Bát Nhã Trực Giải

Thảo luận tư tưởng thiền tông Việt Nam.

Điều hành viên: binh

Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bát Nhã Trực Giải

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 2. PHẦN GIẢI NGHI:
Hỏi: Bồ tát tu lục độ vạn hạnh mới chứng bồ đề, nay sao chỉ nói trí tuệ và dùng tinh tấn trợ giúp mà đến được cảnh giới bờ bên kia?

Đáp: Người có trí tuệ, tự biết thân tâm là hư giả, bốn đại vốn không, năm uẩn chẳng phải có, nên chỉ kiên cố trí tuệ mà chẳng yêu tiếc thân mạng, huống là tiền của, vật quí, siêng năng tu hành pháp Phật mà chẳng sanh nhàm mỏi, đó là chân thật bố thí.

Người có trí tuệ, biết thân là huyễn, không có ngã tưởng. Thân mình còn thế, thân người cũng vậy. Sáu trần ngoại cảnh đều là hoa đốm trong hư không. Đã biết là không hoa huyễn có thì chẳng còn phan duyên tham ái để khởi tâm thuận nghịch thương ghét sân si, ấy là chân thật trì giới.

Người có trí tuệ rõ biết thân tâm vô ngã, ngoại cảnh vô nhân, không mình không người tức là không có thị phi. Không mình không người thì ta đâu có nhục, huống chi ta cũng vô ngã thì ai mà chịu nhục, mà gọi là nhẫn nhục. Không mình không người nầy là chân thật nhẫn nhục.

Người có trí tuệ, chỉ dùng trí của mình tự chiếu soi, trong sốt mười hai thời ngày đêm chẳng quên tự chiếu soi. Thể chiếu soi hiện tiền tròn sáng độc lập, chẳng bị vọng trần làm mê hoặc, đó là chân thật tinh tấn.

Người có trí tuệ, chẳng bị trần làm mờ tối, chẳng bị vọng mê hoặc. Trí nhưtrời cao vốn sáng, tuệ như biển cả nguyên lặng, tuy động tịnh qua lại mà thể tánh linh giác vẫn lặng lẽ chẳng động, đó là chân thật thiền định.

Người có trí tuệ sáng suốt riêng soi, rõ ràng thường biết, thanh tịnh tròn sáng cùng khắp pháp giới. Người ngộ được như thế gọi là chân thật trí tuệ.

Thế nên biết y nơi trí tuệ thì lục độ vạn hạnh cho đến hết thảy Phật pháp đều đầy đủ ở trong đó. Thành thật mà nói thì Bát Nhã là mẹ chư Như Lai, thật đáng tin thay!

Cổ Đức cao tăng nói bốn câu kệ Bát Nhã đã giải thích xong.

Kinh Lăng Già chú thuyết bốn trí quán duy tâm thức là pháp quán chuyển tám thức thành bốn trí của Bồ tát Mã Minh, nói về ba tánh như sau:
  • - Chân như là Viên thành thật.
    - Nghiệp thức là Y tha khởi.
    - Chuyển thức, hiện thức và phân biệt sự thức là Biến kế chấp.
    • a. Dứt diệt tướng vô minh
    Ngũ nhãn thanh tịnh chẳng nhiễm tức là Tướng Tông chuyển năm thức trước làm Thành sở tác trí. Thành sở tác trí tức là năm thức nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân tuy chiếu cảnh mà chẳng nhiễm, như gương soi vật, chẳng nhận cũng chẳng chống, rõ ràng tròn sáng, tùy ứng liền hiện là Thành sở tác trí.
    • b. Dứt dị tướng vô minh
    Niệm không tướng khác, nên không có cái gì mà chẳng khắp biết, là chuyển thức thứ sáu thành Diệu quan sát trí.

    Diệu quan sát trí tức là ý thức không có niệm phân biệt, nên niệm không có tướng khác, tức là thức của năm căn trước cùng với ý thức thanh tịnh đồng sáng, tùy theo sáu trần đến liền hiện, biết khắp tất cả, ấy là Diệu quan sát trí.
    • c. Dứt Trụ tướng vô minh
    Niệm không tướng trụ, tức là niệm không kẹt vào tư lương đối với tướng của sáu trần, cho đến chẳng trụ sanh tử, chẳng trụ Niết Bàn. Động loạn tức sanh tử, tịch tịnh tức Niết Bàn. Nay đều lìa cả hai động và tịnh mà bình đẳng soi khắp thì tức chiếu mà tịch đó là chẳng trụ tướng động, tức tịch mà chiếu đó là lìa tướng tịnh. Tất cả các sự sanh diệt, có không, động tịnh, sáng tối, sắc không đều bình đẳng chiếu khắp, gọi là Bình đẳng tánh trí.

    Bình đẳng tánh trí, tức là chuyển thức thứ bảy thành Bình đẳng tánh trí. Do từ vô thủy đến nay thức thứ bảy bên trong chấp thức thứ tám làm ngã, ngoài chấp các pháp, ấm, nhập, xứ, giới v.v... năm ấm, bốn đại, sáu trần làm cảnh giới tự thọ dụng, gọi là pháp chấp. Nay quán các pháp chỉ do tâm hiện, nên biết trong ngoài chỉ do tâm, há lại đem tâm chấp lấy tâm! Nếu yêu trong ghét ngoài là tâm lại ghét tâm. Nhưng các pháp là do vọng tưởng huyễn hiện, trong ngoài vốn không, tuy có mà chẳng phải thật. Vì biết trong ngoài chỉ là tâm, nên không thương ghét, lìa cả hai chấp Ngã và Pháp ấy gọi là Bình đẳng tánh trí.
    • d. Dứt sanh tướng vô minh
    Chuyển tạng thức thức thứ tám thành Đại viên cảnh trí, tức là Như Lai tạng tâm là Tự giác thánh trí, là Niết Bàn diệu tâm. Thức nầy hiện ở nơi năm căn không lúc nào chẳng có, cũng gọi là chân như thức, ấy là Đại viên cảnh trí.

    Đại viên cảnh trí, tâm tánh vốn thanh tịnh, nhân bị vô minh huân tập, niệm che lấp, nay chỉ dùng chân như bình đẳng quán thì chánh niệm của ly niệm đồng hư không giới. Nên biết hư không tức tâm, tâm tức hư không. Tâm hư không là gương sáng tròn lớn không chỗ nào chẳng soi, tất cả ba cõi, bốn loài sanh, sáu đường cho đến cõi Phật ở mười phương, chư Phật Bồ tát tất cả hiền thánh đều là huyễn ảnh hiện trong gương tâm. Hãy lặng lẽ tự quán, đây là đạo lý gì?

    Tất cả các pháp chẳng ngoài tướng phần và kiến phần. Nhưng đều là do tự chứng phần của tạng thức chuyển biến, thật giống như hình ảnh hiện trong gương.
Hàn Sơn Tử nói:
  • Nam nhi đại trượng phu
    Tác sự mạc mãng lỗ.
    Kính đĩnh thiết thạch tâm,
    Trực thú bồ đề lộ.
    Tà đạo bất dụng hành,
    Hành chi chuyển tân khổ.
    Bất dụng cầu Phật quả,
    Thức thủ tâm vương chủ.

    Nam nhi đại trượng phu,
    Làm việc chớ lỗ mãng.
    Tâm sắt đá vững vàng,
    Thẳng bẳng trên giác ngạn.
    Đường tà chớ nên đi,
    Nếu đi càng cay đắng.
    Chẳng cần cầu quả Phật,
    Tự làm chủ tâm đăng.
KỆ CHUYỂN TÁM THỨC THÀNH BỐN TRÍ
THÀNH SỞ TÁC TRÍ
  • Ngũ căn viên trạm tánh hư minh,
    Trí cảnh thường quang độc diệu linh.
    Vạn tượng ư trung trình hữu tướng,
    Tịch nhiên giám chiếu oánh chân tinh.

    Năm căn tròn lặng tánh hư minh,
    Gương trí thường soi ánh sáng linh.
    Muôn tượng ở trong bày tướng có,
    Lặng yên soi chiếu rạng chân tinh.
DIỆU QUAN SÁT TRÍ
  • Ý thức duy minh niệm lự hưu,
    Ngũ căn tùy tức các châu lưu.
    Lục trần đối chí giai trung hiện,
    Quảng đại hàm dung diệu trí châu.

    Ý thức sáng ngời niệm lự tan,
    Năm căn theo đó dụng vô vàn.
    Sáu trần đối chiếu nguyên trong hiện,
    Trí ngọc nhiệm mầu rộng thênh thang.
BÌNH ĐẲNG TÁNH TRÍ
  • Niệm vô trụ tướng tắc tâm không,
    Bình đẳng viên minh tịch chiếu thông.
    Sanh tử Niết Bàn câu bất trụ,
    Đường đường độc lộ quách hư dung.

    Niệm không trụ tướng ắt tâm không,
    Bình đẳng sáng tròn tịch chiếu thông.
    Sanh tử Niết Bàn đều chẳng trụ,
    Sờ sờ bày hiện thái hư đồng.
ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ
  • Tạng thức như như hiện ngũ căn,
    Tùy thời chiếu ứng nhứt nguyên chân.
    Đản năng ly niệm hàm không giới,
    Nhứt thiết giai vi huyễn ảnh trần.

    Tạng thức như như hiện ngũ căn,
    Tùy thời chiếu ứng nhứt nguyên chân.
    Chỉ hay lìa niệm trùm không giới,
    Tất cả đều như bóng huyễn trần.
KỆ SÁU CĂN, BẢY ĐẠI

Tổ Trúc Lâm Điều Ngự, tựa rằng:

Sáu căn hư vọng đồng là Bồ đề diệu tâm
Bảy đại cùng khắp thảy đều Như Lai tạng tánh.

Thanh Đàm Đạo Tuân Minh Chánh thuật kệ rằng:

NHÃN KIẾN
  • Như bồ đào đóa hạ mi hoành,
    Viên bích lưu ly lưỡng diệu tình.
    Minh ám tương hình thành kiến thể,
    Sắc không tề hiện diệu căn tinh.
    Thanh hoàng xích bạch tùy cơ biện,
    Trường đoản phương viên giá lý sinh.
    Ký ngữ đương quan đồng tử giả,
    Song linh thị hiện tức tâm minh.
MẮT THẤY
  • Tựa trái bồ đào dưới mày ngang,
    Lưu ly hai khối ngọc sáng choang.
    Sáng, tối nương nhau thành kiến thể,
    Sắc, không đều hiện diệu căn quang.
    Xanh, vàng, đỏ, trắng tùy cơ biện,
    Dài, ngắn, vuông, tròn ấy vô vàn.
    Nhắn người nên quán đôi tròng mắt,
    Linh diệu phơi trần rõ tâm can.
NHĨ VĂN
  • Như tân quyển diệp Thủ Lăng đề,
    Quan Thế Âm Quan Tự Tại cơ.
    Động tịnh tương trình thành thính chất,
    Nhĩ hà hưởng ứng hiển căn tri.
    Thử phương giáo thể văn âm tịnh,
    Diệu pháp liên hoa trí tuệ trì.
    Lục nhập viên thông thường đệ nhất,
    Thiền môn Thích tử cộng quy y.
TAI NGHE
  • Như cuống lá mới Thủ Lăng đề,
    Quán Thế Âm, Quán tự tại cơ.
    Động, tịnh cùng bày thành thính chất,
    Xa, gần vang vọng hiển căn tri.
    Giáo thể phương này: văn âm tịnh,
    Diệu pháp liên hoa trí tuệ tri.
    Sáu nhập viên thông thường bậc nhất,
    Cửa thiền họ Thích thảy quy y.
TỸ KHỨU
  • Như song thùy trảo bình trung cư,
    Khổng lý linh quang giác tự như.
    Hô hấp nhiêu tha thông xuất nhập,
    Tỹ hương nhậm bỉ phổ tri tư.
    Chúng sanh tánh mạng huyền do tại,
    Nguyên khí châu lưu lại hữu tư.
    Hương tỹ bất lai hà sở thức,
    A Di Đà Phật hiện chân cơ.
MŨI NGỬI
  • Song song như như dáng duỗi móng tay,
    Trống rỗng linh quang giác tự khai.
    Hơi thở ra vào đều thông suốt,
    Mũi ngữi hương trần khắp biết hay.
    Tánh mệnh chúng sanh ngầm trong ấy,
    Nguyên khí châu lưu bởi có đây.
    Hương, tỹ chẳng đến, đâu chỗ biết,
    A Di Đà Phật hiện chân bày.
THIỆT THƯỜNG
  • Như sơ yển nguyệt bán viên hoàn,
    Điềm biến tương tham nhứt thể quan.
    Hàm đạm thường minh danh thiệt tướng,
    Ngữ ngôn liễu lý hiển căn nhan.
    Thánh phàm lý thú do tư đạo,
    Tông chỉ nhân duyên bản thị thuyên.
    Ẩm thủy tự đương tri lãnh noãn,
    Hà tu hướng ngoại mích tâm can.
LƯỠI NẾM
  • Như mảnh trăng non nửa vành cong,
    Nếm, vị hợp nhau một thể đồng.
    Mặn, nhạt rõ ràng là tướng lưỡi,
    Ngữ ngôn suốt lý tỏ bày xong.
    Lý thú thánh phàm đều diễn nói,
    Nhân duyên tông chỉ vốn đây thông.
    Uống nước tự mình hay nóng, lạnh.
    Cần chi hướng ngoại kiếm tổ tông.
THÂN GIÁC
  • Như yêu cổ tảng hiện hình dung,
    Căn thức y chi nhứt thể đồng.
    Ly hiệp tương ma thành xúc giác,
    Hàn ôn các dị biệt lai tông.
    Pháp Hoa Trì Địa xưng tiên chứng,
    Thuần giác di thân đốn ngộ không.
    Thường niệm tha vi chư khổ bản,
    Tánh không chân sắc thật vô cùng.
THÂN XÚC GIÁC
  • Hình dáng in như cái trống cơm,
    Căn thức cùng nương một thể đồng
    Ly, hợp chạm nhau thành xúc giác,
    Hàn, ôn mỗi mỗi chính nguyên tông.
    Pháp Hoa Trì Địa đầu tiên chứng,
    Thuần giác, quên thân đốn ngộ không.
    Luôn nhớ xúc kia là gốc khổ,
    Tánh không chơn sắc thật dung thông.
Ý TƯ
  • Như u thất kiến tự tư lương,
    Thống lãnh quần cơ tác chủ trương.
    Sanh diệt lưỡng đoan tương tục niệm,
    Hữu vô chư pháp giác tri tường.
    Sát na vạn lý đô phân biệt,
    Thuấn tức thời lai nhậm đoản trường.
    Thiện ác thành phàm bao quát tận,
    Đường đường tự tại pháp trung vương.
Ý NGHĨ
  • Trong ngôi nhà tối, thấy suy lường,
    Thống lãnh quần cơ nắm chủ trương.
    Sanh diệt hai đầu tương tục niệm,
    Có không các pháp giác tri tường.
    Sát na muôn dặm đều phân biệt,
    Chớp mắt ngay đây mặc đoản trường.
    Thiện ác thánh phàm bao quát cả,
    Đường đường tự tại pháp trung vương.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bát Nhã Trực Giải

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

ĐỊA ĐẠI
  • Thô vi đại địa, tế vi trần,
    Tánh sắc chân không bản chánh nhân.
    Thượng dục quần sanh tự tạo hóa,
    Hạ ngưng thành chất tải thiên nhân.
    Căn cai nha giáp mông thâm hậu,
    Động thực phi tiềm cảm đại ân.
    Hà phụ chúng sanh chân địa tạng,
    Đại tai! Vô lượng địa dư luân.
ĐỊA ĐẠI
  • Thô là đại địa, tế vi trần,
    Tánh sắc chân không vốn chánh nhân.
    Trên dưỡng quần sanh làm tạo hóa,
    Dưới ngưng thành chất chở thiên nhân.
    Mộng mầm gốc rễ luôn nhờ đó,
    Người vật muôn loài cảm đại ân.
    Gánh vác chúng sanh là địa đại,
    Lớn thay! Vô lượng địa dư luân.
THỦY ĐẠI
  • Tánh thủy chân không bản tự thanh,
    Châu lưu giác hải nhuận quần manh.
    Trừng trừng nguyệt hiện viên minh tướng,
    Trạm trạm quang hàm bích lục hình.
    Âm thấp bản vô, hàn bất hữu,
    Oánh trừng nguyên tịnh, trọc hà sanh.
    Không minh hà xứ thành ba lãng,
    Phi đạm phi hàm triệt thái thanh.
THỦY ĐẠI
  • Tánh thủy chân không vốn tụ thanh,
    Mênh mông bể giác gội quần manh.
    Long lanh ánh ngọc tuôn làn biếc,
    Vằng vặc trăng soi nét tròn vành.
    Ẩm ướt vốn không, hàn chẳng có,
    Lắng trong nguyên tịnh, trược nào sanh?
    Rỗng sáng nơi nao thành sóng cả,
    Chẳng nồng, chẳng nhạt ngất trời xanh.
HỎA ĐẠI
  • Chân không tánh hỏa bản nhiên minh,
    Biến chiếu hôn cù lợi chúng sanh.
    Tuệ diễm đà đà thông pháp giới,
    Thần quang thước thước đổng u minh.
    Gia gia hàm lại sanh tri kiến,
    Xứ xứ quân mông lãng thức tinh.
    Bất cộng thế tình duy nhứt tánh,
    Phi phiền phi nhiệt thả oai linh.
HỎA ĐẠI
  • Tánh hỏa chân không bản nhiên minh,
    Chiếu soi tăm tối lợi quần sanh.
    Tuệ diễm sáng bừng thông pháp giới,
    Thần quang chói rực suốt u minh.
    Người người nhờ đó sinh tri kiến,
    Chốn chốn thảy đều sáng thức tinh.
    Tình thế chẳng cùng, duy nhứt tánh,
    Chẳng phiền, chẳng nhiệt, thực oai linh.
PHONG ĐẠI
  • Tánh phong thanh tịnh biến hư không,
    Động tịnh đoan tùng nhứt niệm trung.
    Hữu tắc thanh đằng thành hữu tướng,
    Vô thời tịch mặc khởi vô phong.
    Thập phương bất ngại du hành tích,
    Tam giới du phòng xuất nhập tông.
    Phong tánh Đặc Ca quán tỹ tức,
    Phi sanh phi diệt chứng viên thông.
PHONG ĐẠI
  • Gió khắp hư không tánh sạch trong,
    Từ trong một niệm động tịnh sanh,
    Có ắt tiếng vang thành có tiếng,
    Không thì vắng lặng gió chẳng không.
    Mười phương dấu vết đâu là ngại,
    Ba cõi ra vào há chẳng thông.
    Phong tánh Đặc Ca hơi thở quán,
    Chẳng sanh chẳng diệt chứng viên thông.
KHÔNG ĐẠI
  • Vô biên vô tế đại vô cùng,
    Cắn cổ nhi kim bất cải dung.
    Quách nhỉ châu viên hà tướng trạng,
    Hồn nhiên khoát đạt khởi thù đồng.
    Thập phương chư Phật du kỳ nội,
    Lục đạo quần sanh diệc thị trung.
    Tuy bỉ ngoan hư tòng vọng hiện,
    Tánh không chân giác thật viên thông.
KHÔNG ĐẠI
  • Không ngằn không mé lớn vô cùng,
    Suốt cả xưa nay chẳng đổi dung.
    Cùng khắp tròn đầy đâu tướng trạng,
    Hồn nhiên rộng rãi há sai đồng.
    Mười phương chư Phật đi trong ấy,
    Sáu nẻo quần sanh cũng ở trong.
    Dù cái ngoan hư từ vọng hiện,
    Tánh không chân giác thật viên thông.
KIẾN ĐẠI
  • Lục nhập tuy thù nhứt kiến thành,
    Hư linh bất muội oánh chân tinh.
    Sắc thanh hương vị tề chiêu trước,
    Kiến giác văn tri cộng hiện hình.
    Minh ám khứ lai quán tự tại,
    Hữu vô viễn cận chiếu phân minh.
    Tuy nhiên kiến diệu du hư ế,
    Chân kiến linh tri bản tự thanh.
KIẾN ĐẠI
  • Sáu nhập khác nhau một kiến thành,
    Rỗng linh chẳng tối, sáng chân tinh.
    Sắc thanh hương vị đều soi tỏ,
    Hay biết thấy nghe thảy hiện hình.
    Sáng, tối, lại, qua quán tự tại,
    Xa, gần, không, có chiếu phân minh.
    Tuy nhiên kiến diệu còn lòa quáng,
    Chân kiến linh tri vốn tự thanh.
THỨC ĐẠI
  • Trí cảnh quang hàm ảnh vạn ban,
    Lục tinh thần dụng chiếu trần gian.
    Sắc không động tịnh đô minh biện,
    Đồng dị phương viên đẳng giác quan.
    Đại sĩ hồi tư thành Phật tuệ,
    Tăng nhân định thị tức tâm an.
    Long Hoa tam hội thời tương thức,
    Thỉ giác ngô tâm diệc cổ nhân.
THỨC ĐẠI
  • Gương trí sáng ngời bóng vạn ban,
    Sáu tinh thần dụng chiếu trần gian.
    Sắc không động tịnh đều rạng rỡ,
    Đồng dị tròn vuông thảy rõ ràng.
    Đại sĩ về đây thành Phật duệ,
    Tăng nhân ở đó tức tâm an.
    Long Hoa ba hội khi tỉnh thức,
    Mới biết tâm ta giống cổ nhân.
LỤC CĂN, THẤT ĐẠI DUY THỨC TỔNG QUI NGUYÊN KỆ
  • Lục căn thất đại bản đồng nhiên,
    Thiết vật tương vi biệt dị quan.
    Kiến hỏa sắc trần thành địa tướng,
    Văn ba thanh thủy hiện cung luân.
    Niệm động phong diêu tứ đại chủng,
    Ngoan si ám độn nhứt không hoàn.
    Cá trung duy thức sanh chư hữu,
    Thức tánh vô sanh giác bản viên.
KỆ SÁU CĂN, BẢY ĐẠI DUY THỨC ĐỀU QUI VỀ MỘT GỐC
  • Sáu căn bảy đại đồng bản nhiên,
    Bày vật tương vi phân biệt riêng.
    Thấy lửa sắc trần thành tướng đất,
    Nghe sóng nước trong hiện bóng thiên.
    Niệm động gió lay tứ đại chủng,
    Mờ mịt ngoan không trải vô biên.
    Thức ấy sinh ra thành các cõi,
    Tánh thức không sanh giác bản viên.

    • Hoàng triều Thiệu Trị năm thứ ba,
      nhằm năm Quí Mão (1843),
      tháng hạ, ngày lành soạn thuật
PHẦN THỨ BA: PHỤ LỤC
LẠC ĐẠO CA
LỤC TỔ HUỆ NĂNG

  • Lạc đạo ca! Lạc đạo ca!
    Xướng ngã bình sanh tự trác ma
    Ngũ hồ tứ hải phi vi quảng,
    Tam thập tam thiên vị vi cao.
    Nhứt phiến địa, ngũ mẫu điền,
    Niên niên canh chủng tính thiên nhiên,
    Thế gian vấn ngã tại hà xứ?
    Nam bắc đông tây tổng thị thiên.
    Nhứt thảo am, thắng già lam,
    Bát vạn thiền đồ nhựt dạ tham,
    Pháp cổ tài minh san nhứt đốn,
    Cá trung nhân ngã bất đam(13).
    Thổ giác trượng, qui mao phất,
    Nhược dục mích thời hựu vô vật,
    Bát phất thế gian địa trần ai,
    Tận phất bản lai thiên chân Phật.
    Nhứt tịnh bình, nhứt phó bát,
    Càn khôn cấn tổn vị vi khoát,
    Nhựt nguyệt tinh đẩu lý trung huy,
    Nhứt thiết nhân gian vi sinh hoạt.
    Địa vi tòa, thiên vi cái,
    Xuất nhập ưu du vô quái ngại,
    Nhậm tha thương hải biến thành điền,
    Thế giới hoại thời cừ bất hoại.
    Triêu triêu xướng, dạ dạ ca,
    Bất luận nhân gian phú dữ hào,
    Thanh bần lạc đạo chân khoái lạc,
    Bạch nhựt vô sự tọa bàn đà.
    Thiết ngưu canh, thạch nữ tiếu,
    Kỷ nhân thức đắc huyền trung diệu,
    Thử huyền huyền trung cánh vô huyền,
    Thử diệu diệu trung cánh vô diệu.
    Dã vô diệu, dã vô huyền,
    Cơ lai khiết phạn khốn lai miên.
    Nhược nhân hội đắc giá ban ý,
    Xúc xứ tiện thị thiên trung thiên.
    Nê ngưu hống, mộc mã tê,
    Khiêu xuất thiên nhai đạp vân thê,
    Thế gian vấn ngã hà xứ(14),
    Nhựt luân đông bạn nguyệt luân tê.
    Bất trích diệp, bất tầm chi,
    Đa thiểu diệu dụng thức giả hy,
    Mạc tương thế sự vi đoan đích,
    Bất tri bất ngộ hựu huyền vi.
    Học nhân hội đắc vô vi sự,
    Hiện đổ thiều thiều thanh thiên lộ.
    Chỉ khủng tâm tâm bất liễu,
    Hựu phạ nhân nhân bất ngộ,
    Ngã đẳng đương sơ đắc pháp thời,
    Văn tự hà tằng thức nhứt cú.
    Bất khán kinh, bất thức tự,
    Đản bả phiến tâm đạc hàn thử,
    Nhậm độc thiên chương dữ vạn chương,
    Bất hiểu chỉ thị nhà ngôn ngữ.
    Chư môn đồ, cùng Thích tử,
    Bất hội Như Lai chân tông thú,
    Tận tâm hướng thượng đạt huyền tông,
    Bất luận hiền ngu đô khuyến luận.
    Đạo ngô ác, ngô dã ác,
    Đạo ngô hảo, ngô dã hảo,
    Vô tư, vô lự, vô phiền não,
    Bất sân, bất hỷ, bất động tác.
    Tự gia tâm địa tự gia tu,
    Thiên đường địa ngục tự gia trác,
    Lai dã không, khứ dã không,
    Sanh tử huyễn như nhứt mộng trung,
    Bất tín đản khan đào lý thọ,
    Hoa khai năng hữu kỷ thời hồng.
    Sanh hữu nhứt, tử hữu nhị,
    Đô lai thế thượng tranh danh lợi,
    Nhậm quân mãi đắc vạn khoảnh điền,
    Tử hậu chỉ đắc tam bộ địa.
    Hoành lục xích, trường trượng nhị,
    Tử tế khán lai chân cá thị,
    Nhược nhân đới đắc tại điền khư,
    Ngô cảm vị quân lập bi ký.
CHÚ THÍCH:

(13) Câu này chúng tôi nghĩ rằng khắc bản sót mất một chữ (D.G.).

(14) Câu này chúng tôi nghĩ rằng khắc bản sót mất một chữ (D.G.)

KHÚC CA VUI ĐẠO
LỤC TỔ HUỆ NĂNG

  • Lạc đạo ca! Lạc đạo ca!
    Hát rằng: Ta tự dũa mài ta,
    Năm hồ bốn biển chưa là rộng,
    Tam thập tam thiên chẳng phải cao.
    Một miếng đất, năm mẫu điền,
    Mỗi năm cày cấy tín thiên nhiên, Nhân thế hỏi ta đâu chỗ ở,
    Bốn phương chẳng tự có trời riêng.
    Một am tranh, hơn già lam,
    Mỗi ngày tám vạn thiền đồ tham,
    Trống pháp vừa vang, ăn một bữa,
    Ngã nhân trong đó chẳng còn đam.
    Gậy sừng thỏ, chổi lông rùa,
    Bằng lúc muốn tìm không một vật,
    Chẳng phủi thế gian cát bụi mù,
    Phủi sạch bản lai thiên chân Phật.
    Một tịnh bình, một chiếc bát,
    Cấn tốn càn khôn chưa bát ngát,
    Nhựt nguyệt tinh tú trong đó soi,
    Tất cả nhân gian cùng sinh hoạt.
    Đất làm tòa, trời che mái,
    Thong thả ra vào không chướng ngại,
    Mặc cho biển cả hóa nương dâu,
    Thế giới hoại mà nó chẳng hoại.
    Sáng sáng hát, tối tối ca,
    Mặc kẻ sang giàu chẳng luận qua,
    Vui đạo quên nghèo sung sướng thật,
    Ngày ngày vô sự tọa bàn đà.
    Trâu sắt cày, gái đá cười,
    Mấy ai biết được diệu trong huyền,
    Huyền nầy trong huyền lại không huyền,
    Diệu nầy trong diệu lại không diệu,
    Cũng không diệu, cũng không huyền,
    Đói lại ăn cơm, mệt ngủ liền,
    Nếu người hiểu được ý như thế,
    Đối cảnh ngay đây Phật hiện tiền
    Trâu đất rống, ngựa gỗ hí,
    Nhảy đến ven trời đạp thang mây,
    Nhân thế hỏi ta đâu chỗ ở,
    Vầng đông vừa rạng, nguyệt về tây.
    Không vạch lá, chẳng tìm cành,
    Diệu dụng thế nào, ít kẻ rành,
    Chớ đem việc ấy làm manh mối,
    Chẳng ngộ chẳng tri lý diệu huyền;
    Học nhân hội việc vô vi nầy,
    Đường trời thăm thẳm lấp ngăn ngay,
    Chỉ sợ tâm tâm không liễu đạt,
    Người người chẳng ngộ đáng thương thay!
    Ta vừa đắc pháp lúc ban đầu,
    Văn tự chưa từng biết một câu.
    Chẳng xem kinh, chẳng biết chữ,
    Ấm lạnh chỉ dùng tâm đo thử,
    Dẫu cho có đọc ngàn muôn chương,
    Không hiểu chỉ là ngôn ngữ suông.
    Các môn đồ, cùng Thích tử,
    Chẳng hội Như Lai chân tông thú,
    Hết lòng hướng thượng đạt huyền tông,
    Chẳng luận hiền ngu khuyên tiến thủ.
    Nói ta ác, ta cũng ác,
    Nói ta hảo, ta cũng hảo,
    Không nghĩ, không lo, không phiền não,
    Không giận, không vui, không động tác,
    Tự ta tâm địa, tự ta tu,
    Thiên đường địa ngục, tự ta chuốc.
    Đến cũng không, đi cũng không,
    Sanh tử huyễn như giấc mộng cuồng,
    Không tin, thử ngắm cây đào lý,
    Hoa nở, bao lâu nhạt sắc hồng.
    Một là sanh, hai là chết,
    Danh lợi thế gian tranh được mất,
    Dẫu ông mua được vạn khoảnh điền,
    Chết rồi cũng chỉ ba thước đất.
    Ngang sáu thước, dài trượng hai,
    Xét suy kỹ lưỡng thật thế nầy,
    Ruộng đất nếu ông mang theo được,
    Ta dựng bia ghi việc ấy ngay.
ĐÀN KINH: Sư dạy đại chúng:

Tự sắc thân của người đời là thành; mắt, tai, mũi, lưỡi là cửa; ngoài có năm cửa, trong có một cửa ý. Tâm là đất, tánh là vua; vua ở trên đất tâm. Tánh ở thì vua còn, tánh đi thì vua mất. Tánh ở thì thân tâm còn, tánh đi thì thân tâm hoại. Phật nên nhắm vào trong tánh mà tìm, chớ hướng ra ngoài thân mà cầu. Tự tánh mê tức là chúng sanh, tự tánh giác tức là Phật. Từ bi tức là Quan Âm; hỷ xả gọi là Thế Chí; năng tịnh tức là Thích Ca; bình trực tức là Di Đà. Nhân ngã là núi Tu Di, tâm tà là biển nước, phiền não là sóng mòi, độc hại là rồng dữ, hư vọng là quỷthần, trần lao là loài cá trạnh, tham sân là địa ngục, ngu si là súc sanh.

Nầy thiện tri thức! Thường thực hành mười điều lành thì thiên đường tự đến, trừ nhân ngã thì núi Tu Di sụp đổ, khử bỏ tâm tà thì biển nước cạn khô, phiền não không thì sóng mòi dứt, độc hại hết thì loài cá trạnh bặt. Trên đất tâm của mình tánh giác Như Lai phóng ánh sáng lớn soi ra ngoài sáu cửa thanh tịnh hay phá được sáu cõi dục của chư Thiên. Tự tánh chiếu soi vào trong ba độc liền trừ, các tội địa ngục v.v... đồng thời tiêu diệt, trong ngoài sáng suốt chẳng khác Tây phương. Chẳng tu như thế thì làm sao đến nơi kia được.

Đại chúng nghe Sư dạy xong đều rõ ràng thấy tánh.
    • Hoàng triều Thành Thái năm thứ 15,
      Nhằm năm Quý Mão (1903), tháng Trọng Thu, ngày rằm
      Đệ tử chùa Bích Động,
      Tỳ kheo Thanh Thành sao lại,
      Tỳ kheo Thanh Đức phụng chép


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.25 khách