng bị bọn này làm lầm, về sau nếu tôi không gặp được thiện tri thức chân chánh thì phải uổng qua một đời. Nay mỗi khi nghĩ đến, tâm không thể nhẫn được, nên chẳng tiếc khẩu nghiệp mà tận sức cứu vãn cái tệ đoan này.

Ngày nay, người biết quấy nếu muốn ngay đó lãnh hội cần phải nơi một niệm này được bùng vỡ, mới liễu thoát được sanh tử, mới gọi là ngộ nhập, nhưng không được giữ cái tâm chờ bùng vỡ. Nếu cứ giữ cái tâm chờ bùng vỡ thì không bao giờ bùng vỡ được. Chỉ cần đem những vọng tưởng như tâm điên đảo, tâm suy nghĩ phân biệt, tâm tham sống sợ chết, tâm tri kiến hiểu biết, tâm ưa tịnh chán động v.v… nhất thời buông xuống, ngay chỗ buông xuống đó khán công án :

Tăng hỏi Triệu Châu:

- Con chó có Phật tánh hay không?

Triệu Châu đáp:

- Không.

Xem tại sao Triệu Châu nói "không"?

Một chữ KHÔNG này là lợi khí để đập tan những ác tri ác giác. Nhưng chẳng được dùng bộ óc tìm hiểu cho là có hay không, chẳng được cho là đạo lý, chẳng được dùng ý căn suy nghĩ tính toán, chẳng được hướng theo cái nheo mày nhướng mắt để lãnh hội, chẳng được hướng trên lời nói để so đo, chẳng được bỏ vào trong cái vỏ vô sự, chẳng được hướng chỗ đề khởi của Chư Tổ để hội ngộ, chẳng được theo văn tự để dẫn chứng. Chỉ cần suốt ngày đêm đi đứng ngồi nằm luôn luôn tự hỏi: "Con chó có Phật tánh hay không?" Tại sao Triệu Châu nói "không"? Hằng ngày thử thực hiện công phu như thế xem, không bao lâu sẽ tự thấy hiệu nghiệm phần nào. Việc một bước ngàn dậm cũng có thể được vậy.

Cổ Đức nói: "Ý Tổ Sư ở đây rất linh động, không vật nào có thể hạn chế nó được. Nếu lìa cuộc sống hàng ngày mà có chỗ xu hướng khác thì cũng như lìa nước tìm sóng, càng tìm càng xa vậy".

2. Được biết, những ngày gần đây ông lấy đại sự nhân duyên (công phu tham thiền) này làm đều tâm niệm, dũng mãnh tinh tấn thuần nhất không tạp, lòng tôi xiết bao vui mừng.

Ông có thể suốt ngày trong lúc làm việc, công phu đã được tương ưng chưa? Hai lúc thức và ngủ đã được nhất như chưa? Nếu chưa được thì không nên luôn luôn chìm đắm trong không tịch. Người xưa gọi đó là làm việc trong nhà quỉ dưới núi đen, công phu như thế đến tận đời vị lai cũng không có ngày thấu thoát.

Hôm qua được thư, tôi thầm nghĩ ông say đắm việc nhập định vắng lặng, đến khi hỏi Trực Các (bạn đồng tham) thì mới biết quả đúng như điều tôi tiên đoán.

Nói chung, người trôi lăn nhiều ở chốn thế gian, từ lâu đã dính chặt trần lao, bỗng nhiên được người chỉ bảo hướng vào chỗ tĩnh lặng làm công phu, chợt được trong tâm vô sự, liền nhận đó là cứu cánh an lạc. Chứ không biết là như đá đè cỏ, tuy tậm cảm thấy thanh tịnh, nhưng đâu ngờ gốc rễ vô minh vẫn còn, biết đến ngày nào mới chứng được tịch diệt viên mãn. Muốn được cái tịch diệt chân chánh hiện tiền cần phải ở trong sự sanh diệt lăng xăng nhảy một cái ra khỏi (tỉnh ngộ). Khi ấy chẳng động một mảy lông (chẳng cần tác ý) cũng có thể quậy nước sông dài thành tô lạc, biến đất cát thành vàng ròng, ứng cơ tiếp vật tự do tự tại, tự lợi, lợi tha việc nào cũng xong.

Bậc thánh xưa gọi đó là Vô tận tạng đà la ni môn, Vô tận tạng thần thông du hí môn, Vô tận tạng như ý giải thoát môn. Những việc này chẳng phải là bậc đại trượng phu thì đâu thể làm được. Nhưng cũng chẳng phải do tạo tác mà được, vì vốn là vật sẵn đủ trong tâm ta. Mong ông quyết tâm tinh tấn, nhất định sẽ đến chỗ này. Khi hoát nhiên đại ngộ, trong tâm rõ ràng như trăm ngàn nhật nguyệt, mười phương thế giới trong một niệm thấu rõ mà không có một mảy may nghĩ tưởng nào khác thì mới được cùng cứu cánh tương ưng. Nếu được như thế thì chẳng những đắc lực trên đường sanh tử mà ngày sau, khi ông được lên cầm quyền, lại còn có thể giúp vua cai trị hơn cả Nghiêu Thuấn. Điều này chắc chắn như chỉ tay trên bàn tay vậy.

3. Thư Ông nói: "Người sơ cơ được chút công phu tĩnh tọa cũng là khá", lại nói: "Chẳng dám có kiến chấp về tĩnh lặng". Phật nói: "Ví như có người bịt lỗ tai rồi cất tiếng la to, tự họ không nghe cũng tưởng người khác không nghe như họ vậy". Thật chỉ tự làm chướng nạn mà thôi.

Người tham thiền nếu tâm sanh tử chưa vỡ, hằng ngày trong 12 thời mờ mờ mịt mịt như người chết hồn chưa tan, đâu có thì giờ rảnh để ý đến tĩnh lặng hay náo động?

Trên hội Niết Bàn, tên Quảng Ngạch buông đao đồ tể liền thành Phật, đâu phải là thực hiện công phu trong tĩnh lặng mà được. Ông ta há chẳng phải là người sơ cơ ư? Ông thấy việc này, cho rằng người đời nay chẳng có khả năng như vậy, rồi lại gán cho ông ấy là Cổ Phật thị hiện. Nếu có kiến giải như thế là do chẳng tin tự tâm, cam chịu làm người hạ liệt mà thôi.

Trong Thiền Tông ta chẳng luận kẻ sơ cơ hậu học, cũng chẳng luận người tiền bối lão tham. Nếu muốn chân thật yên tịnh, cần phải tâm sanh tử vỡ, chẳng do làm công phu trong tĩnh lặng. Hễ tâm sanh tử vỡ thì tự yên tịnh vậy. Điều bậc Thánh xưa gọi là phương tiện tịch tịnh chính lá cái này, chỉ tại bọn tà sư đời mạt pháp chẳng hội lời nói phương tiện của bậc thánh xưa đó thôi. Ông nếu tin được lời của Sơn Tăng, thử hướng ngay chỗ nào động khác câu thoại đầu xem, không kể ngộ hay không ngộ, chính ngay lúc tâm rối loạn hãy cứ đề câu thoại đầu hỏi mãi, khi ấy còn thấy tịnh hay không, còn thấy đắc lực hay không? Nếu thấy đắc lực thì chẳng cần buông xả gì cả. Khi tĩnh tọa chớ để hôn trầm và tán loạn. Nếu cảm thấy hai thứ bệnh này hiện tiền chớ nên dùng sức diệt trừ, chỉ cần đề câu thoại đầu hỏi tiếp thì ngay đó hai bệnh tự hết. Công phu lâu ngày mới biết chỗ ít phí sức chính là chỗ đắc lực, cũng chẳng cần làm công phu trong tĩnh lặng, ngay chỗ náo động này chính là công phu vậy.

Khi Lý Hán Lão mới gặp Sơn Tăng ở Tuyền Nam, thấy Sơn Tăng cực lực bài bác mặc chiếu tà thiền làm mù mắt người. Ông ta bất bình nửa nghi nửa giận, bỗng nghe Sơn Tăng nói câu thoại đầu "Cây bách trước sân", ông ta hốt nhiên đập vỡ thùng sơn đen, ở trong một tiếng cười đã hoàn toàn xong việc (ngộ), mới tin lời của Sơn Tăng không một mảy may dối gạt, cũng chẳng phải tranh giành nhân ngã, liền đối trước Sơn Tăng sám hối. Ông ta hiện đang còn ở nơi ấy, mời ông đến đó hỏi xem có phải hay không.

Thượng Tọa Đạo Khiêm đã đi Phước Kiến, không biết đã đến đó chưa. Ông ấy tham thiền nếm nhiều cay đắng, cũng đã từng mất hơn mười năm nhập khô thiền (tĩnh tọa như cây khô). Những năm gần đây, ông ấy mới được chỗ an lạc (ngộ). Khi gặp, xin hỏi thử ông ấy: "Phải thực hiện công phu như thế nào?" Trước kia ông ấy đã đi lầm đường tất sẽ thương xót kẻ lầm đường, tôi nghĩ rằng ông ấy sẽ thành thật thố lộ hết cho ông biết vậy.
THƯ ĐÁP TRẦN QUÝ NHẬM
1. Thư ông tự nói căn tánh rất ngu độn mà muốn lưu ý đoạn đại sự nhân duyên này, nếu thật như vậy tôi sẽ mừng cho ông.

Hiện nay bậc sĩ phu phần nhiều đối với việc này (tham Tổ Sư Thiền) chẳng thể ngay đó thấu thoát, chỉ vì căn tánh quá linh lợi, tri kiến quá nhiều, vừa nghe Tông Sư mở miệng liền dùng bộ óc lãnh hội ngay, không phát khởi nghi tình nên vĩnh viễn không thể chứng ngộ. Lại không bằng kẻ độn căn, đầu óc đơn giản, không có nhiều tri kiến này nọ, nên được ngay nơi một cơ một cảnh hoặc một ngôn một cú hoát nhiên khám phá (đại ngộ). Cái ngộ này dù Đại Sư Đạt Ma có xuất hiện dùng trăm món thần thông muốn chướng ngại người này cũng chẳng được, chỉ vì người này không có đạo lý gì để chướng. Người căn tánh linh lợi trái lại, bị cái linh lợi làm chướng, chẳng thể dẹp ngay, phá ngay được. Đối với việc này, dẫu cho dùng thông minh linh lợi học được đi nữa thì trên việc bổn phận của chính mình (tham thiền) lại càng không đắc lực. Cho nên Ngài Nam Tuyền nói: "Ngày gần đây thiền sư rất nhiều mà không tìm ra một người si độn" là vậy. Ngài Chương Kỉnh nói: "Chí lý bặt lời, người đời chẳng biết, lại cưỡng tập việc khác, cho là công phu. Chẳng biết tự tánh vốn chẳng phải là cảnh trần, mà là cái môn đại giải thoát vi diệu, có cái giác chiếu soi không nhiễm không ngại, ánh sáng cùng khắp không gian thời gian, xưa nay chưa từng biến đổi, giống như mặt trời xa gần đều chi ếu, tuy đến các vật mà chẳng cùng tất cả hòa hợp. Diệu minh sáng tỏ chẳng nhờ tu tập, chúng sanh chẳng rõ nên chấp lấy cảnh tượng bên ngoài, giống như dụi mắt vọng thấy hoa đốm trên không, trải qua nhiều kiếp uổng tự lao nhọc. Nếu được phản chiếu thì bản thể tự tánh hiện khắp không gian thời gian, không thấy có người thứ hai, khi ấy hành vi tạo tác đều ở trong Thật tướng".

Ông tự nói căn tánh ngu độn, thử như thế phản chiếu xem cái biết ngu độn đó có ngu độn hay không? Nếu chẳng hồi quang phản chiếu mà chỉ giữ lấy cái ngu độn rồi tự sanh phiền não, thật là ở trên huyễn vọng chồng thêm huyễn vọng. Chỉ cần tin tôi, hễ biết được căn tánh ngu độn thì nhất định là không ngu độn. Tuy không chấp lấy cái ngu độn này mà cũng chẳng được bỏ cái ngu độn này để tham. Lấy, bỏ, lợi, độn tại người chớ chẳng tại tâm. Tâm này cùng với chư Phật ba đời một thể không hai, nếu có hai thì pháp chẳng bình đẳng vậy. Thọ giáo truyền tâm đều là hư vọng, cầu chân thật tìm thật càng thấy so le. Chỉ cần biết cái tâm thể vốn bất nhị thì quyết định chẳng còn ở trong phạm vi của lợi, độn, lấy, bỏ, ngay khi đó một dao cắt đứt dây trói như thấy mặt trăng quên ngón tay. Nếu còn chần chờ suy trước tính sau, ấy là trên "nắm tay không" mà sanh kiến giải chấp thật, trong pháp căn cảnh vọng lập méo mó, trong thân ngũ ấm vọng tự trói buộc, không biết đến bao giờ mới hết.

Những năm gần đây, có một bọn tà sư thuyết Thiền Mặc Chiếu, dạy người suốt ngày đêm mọi việc đều chớ màng đến, cứ thôi đi, nghỉ đi, im lặng không cho lên tiếng, e sợ lọt vào cảnh trước mắt (chấp cảnh). Thường thường sĩ phu bị thông minh linh lợi sai khiến nên phần đông ghét chỗ nào động, bỗng được bọn tà sư dạy bảo tĩnh tọa, cảm thấy ít phí sức, liền cho đó là đúng, lại chẳng biết cầu diệu ngộ, chỉ cho mặc chiếu là cùng tột. Tôi chẳng tiếc khẩu nghiệp ra sức cứu vãn cái tệ đoan này. Nay cũng có chút ít người biết quấy, xin ông hãy hướng đến chỗ nghi tình chẳng vỡ mà tham, đi đứng nằm ngồi chẳng được buông bỏ.

Tăng hỏi Triệu Châu:

- Con chó có Phật tánh hay không?

Triệu Châu đáp:

- Không.

Tại sao Triệu Châu nói "không".

Một chữ KHÔNG này chính là một cây dao cắt đứt cái tâm nghi sanh tử. Cái cán dao này chính người đương sự tự cầm trong tay, bảo người khác hạ thủ giùm chẳng được, phải chính mình hạ thủ mới được. Nếu xả được tánh mạng thì mới có thể quyết liệt hạ thủ. Nếu chẳng xả được thì cứ ở chỗ NGHI chẳng vỡ mà tham cứu, bỗng nhiên một ngày nào đó dám chịu xả mạng thì ngay đó xong việc (kiến tánh). Khi ấy, mới tin rằng lúc tĩnh lặng tức là lúc náo động, lúc náo động tức là lúc tĩnh lặng, lúc nói tức là lúc nín, lúc nín tức là lúc nói, chẳng cần hỏi người, cũng tự nhiên chẳng bị bọn tà sư mê hoặc. Mong thay! Mong thay!

Thuở xưa Châu Thế Anh có lần gửi thư hỏi Ngài Chân Tịnh rằng:

- Phật pháp thâm diệu, hằng ngày nên dụng tâm thể cứu như thế nào? Xin Ngài từ bi chỉ dạy.

Chân Tịnh đáp:

- Phật pháp huyền diệu không hai, nhưng nếu chưa đến chỗ huyền diệu thì có cao thấp đối đãi nhau. Nếu như đến được chỗ huyền diệu thì người ngộ tâm ắt biết đúng như thật tức là Tự tâm vốn đã thành Phật, tự tại như thật, an lạc như thật, giải thoát như thật, thanh tịnh như thật mà hàng ngày chỉ dụng tự tâm. Tụ tâm linh động, nắm được liền dùng, chớ hỏi nó là phải hay không phải, đem tâm suy nghĩ liền không phải vậy.

Tâm không suy nghĩ thì mỗi mỗi thiên chân, mỗi mỗi minh diệu, mỗi mỗi như hoa sen chẳng dính nước. Cái tâm thanh tịnh siêu việt tất cả, do mê tự tâm nên làm chúng sanh, ngộ tự tâm nên thành Phật, mà chúng sanh tức Phật, Phật tức chúng sanh, do mê ngộ nên có chúng sanh và Phật.

Ngày nay, người học đạo phần đông chẳng tin tự tâm, chẳng ngộ tự tâm, chẳng được thọ dụng sự minh diệu của tự tâm, chẳng biết tự tâm vốn an lạc giải thoát, lầm cho ngoài tâm có thiền, có đạo, vọng lập kỳ lạ, vọng sanh lấy bỏ, tuy có tu hành mà rơi vào cảnh giới đoạn kiến của ngoại đạo và thiền tịch tịnh của nhị thừa, chỗ gọi là: "Tu hành sợ đọa hố đoạn thường".

Nói kẻ đoạn kiến là đọan diệt bản tánh diệu minh của tự tâm, cứ ở ngoài tâm chấp không mà mắc kẹt vào thiền tịch tịnh.

Nói kẻ thường kiến là chẳng ngộ tất cả pháp không, chấp thật các pháp hữu vi thế gian cho là cứu cánh.

Bọn tà sư dạy sĩ phu nhiếp tâm tĩnh tọa, mọi việc chớ màng cứ thôi đi, nghỉ đi, há chẳng phải là đem tâm thôi tâm, đem tâm nghỉ tâm, đem tâm dụng tâm đó sao? Nếu tu hành như thế thì làm sao chẳng rơi vào cảnh giới đoạn kiến, thiền tịch tịnh của ngoại đạo và nhị thừa, làm sao phát hiện được cái huyền diệu của tự tâm nhiệm mầu sáng suốt, thọ dụng sự an lạc thanh tịnh giải thoát. Cần phải người đương sự tự chứng tự ngộ, tự nhiên chẳng bị lời nói của Cổ Đức xoay chuyển mà còn có khả năng chuyển được lời của Cổ Đức.

Như viên ngọc quý ma ni trong sạch vùi trong bùn sình, dù trải qua trăm ngàn năm cũng chẳng bị ô nhiễm vì bản thể của nó vốn tự trong sạch. Tâm này cũng vậy, khi mê dù bị trần lao mê hoặc mà bản thể tâm này chưa từng mê hoặc, như hoa sen chẳng dính nước vậy. Nếu bỗng ngộ tâm này vốn đã thành Phật, cứu cánh tự tại, an lạc như thật, các thứ diệu dụng cũng chẳng từ bên ngoài đến, vì nó vốn sẵn tự đầy đủ. Phật nói: "Không có pháp nhất định tên là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cũng không có pháp nhất định để cho Như Lai thuyêt". Nếu xác định bản thể của nó thật có sự việc như thế thì lại chẳng đúng. Do sự bất đắc dĩ, nhân vì mê ngộ, lấy bỏ, mà nói ra đủ thứ đạo lý, ấy là lời phương tiện đối với người chưa đến chỗ huyền diệu đó thôi. Kỳ thật bản thể không có đạo lý nào.

Xin Ông hãy dụng tâm như thế này: Hàng ngày trong mười hai thời chẳng được chấp sanh tử Phật đạo là thật có, cũng chẳng được chấp sanh tử Phật đạo là thật không, chỉ cần khán câu thoại đâu, thiết yếu là chẳng nên dùng ý căn để suy lường, chẳng nên ở trên ngôn ngữ để tìm hiểu, chẳng nên ở chỗ nói năng để nhận lấy, cũng chẳng nên hướng vào chỗ “đá lửa điện chớp” để lãnh hội, chỉ cần đề cầu thoại đầu hỏi mãi, cũng chẳng được đem tâm chờ ngộ, chờ thôi nghỉ, nếu đem tâm chờ ngộ, chờ thôi nghỉ thì càng không dính dáng gì!

2. Ông nói: "Sau khi được thư của Sơn Tăng, mỗi khi gặp náo động chẳng có chỗ trốn tránh, thường tự kiểm điểm mà chưa thấy công phu đắc lực". Ông đâu biết ngay cái chỗ trốn tránh chẳng được đó đã là công phu rồi, nếu còn muốn kiểm điểm nữa lại càng xa xôi.

Thuở xưa, ngài Lão Hoa Nghiêm nói: "Phật pháp ở chỗ đi đứng nằm ngồi, chỗ uống trà ăn cơm, chỗ nói năng thăm hỏi, chỗ làm việc hàng ngày. Hễ khởi tâm động niệm lại chẳng đúng vậy". Chính đương lúc ông trốn tránh chẳng được đó, rất kỵ khởi tâm động niệm để kiểm điểm.

Tổ sư nói:
  • Phân biệt nếu chẳng sanh
    Hư minh tự chiếu soi.
Bàng Cư sĩ nói:
  • Hàng ngày việc không khác
    Duy ta tự hài hòa
    Mỗi mỗi chẳng lấy bỏ
    Nơi nơi đừng chống trái
    Gánh nước và bổ củi
    Quan chức quý là ai?
    Thần thông cùng diệu dụng
    Núi non bặt trần ai.
Bậc thánh xưa nói: "Hễ có tâm phân biệt, so đo, thấy tự tâm có số lượng, thảy đều là mộng". Xin hãy khẩn thiết ghi nhớ lấy!

Lúc trốn tránh chẳng được, không nên có tâm toan tính, lúc tâm chẳng toan tính thì hết thảy đều sẵn sàng, cũng chẳng cần mang đến lanh lợi hay ngu độn, việc lợi độn trọn chẳng dính dáng, cũng chẳng can hệ đến việc tịnh loạn. Chính đương lúc trốn tránh chẳng được, hốt nhiên đánh mất cái túi vải (ngộ), bất giác vỗ tay cười lớn. Nhớ lấy! Nhớ lấy!

Việc này nếu dùng một mảy may công phu thủ chứng thì như người lấy tay nắm bắt hư không, chỉ tự nhọc mà thôi. Lúc lao động thì cứ lao động, muốn tĩnh tọa thì cứ tĩnh tọa, nhưng chẳng nên chấp tĩnh tọa làm cứu cánh. Ngày nay bọn tà sư phần nhiều lấy tĩnh tọa mặc chiếu làm pháp cứu cánh gây hại người hậu học biết bao. Sơn Tăng chẳng sợ kết oán, tận sức bài xích Thiền Mặc Chiếu mong cứu vãn cái tệ đoan đời mạt pháp để báo ơn Phật.
THƯ ĐÁP TRIỆU ĐẠO PHU
Thư ông gửi đến mỗi mỗi tôi đều biết hết.

Phật dạy: "Người phát tâm đều sẽ thành Phật". Tâm này chẳng phải là tâm trần lao vọng tưởng thế gian, mà là cái tâm Vô Thượng Bồ Đề. Nếu phát tâm này đều sẽ thành Phật.

Nho sĩ học đạo phần đông tự tạo ra chướng ngại là do không có lòng tin quyết định.

Phật nói:
  • Tin là gốc đạo, mẹ công đức.
    Nuôi dưỡng tất cả các pháp thiện
    Phá trừ lưới nghi thoát dòng ái
    Hiển bày vô thượng đạo Niết Bàn.
Còn bảo:
  • Tin hay tăng trưởng trí công đức
    Tin hay đưa đến quả Như Lai.
Trong thư, ông tự cho độn căn chưa thể triệt ngộ, tạm gieo hạt giống Phật trong tâm điền, lời này tuy thiển cận song cũng đã gieo nhân sâu xa, ông chỉ cần tin chắc tự tâm ắt không bị ai gạt.

Ngày nay, người học đạo thường thường ở chỗ nên hoãn lại gấp, chỗ nên gấp lại hoãn.

Bàng uẩn nói:
  • Ngay lúc rắn vào đáy quần vải
    Còn hỏi Tông Sư thời tiết gì?
Việc hôm qua, hôm nay còn có chỗ không nhớ, huống là việc đã qua kiếp khác, đâu thể không quên mất ư? Nếu quyết muốn kiếp này được thấu triệt đến chỗ chẳng nghi Phật, chẳng nghi Tổ, chẳng nghi sanh, chẳng nghi tử, thì phải đủ lòng tin tự tâm, đầy đủ chí quyết định, niệm niệm như cứu lửa cháy đầu. Thực hành công phu như thế nếu vẫn còn chưa thấu triệt thì lúc ấy mới có thể nói là độn căn. Bằng chưa gì hết mà tự nói: Tôi độn căn chẳng thể trong đời này triệt ngộ mà chỉ có thể gieo giống Phật để kết duyên thôi”. Đó là người không đi mà muốn đến. Thật hết sức vô lý!

Tôi thường nói với những người tin đạo này rằng: "Dần dần cảm thấy trong cuộc sống hàng ngày chỗ ít phí sức chính là chỗ học Phật đắc lực vậy". Chỗ đắc lực của mình, người khác chẳng biết được, muốn đem ra trình cho người xem cũng chẳng được. Lục Tổ nói với Đạo Minh rằng: "Nếu ông phản chiếu cái bản lai diện mục của chính mình thì mật ý đều ở bên ông vậy". Mật ý đó là chỗ đắc lực hàng ngày. Chỗ đắc lực tức là chỗ ít phí sức vậy.

Việc trần lao thế gian buông cái này bắt cái kia vô cùng vô tận, trong bốn oai nghi chưa từng lìa bỏ, vì từ vô thủy đến nay đã kết duyên với nó rất sâu dầy, còn trí huệ Bát Nhã từ vô thủy đến nay cùng nó kết duyên thiển cận, nên khi chợt nghe bậc tri thức nói thì hình như cảm thấy khó hội. Nếu từ vô thủy đến nay duyên trần lao cạn, duyên Bát Nhã sâu thì đâu có gì khó hội. Chỉ cần chỗ sâu trước kia nay khiến cho cạn, chỗ trước kia cạn nay khiến cho sâu, chỗ lạ khiến cho quen, chỗ quen khiến cho lạ, vừa biết nổi niệm suy nghĩ việc trần lao cũng chẳng cần ra sức bài trừ, chỉ cần ngay chỗ suy nghĩ đó, nhè nhẹ đề lên câu thoại đầu thì không phí nhiều sức lại đắc lực vô cùng. Xin ông hãy tham cứu như thế, đừng đem tâm chờ ngộ, để cho nó bỗng nhiên tự ngộ đi.

Lý Hán Lão với ông mỗi ngày gặp nhau, ngoài việc đánh cờ, có còn nói đến việc này chăng? Nếu chỉ đánh cờ mà chưa từng nói đến việc này thì nên ngay chỗ thắng bại chưa phân hãy hất tung bàn cờ, lại hỏi ông ta đòi cho được một việc kia (thoại đầu). Nếu đòi chẳng được mới quả thực là kẻ độn căn. Thôi tạm bỏ qua việc này.
THƯ GỬI TRƯƠNG ÍCH CHI
Chúng sanh hằng ngày hiện hành vô minh, nên hễ thuận với vô minh thì sanh hoan hỷ, còn nghịch với vô minh thì đâm ra phiền não. Phật, Bồ Tát chẳng phải thế, các Ngài lại dựa vào vô minh làm Phật sự. Vì chúng sanh lấy vô minh làm nhà cửa, nghịch với vô minh là phá nhà cửa của chúng sanh, nên Phật, Bồ Tát thuận với vô minh là để theo chỗ chấp trước của chúng sanh mà dẫn dụ họ.

Ngài Vĩnh Gia nói:
  • Vô minh thật tánh tức Phật tánh
    Huyễn hóa không thân tức pháp thân.
(Dịch nghĩa: Thật tánh của vô minh tức là Phật tánh, Sắc thân huyễn hóa này tức là pháp thân).

Là cái đạo lý này vậy.
THƯ GỬI TRIỆU SƯ TRỌNG
Cái đạo lý này hướng lên trên sự việc tìm thì nhanh, còn nếu hướng xuống ý căn suy nghĩ tính toán thì càng cách xa vậy. Do đó, ông già Thích Ca trên hội Pháp Hoa chỉ độ được đứa bé gái tám tuổi, trên hội Niết Bàn chỉ độ được một gã đồ tể, trên hội Hoa Nghiêm chỉ độ được một đồng tử.

Xem cách thức thành Phật của ba người đó, họ có từng hướng ra ngoài để cầu chứng đắc, cực khổ siêng năng tu hành gì đâu? Phật cũng chỉ nói: "Nay ta vì ông bảo nhậm việc này", chẳng hề hư dối vậy. Chỉ nói "vì người bảo nhậm" mà thôi, chứ chẳng nói có pháp cò thể truyền để cho ông hướng ra ngoài tìm cầu rồi sau đó mới thành Phật.

May mắn có được thể cách như thế, tại sao không tin? Ví như lập tức tin nổi, chẳng hướng ra ngoài tìm cầu, cũng chẳng chấp có chứng đắc ở trong tâm, thì bất cứ chỗ nào lúc nào cũng được giải thoát. Sao vậy? Vì đã không hướng ra ngoài tìm cầu thì trong tâm lặng lẽ yên tịnh, vì đã chẳng chấp có chứng đắc trong tâm thì ngoại cảnh u nhàn.
THƯ GỬI LÝ BÁ HÒA
Sợ hãi sanh tử mà gốc nghi nhổ chẳng hết thì trăm kiếp ngàn đời trôi theo nghiệp mà thọ báo, trồi lên hụp xuống chẳng có lúc dừng. Tốt nhất là mạnh dạn một phen nhổ sạch gốc nghi, bèn có thể chẳng rời tâm chúng sanh mà thấy tâm Phật. Nếu có nguyện lực từ đời trước, gặp bậc Thiện tri thức chân chánh dùng phương tiện khéo léo dẫn dắt thì có gì mà khó!

Thấy chăng? Cổ Đức có nói: "Sông hồ chẳng có tâm làm chướng ngại người, Phật Tổ chẳng có ý gạt gẫm người. Chỉ tại đương nhân qua chẳng được, chớ chẳng nên nói sông hồ làm chướng ngại người. Ngôn giáo của Phật Tổ tuy chẳng gạt gẫm, song chỉ vì người học đạo nhận lầm phương tiện, ở trong một ngôn, một cú, cầu diệu cầu huyền, cầu đắc cầu thất, do đó mà thấu triệt chẳng được, chớ chẳng nên nói Phật Tổ gạt gẫm người. Như người mù chẳng thấy ánh sáng mặt trời mặt trăng là lỗi của người mù chớ chẳng phải lỗi của mặt trời mặt trăng".

Đây là học cái đạo lìa tướng văn tự, lìa tướng phân biệt, lìa tướng ngôn ngữ này vậy.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: PHẬT PHÁP VỚI THIỀN TÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

THIỀN SƯ BÁC SƠN
THAM THIỀN CẢNH NGỮ
Dịch giả: Thích Duy Lực

TỰA

Cảnh ngữ là tỉnh giác, hoặc gọi là kinh sợ. Ví như có kẻ trộm dòm ngó nhà cửa, chủ nhãn ban đêm đốt đèn ngồi đàng hoàng giữa nhà, đằng hắng ra tiếng, kẻ trộm sợ hãi chẳng dám lén vào. Nếu vừa ngủ quên thì kẻ trộm thừa cơ lẻn vào cướp đoạt của cải, cho nên giữ thành trì nghiêm ngặt ban đêm vọng gác đánh mõ cầm canh, bỗng có biến động thì cũng không sao, vì đã có phòng bị trước.

Con người có cái họa lớn sanh tử là giấc mộng dài muôn kiếp chẳng tỉnh, huống sáu căn làm môi giới cho giặc hằng ngày cướp của báu trong nhà. Nếu chẳng phải đấng Đại giác dùng lời thống thiết cảnh tỉnh thì suốt đời say sưa trong giấc mộng biết đến ngày nào mới tỉnh ngộ. Chẳng những lúc ngủ làm chủ chẳng được, mà ngay cả ban ngày mở mắt nói mơ rất nhiều. Cho nên Đại sư Bác Sơn nương sức bi nguyện đến làm Đại Y Vương dùng một vị Già Đà trị bệnh nghiệp điên cuồng cho mọi người. Do đó, có khai thị năm chương Cảnh Ngữ về thiền bệnh rất đơn giản thẳng tắt; cái bệnh trong xương tủy của người tham thiền đều được nói qua. Lời khai thị hạ thủ công phu trong sách này rất khẩn yếu, thật là một quyển sách mới thiết yếu cho cửa Thiền, cũng là thuốc tiên cứu thế.

Thiền cũng là giả danh không có thật thể, làm sao có bệnh? Bởi vì người tham thiền phần nhiều khởi lên chấp tình lầm hiểu, bị tâm ý thức đánh lừa sát hại, chẳng hướng lên trên cơ cảnh tìm, lại nhằm vào trong học giải kiếm, hoặc bị ngôn cú cổ nhân làm chướng ngại tâm, hoặc bị chết chìm trong tử thủy, hoặc ngồi trong cái vỏ vô sự, chẳng phải tâm linh lợi chết chẳng được, cho nên mạng căn khó cắt dứt, sanh diệt rõ ràng, toàn thân đều là bệnh của ta, chứ chẳng phải thiền có bệnh. Thậm chí thành cuồng trước ma, Phật cũng chẳng thể cứu, đây là bệnh nghiệp, chứ chẳng phải thiền bệnh. Giả sử cho chết được các thứ tâm, mà chẳng chịu hạ thủ công phu cùng với lý pháp thân tương ưng, chẳng từng đạp lên trên cái ngạch cửa hướng thượng, ngồi ở trong thùng cơm khinh an tự tại, cái khinh an này chính là thiền bệnh.

Cho nên có vị Tăng hỏi Cổ Đức:

- Thế nào là thanh tịnh Pháp thân?

Cổ Đức đáp:

- Nguồn gốc của vô lượng bệnh lớn.

Lời này như gai gốc nuốt vào mửa ra thật khó. Cổ nhân từ trong chân tham thật ngộ, bệnh qua một phen rồi cho các Ngài duỗi tay tiếp độ chẳng loạn hạ kim, dùi (châm tủy), cần phải gặp người tuyệt khí tức, biết ngứa ngáy mới chịu chẩn bệnh. Thế nân, biết bệnh mới trừ được bệnh, chữa mình rồi sau mới chữa người đúng là "người bệnh lâu năm trở thành thầy thuốc".

Đại sư Bác Sơn từ trước đến nay tham cứu đạo này rất là dung thông, ngôn cú nào của Ngài cũng đều trong kinh nghiệm chứ chẳng phải cố làm ra lời huyền diệu cao siêu, khiến cho người chẳng biết, mà là cảnh giới thân chứng, thật tu thường ngày, thấy đến, nói đến, làm đến, dùng đến. Nghĩa lý tinh minh biện tài vô ngại, vì thế Ngài nói sâu sắc về thiền bệnh như cầm cái gương ngọc của Cung Tần soi thấy gan mật của quần thần một mảy lông trốn cũng chẳng được. Xưa nay người ngồi giường thiền tự xưng là Thiện tri thức nói thiền hay như Sư thật là hiếm có. Nhưng thiền bệnh rất khó nói, nói cũng chẳng làm sao hết được. Bệnh tức là bệnh của Pháp thân, Pháp thân vô số bệnh đâu có cùng tột. Người cứu bệnh Pháp thân, lấy bệnh làm phương thuốc hay, lấy bệnh làm cơm nước thường dùng trong nhà, lấy bệnh làm áo lót, là do mình dùng hay hoặc không hay mà thôi; cổ nhơn du hí ở trong bệnh để làm Phật sự. Bởi vì thấy rõ Pháp thân vô chủ bệnh tự lành ngay, cho nên Động Sơn nói: "Lão Tăng lúc xem chẳng thấy có bệnh"; chỉ do vọng tưởng chấp trước nên thiền bệnh đua nhau sanh. Xưa, Phật nói ma sự của Ngũ ấm trong kinh Lăng Nghiêm và biến kế của ngoại đạo tức là việc trong thiền bệnh của người thời nay. Vậy chấp tức thành ma, kế tức là ngoại đạo, chẳng chấp chẳng kế cũng chưa là bệnh. Vì thế nói: "Chẳng khởi tâm cho là thù thắng thì gọi là cảnh giới lành, nếu cho là chứng thánh thì liền rơi vào bầy tà". Kinh Pháp Hoa nói: "Có một vị Đạo sư biết rành đường thông bít hiểm nạn cho nên có thể dẫn dắt những người kia đến bảo sở". Vậy quyển sách này của Đại sư chính là chiếc thuyền cho đời mạt pháp, là con đường tắt cho kẻ sơ tâm, chẳng những hữu ích cho ngày nay cũng bổ ích cho tương lai. Người quyết chí muốn tham thiền hạ thủ công phu cầu đại ngộ chịu xem kỹ sách này thì biết làm cách nào để cho nghi tình phát chẳng khởi liền phát khởi, gốc bệnh chưa phá liền phá, như vạch cát bày ngọc, cho người tự lấy, như vẹt màn sương mù thấy bầu trời khiến cho người chẳng mê, như ở trong bước đường cùng có đường xuất thân, trong câu chết (tử cú) có câu cứu sống người, như hạt châu tròn lăn trên mâm, chẳng trệ một lời. Diệu dụng của sách này như thế, mọi người biết ý theo đây dụng tâm thì có thể ngồi hoặc ngủ kiến đạo chẳng tốn nhiều tiền giày cỏ mà thẳng đến ruộng đất đại an lạc, cùng với Phật Tổ đồng thở chung một lỗ mũi. Người lấy đây tự cảnh tỉnh rồi cảnh tỉnh người; lại lấy đây tự chữa lành bệnh rồi chữa lành bệnh cho người, cũng gọi là Hiện tại y vương, khiến cho mạng mạch Tổ sư lưu thông, quốc mạch cùng huệ mạch đều kiên cố, ngõ hầu chẳng phụ phương tiện nguyện lực của Đại sư từ bi chỉ dạy.

  • Niên hiệu Vạn Lịch năm Tân Hợi (1611)
    tháng Mạnh Thu.
    Tín Châu, đệ tử Lưu Sùng Khánh
    Kính đề.
LƯỢC TRUYỆN TÁC GIẢ

Hòa thượng Bác Sơn (1575-1630), họ Sa, tên Đại Hy, tự là Vô Dị, người đời thường gọi là Ngài là Thiền sư Vô Dị. Sư năm 16 tuổi phát chí xuất gia, đến chùa Ngõa Quan ở Kim Lăng nghe giảng kinh Pháp Hoa, cảm khái than: "Cầu điều đó ngay nơi mình, há có thể đuổi theo câu văn mà được ư!"

Sư bèn bỏ đi Kiến Vô lễ Pháp sư Ngũ Đài Thông cạo tóc xuất gia. Đầu tiên tu tập Chỉ quán. Sư ngồi tu dưới cội tùng chẳng biết ngày đêm, muỗi mòng bu đầy trên thân như cắn cây khô, bên trong chẳng biết có thân tâm, bên ngoài chẳng thấy có núi sông đại địa, trải qua năm năm, dù lạnh dù nóng cũng không ngừng nghỉ.

Sau đó, Sư đến Pháp sư Hồng, ở núi Siêu Hoa thọ giới Tỳ kheo, nghe nói Đại sư Thọ Xương Huệ Kinh ở núi Nga Phong xiển pháp của Tào Động, Sư qua yết kiến, thấy ngài Thọ Xương đầu đội nón lá, vác cuốc giống như người nhà nông, tâm bèn sanh nghi. Sư bỏ đi về đất Mân (Phước Kiến) ở núi Bạch Vân Phong ba năm, viết thư trình sở đắc lên Thọ Xương. Thọ Xương viết thư phúc đáp rằng: "Đó chẳng phải là đệ nhứt nghĩa". Sư mới biết mình lầm, bèn đốt thư đi. Sư càng để tâm vào tông thừa, xem lời của Thuyền Tử nói: "Chỗ ẩn thân không tung tích, chỗ không tông tích chớ ẩn thân", nghi tình liền phát khởi, đến nổi quên ngủ quên ăn trải qua hơn một năm. Một hôm Sư xem Truyền Đăng Lục thấy Triệu Châu bảo Tăng rằng: "Phải ra ngoài ba ngàn dặm gặp Thiện tri thức mới được". Sư bất giác tỉnh ngộ, như bỏ được gánh nặng ngàn cân, tự cho rằng đại ngộ, chạy đến yết kiến Thọ Xương, Thọ Xương chẳng công nhận. Sư mới hổ thẹn, từ đó y chỉ Thọ Xương nổ lực cầu đạo đến nổi thân hình khô héo, mặt mũi nám đen, còn da bọc xương mà tinh tấn chẳng lùi.

Một hôm, Thọ Xương nhận lời Ngọc Sơn thỉnh muốn Sư cùng đi, Sư từ chối. Thọ Xương nói: "Hôm nay có người thuyết pháp cho ông nghe chóng làm cho ông ngộ". Sư mới chịu đi. Dọc đường luận về chỉ thú ngũ vị quân thần, Sư nói lưu lót chẳng ngừng, Thọ Xương đều công nhận, rồi hỏi lại Sư: "Như lời Phật Ấn nói con kiến biết tìm chỗ tanh đến, ruồi xanh hay đến chỗ thối tha là thuộc về quân vị hay thần vị?"

Sư đáp:

- Thuộc về thần vị.

Thọ Xương quở:

- Sẽ có người cười ông.

- Tại sao trước nói phải mà bây giờ nói chẳng phải?

- Một chẳng phải thì tất cả chẳng phải.

Đến Ngọc Sơn, Sư ngồi kiết già trên tảng đá, bỗng nghe tượng Hộ Pháp Già Lam ngã xuống đất, trong tâm hoát nhiên, vội làm kệ tụng trình Thọ Xương:
  • Ngọc Sơn dụ nhứt ngôn
    Tâm hưu ngũ lộ tuyệt
    Kỳ đà huyền giải hội
    Như phất thang nghiêu tuyết
    Một ba tỷ kim châm
    Hảo nhân duyên thời tiết
    Mai nhụy đỉnh khô chi
    Đào hoa khai cửu nguyệt
    Xúc mục như hưu biện biệt
    Cấp thủy than đầu phao thảm can
    Nịch sát vô hạn anh hùng khách.
Dịch nghĩa:
  • Ngọc Sơn dạy một lời
    Tâm dứt, ngữ ngôn bặt
    Bao nhiêu hiểu huyền diệu
    Như tuyết gặp nước sôi
    Kim vàng không lỗ trôn
    Nhân duyên thời tiết tốt
    Cành khô sanh hoa mai
    Hoa đào nở tháng chín
    Đầu ghềnh nước đổ ném gậy dò
    Chìm chết vô hạn anh hùng khách.
Thọ Xương nói: "Một đến nhiều cửa, lại đến cửa. Bởi vì tâm trí giải tuyệt mà mạng căn chưa dứt".

Sư càng tự cố gắng, ở riêng trong Tông thừa đương ngày đêm chẳng chịu ngủ nghỉ. Một hôm, Sư đi cầu xí thấy người leo cây bèn ngộ chí đạo, chạy đến yết kiến Thọ Xương, vừa vào cửa liền lễ bái.

Thọ xương hỏi:

- Ngày gần đây như thế nào?

Sư đáp:

- Có con đường sống chẳng cho người biết.

- Vì sao chẳng cho người biết?

- Chẳng biết, chẳng biết.

Thọ Xương nhắc lại công án: "Bà già đốt am đuổi Tăng" và hỏi "Thủ đoạn bà già như thế nào?"

Sư đáp: "Vàng ròng thêm màu mà thôi".

Thọ Xương lại cử câu: "rồng gầm, cọp rống", bảo Sư làm kệ tụng.

Sư liền cầm bút lập tức viết:
  • Sát hoạt tranh hùng các hữu kỳ
    Mơ hồ nhục nhãn hạt năng tri
    Thổ quang bất toại thời lưu ý
    Y cựu xuân phong trục mã đề.
Dịch nghĩa:
  • Giết cứu tranh hùng đều diệu kỳ
    Mơ hồ mắt thịt đâu thể hay
    Nói ra chẳng toại lòng ai cả
    Du xuân gió mát vẫn y xưa.
Thọ Xương cười nói:

- Ông hôm nay mới biết ta chẳng dối gạt ông.

Sư hỏi:

- Về sau còn có việc gì nữa hay không?

- Lão Tăng chỉ biết mặc áo ăn cơm.

- Há không có phương tiện ư?

- Ông về sau được ngồi mặc áo, không còn tính toán là đủ rồi.
  • Thọ Xương bèn nói kệ truyền pháp:
    Bổn nhiên thanh tịnh hằng như nhiên
    Khế chứng đa sanh trị hữu duyên
    Xúc mục hổn dung giai chi điệu
    Thông thân tác dụng tổng hư huyền.
    Ngũ tông cực tắc cơ tề quán
    Tâm tạng tinh vi lý cộng viên
    Bất ngại cổ kim phàm thánh sự
    Như Lai thiền hợp Tồ Sư thiền.
Dịch nghĩa:
  • Xưa nay thanh tịnh hằng như nhiên
    Khế chứng nhiều đời gặp hữu duyên
    Chạm mắt hổn dung đều chí diệu
    Toàn thân tác dụng thảy hư huyền.
    Năm tông cực tắc cơ đồng quán
    Ba tạng tinh vi lý cũng viên
    Chẳng ngại xưa nay việc phàm thánh
    Như Lai thiền hợp Tổ Sư thiền.
Lại phó chúc thêm: "Hãy lấy vô tâm tương tục làm chánh dụng, tận pháp hành trì, đền đáp cái ơn chẳng thể báo đáp bằng cách làm lợi ích cho người chánh tín có duyên". Lúc ấy Sư mới 27 tuổi.

Sư qua Nga Hồ thọ giới Bồ tát, ở lại sáu tháng rồi trở về đất Mân, nhận lời mời thỉnh đến Viện Tổ Ấn ở Tín Châu, sau đó Sư dời về Bác sơn, bèn trao cho Sư cái nghi quỷ thọ giới để làm Luật sư. Từ đó Thiền Luật song hành, tông phong rất hưng thạnh. Miền Bắc đến Yên Đô (Bắc Kinh), miền Nam đến tận Giao Chỉ (Việt Nam), người nghe tiếng Sư mỗi năm tìm đến có hàng ngàn.

Sư đã từng nhận lời mời đến chùa Thiên Giới ở Kim Lăng (Nam Kinh) thuyết pháp. Chùa ấy rộng mấy mươi dặm, có thể dung nạp mấy trăm vạn người, lúc ấy nón giày vân tập chùa thành ra nhỏ. Tổn phí cơm nước mỗi ngày hơn bạc vạn mà mỗi người chỉ được ăn một chén cơm với vài cọng rau mà thôi.

Niên hiệu Sùng Trinh năm Canh Ngọ (1630), Sư từ Kim Lăng trở về, tự nói: "Ta xuất thế quá sớm thì tạ thế cũng sớm". Sư bèn sai đệ tử xây tháp. Kiết hạ, Sư trước tác Tông Giáo Thông Thuyết một quyển, trình bày hết những điều huyền ảo, sách viết chín tháng mới xong. Sư bèn thị hiện có chút bệnh, đến nửa đêm ngày 17; Sư gọi Thủ tọa Trí Mẫn đến giường dặn dò áo nghĩa Tông thừa rồi cười.

Thủ tọa hỏi:

- Hòa thượng an chăng?

Sư đáp:

- Được chút thọ dụng.

- Còn có cái chẳng bệnh chăng?

- Nóng làm sao ấy!

- Đến đi tự tại thế nào?

Sư đòi bút, viết bốn chữ lớn "Rõ Ràng Phân Minh", rồi ném bút, ngồi tịch. Sư thọ 66 tuổi đời, 41 tuổi đạo.

Pháp tôn là Hoằng Hàn, Hoằng Dũ gom góp Ngữ Lục của Sư thành Quảng Lục ba mươi hai lăm quyển lưu hành ở đời (xem Tục Tạng Kinh).

Năm sau, Ngày 21 tháng 10 năm Tân Vị (1631) đem toàn thân Sư nhập tháp trên ngọn Thê Phụng Lãnh ở phía Tây chùa. Sư để lại ngôn thuyết Pháp thân chia làm chín loại, trong đó bộ Tham Thiền Cảnh Ngữ là kinh nghiệm của chính Sư đã trải qua, vì người phát tâm Tối thượng thừa, chỗ đau châm trên mũi dùi, lúc trợt thì đưa gậy cho nắm, thật đáng là linh đơn thay xương đổi cốt vậy.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: PHẬT PHÁP VỚI THIỀN TÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

CHƯƠNG I
CẢNH NGỮ KHAI THỊ
NGƯỜI MỚI PHÁT TÂM THAM THIỀN
Tham thiền đầu tiên cần phải phát tâm phá vỡ sanh tử cho vững chắc, thấy rõ thế giới, thân tâm thảy đều là giả duyên không có chủ tể. Nếu chẳng phát minh cái lý vĩ đại sẵn có thì tâm sanh tử chẳng vỡ. Tâm sanh tử đã chẳng vỡ thì làm sao trừ được con quỷ vô thường giết người trong mỗi niệm chẳng dừng. Hãy đem một niệm này làm viên ngói gõ cửa, tương tợ như ngồi trong đống lửa lớn muốn cầu thoát ra, đi bậy một bước chẳng được, dừng lại một bước chẳng được, sanh một niệm khác chẳng được, mong người khác cứu chẳng được. Ngay lúc ấy chỉ cần chẳng màng đến lửa lớn, chẳng màng đến thân mạng, chẳng mong người cứu, chẳng sanh niệm khác, chẳng chịu tạm dừng, chạy thẳng đến trước, chạy được thoát mới là tay tài giỏi.

Tham thiền quý ở chỗ khởi nghi tình. Cái gì là nghi tình? Như sanh chẳng biết từ đâu đến, chẳng được chẳng nghi chỗ đến. Tử chẳng biết đi về đâu, chẳng thể chẳng nghi chỗ đi. Cửa ải sanh tử chẳng phá vỡ ắt nghi tình liền phát, treo ở trên lông mày, buông cũng chẳng xuống đuổi cũng chẳng đi. Bỗng một mai đập vỡ khối nghi, hai chữ sanh tử thành cái đồ tầm thường trong nhà. Cổ Đức nói: "Nghi lớn ngộ lớn, nghi nhỏ ngộ nhỏ, chẳng nghi chẳng ngộ".

Tham thiền đem chữ tử dán trên trán, coi cái thân tâm máu thịt này như đã chết, chỉ có một niệm muốn tham cứu hiện tiền. Một niệm này như thanh Ỷ thiên trường kiếm, nếu chạm nhằm lưỡi bén thì chẳng thể được, nếu bỏ bê để lụt ắt là kiếm ấy từ lâu không dùng.

Tham thiền sợ nhất là say đắm cảnh tịnh; cảnh tịnh khiến người ta kẹt trong không tịch mà chẳng hay chẳng biết. Cảnh động người ta chán, cảnh tịnh phần nhiều chẳng sanh chán, Do vì người tu hành luôn ở trong chỗ ồn ào, nên một khi được với cảnh tịnh tương ưng như ăn kẹo ăn mật, như người mệt mỏi lâu thích ngủ, đâu thể tự biết ư?

Ngoại đạo khiến thân tâm đoạn diệt hóa làm đá cứng cũng từ cảnh tịnh mà vào. Bởi vì lâu ngày chầy tháng không đó lại không, tịch đó lại tịch, rơi vào vô tri cùng với gỗ đá đâu khác. Chúng ta hoặc ở nơi cảnh tịnh chỉ muốn phát minh một đoạn đại sự dưới sự y áo (kiến tánh), chẳng biết ở tại tịnh cảnh mới được, ở trong đại sự cầu tướng tịnh ấy trọn chẳng thể được, đây gọi là được vậy (kiến tánh rồi thì động tịnh đều chẳng sanh).

Tham thiền phải ở trong đó mạnh dạn tiến tới, chẳng gần gũi nhân tình. Nếu theo tình ứng đối thì công phu hạ thủ chẳng tiến, chẳng những hạ thủ chẳng tiến mà lâu ngày chầy tháng ắt chắc chắn trở thành ông thầy chạy theo dòng thế tục.

Người tham thiền ngước lên chẳng thấy trời, cúi xuống chẳng thấy đất, thấy núi chẳng phải là núi, thấy nước chẳng phải là nước, đi chẳng biết đi, ngồi chẳng biết ngồi, ở giữa ngàn người muôn người chẳng thấy có một người, khắp thân trong ngoài chỉ là một khối nghi, có thể nói là khuấy đục thế giới, khối nghi chẳng vỡ chẳng thể thôi nghỉ. Đây là công phu khẩn yếu.

Thế nào là khuấy đục thế giới? Cái lý vĩ đại vốn sẵn có từ vô lượng kiếp đến nay chìm chìm lặng lặng chưa từng động đến, cần phải chính đương nhân phấn chấn tinh thần, xoay trời chuyển đất, tự có một đoạn thọ dụng ba đào dậy sóng.

Tham thiền chẳng sợ chết chẳng được sống, mà chỉ sống chẳng được chết. Nếu quả cùng với nghi tình kết lại một chỗ, thì cảnh động chẳng đợi khiển trừ mà tự trừ, vọng tâm chẳng đợi tịnh mà tự tịnh, cửa sáu căn tự nhiên rỗng rang khoát đạt, điểm nhằm liền đến, gọi tới liền ứng, lo gì chẳng sống ư?

Công phu tham thiền được tiến, như mang gánh nặng ngàn cân buông cũng chẳng xuống, tương tự như tìm vật quan trọng bị đánh mất, nếu tìm không ra lòng quyết chẳng chịu thôi. Trong ấy chỉ cần chẳng nên sanh chấp, sanh trước, sanh kế. Chấp thành bệnh, trước thành ma, kế thành ngoại đạo. Nếu được nhứt tâm nhứt ý như tìm vật bị đánh mất thì ba thứ lỗi trên không có dính dáng, chỗ gọi là: "Sanh tâm động niệm liền trái pháp thể".

Tham thiền, lúc cử khởi thoại đầu cần phải rõ ràng sáng suốt như mèo bắt chuột. Cổ nhân nói: "Chẳng chém được đứa mọi, thể chẳng thôi". Bằng không ngồi trong hang quỷ hôn hôn trầm trầm luống qua một đời có ích gì!

Lúc mèo bắt chuột, nó mở to đôi mắt, bốn chân sẵn sàng chỉ muốn chụp chuột đưa vào miệng, dẫu cho có gà chó bên cạnh nó cũng chẳng thèm ngó tới. Người tham thiền cũng vậy, chỉ tức tối muốn rõ cái lý này, dầu có tám cảnh thay nhau hiện ra trước mắt cũng chẳng màng đến, vừa có niệm khác, chẳng những chuột và mèo cũng chạy mất.

Tham thiền một ngày phải thấy công phu ngày đó, nếu lơ láo qua ngày thì trải qua trăm kiếp ngàn đời cũng chưa có ngày xong, Bác Sơn tôi thuở trước cắm một cây hương, thấy cây hương tàn, bèn nói: "Công phu y như trước, không có thêm bớt, một ngày mấy cây hương? Một năm bao nhiêu cây hương?" Và nói: "Tấc bóng dễ qua, thời giờ chẳng đợi người, đại sự chưa sáng, ngày nào mới xong". Do sự thống thiết này, càng thêm cố gắng.

Tham thiền chẳng nên ở trên công án cổ nhân suy nghĩ giải thích, dẫu cho mỗi mỗi đều lãnh hội được đi nữa, cùng với chính mình cũng không dính dáng gì cả. Trái lại chẳng biết, một lời một câu của cổ nhân như đống lửa lớn, đến gần chẳng được, chạm đến chẳng được, huống là ngồi nằm trong ấy ư? Lại ở trong ấy phân đại phân tiểu, luận thượng luận hạ, chẳng tán thân mất mạng hầu như ít có.

Việc này chẳng cùng giáo thừa hợp, cho nên người tu tập Đại thừa lâu năm còn chẳng hiểu chẳng biết, huống các Tiểu thừa, Thanh văn, Duyên giác; Tam hiền, Thập thánh há chẳng thông giáo, nghe đến một việc này hàng tam hiền vỡ mật, Thập địa hồn kinh, Bồ tát Đẳng giác thuyết pháp như mây như mưa độ bất khả tư nghì chúng sanh nhập vô sanh pháp nhẫn còn bị gọi là sở tri ngu cùng với đạo toàn trái, hà huống là những người khác ư? Bởi vì việc này từ địa vị phàm phu chóng đồng Phật thể. Người rất khó tin, người tin là pháp khí, người chẳng tin thì chẳng phải pháp khí. Người tu hành muốn vào Tông thừa này đều phải từ cửa tin mà vào. Một chữ tin có cạn, có sâu, có tà, có chánh, chẳng thể biện.

Cạn nghĩa là phàm nhập pháp môn, ai nói chẳng tin, song chỉ tin pháp môn mà chẳng tin tâm mình.

Sâu thì các Bồ tát thừa còn chẳng đủ niềm tin, như Hoa Nghiêm Sớ nói: "Thấy có người hay thuyết pháp, có chúng nghe pháp là chưa vào cửa tin". Như nói: "Tức tâm tức Phật", ai nói chẳng tin, đến khi hỏi: Ông là Phật chăng? Thì lắc đầu từ chối, thừa đương chẳng nổi. Kinh Pháp Hoa nói: "Tất cả cùng nhau suy nghĩ chẳng thể lường Phật trí". Vì sao? Vì có tâm suy nghĩ, bởi niềm tin chẳng đủ mà thôi.

Tà, chánh: Tự tâm tức Phật gọi là chánh tín, ngoài chấp có pháp gọi là tà tín. "Tức Phật" cần phải tham cứu cho sáng tỏ tự tâm. Và phải đích thân dẫm đến, tới chỗ chẳng nghi mới gọi là chánh tín. Còn như mập mờ lầm lạc đoán mò chỉ nói: "Tức tâm tức Phật" thật chẳng biết tu tâm, gọi là tà tín. Cổ nhân hái đào cũng định, cuốc đất cũng định, lúc làm công việc gì cũng định, đâu phải ngồi lâu đè nén khiến tâm chẳng khởi sau đó mới định ư? Nếu như thế tức là tà định, chẳng phải ý chánh của Thiền.

Lục Tổ nói: "Na Già thường tại định, không có lúc nào chẳng định", cần phải thấy suốt bản thể mới cùng định này tương ứng. Ông già Thích Ca từ Đâu Suất xuống hoàng cung, vào Tuyết Sơn thấy sao mai mọc, khai thị đại chúng như huyễn, chưa từng xuất định này. Bằng không, ắt bị cảnh động nhận chìm, đâu thể gọi là định.

Trong cảnh động tìm chỗ khởi chẳng thể được, trong cảnh tịnh cũng tìm chỗ khởi chẳng thể được. Động tịnh đã không có chỗ khởi thì lấy cái gì làm cảnh? Hiểu được ý này thì tất cả đều là một thể định tràn đầy không thiếu.

Tham thiền chẳng được đắm nhiễm thế pháp. Trong Phật pháp còn đắm nhiễm một điểm cũng chẳng thể được, hà huống là thế pháp ư? Nếu thoại đầu thật sự hiền tiền, đạp trên băng chẳng thấy lạnh, đạp trên lửa chẳng thấy nóng, trong rừng gai góc ngang nhiên đi qua chẳng thấy có chướng ngại, mới có thể ở trong thế pháp hoành hành tự tại. Bằng không thì đều bị cảnh duyên chuyển; muốn được công phu thành một phiến đến năm lừa cũng chưa được mộng thấy.

Tham thiền chẳng nên chạy tìm trên văn cú ghi nhớ ngữ ngôn, chẳng những vô ích mà còn làm chướng ngại công phu, khiến công phu chân thật trở thành duyên lự, muốn được chỗ tâm hành bặt há có thể được ư?

Tham thiền sợ nhứt là tỷ lượng, đem tâm suy lý lời Phật lời Tổ với đạo càng xa, hạ thủ đến Phật Di Lặc ra đời cũng không dính dáng. Nếu là người nghi tình chóng phát lấp bít hư không chẳng biết có danh tự hư không, như ngồi ở trong núi bạc, vách sắt chỉ muốn được một con đường sống. Nếu chẳng được con đường thì làm sao được an ổn. Chỉ cần như thế hạ thủ đi, thời tiết đến thì tự có sự đảo lộn.

Gần đây có một tà sư dạy người học chẳng cần hạ thủ công phu. Lại nói: "Cổ nhân chưa từng hạ thủ công phu". Lời này rất độc làm mê lầm kẻ hậu sanh, vào địa ngục mau như tên bắn.

Bài minh Tọa thiền của Thiền sư Đại Nghĩa nói:
  • Chớ nói tin đạo, chẳng cần tham,
    Cổ Thánh nhắc hoài là chỉ nam.
    Tuy nhiên gác cũ nhàn điền địa,
    Một phen tiến đến được hay chưa.
Nếu chẳng cần tham cứu mà nói đắc lý, đó là Di Lặc trời sanh, Thích Ca tự nhiên, bọn người này bị gọi là người đáng thương xót. Bởi vì tự mình chẳng từng tham cứu, hoặc lấy cổ nhân một hỏi một đáp liền lãnh ngộ bèn đem thức để hiểu rồi dối gạt người, hoặc gặp một phen bệnh nặng kêu khổ suốt ngày, những điều hiểu biết bình thường đều chẳng dùng được, hoặc đến lúc mạng chung như con cua bị bỏ vào nồi nước sôi tay chân rối loạn, ăn năn đâu kịp.

Thiền sư Hoàng Bá nói:
  • Xuất trần việc ấy vốn phi thường,
    Nắm chặt đầu dây giữ lập trường.
    Chẳng phải một phen sương thấm lạnh,
    Hoa mai chi dễ thưởng mùi hương.
Lời này rất thân thiết, nếu đem bài kệ này luôn luôn cảnh sách thì công phu tự nhiên tấn tới, như đường dài trăm dặm, bước đi một bước thì ngắn đi một bước, còn nếu đứng một chỗ chẳng chịu đi thì dẫu nói được sự nghiệp của quê nhà rõ ràng minh bạch cũng chẳng bao giờ đến nhà, thử hỏi sẽ được cái gì?

Tham thiền khẩn yếu nhất là chữ thiết. Chữ thiết rất có sức mạnh. Chẳng thiết ắt lười biếng sanh. Lười biếng sanh thì phóng túng buông lung tâm ý. Nếu dụng tâm chân thiết thì buông lung lười biếng làm sao sanh được. Phải biết, một chữ thiết này chẳng lo chẳng đến chỗ ruộng đất cổ nhân, chẳng lo tâm sanh tử chẳng vỡ. Bỏ một chữ thiết này, cầu Phật pháp nào khác đều là si cuồng chạy ở ngoài lề, há có thể nói là đồng với hạ thủ công phu ư?

Một chữ thiết chẳng những lìa lỗi mà ngay đây lập tức vượt cả ba tánh thiện, ác, vô ký. Một câu thoại đầu, dụng công rất thiết thì cũng chẳng nghĩ thiện, dụng tâm rất thiết thì chẳng nghĩ ác, dụng tâm rất thiết thì chẳng rơi vào vô ký. Thoại đầu thiết thì không tán loạn, thoại đầu thiết thì không hôn trầm, thoại đầu hiện tiền thì chẳng rơi vào vô ký.

Một chữ thiết là câu rất thân thiết, dụng tâm thân thiết ắt không kẻ hở, cho nên ma chẳng thể nhập vào, dụng công thân thiết chẳng sanh tính toán có, không... ắt chẳng rơi vào ngoại đạo. Người tham thiền đi chẳng biết mình đi, ngồi chẳng biết mình ngồi, nghĩa là thoại đầu hiện tiền, nghi tình chẳng vỡ, chẳng biết có thân tâm, hà huống biết có đi, có ngồi!

Tham thiền sợ nhất là suy nghĩ làm thơ, làm kệ. làm văn, làm phú... Thơ kệ thành ắt gọi là thi Tăng, văn phú hay ắt gọi là văn tự Tăng, cùng với tham thiền không dính dáng gì cả. Hễ gặp cảnh duyên nghịch thuận làm động niệm tâm người, liền phải phát giác và đề khởi thoại đầu chẳng theo cảnh duyên chuyển mới được. Hoặc nói: "Chẳng cần kíp". Ba chữ này gây lầm lạc cho người, người học cần phải xét kỹ.

Tham thiền, người ta sợ rơi vào không. Thoại đầu hiện tiền đâu phải là không. Chỉ cái người sợ không này bèn không chẳng được, hà huống là thoại đầu hiện tiền.

Tham thiền, nghi tình chẳng vỡ như đi trên vực sâu, tợ bước trên băng mỏng, mảy may đánh mất chánh niệm thì tán thân mất mạng, vì nghi tình chẳng vỡ, cái lý vĩ đại chưa sáng, một hơi thở ra chẳng hít vào là qua đời khác, bị trung ấm kéo dắt không khỏi đi theo nghiệp thức thay đầu đổi mặt mà chẳng hay chẳng biết. Do đó, trên nghi lại càng thêm nghi, đề khởi thoại đầu, chẳng rõ quyết định phải rõ, chẳng vỡ quyết định phải vỡ, ví như bắt kẻ trộm, cần phải có tang vật mới được.

Tham thiền, chẳng được đem tâm chờ ngộ, như người trên đường đứng ở trên đường chờ đợt đến nhà ắt không bao giờ đến nhà mà chỉ cần đi thì đến nhà. Nếu đem tâm chờ ngộ thì chẳng bao giờ ngộ, mà chỉ cần bức bách khiến cho ngộ. Nếu như đại ngộ như hoa sen chợt nở, như đại mộng chợt tỉnh. Bởi vì mộng chẳng chờ tỉnh, ngủ mùi rồi tự tỉnh; hoa chẳng đợi nở, thời tiết đến tự nở; tâm chẳng đợi ngộ, lúc nhân duyên hội hợp thì tự ngộ. Tôi nói: "Lúc nhân duyên tự hội hợp, quý ở chỗ thoại đầu chân thiết bức bách khiến cho ngộ, chớ chẳng phải chờ ngộ đâu!" Lại lúc ngộ như vẹt mây mù thấy trời xanh rộng rãi không nương gá (vô y), trời xoay đất chuyển lại là một cảnh giới đặc biệt.

Tham thiền cần phải khẩn, chánh, miên mật và dung hoát.

Thế nào là khẩn? Mạng người ở trong hơi thở, đại sự chưa rõ, một hơi thở ra chẳng hít vào, đường trước mịt mờ chưa biết về đâu, chẳng được chẳng khẩn. Cổ Đức nói: "Như dây gai thấm nước, một bước khẩn cấp một bước".

Thế nào là chánh? Người học cần phải đủ con mắt trạch pháp, ba ngàn bảy trăm Tổ sư đều là gương mẫu cho người tham thiền. Nếu sai mảy may ắt vào lối tà. Kinh nói: "Chỉ một việc này thật, cái thứ hai nào khác chẳng phải chân".

Thế nào là miên mật? Lông mày cùng hư không kết chặt, kim châm không lọt, nước rưới chẳng thấm, chẳng để hở một mảy may. Nếu có một kẻ hở bằng mảy lông ắt ma cảnh thừa chỗ sơ hở chen vào. Cổ Đức nói:"Một giây phút nào thoại đầu chẳng hiện tiền thì y như người chết".

Thế nào là dung hoát? Thế giới rộng trượng thì gương xưa rộng một trượng. Gương xưa rộng một trượng thì lò lửa rộng một trượng. Quyết chẳng cầu chấp trụ ở một chỗ như nắm chặt đầu con rắn chết, cũng chẳng rơi vào hai đầu, tự tại thênh thang. Cổ Đức nói: "Tròn đồng thái hư, không thiếu không dư". Người thật sự đến chỗ dung hoát thì trong chẳng thấy có thân tâm, ngoài chẳng thấy có thế giới, mới được chỗ nhập đầu.

Khẩn mà chẳng chánh ắt uổng dụng công. Chánh mà chẳng khẩn ắt chẳng thể nhập. Đã nhập cần phải miên mật mới được tương ưng. Đã tương ưng, cần phải dung hoát mới thành hóa cảnh.

Tham thiền chẳng được có một mảy lông niệm khác, đi, đứng, nằm, ngồi chỉ đề khởi câu thoại đầu bổn tham phát khởi nghi tình, tức tối muốn tìm đến chỗ tận cùng. Nếu có mảy lông niệm khác, người xưa nói là “Tạp độc nhập tâm”, chẳng những tổn thương thân mạng, mà còn tổn thương huệ mạng, người học chẳng thể chẳng thận trọng.

Tôi nói: Niệm khác nghĩa là chẳng những pháp thế gian mà cho đến trừ cái tình này ra, tất cả việc tốt trong Phật pháp cũng đều là niệm khác. Lại, chẳng những việc ở trong Phật pháp mà cho đến ở trong tâm thể, giữ nó, buông nó, chấp nó, hóa nó, cũng đều là niệm khác (mất chánh niệm).

Tham thiền, phần đông đều nói: "Tham chẳng được", thì cứ ngay chỗ tham không được hãy tham đi, như người chưa biết đường hãy tìm đường, chứ chẳng nên nói "tìm chẳng được đường", bèn thôi sao! Như tìm được đường rồi thì quý ở chỗ đi đến nhà mới thôi, chẳng được đứng ở trên đường chẳng chịu đi thì đâu có ngày đến nhà.

Tham thiền, tham đến chỗ chẳng thể dụng tâm, chỗ vực sâu muôn trượng, chỗ sơn cùng thủy tận, chỗ tận cùng khu ốc, như con chuột chun vào sừng trâu tự có sự dội ngược (ngộ đạo).

Tham thiền sợ nhất là cái tâm linh lợi, tâm linh lợi là thuốc kỵ của tham thiền, phạm nhầm một chút dù cho thuốc hay hiện tiền cũng chẳng cứu được. Nếu thật là người tham thiền, mắt như mù, tai như điếc, lúc tâm niệm vừa mống khởi như đụng nhầm núi bạc vách sắt; như thế, công phu mới được tương ưng.

Tham thiền được chân thiết, đem thân tâm cùng thế giới luyện được như thanh sắt, chỉ đợi nó bỗng nổ tung ra, rồi cần phải gom lại thành đống mới được.

Tham thiền chẳng sợ sai lầm mà chẳng sợ biết mình quấy. Dẫu cho đang đi ở chỗ sai lầm, nếu chịu có một niệm biết quấy, ấy là nền tảng thành Phật làm Tổ, là con đường trọng yếu ra khỏi sanh tử, là vũ khí lợi hại để phá lưới ma. Đại sư Thích Ca ở trong mỗi pháp của ngoại đạo đều có chứng qua, mà chẳng ngồi ở trong hang ổ ấy, đem bốn chữ "biết quấy liền bỏ" đi từ phàm phu đến địa vị đại thánh. Ý này chẳng những ở trong pháp xuất thế mà ở trong pháp thế gian hễ có đánh mất chánh niệm, chỉ cần phí bốn chữ "biết quấy liền bỏ" thì làm được một con người tốt đẹp trong trắng.

Nếu ôm chặt lấy chỗ sai lầm cho là đúng, chẳng chịu biết quấy, dẫu cho Phật hiện tiền cứu người ấy cũng chẳng được.

Tham thiền chẳng nên tránh huyên náo cầu tịch lặng, nhắm mắt ngồi trong hang quỷ làm kế sống. Người xưa gọi là ngồi dưới núi đen tối, ngâm trong nước chết; giúp được cái gì. Chỉ cần ở trên cảnh duyên mà tham cho được, mới là chỗ đắc lực. Một câu thoại đầu ở trên lông mày, trong sự đi ngồi, mặc áo, ăn cơm, tiếp tân đãi khách, chỉ cần rõ cái chỗ rơi của một câu thoại đầu này, một mai lúc rửa mặt rờ nhằm cái lỗ mũi nguyên lai rất gần, bèn được ít phí sức (tỉnh lực).

Tham thiền sợ nhất là nhận thức thần làm Phật sự, hoặc nhướng mày chớp mắt, xoay đầu ngó lại, cho là có ít nhiều kỳ đặc. Nếu nhận thức thần làm việc chánh thì làm tôi tớ cho ngoại đạo cũng chẳng được.

Tham thiền cần phải chỗ tâm hành diệt, điều thiết yếu chẳng nên đem tâm nghiên cứu, suy lý cơ duyên vấn đáp… Nên ngài Động Sơn nói: "Tham cứu diệu lý thì đánh mất tông chỉ của Thiền, làm cho cơ dụng linh động trở thành ám muội; hạng người này không đủ tư cách nói chuyện với nhau. Nếu được triệt ngộ thì mọi tam muội từ trong tự tâm lưu xuất, suy nghĩ tạo tác ắt cách xa, khác nào như trời với đất".

Tham thiền chẳng sợ chẳng được, tham chẳng được cần phải tham cho kỳ được mới là công phu. Cổ Đức nói: "Không cửa là cửa giải thoát, không ý là ý đạo nhân, quý ở chỗ thể hội được chỗ vào. Nếu tham chẳng được bèn đánh trống rút lui thì dẫu trăm kiếp ngàn đời cũng không làm sao tham được".

Nghi tình phát khởi buông chẳng xuống, ấy là lên đường; đem hai chữ sanh tử dán trên trán, như cọp dữ đuổi đến, nếu chẳng chạy thẳng về nhà ắt tán thân mất mạng, còn có thể dừng chân ư?

Tham thiền chỉ ở trên một tắc công án dụng tâm, chẳng nên giải hội ở trên tất cả công án. Dẫu có thể giải được thì cũng chỉ là giải chứ chẳng phải là ngộ. Kinh Pháp Hoa nói: "Đem tâm suy nghĩ đo lường cảnh giới Viên giác Như lai như đem lửa đom đóm đốt núi Tu di, trọn không thể được". Ngài Động sơn nói: "Toan đem ý học huyền tông, như muốn đi về hướng Tây mà quay mặt về hướng Đông". Người nghiên cứu giải thích công án cần phải dưới da có máu, biết hổ thẹn mới được.

Tham thiền đề khởi thoại đầu, chỉ biết nghi tình đập chẳng vỡ ắt không có niệm thứ hai. Quyết chẳng nên nhằm trên kinh sách dẫn chứng kích động thức tình; tình thức bị kích động ắt vọng niệm nổi lên, muốn được đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành diệt, làm sao được!

Đạo, chẳng nên rời dù trong khoảnh khắc, nếu rời thì chẳng phải đạo. Công phu chẳng nên gián đoạn dù trong khoảnh khắc, nếu gián đoạn thì chẳng phải công phu. Người chân chánh tham cứu như lửa cháy lông mày, tợ lửa cháy đầu đâu có rỗi rảnh để việc khác làm động niệm. Cổ Đức nói: "Như một người địch với muôn người, đối diện đâu cho nháy mắt". Lời này rất thiết yếu đối với người tham thiền, cần phải biết vậy.

Tham thiền, tự mình tham chưa triệt ngộ, chỉ nên lo giải quyết chưa xong việc tham cứu của mình, chẳng nên dạy người, như người chưa đến kinh thành mà nói cho người khác nghe về việc trong kinh thành, chẳng những dối người mà cũng là dối mình vậy.

Tham thiền ngày đêm chẳng dám biếng trễ, như Đại sư Từ Minh ban đêm buồn ngủ Ngài dùng mũi dùi đâm vào mình, và nói: "Người xưa vì đạo quên ăn bỏ ngủ, còn ta nay là người gì?"

Cô nhân vẽ một vòng tròn bằng phấn, đạo lý chẳng rõ, chẳng bước chân ra ngoài. Người thời nay buông lung tình ý, đi chơi lêu lổng cho đó là hoạt bát, thật đáng tức cười.

Tham thiền hoặc được khinh an, hoặc có tỉnh phát, chẳng cho đó là ngộ. Bác Sơn tôi đương thời khán câu "Không tung tích" của Hòa thượng Thuyền Tử, một hôm nhân xem Truyền Đăng Lục thấy ngài Triệu Châu dặn ông Tăng rằng: "Phải đi ra ngoài ba ngàn dặm tìm gặp Thiện tri thức mới được", bất giác tôi đánh mất cái túi vải như buông gánh nặng ngàn cân, tự cho là đại ngộ. Đến khi gặp ngài Bảo Phương, tôi mới biết mình như thanh gỗ vuông tra vào lỗ tròn, nên rất hổ thẹn. Nếu sau khi ngộ chẳng gặp đại Thiện tri thức, dẫu được an lạc tự tại cũng chưa phải xong.

Ngài Bảo Phương khuyến khích tôi bằng bài kệ:
  • Lấy không để quét không thì công rất lớn,
    Lấy có để tìm có thì đức càng nhỏ.
Không nên dùng sự hiểu biết của mình để phỉ báng Tổ sư.

Chỗ được tiện nghi tức là mất tiện nghi.

Đây là câu đầu sào trăm thước tiến bước, người tham thiền cần phải xét kỹ. Tôi thường nói với người học: “Tôi được hai chữ chẳng phải của ngài Bảo Phương thọ dụng bất tận”.

Tham thiền chẳng được cho là đạo lý, cứ miệt mài tham đi mới phát khởi được nghi tình. Nếu cho là đạo lý thì không tiến tới được, chẳng những việc mình chẳng thấu triệt mà nghi tình cũng chẳng phát khởi. Như có người hỏi: "Vật đựng trong rương là vật gì?" Thật chẳng thấy vật người kia chỉ! Người kia lấy chẳng phải là phải, nên chẳng thể phát nghi. Lại chẳng những chẳng khởi nghi mà còn cho vật kia là vật này, cho vật này là vật kia. Hiểu lầm như thế, nếu chẳng mở rương ra đích thân thấy qua một phen thì suốt đời cũng chẳng thể nói chắc được.

Tham thiền chẳng nên cho là vô sự, phải tức tối muốn sáng tỏ lý này. Nếu cho là vô sự thì suốt một đời chỉ là người vô sự, một việc lớn dưới y áo chẳng bao giờ xong; như người tìm vật bị đánh mất, tìm ra mới thôi. Nếu tìm chẳng ra bèn bỏ vào cái vỏ vô sự, không có ý tìm nữa thì dẫu cho vật bị đánh mất có hiện tiền cũng lầm qua trước mặt, bởi vì không có ý tìm vật vậy.

Tham thiền chẳng nên cho là đá nhoáng ánh chớp. Nếu ánh sáng đầu cửa chợt có chợt không thì giúp được việc gì? Cần phải đích thân thật sự bước đến thấy một phen mới được. Nếu thật sự đắc ý, như giữa thanh thiên bạch nhật thấy cha mẹ mình, không có cái vui thế gian nào hơn được.

Tham thiền, chẳng được nhằm dưới ý căn tính toán; suy nghĩ tính toán khiến công phu chẳng được thành phiến, chẳng thể phát khởi được nghi tình. Bốn chữ "suy nghĩ tính toán" làm chướng chánh tín, chướng chánh hạnh và chướng con mắt đạo. Người học đối với nó phải như sanh oan gia mới khá.

Tham thiền, chẳng được ở chỗ nêu lên Tông sư mà dùng trí giải để lãnh hội. Nếu dùng trí giải để lãnh hội thì lầm lạc, chẳng tương ưng với việc tham cứu. Chỉ cần phát khởi nghi tình, tham cho triệt, không có chỗ lãnh hội tri giải, như lầu gác trong hư không tự tại vô ngại. Bằng không, nhận giặc làm con, nhận tớ làm chủ. Cổ Đức nói: "Chớ đem cái yên lừa cho là cái quai hàm của cha" là nghĩa này vậy.

Tham thiền, chẳng được cầu người nói trắng ra. Nếu nói trắng ra thì hoàn toàn của người khác chứ không dính dáng gì với mình. Như người hỏi đường đến Trường An, chỉ có thể hỏi đường, chứ chẳng nên hỏi việc ở Trường An. Người kia có nói rõ ràng mọi việc ở Trường An, trọn là cái việc của người kia thấy chứ chẳng phải người hỏi đường đích thân thấy. Nếu chẳng cố gắng tham cứu mà cầu người nói trắng ra, cũng giống như vậy.

Tham thiền, chẳng phải niệm công án, niệm tới niệm lui có gì dính dáng, niệm đến lúc ngài Di Lặc hạ sanh cũng không dính dáng, sao chẳng niệm A Di Phật còn có lợi ích hơn. Chẳng những bảo chẳng cần niệm mà phải luôn luôn đề khởi thoại đầu, như khán chữ vô thì ở trên chữ vô khởi nghi tình, như khán cây bách thì ở trên cây bách khởi nghi tình, như khán một qui về chỗ nào thì ở trên qui về chỗ nào khởi nghi tình. Nghi tình phát khởi thì tận mười phương thế giới là một khối nghi, chẳng biết có thân tâm cha mẹ sanh. Toàn thân là một khối nghi, chẳng biết có mười phương thế giới, chẳng phải trong chẳng phải ngoài, đập lại thành một khối; chỉ đợi khối nghi kia tự vỡ như thùng đứt dây đay, gặp Thiện tri thức, chẳng đợi mở miệng; đại sự xong xuôi mới vỗ tay cười lớn; nhìn lại sự niệm công án thật giống như chim Anh võ học nói, nào có dính dáng gì đến đại sự.

Tham thiền chẳng nên đánh mất chánh niệm,dù trong khoảnh khắc. Nếu đánh mất chánh niệm tham cứu ắt bị cuốn theo dị đoan, quên quay trở lại. Như người tĩnh tọa chỉ thích tịch lặng, lấy cái thuần thanh tuyệt điểm cho là Phật sự, đây gọi là mất chánh niệm, vì rơi vào trong tịch lặng. Hoặc nhận lấy cái hay giảng, hay nói, hay động, hay tịnh là Phật sự, đây cũng gọi là mất chánh niệm, vì niệm thức thần. Hoặc lấy sự đè ép vọng tâm không cho mống khởi là Phật sự, đây cũng gọi là mất chánh niệm, vì vọng tâm đè vọng tâm như đá đè cỏ, lại như lột bẹ chuối, hết lớp này đến lớp khác, không biết đến ngày nào mới xong. Hoặc quán tưởng thân tâm như hư không, chẳng khởi niệm như tường vách, đây gọi là mất chánh niệm, vì ngài Huyền Sa nói: "Nghĩ muốn ngưng tâm thức niệm, nhiếp sự về không tức là rơi vào phái ngoại đạo chủ trương không vong như người chết hồn chẳng tan".

Tham thiền, nghi tình phát khởi, lại cần phải đập cho vỡ, phải xác thật chánh niệm phát đại dũng mãnh, ở trong khẩn thiết lại càng khẩn thiết mới được. Ngài Kính Sơn nói: "Bậc đại trượng phu muốn cứu cánh một đoạn đại sự nhân duyên này phải là hạng người đập vỡ da mặt, tánh tình nóng nảy, dựng đứng xương sống, chẳng thuận nhân tình, đem cái chỗ nghi xưa nay của mình dán trên trán như thiếu nợ người muôn trăm quan tiền bị người đòi ngặt không có tiền để trả, chỉ sợ người sỉ nhục, sự kiện này không gấp cũng phải gấp, không vội cũng phải vội, không lớn cũng phải lớn thì mới có phần xu hướng (ngộ)".


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: PHẬT PHÁP VỚI THIỀN TÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

CHƯƠNG II
BÌNH LUẬN CẢNH NGỮ
CỦA CỔ NHÂN KHAI THỊ
Ngài Triệu Châu nói: Ba mươi năm chẳng tạp dụng tâm, trừ mặc áo ăn cơm là tạp dụng tâm.

BÌNH: Chẳng phải chẳng dụng tâm mà là chẳng dụng tạp tâm, chỗ gọi là: "Để tâm một chỗ không việc nào chẳng xong".
ooOoo
Ngài Triệu Châu nói: Ông chỉ cần tham cứu lý đạo, ngồi khán hai ba mươi năm, nếu chẳng hội, cứ chặt đầu lão Tăng đi!

BÌNH: Triệu Châu sao gấp quá vậy! Mặc dầu như thế, năm tháng dài tìm một người hai ba mươi năm tâm không đổi khác cũng khó có.
ooOoo
Ngài Triệu Châu nói: Lão Tăng lúc mười tám tuổi đã biết phá sạch gia sản Lại nói: Ta thuở xưa bị mười hai thời sai sử, hiện nay sai sử được mười hai thời.

BÌNH: Ở trên gia sản làm kế sống thì bị mười hai thời sai sử. Phá được gia sản thì sai sử được mười hai thời. Chợt có một vị Tăng hỏi: "Cái gì là gia sản?" Bác Sơn tôi đáp: "Cởi bỏ cái đảy da đi, ta sẽ nói cho ông nghe".
ooOoo
Ngài Triệu Châu nói: Nếu ông một đời chẳng rời Tòng lâm, chẳng nói năm năm, mười năm, không có người gọi ông làm người câm, về sau, Phật cũng không làm gì được ông.

BÌNH: "Chẳng nói" tức là chẳng tạp dụng tâm. Nếu chẳng nhằm dưới y áo tham cứu lý thì rất cách xa vậy.
ooOoo
Thiên Thai Thiều Quốc Sư nói: Dẫu cho đáp thoại, biện luận như sông dài cũng chỉ thành cái tri kiến điên đảo. Nếu chỉ quý đáp thoại, biện luận thì có gì khó đâu, chỉ e vô ích đối với người, trở lại thành tự dối.

BÌNH: Người bây giờ học được một bụng, bình thường hỏi đi đáp lại, đem Phật pháp làm trò đùa, chẳng những vô ích, phần nhiều thành tội lỗi, mà nay phóng túng ngữ ngôn rỗng tuếch cho là tông thừa. Xem lời của cổ nhân nói, da mặt dày bao nhiêu!
ooOoo
Quốc Sư nói: Sở học trước kia của các Thượng tọa biện luận, vấn đáp, ghi nhớ, nói đạo lý rất nhiều, vì sao cái tâm nghi chẳng dứt, nghe nói phương tiện đặc biệt của cổ nhân mà chẳng hội, chỉ vì nhiều hư dối mà ít chân thật.

BÌNH: Biện luận, ghi nhớ đều thuộc về duyên lự, gốc sanh tử chẳng chặt đứt, làm sao hội được ý của cổ nhân, vì thế nói: Lời huyền diệu kẹt nơi đầu tâm, trở lại thành ra duyên lự; lý chân thật ở trước mắt lại trở thành cảnh danh tướng.
ooOoo
Quốc Sư nói: Thượng tọa chi bằng từ dưới gót chân nhất thời nhìn rõ xem đó là đạo lý gì, có bao nhiêu pháp môn làm Thượng tọa nghi, cầu giải thích mới biết sở học trước kia chỉ là cội nguồn sanh tử, làm kế sống trong ngũ ấm, thập bát giới, vì thế cổ nhân nói: "Chẳng thoát ra kiến, văn, như mò trăng đáy nước".

BÌNH: Kiến, văn, duyên lự, người nào chẳng có, song cần phải có sự chuyển biến lớn lao mới được. Nếu chẳng cùng với công phu tương ưng, xuyên suốt qua cung thủy tinh thì trọn chẳng dính dáng. Cổ Đức nói: "Tri giải nhập vào tâm như đổ dầu vào bún không làm sao lấy ra được, phải nên thận trọng".
ooOoo
Thiền sư Thiệu Nham nói: Này chư nhân giả! Hôm nay Quốc chủ đến thỉnh chỉ muốn chư nhân giả minh tâm, ngoài ra không có đạo lý nào khác. Chư nhân giả có minh tâm chưa? Phải chăng là lúc ngữ ngôn nói cười, lúc nín thinh im lặng, lúc tham tầm Thiện tri thức, lúc đạo bạn thương lượng, lúc du ngoạn sơn thủy, lúc tai mắt bặt dứt đối cảnh là tâm của ông chăng? Những kiến giải như trên đều là chỗ chấp của ma mị, đâu phải minh tâm?

BÌNH: Nói chẳng phải, nín chẳng phải, thấy nghe chẳng phải, lìa thấy nghe cũng chẳng phải, làm sao hội? Chỉ cần thiền giả chớ nắm bắt bậy bạ là tốt.
ooOoo
Ngài Thiệu Nam nói: Còn có một bọn người lìa vọng tưởng trong thân ra, riêng nhận mười phương thế giới bao hàm nhật nguyệt, thái hư là bổn lai chân tâm, đây cũng là chỗ chấp của ngoại đạo, chứ chẳng phải minh tâm.

BÌNH: Đây gọi là Thiên Không ngoại đạo, lại đâu có được thân tâm nhứt như, ngoài thân không thừa ư? Chính người tham thiền ngày nay chẳng từng gặp Thiện tri thức, tự mình làm chủ tể, phần nhiều rơi vào kiến chấp này.
ooOoo
Lại nữa, chư nhân giả muốn hội chăng? Tâm không "Phải', cũng không "Chẳng phải". Ông tính chấp nhận có thể được sao?

BÌNH: Hai thứ trước đều là bệnh, lỗi ở tại hai chữ chấp nhận. Đoạn trước là thuốc, chỉ cần không chấp nhận là "Phải" và "Chẳng phải" thì bệnh liền lành.
ooOoo
Thiền sư Thoại Lộc nói: Đại phàm, tham học vị tất học vấn thoại là tham học, vị tất học đại ngữ là tham học, vĩ tất học biệt ngữ là tham học, vị tất hiểu rõ ngôn ngữ kỳ đặc trong kinh luận là tham học. Nếu tham học như vậy, mặc cho ông thông đạt đến mức nào đi nữa, đối với Phật pháp nếu không thấy rõ ràng (kiến tánh) thì gọi đó là bọn Càn Huệ. Đâu chẳng nghe: "Thông minh chẳng địch nổi sanh tử, càn huệ há thoát khỏi cái khổ luân hồi".

BÌNH: Người thời nay đều như vậy, đúng là bỏ vàng ròng, lượm ngói gạch; chẳng chịu chân thật tham cứu, phóng túng tam muội đầu mồm. Như Hương Nghiêm, hỏi một đáp mười, hỏi mười đáp trăm, chẳng phải người thông đạt sao, mà ở trong Phật pháp không thấy gì cả, chỉ một câu "Trước khi cha mẹ chưa sanh", không biết phải làm thế nào. Bọn học ngữ ngày nay hãy nói xem giúp được cái gì?
ooOoo
Thiền sư Thoại Lộc nói: Nếu là tham học, cần phải chân thật tham học mới được, lúc đi thì đi tham, lúc đứng thì đứng tham, lúc ngồi thì ngồi tham, lúc ngủ cũng tham, lúc nói cũng tham, lúc nín cũng tham, lúc đang làm công việc cũng tham. Lúc nào cũng tham như thế, hãy nói: Người tham là ai? Cái lời tham cái lời gì? Đến chỗ này, cần phải tự có chỗ minh bạch mới được. Nếu chẳng như vậy, gọi là bọn vội vàng hấp tấp ắt không có chỉ thú cứu cánh.

BÌNH: Cần nhất là phải tham cứu "Cái lời tham là gì? Người tham là ai?" Nếu chẳng tham cứu lời đó, chẳng biết người tham đó, ấy là luống qua vô ích, chẳng phải tham học.
ooOoo
Ngài Ba Tiêu nói: Như người đi đường, chợt gặp trước mặt vực âu muôn trượng, sau lưng lửa cháy gấp, hai bên là rừng gai góc. Nếu chạy về phía trước thì rơi xuống vực sâu, nếu lui về phía sau thì bị lửa đốt cháy, nếu chạy băng ra hai bên thì bị rừng gai góc làm chướng ngại. Ngay lúc ấy, làm sao khỏi được? Nếu khỏi được là có con đường xuất thân, nếu khỏi chẳng được thì mất mạng.

BÌNH: Cần phải chẳng màng nguy vong mới được cái chỗ triệt đầu, vừa do dự ắt tán thân mất mạng. Lời này của ngài Ba Tiêu rất khẩn yếu cho việc tham thiền. Người học phần nhiều cầu tri giải rơi vào trong hang ổ huyền ảo, chẳng lưu ý đến lời này thì luống uổng một đời.
ooOoo
Ngài Vân Môn nói: Có một bọn cướp giựt đồ hư giả, lượm đàm giải của người, ghi nhớ được một mớ, một gánh đồ tạp nhạp, đi khắp nơi khua môi lừa, múa mỏ ngựa, nói năng lưu lót khoe rằng ta biết cách hỏi từ Thiện tri thức này đến Thiện tri thức khác. Dẫu cho ông từ sáng hỏi đến tối, trải qua nhiều kiếp thế ấy có từng mộng thấy chăng?

BÌNH: Ngài Vân Môn đương thời chính là mắng một hai người trong số mười người thôi. Ngày nay phần đông đều như thế, chưa từng nhằm dưới nạp y thể cứu. Hoặc giả có ngồi trong chốc lát chẳng hôn trầm cũng tán loạn, bởi vì một bụng tri giải mửa chẳng ra, cắt chẳng đứt. Nếu là người linh lợi, vừa nghe nói thế ấy, phải biết hổ thẹn mới được.
ooOoo
Ngài Vân Môn dạy chúng: Các huynh đệ chớ nên dể duôi khiến thời gian trôi qua vô ích, rất cần phải kỹ lưỡng. Người xưa có nhiều phương tiện để dạy nhau; như ngài Tuyết Phong nói: "Cả đại địa là tự kỷ của ông"; ngài Giáp Sơn nói: "Trên đầu ngọn cỏ tiến thủ lão Tăng, trong chợ ồn náo biết được Thiên tử"; ngài Lạc Phổ nói: "Một hai bụi vừa khởi dậy, đại địa toàn thâu, một đầu sợi lông hiện toàn thân sư tử". Đều là chỗ ông nắm lấy, tham tới tham lui, lâu ngày chầy tháng tự nhiên có chỗ vào.

BÌNH: Ba đoạn ngữ lục này dắt ông vào cửa, song điều thiết yếu là ông phải chịu vào bằng không, thì đều ở trong hang quỷ làm kế sống. Ông nếu vào được cửa, tự nhiên xong xuôi, chẳng thấy có sơn hà đại địa, chẳng thấy có tự kỷ, tiến (ngộ) cũng chẳng tiến (chẳng ngộ) là lời nói hai đầu.
ooOoo
Ngài Vân Môn nói: Ánh sáng chẳng thấu thoát, có hai thứ bệnh: Một là tất cả chỗ chẳng rõ, trước mắt có vật. Hai là thấu được tất cả pháp không, mơ hồ in tuồng có vật cũng là ánh sáng chẳng thấu thoát. Lại, Phật thân cũng có hai thứ bệnh: Một là được đến Pháp thân, vì pháp chấp chưa quên, kiến giải của chính mình hãy còn, nên chỉ ngồi bênh cạnh Pháp thân. Hai là dẫu cho thấu được Pháp thân rồi thân chẳng thể buông bỏ kiểm điểm kỹ lưỡng lại có chút khí tức gì cũng là bệnh.

BÌNH: Bệnh này toàn do bên cảnh lượng làm kế sống, chẳng từng tọa đoạn, chẳng từng thấu thoát, chẳng từng được chuyển thân nhả khí. Chỗ này nếu riêng sanh niệm khác ắt thành ma tác quái.
ooOoo
Ngài Huyền Sa nói: Bồ tát học Bát nhã cần phải có đủ đại căn khí, có đại trí huệ thì mới được. Nếu có trí huệ thì hiện tại liền được giải thoát.

BÌNH: Người đại căn khi một nghe ngàn ngộ được đại tổng trì. Nói hai chữ "giải thoát" đã là lời phương tiện. Vì sao? Vì từ xưa đến nay chẳng từng trói buộc.
ooOoo
Ngài Huyền Sa nói: Nếu là người căn cơ chậm lụt cần phải siêng năng khắc khổ ngày đêm quên nhọc, bỏ ngủ, quên ăn như đưa ma mẹ, cấp thiết như thế suốt cả một đời đi, rồi được Thiện tri thức giúp đỡ thật sự khắc cốt tham cứu, thì lo gì chẳng được thành tựu, huống ngày nay ai là người có đủ tư cách học.

BÌNH: Người khắp quả đất này đều có đủ tư cách học, chỉ trừ người vô tri, chẳng đủ lòng tin, dẫu cho đức Phật Thích Ca phóng quang động địa cũng không giúp ích được người ấy.
ooOoo
Ngài Huyền Sa nói: Này nhân giả! Chớ nên chỉ ghi nhớ ngôn ngữ giống in như niệm thần chú, đáp bước hướng tới trước miệng niệm lâm râm, bị người nắm đứng lại cật vấn, bí lối, bèn nổi giận nói: "Hòa thượng chẳng vì tôi đáp thoại". Học như thế thì rất khổ biết không?

BÌNH: Ghi nhớ ngôn ngữ, bị gọi là tạp độc nhập tâm, chướng ngại chánh tri kiến. Người đọc sách ở thế gian ghi nhớ văn tự nhiều còn chẳng thể dung hóa, hà huống là người tham cứu pháp xuất thế mà chịu ăn đàm dãi của người khác ư!
ooOoo
Ngài Huyền Sa nói: Có một bọn Hòa thượng ngồi thiền sàng xưng là Thiện tri thức, được hỏi đến thì lắc thân động tay, mở mắt lè lưỡi nhìn sửng.

BÌNH: Bọn người này khắp thân là ma, toàn thân là bệnh, đến ngày ba mươi tháng chạp không khỏi bối rối.
ooOoo
Ngài Huyền Sa nói: Lại có một bọn nói cái linh đài trí tánh sáng rỡ linh diệu hay thấy hay nghe, nhầm vào trong thân năm uẩn làm chủ tể. Thế ấy mà làm Thiện tri thức thật là lừa gạt người. Biết chăng, ta nay hỏi ông: Ông nếu nhận cái sáng rỡ linh diệu ấy là cái chân thật của ông, tại sao lúc ngủ quên chẳng còn sáng suốt linh diệu nữa. Nếu lúc ngủ quên chẳng phải, thì tại sao có lúc sáng rỡ. Ông có hội chăng? Đây gọi là nhận giặc làm con, là gốc sanh tử, là duyên khí của vọng tưởng.

BÌNH: Đây là người đùa tinh hồn, lúc ngủ quên đã làm chủ chẳng được, thì lúc sanh tử đến làm sao đối phó, cả một đời lầm lẫn, chẳng những lừa gạt người, mà cũng là tự dối gạt mình.
ooOoo
Ngài Huyền Sa nói: Ông nay muốn được ra khỏi cái thân do năm uẩn chủ tể kia, chỉ cần biết cái thể kim cương bí mật của ông. Cổ nhân nói với ông: "Viên thành chánh biến trùm khắp sa giới".

BÌNH: Thể kim cương bí mật tức là "Viên thành chánh biến trùm khắp sa giới". Nói rõ ràng với ông rằng: "Cần phải toàn thân ngộ nhập mới được".
ooOoo
Ngài Huyền Sa nói: Phật đạo thênh thang không có lộ trình, không cửa là cửa giải thoát, không ý là đạo nhân, chẳng thuộc ba thời gian quá khứ, vị lai, hiện tại, cho nên chẳng thể thăng trầm. Hễ kiến lập thì trái với lý chân vì chẳng thuộc về tạo tác.

BÌNH: Nếu hội được ý này, chẳng phí mảy may công hạnh, lập tức thành Phật, hãy còn dư một chữ "thành".
ooOoo
Ngài Huyền Sa nói: Động ắt khởi cái gốc sanh tử. Tịnh ắt say đắm trong sự hôm trầm. Động tịnh đều bặt thì rơi vào không vong. Động tịnh đều thấu nhận thì mập mờ lầm lạc Phật tánh.

BÌNH: Người tu hành phần nhiều chán động cầu tịnh, tịnh lâu nghĩ lại muốn động. Cần phải nhướng lông mày đập vỡ hang ổ động tịnh mới là chỗ đạo nhân dụng tâm.
ooOoo
Ngài Huyền Sa nói: Cần phải đối trần đối cảnh như cây khô, tro lạnh, gặp lúc ứng dụng chẳng mất cơ nghi, như gương soi vật chẳng loạn ánh sáng, như chim bay trong hư không chẳng lẫn lộn không, sắc.

BÌNH: Như cây khô tro lạnh, bởi vô tâm. Chẳng mất cơ nghi, bởi ứng vật. Há cùng với người "bặt tâm, diệt trí" như nhau ư? Chẳng loạn ánh sáng, chẳng lẫn lộn không, sắc… tự nó chẳng làm gì đến mình.
ooOoo
Ngài Huyền Sa nói: Sở dĩ mười phương bóng dáng, ba cõi tuyệt hành tung, chẳng rơi vào hai đầu, chẳng trụ nơi chặng giữa, trong ấy còn một mảy lông chẳng hết tức là quyến thuộc ma vương; trước câu, sau câu, là chỗ khó của người học. Vì thế một câu giữa trời tâm muôn cửa dứt hẳn sanh tử.

BÌNH: Lời này quý ở chỗ "Một câu giữa trời tám muôn cửa", cả mười phương thế giới không một mảy lông hở trống, không một mảy lông bóng dáng, không một mảy lông dấu vết, đáng gọi là xán lạn, hoạt bát; Phật Tổ, chúng sanh không có chỗ đặt để, hai chữ sanh tử là ai nói như thế.
ooOoo
Ngài Huyền Sa nói: Dẫu cho như bóng trăng dưới đầm nước thu trong trẻo, chạm đến nổi sóng chẳng tan, như tiếng chuông giữa đêm trường tịch mịch, động đến âm vang không thiếu, vẫn còn là việc bên bờ sanh tử.

BÌNH: Người tọa thiền muôn người không có một người đến chỗ này. Dẫu cho đến được đi nữa cũng còn là việc bên bờ sanh tử, cần phải tự tìm con đường sống mới được.
ooOoo
Ngài Huyền Sa nói: Chỗ tu hành của đạo nhân như lửa đốt tan băng, trọn không trở lại thành băng nữa; mũi tên đã lìa dây cung, không trở lại nữa. Vì thế, củi lồng chẳng chịu ở, kêu gọi chẳng quay đầu, cổ thánh chẳng an bài, đến nay không xứ sở.

BÌNH: Tâm đạo nhân phải nên như thế. Chỉ cần đem đoạn này, thực hành cho kỹ, tương lai tự nhiên ít phí sức, dính vào một chút chẳng được. Nếu đem thức tâm suy lý, thì chính đó là "Nhân địa chẳng chân, đưa đến kết quả cong queo".
ooOoo
Ngài Huyền Sa nói: Người thời nay chẳng nghĩ đạo lý trong ấy, dối tự lăn vào trần lao thế sự, chỗ nào cũng đắm nhiễm, nơi nào cũng trói buộc. Dẫu ngộ đi nữa ắt trần cảnh rộn ràng, danh tướng chẳng thật.

BÌNH: Chỗ nào cũng đắm nhiễm, nơi nào cũng trói buộc là do tâm tham cứu chẳng thiết tha, mạng căn chẳng cắt đứt, chẳng chịu chết đi. Người chân chánh tham học, như đi ngang qua xứ có độc sâu cổ, chẳng được nếm một giọt nước, mới được chỗ triệt đầu.
ooOoo
Ngài Huyền Sa nói: Toan muốn ngưng tâm thức niệm, nhiếp sự về không, nắm mắt che con ngươi, vừa có niệm khởi mau mau phá trừ, vọng tưởng vi tế vừa sanh liền đè bẹp. Kiến giải như thế là rơi vào ngoại đạo không vong, người chết mà hồn chưa tan, mờ mờ mịt mịt vô giác vô tri như bị tai ăn cắp chuông, luống tự dối gạt.

BÌNH: Bệnh ở tại chẳng khởi nghi tình, chẳng tham cứu công án, chẳng chịu toàn thân nhập lý, chỉ đem thức tâm đè nén. Dẫu cho lóng lặng đi nữa mà rốt cuộc mạng căn chưa cắt đứt thì cũng chẳng phải là người tham thiền.
ooOoo
Ngài Huyền Sa nói: Nhân giả chớ nên lưu luyến lưới ái sanh tử mà bị nghiệp ác lôi đi không có phần tự do. Dẫu cho ông luyện được thân tâm đồng hư không đi nữa, dẫu cho ông đến chỗ tinh minh lóng lặng chẳng lay động, cũng chẳng ra ngoài thức ấm. Cổ nhân gọi nó như dòng nước chảy nhanh, người chẳng biết lầm cho nó là yên lặng.

BÌNH: Thức tâm chẳng đoạn dứt, dẫu cho luyện được thân tâm như hư không, rốt cuộc cũng bị nghiệp ác lôi đi. Chỗ tinh minh lóng lặng chẳng lay động, chính là thức ấm, thì làm sao khỏi được sanh tử. Nói tóm lại, chẳng tham cứu thấu suốt đại lý thì đều là hư vọng.
ooOoo
Ngài Huyền Sa nói: Tu hành thế ấy ra khỏi luân hồi chẳng được, thì y như thuở trước bị luân hồi kéo đi. Vì thế nói: "Các hành vô thường" ngay cả công quả của Tam thừa, như vậy thật là đáng sợ. Nếu không có con mắt đạo chẳng cứu cánh.

BÌNH: Tóm lại, mấy pháp ngữ ở trên đều chẳng phải cứu cánh. Người tu hạnh Tam thừa dẫu hành lục độ vạn hạnh cũng đều là pháp sanh diệt, đối với thật tế lý địa chẳng dính dáng gì!
ooOoo
Ngài Kính Sơn nói: Hiện nay có một bọn ngoại đạo mắt mình chẳng sáng, chỉ lo dạy người chết đi một cách ngoan cố, thôi đi, nghĩ đi. Nếu thôi nghĩ như thế, đến ngàn Phật ra đời cũng thôi nghĩ cũng chẳng được, càng khiến cho tâm mê muội mà thôi.

BÌNH: Chẳng chịu khởi nghi tình thì mạng căn chẳng cắt đứt. Mạng căn đã chẳng cắt đứt thì thôi cũng chẳng được, nghỉ cũng chẳng được. Chính hai chữ "thôi nghỉ" này là cội gốc sanh tử rồi. Dẫu cho trăm kiếp ngàn đời trọn không có ngày xong việc.
ooOoo
Ngài Kính Sơn nói: Lại có một bọn người dạy người tùy duyên quán đời vong tình mặc chiếu, chiếu tới chiếu lui, đới qua đới lại, càng thêm mê muội không có ngày xong.

BÌNH: Đã có cái tâm năng đới, cảnh sở chiếu; năng sở đối lập, chẳng phải vọng là gì? Nếu lấy vọng tâm làm tham cứu thì đối với tự tâm chẳng được tự tại. Chỉ cần tọa đoạn hai đầu, năng sở chẳng lập ắt cái vật ngăn trong lồng ngực bị vỡ tan như thùng lủng đáy vậy.
ooOoo
Ngài Kính Sơn nói: Lại có một bọn người dạy người chớ lo việc gì cả, chỉ cần thế ấy thôi đi, thôi được đến chỗ tình niệm chẳng sanh, đến lúc ấy chẳng phải mờ mịt vô tri mà tỉnh tỉnh rõ ràng. Bọn này rất độc hại làm mù mắt người, chẳng phải là việc nhỏ.

BÌNH: Dẫu đến chỗ tỉnh tỉnh rõ ràng, đây là pháp đối đãi với tịch, chẳng phải tham cứu. Nếu tham cứu thì muốn phát minh ngay đại sự. Đã chẳng như vậy, há chẳng phải là kẻ độc hại sao?
ooOoo
Ngài Kính Sơn nói: Chẳng luận là bậc tiền bối tham cứu đã lâu, nếu muốn thật sự tịnh thì cần phải cái tâm sanh tử này vỡ. Và chẳng chấp trước công phu. Nếu tâm sanh tử vỡ thì tự nhiên được tịnh.

BÌNH: Nghi tình phát khởi được thì tâm sanh tử ngưng kết lại một chỗ. Nghi tình vỡ ắt tâm sanh tử vỡ. Ở chỗ vỡ này, cầu tướng động trọn chẳng thể được.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: PHẬT PHÁP VỚI THIỀN TÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

CHƯƠNG III
CẢNH NGỮ KHAI THỊ
LÚC NGHI TÌNH CHẲNG KHỞI
Tham thiền nghi tình phát chẳng khởi bèn muốn trong giấy mực kiểm thảo văn tự, rộng cầu tri giải, đem ngôn giáo Phật Tổ xâu vào một dây làm một cái ấn để ấn định, vừa ra một tắc công án bèn cho là đạo lý, ở trên câu thoại đầu bổn tham chẳng thể phát khởi nghi tình, gặp người nạn vấn thì chẳng vui, đây là tâm sanh diệt, chứ chẳng chẳng phải thiền. Hoặc tùy hỏi liền đáp, dựng ngón tay, đưa nắm tay, cầm bút viết nhanh kệ tụng khai thị, khiến người tham cứu cũng có ý vị, tự cho rằng được đại ngộ. Trái lại, chẳng biết nghi tình phát chẳng khởi đều là thức tâm sai khiến như thế. Nếu chịu một niệm biết quấy, toàn thân buông bỏ, tìm gặp Thiện tri thức cầu con đường vào thì tốt. Bằng không, tâm sanh diệt thắng lướt lâu ngày thành ra ma dựa chẳng có thể cứu.

Tham thiền nghi tình phát chẳng khởi ở trên cảnh duyên sanh nhàm lìa, thích đến chỗ tịch tịnh không người để ngồi bèn lấy đắc lực, cảm thấy có ý tứ, vừa gặp chỗ hơi động một chút, tâm liền chẳng vui, đây là tâm sanh diệt, chứ chẳng phải thiền. Ngồi lâu ắt cùng với tịnh cảnh tương ưng; mờ mịt vô tri, bặt dứt đối đãi, dẫu được thiền định ngưng tâm bất động, thì cũng đâu khác chi với Tiểu thừa. Vừa cảnh duyên ắt chẳng tự tại, nghe tiếng thấy sắc ắt sanh sợ hãi. Lo vì sợ hãi nên ma có dịp khuấy rối. Do vì sức ma nên làm các điều bất thiện, một đời tu hành trở thành vô ích, đều là do lúc ban đầu chẳng khéo dụng tâm, chẳng khéo khởi nghi tình, chẳng chịu gặp Thiện tri thức, chẳng chịu tin Thiện tri thức. Ở trong chỗ tình lặng gắng gượng mà làm chủ tể, dẫu gặp Thiện tri thức, chẳng chịu một niệm biết quấy, ngàn Phật ra đời cũng không làm sao cứu được!

Tham thiền nghi tình phát chẳng khởi, đem tâm tình thức vọng tưởng đè nén khiến vọng tâm chẳng khởi, đến chỗ chẳng khởi ắt lóng đứng lặng lặng thuần thanh tuyệt điểm cho đó là công phu. Vừa gặp Thiện tri thức điểm nhằm chỗ đau như đè trái bàu trên mặt nước, đây là tâm sanh diệt chứ chẳng phải thiền. Bởi vì đầu tiên chẳng chịu tham thoại đầu khởi nghi tình, dẫu cho đè nén được đến mức thân tâm chẳng khởi thì cũng như đá đè cỏ. Nếu chết được thức tâm thành đoạn diệt rồi, chính là rơi vào ngoại đạo không vong.

Nếu đoạn diệt chẳng được, lúc gặp cảnh duyên liền dẫn khởi thức tâm, ở chỗ lóng lặng tuyệt điểm cho là chứng Thánh tự cho rằng được đại ngộ. Phóng túng thì thành điên cuồng, chấp trước thì thành ma, ở trong thế pháp lừa dối kẻ không biết, tạo ra tội nặng là làm lui sụt lòng tin của người và chướng đạo Bồ đề.

Tham thiền nghi tình phát chẳng khởi, đem thân tâm thế giới thảy đều bỏ hết thành không. Không thì không có chỗ quản đới, không có chỗ nương tựa, chẳng có thân tâm, chẳng thấy có thế giới, chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, đều là một cái không, cho cái không là thiền, cho rằng không là Phật. Đi cũng là không, ngồi cũng là không, nhất thiết đều không. Đi dứng nằm ngồi như đi trong hư không, đây là tâm sanh diệt chứ chẳng phải thiền. Chẳng chấp ắt thành ngoan không mờ mịt vô tri. Chấp trước ắt thành ma tự cho là đại ngộ. Trái lại chẳng biết là không dính dáng gì với việc tham thiền. Nếu quả thật người tham thiền phát khởi nghi tình, một câu thoại đầu như Ỷ Thiên trường kiếm chạm nằm mũi nhọn của nó thì tán thân mất mạng. Nếu chẳng như vậy, dẫu cho được không đến mức một niệm chẳng khởi, cũng chỉ là không vô sở tri, chứ chẳng phải cứu cánh.

Tham thiền nghi tình phát chẳng khởi bèn đem thức tâm cân nhắc xuyên tạc công án cổ nhân cho đây là toàn đề, là bán đề, là hướng thượng, là hướng hạ, là quân, là thần, là lời kiêm đới, là lời bình thật, tự cho rằng kiến giải của mình không ai bằng. Dầu mỗi mỗi nói được đạo lý, cùng với cổ nhân chung một miệng nhả khí, đây là tâm sanh diệt chứ chẳng phải thiền. Trái lại, chẳng biết một ngôn một ngữ của cổ nhân như nhai cuộn tơ khiến người nuốt chẳng xuống, nhả chẳng ra, đâu để cho người ta sanh ra nhiều tri giải dẫn khởi thức tâm. Nếu nghi tình phát khởi, toàn thân ngộ nhập thì cái thức tâm tri giải này chẳng đợi ông chết đi tự nhiên cũng yên.

Tham thiền nghi tình phát chẳng khởi, xem thân tâm thuần là giả duyên, trong ấy tự có một vật qua lại hay động, hay tịnh, không hình không tướng, ở đầu cửa sáu căn phóng quang động địa, buông ra ắt giáp sa giới, thâu lại ắt chẳng lập mảy trần, nhằm vào chỗ ấy nhận định, chẳng chịu khởi nghi tình, chẳng chịu tham cứu, rồi cho là người xong việc, đây là tâm sanh diệt chứ chẳng phải thiền.

Trái lại, chẳng biết tâm sanh tử chẳng vỡ, lấy những thứ này làm khoái ý, chính là đùa với thức thần, một mai nhãn quang lạc địa, làm chủ chẳng được bị thức thần lôi đi theo nghiệp thọ báo. Nếu nghiệp thiện nhiều ắt sanh trong trời người, đến khi bốn tướng, ngũ suy kéo đến bức bách, bèn cho rằng Phật pháp không linh nghiệm. Do đây phỉ báng Phật pháp bị đọa vào trong đường địa ngục, ngạ quỷ biết bao nhiêu kiếp mới được trồi đầu. Do đó xét thấy, tham thiền cần phải gặp Thiện tri thức, nếu tự làm chủ tể đều dùng chẳng được.

Tham thiền nghi tình phát chẳng khởi, bèn nhận lấy cái mắt hay thấy, tai hay nghe, lưỡi hay nói, mũi hay ngửi, tay hay nắm, chân hay đi cho là một chân tánh linh của mình. Nhằm vào trong ấy suy lường cho là cửa ngộ, gặp người thì trợn mắt, nghiêng tai, tay chỉ, chân đá cho đó là Phật pháp, đây là tâm sanh diệt chứ chẳng phải thiền; cổ nhân gọi là như người mắc bệnh kinh phong.

Lại nói: Ở trên thiền sàng tương tự như làm trò quỷ, diễn tới diễn lui, diễn tới lúc tứ đại phân tán, ắt diễn chẳng được. Còn có một bọn người ác kiến cho đó là kỳ đặc trao truyền cho nhau, thọ nhận sự cúng dường của người mà không biết hổ thẹn, gặp người hỏi pháp thì hét to một tiếng, cười to một tràng. Trái lại chẳng biết từ xưa đến nay chưa từng tham cứu, mạng căn chưa cắt đứt, dẫu là việc thiện, đều là nghiệp ma, chẳng phải cứu cánh.

Tham thiền nghi tình phát chẳng khởi, bèn muốn làm công hạnh hữu vi, hoặc làm giải thoát, hoặc hành khổ hạnh, mùa đông chẳng hơ lửa, mùa hạ chẳng quạt mát. Người đến xin y phục liền cởi hết đem cho, cam tâm chết đói, cho đó là giải thoát. Còn nhiều điều nữa, chẳng thể nói hết. Tóm lại mà luận thì đều là bị cái tâm háo thắng sai khiến lừa gạt kể không biết. Kẻ không biết kia cho người đó là Phật sống, là Bồ tát, rồi suốt đời hầu hạ cúng dường. Trái lại, chẳng biết trong giới Phật gọi là nghiệp ác luật nghi tuy là trì giới mà mỗi bước kết tội. Lại có một bọn người thiêu thân, đốt tay, lễ Phật, cầu sám hối, cho đó là công khóa, đối với thế pháp thì đó cũng là việc tốt, song ở trong tham cứu chẳng có ích gì! Cổ Đức nói: "Cốt đừng ở trên cơ cảnh khác cầu". Lễ Phật là cơ cảnh, cầu sám hối là cơ cảnh, tất cả việc tốt trong Phật pháp đều là cơ cảnh. Chẳng phải tôi dạy ông chẳng làm tất cả việc thiện, song chỉ cần dụng tâm một chỗ thì tất cả việc thiện này đều hay trợ phát vun bồi thiện căn, mai kia con mắt đạo chợt mở, thì đốt hương, quét đất đều là Phật sự.

Tham thiền nghi tình phát chẳng khởi, bèn muốn ngông nghênh, hoạt bát, gặp người thì tự ca, tự múa, tự mừng, tự vui. Hoặc bên suối dưới rừng, ngâm vịnh nói cười. Hoặc nơi chợ búa phố phường đi ngang đi dọc tự cho là người xong việc, thấy Thiện tri thức mở tòng lâm, lập quy cũ, hoặc tọa thiền, hoặc niệm Phật, hoặc làm tất cả việc thiện thì vỗ tay cười lớn, sanh tâm khinh mạn, phỉ báng. Tự chẳng thể hành đạo, lại làm chướng người hành đạo. Tự chẳng thể tụng kinh lễ sám. Tự chẳng thể tham thiền, lại làm chướng người tham thiền. Tự chẳng thể khai mở tòng lâm. Tự chẳng thể thuyết pháp, lại làm chướng người thuyết pháp. Phàm có Thiện tri thức xuất thế, bày ra có vài câu vấn nạn ở trước chúng trời người, đáp hơn một câu, hỏi hơn một câu, hét một tiếng, đánh một tát. Thiện tri thức thấy người đó tương tợ như quỷ lộng, hoặc chẳng thèm biết tới, người đó bèn nói với mọi người rằng: "Thiện tri thức ấy chẳng hội cái đạo lý này. Khổ thay! Khổ thay!" Đây là tâm sanh diệt thắng lướt, lâu ngày ắt rơi vào đường ma tạo nghiệp lớn vô cùng, hưởng phước mà hết, bị đọa vào địa ngục vô gián. Tuy là nhân thiện mà chiêu lấy quả ác. Buồn thay!

Tham thiền nghi tình phát chẳng khởi, cảm thấy sống chung với bất tiện, quá câu thúc, quá phiền phức, bèn muốn vào núi sâu chỗ không có người để tịnh, hoặc nhập thất để tịnh. Ban đầu còn gắng làm chủ tể, nhắm mắt ngưng tâm, ngồi kiết già chấp tay hạ thủ công phu hoặc một năm, hai năm, một tháng, hai tháng chẳng thấy kết quả. Lại có một bọn người được hai ba ngày, ngồi chẳng nổi nữa, hoặc xem sách, hoặc ngông nghênh, hoặc làm kệ làm thơ, hoặc đóng cửa ngủ, ngoài hiện oai nghi, bên trong là trần tục. Lại có một bọn thiếu niên xấu, chẳng biết liêm sĩ, chẳng tin nhân quả, lén làm dâm dục, gặp người thì khua môi thả ý dối gạt kẻ không biết, tự nói: "Tôi đã từng gặp Thiện tri thức, tôi được pháp thượng nhân". Kẻ không biết tin nhận, cùng bọn đó qua lại kết làm bạn đạo, hoặc dụ làm đồ đệ, người trên làm kẻ dưới bắt chước, tự chẳng biết quấy, chẳng chịu phản tỉnh. Chẳng chịu gặp Thiện tri thức, dối tự tôn tự đại thành ra tội đại vọng ngữ. Bọn này thật là người đáng thương xót. Nay người chán đại chúng muốn ở thất riêng đâu chẳng kinh sợ ư? Nếu người chân chánh học đạo thận trọng chớ để nảy ra cái ý niệm này. Tốt nhất nên ở trong chúng tham cứu, huynh đệ cảnh giác nhau, dẫu chẳng ngộ đạo quyết cũng chẳng rơi vào lối này. Người học chẳng thể chẳng cảnh giác!
CHƯƠNG IV
CẢNH NGỮ KHAI THỊ
LÚC NGHI TÌNH PHÁT KHỞI
Tham thiền nghi tình phát khởi cùng lý Pháp thân tương ưng, thấy cả đại địa sáng suốt không có mảy lông chướng ngại bèn muốn thừa đương việc này, chẳng chịu buông tay, ngồi bên cạnh Pháp thân, do đây mạng căn chẳng cắt đứt, ở trong Pháp thân dường như có kiến địa, có thọ dụng. Trái lại, chẳng biết toàn là con chứ chẳng phải cha, cổ nhân gọi đó là "cách câu thân". Mạng căn chẳng cắt đứt, toàn thân là bệnh, chứ chẳng phải thiền. Đến chỗ này chỉ cần toàn thân ngộ nhập thừa đương cái việc lớn, cũng chẳng biết có người thừa đương. Cổ Đức nói: "Vực thẳm buông tay, tự nhận thừa đương, chết đi sống lại chẳng dối được ai". Nếu mạng căn chẳng cắt đứt, toàn là tâm sanh diệt. Nếu mạng căn cắt đứt rồi, chẳng biết chuyển thân nhả khí thì gọi là người chết, chứ chẳng phải cứu cánh. Mấy đạo lý này chẳng phải khó hiểu, chỉ tại hành giả chẳng chịu Thiện tri thức. Nếu gặp Thiện tri thức đụng nhằm chỗ đau lập tức biết đường về, bằng không thì vùi thây muôn dặm.

Tham thiền nghi tình phát khởi cùng lý Pháp thân tương ưng, khuấy đục thế giới được một đoạn thọ dụng như dậy sóng cuồn cuộn, hành nhân say đắm sự thọ dụng này, xô chẳng tới, kéo chẳng lui. Do đây, chẳng được toàn thân ngộ nhập như người nghèo gặp được một tòa núi báu, rõ ràng biết đó là vàng, song chẳng thể lấy dùng. Cổ nhân gọi đó là người giữ kho báu, toàn thân là bệnh, chứ chẳng phải thiền. Đến chỗ này chỉ cần phải màng nguy vong mới cùng Pháp thân tương ưng. Ngài Thiên Đồng nói: "Khắp cùng Pháp giới thành cơm cả, tha hồ chúi mũi ních cho no". Nếu chẳng tha hồ chúi mũi thì như ngồi bên thùng cơm mà chịu chết đói, ở trong biển cả chết khát, giúp được việc gì! Vì thế nói, sau khi ngộ cần phải gặp Thiện tri thức là điều rất gương mẫu. Nếu tự thừa đương việc này, chẳng chịu gặp Thiện tri thức nhổ đinh tháo chốt, đều là người tự dối vậy.

Tham thiền nghi tình phát khởi cùng lý Pháp thân tương ưng, thấy núi chẳng phải núi, nước chẳng phải nước, cả đại địa lấp bít không một kẻ hở bằng mảy lông, chợt sanh tâm suy lường dường như che chướng trước mặt, ngần ngại thân tâm, đề cũng chẳng khởi, đập cũng chẳng vỡ; khi đề khởi dường như có, lúc buông xuống dường như không, mở miệng nhả khí chẳng được, dời thân đổi bước chẳng được, chính ngay lúc ấy cũng chẳng được, đến chỗ này toàn thân là bệnh chứ chẳng phải thiền. Trái lại, cổ nhân dụng tâm thuần nhứt, nghi tình phát khởi thấy núi chẳng phải là núi, nước chẳng phải là nước, chẳng sanh tâm suy lường, chẳng khởi niệm khác, cứng cỏi bức bách; chợt một mai đập vỡ khối nghi, toàn thân là mắt, thấy núi vẫn y nguyên là núi cũ, nước vẫn y nguyên là nước cũ; sơn hà đại địa từ chỗ nào đến, tìm một mảy lông dấu vết ngộ trọn chẳng thể được. Đến chỗ ấy, cần phải gặp Thiện tri thức. Nếu chẳng gặp Thiện tri thức thì cây khô trước núi, trong đường tẻ lại có đường tẻ. Người nào đến đây mà chẳng dần dà, chẳng bị cây khô làm vấp ngã, thì Bác Sơn này cùng với người ấy kết bạn đồng tham.

Tham thiền nghi tình phát khởi cùng lý Pháp thân tương ưng, bèn trầm trầm, tịch tịch, thôi đi, nghỉ đi, một niệm vạn niên đi, đem nghi tình bỏ vào trong lý Pháp thân chẳng được thọ dụng, luôn chết đi không hồi hổ, không quản đới, không khí tức toàn bị tử thủy ngâm chết, tự cho là cực tắc, toàn thân là bệnh chứ chẳng phải thiền. Dưới hội Thạch Sương, người dụng công loại này rất nhiều, dẫu cho ngồi tịch đứng chết cũng chẳng được thọ dụng. Nếu nhận được kiền chùy, biết được đau ngứa, chuyển được thân, nhả được khí mới là người tham thiền. Nếu chẳng biết đau ngứa, tuy hội được câu Pháp thân, dẫu tọa đoạn mười phương, có dùng được cái gì? Ngài Thiên Đồng nói: "Tọa đoạn mười phương còn điểm trán, thầm dời một bước thấy rồng bay". Cổ nhân có nhiều cảnh ngữ dạy người, có nhiều cát đằng trao phó, tự người ấy chẳng chịu tham đến thấu triệt mà muốn bắt chước Thiện tri thức ở trong chỗ thiên quân vạn mã được ngàn tự do trăm tự tại, há chẳng phải là khó sao?

Tham thiền nghi tình phát khởi cùng lý Pháp thân tương ưng, ngồi chỗ lóng lặng chẳng lay động, sạch trọi trơn, không thể nắm bèn buông thân đi, chẳng biết được chuyển vị xoay cơ, nhằm chỗ này gắng gượng lập chủ tể, kẹt bên cạnh Pháp thân, toàn thân là bệnh chớ chẳng phải thiền. Ngài Động Sơn nói: "Núi hiểm cảnh lạ, hạc chẳng dừng ở. Cây linh khác thường, phụng không nương gá". Phải biết bốn chữ "núi hiểm cây linh" rất là huyền áo, chẳng phải cứng nhắc. Bốn chữ "chẳng dùng không nương" rất là hoạt bát, chẳng phải chết cứng một chỗ. Nếu chẳng tham cứu đến chỗ huyền áo ắt chẳng biết chỗ sâu của sự nhập lý. Nếu chẳng đến chỗ diệu của xoay cơ. Đạo nhân dụng tâm, dụng đến chỗ chẳng thể dụng, tốt nhứt nên gặp Thiện tri thức đập vỡ thùng sơn được chỗ triệt ngộ, đâu nên ôm cái ngu như ôm cây đợi thỏ, kẹt ở một bên, cam tâm làm con hạt trong lồng, con phụng rụng lông ư?

Tham thiền nghi tình phát khởi cùng lý Pháp thân tương ưng, trước mặt mơ hồ dường như có. Đem cái chỗ mơ hồ này nghi tới nghi lui định chắc cái tiền cảnh rồi tự cho là nhập lý Pháp thân, thấy được Pháp giới tánh. Chẳng biết những thứ này là do dụi mắt tạo thành, toàn thân là bệnh chứ chẳng phải là thiền. Nếu thật là người nhập lý thì thế giới rộng một trượng, gương xưa rộng một trượng, thân dọc ngang giữa vũ trụ, tìm căn, trần, khí thế giới trọn chẳng thể được. Lại lấy cái gì làm thân, lấy cái gì làm cảnh, lấy cái gì làm vật, lấy cái gì làm chỗ mơ hồ. Ngài Vân Môn cũng chỉ ra bệnh này trong một bài pháp ngữ dài. Nếu rõ được một bệnh này thì ba thứ bệnh kể trên đều tiêu hết. Bác Sơn tôi, thường bảo người học: Trong Pháp thân bệnh rất nhiều, chỉ cần bệnh nặng một phen mới biết được gốc bệnh, giả sử người khắp cả quả đất này tham thiền, chưa có một người nào chẳng bị bệnh Pháp thân, duy trừ người điếc, đui, câm, ngọng, mới chẳng ở trong phạm vi này.

Tham thiền nghi tình phát khởi cùng lý Pháp thân tương ưng, thấy cổ nhân nói: "Cả đại địa là một mắt của Sa môn, cả đại địa là một điểm linh quang của chính mình", lại dẫn lời trong Kinh nói: "Trong một hạt bụi bao hàm chân lý của vô biên pháp giới", bèn nhằm vào chỗ này lãnh hội, chẳng chịu cầu tiến, sống chẳng được, chết chẳng được, lấy tri giải này cho đó là ngộ, toàn thân là bệnh chứ chẳng phải thiền. Trái lại, chẳng biết dẫu cùng lý Pháp thân tương ưng, nếu chẳng thấu thoát thì toàn là lý chướng, đọa bên cạnh Pháp thân, hà huống bị cái tâm tri giải kéo dắt, chẳng thể nhập lý sâu xa, con khỉ này nắm chẳng chết nó chẳng chết đi thì làm sao được chết rồi sống lại! Phải biết, ban đầu phát khởi nghi tình cần phải cùng lý tương ưng, đã cùng lý tương ưng cần được chỗ thâm nhập; đã được chỗ thâm nhập cần phải hướng trên đầu núi muôn trượng nhào lộn, buông thỏng tay xuống tận đáy sông Chương mới là bậc đại nhân dụng tâm. Bằng không, đều là kẻ nắm lấy sự hư vọng, chứ chẳng phải người gieo giống nhà thiền.

Tham thiền nghi tình phát khởi cùng lý Pháp thân tương ưng, đi, đứng, ngồi, nằm như ở trong ánh sáng mặt trời, như ở trong bóng đèn, lạt lẽo không mùi vị. Hoặc toàn thân buông bỏ, ngồi đến lúc nước lóng ngọc sáng, lúc gió mát trăng trong, chính ngay lúc ấy, trong ý báo, chánh báo đều thành một phiến cảnh thanh tịnh linh lợi, tự cho đó là cứu, chẳng được chuyển thân nhả khí, chẳng được thỏng tay vào chợ, lại chẳng chịu cầu người quyết trạch. Hoặc hướng vào trong chỗ bạch tịnh riêng sanh ra niệm khác cho đó là ngộ, toàn thân là bệnh chứ chẳng phải thiền. Ngài Thiên Đồng nói: "Ánh sáng thanh tịnh chiếu vào mắt tợ như không biết đường về, rõ ràng chuyển thân hãy còn rơi vào địa vị". Bởi vì ánh sáng thanh tịnh chiếu vào mắt, há chẳng phải nước lóng ngọc sáng, gió mát trăng trong ư? Rõ ràng chuyển thân còn tiến được một bước chỉ cần bốn chữ "tợ mê, đọa vị" một ấn ấn định, hành nhân đến chỗ này, làm sao xử trí, chỉ cần có cuộc chuyển biến lớn, cầm một cọng cỏ dùng làm thân vàng một trượng sáu, cũng chưa là ngoài bổn phận. Bằng không, là đóng cọc trên đất chèo ghe, leo cây bắt cá, gọi là người không khí huyết, dẫu có đánh chết ngàn người muôn người cũng không có tội lỗi gì!

Tham thiền nghi tình phát khởi cùng lý Pháp thân tương ưng, ở bên cạnh Pháp thân sanh ý tưởng kỳ đặc, thấy ánh sáng, thấy bông hoa, thấy các thứ tướng lạ, bèn cho là chứng Thánh, đem những việc lạ này khoe khoang mê hoặc người, tự cho rằng mình đại ngộ, chẳng dè toàn thân là bệnh, chứ chẳng phải thiền.

Phải biết những cảnh tượng lạ này hoặc là vọng tâm của mình ngưng kết mà thành, hoặc là cảnh ma thừa sơ hở mà vào, hoặc là trời Đế Thích biến hóa hiện ra để thử. Vọng tâm ngưng kết, như người tu Tịnh Độ quán tưởng chẳng dời niệm chợt thấy tượng Phật, tượng Bồ tát… như trong kinh Lục Quán nói, đều cùng với lý Tịnh Độ hợp, chẳng phải là yếu môn tham thiền. Thừa sơ hở mà nhập, như trong kinh Lăng Nghiêm lúc năm uẩn không, tám hành nhân có chỗ chấp trước, ma liền theo ý mà hiện. Biến hóa hiện ra để thử, như lúc Bồ tát tu hành, trời Đế Thích hóa thân hiện ra quỷ không đầu, quỷ không ngũ tạng, Bồ tát tâm không sợ hãi. Đế Thích hiện thân mỹ nữ, Bồ tát không có tâm ái nhiễm. Lại hiện thân Đế Thích lễ bái rằng: "Núi thái có thể sụp, nước biển có thể cạn, khó có thể làm động tâm bậc thượng nhân kia". Cho nên nói: "Tội khéo của bọn người tà đạo kia có tận, còn cái chẳng thấy chẳng nghe của lão Tăng vô cùng tận". Nếu người thật sự tham học dẫu đao bén gí trước mặt, không chút động niệm, hà huống cảnh tướng không thật trong định ư? Đã cùng lý tương ưng ắt ngoài tâm không có cảnh, tâm năng quán, cảnh sở hiện còn đặt để ở chỗ nào?

Tham thiền nghi tình phát khởi cùng lý Pháp thân tương ưng, cảm thấy thân tâm khinh an, động chuyển thi vi chẳng ngăn ngại nhau. Đây là đạo chánh thiên giao nhau, tứ đại điều hòa thơ thới chốc lát như vậy, chẳng phải cứu cánh. Người không biết kia bèn buông bỏ nghi tình, chẳng chịu tham cứu tự cho là được đại ngộ. Trái lại, chẳng biết mạng căn chẳng cắt đứt, dẫu có thể nhập lý song toàn là thức tâm, vì dùng thức tâm suy lường, toàn thân là bệnh chứ chẳng phải thiển. Vì nhập lý chẳng sâu, chuyển thân quá sớm, tuy có tri giải sâu song chẳng được thật dụng. Dẫu được hoạt cú, tốt nhất nên đến bên suốt dưới rừng bão dưỡng hàm súc, điều thiết yếu là chẳng nên nóng nảy, muốn dạy người, dối trá tự tôn tự đại. Phải biết đầu tiên dụng tâm nghi tình phát khởi, lúc kết thành một khối chỉ đợi nó tự vỡ tung ra mới được thọ dụng. Bằng không hơi có tri giải nhập lý liền buông bỏ nghi tình, chỗ này quyết định là chết chẳng được, quyết định là tham chẳng triệt; một đời luống qua chỉ có danh tham thiền mà không thật tham thiền. Dẫu cho đến mức thỏng tay vào chợ đi nữa cũng chẳng ngại gì gặp Thiện tri thức. Bậc Thiện tri thức là đại y vương có khả năng chữa được bệnh nặng, là đại thí chủ hay cho như ý bảo châu. Điều thiết yếu là nên sanh cái lý tưởng tự đủ, chẳng muốn gặp Thiện tri thức. Phải biết chẳng chịu gặp Thiện tri thức là chấp cái kiến giải của mình. Bệnh lớn trong thiền không bệnh nào nguy hại hơn bệnh này.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.76 khách