Vượt luân hồi vào Tịnh Độ

Thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì pháp môn niệm Phật.

Điều hành viên: binh, battinh

Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Vượt luân hồi vào Tịnh Độ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chương V
HÀNH TRANG CỦA HÀNH GIẢ NIỆM PHẬT
Người tỉnh thức như thấy trước mắt ánh sáng vàng tươi nhuận, quyện tỏa bao trùm muôn vật, biến tất cả chung quanh lấp lánh lung linh một màu vàng kim dễ chịu, tựa như tia nắng buổi bình minh.

Pháp tu, niệm danh hiệu Phật, không chỉ ước nguyện xây dựng một thế giới tương lai cho chính cá nhân hành giả, mà còn nhân duyên xây dựng một nguyện lực độ sanh như đức giáo chủ Phật A Di Ðà.

Có phải thế giới Cực Lạc hiện hữu từ nguyện lực đại bi của ngài! Vâng chính vậy, thì người nguyện sanh về Cực Lạc đã mặc nhiên thiết lập cho mình không khác ngài vậy. Người đã vãng sanh tất nhiên không thoái chuyển tâm giải thoát, và do tâm Bồ đề không thoái chuyển, lại đành bỏ mặc nơi mình đã từng đau khổ với muôn vàn chúng sanh?

Thật ra tất cả đều do tâm tạo; tâm tạo Ta Bà, tâm tạo Tịnh Ðộ; diệu dụng của Tâm thật khó nghĩ bàn. Thế giới Ta Bà là khổ, nhưng cũng có người vui sướng, thế giới Ta Bà là đau thương thù hận, nhưng ở đó đã xuất hiện biết bao vị Thánh nhân mà cõi trời phải mơ ước được gặp. Nhưng vì một ít Thánh nhân ví như đất dính vào tay của Phật Thích Ca, nên không thể nào tỉnh thức được tâm phiền trược của chúng sanh ví như đất đại địa. Thậm chí đến cả đức Phật là viên ngọc vàng, rực rỡ chiếu rọi khắp mười phương thế giới, còn chưa thể chan hòa rọi hết lượng số của chúng sanh đang phiền trược khổ đau (Phật có thể độ vô số chúng sanh chớ không thể độ hết chúng sanh).

Vậy thì tâm diệu dụng giải thoát, nhưng vẫn nằm sâu vào tiềm thức (A Lại Da) chân như, và nó phải được khơi dậy, phải được lay động mới trở về bản tánh chân như của nó, nghĩa là nó mới diệu dụng được sự tỉnh thức giác ngộ mà quay về Phật tánh, thành Phật không khác.

Bậc giác ngộ rõ biết tâm diệu dụng nên quyết thị hiện vào cõi Ta Bà nơi đau khổ mà không ngại chướng duyên, để làm công việc khơi dậy tánh giác cho chúng sanh.

Thị hiện vào Ta Bà, như đi vào cõi mê tình, vọng thức điên đảo để làm sáng ra ánh sáng chân như, chân thức - và chúng ta thực hành niệm Phật là chuyển di tâm thức vào một thế giới thanh tịnh trang nghiêm, không khác gì ánh sáng chân thức, chân như Niết Bàn. Cho nên dù diệu tâm vô hình không chướng ngại nhưng, nếu ta không nhờ vào lời dạy của Phật Thích Ca và nguyện lực của Phật A Di Ðà ta vẫn mãi sống nơi mê tình của vọng thức dù ở thế giới này hay bất cứ nơi đâu. Do đó nên hiểu, thế giới thô phù ô nhiễm ở đây là do vọng thức điên đảo biến hiện ra mà thôi. Thế thì cầu sanh vào thế giới thanh tịnh là việc cụ thể, cho dù thế giới đó cũng là do diệu tâm sinh ra; nhưng đây là một việc tối quan trọng, vì nơi đó ta khám phá ra được diệu tâm của ta giống như diệu tâm của Phật Di Ðà không khác.

Như không tin, ta thử tìm diệu tâm A Di Ðà nơi đây có được không? Nếu có, thì kính xin chúc mừng hành giả đó, vì hành giả đã thành Phật tại đây! Nhưng xin thưa, vì hiện còn giáo Pháp Phật Thích Ca thì ta không thể nào thành Phật tại đây. Vậy ta chỉ thành Bồ Tát mà thôi. Nhưng lại xin thưa, Bồ Tát nơi đâu cũng phải cầu mong gần gũi đấng Ðại giác (Phật), để tiếp tục học hỏi mà thành Phật như tất cả bằng chứng trong các kinh, thời kinh nào cũng có vô số Bồ Tát tham dự. Vậy niệm Phật ở đây để thành Bồ Tát, sao không cầu niệm Phật sanh về Cực Lạc cũng là Bồ Tát, nhưng gần đấng Ðại giác A Di Ðà có sướng hơn không!

Bây giờ người tỉnh thức đã an tâm vững chải, ổn thỏa nghi vấn cõi lòng, nên bắt đầu thiết lập hành trang cho việc Niệm Phật.

Có ba hành trang mà người tỉnh thức phải mang theo, cho đến khi về nơi Liên cảnh.

Thứ nhứt là Tín, thứ nhì là Nguyện và thứ ba là Hành.
  • Hành trang thứ nhứt
Tín là niềm tin, tin vào một sự việc, sự kiện, vấn đề, là thật hay giả. Tín không đủ tiềm lực mạnh mẽ, tất việc làm không thể thành tựu như ý.

Người tỉnh thức đến đây, đã có đủ niềm tin. Không phải chỉ tin cõi Phật A Di Ðà là thật, người tỉnh thức còn tin: vũ trụ có hằng hà sa số cõi Phật ở mười phương đang hiện hữu và, đang diễn ra những diệu âm giải thoát, những diệu cảnh huy hoàng, những chân thức tuyệt đối, những chân như vô ngại và lìa khỏi ngôn ngữ diễn bày của chúng sanh.

Ðiều cơ bản niềm tin đó sẽ không thay đổi cho đến khi hành giả niệm Phật sanh về cõi Phật, và chắc chắn khi sanh về đó, hành giả lại có niềm tin mãnh liệt hơn nữa! Vì sao? Vì hành giả sẽ phát tâm vân du cúng dường chư Phật ở mười phương.

Bên cạnh niềm tin mãnh liệt tuyệt đối như vậy, người tỉnh thức lại giựt mình khi tin rằng vô số thế giới đang đau khổ cũng đã hiễn bày ra đó. Vì có thế giới tịnh ắt có thế giới ô nhiễm; có thế giới vui như Cực Lạc, hẳn có thế giới phiền hà đau khổ như sáu cõi luân hồi.

Ngay thế giới Ta Bà này, kẻ tỉnh thức phải hốt hoảng, khi mục kích những loài thú vật sống trong sự đe dọa đầy đọa của loài người, lại còn bị đe dọa với thiên nhiên vũ trụ. Ðau khổ nầy ập lên đau khổ khác. Chúng chẳng thể nào biết được, thế giới chúng đang ở, còn có thế giới loài người, là loài thông minh, hạnh phúc hơn chúng gấp triệu lần; nói cả triệu lần hạnh phúc, là ý nghĩa con người có cơ hội vươn lên những thế giới còn đẹp hơn vô số lần cõi Ta Bà nầy.

Dù với cặp mắt chúng, vẫn thấy loài sinh vật hai chân lạ lùng đang sai khiến mình, nhưng cái thấy vô trí (ví con số thông minh hết sức hạn hẹp) của loài súc sanh, chỉ biết giới hạn qua hiện tượng hình ảnh cử động mà thôi. Ôi thật tội nghiệp!

Nhìn chung lại, không một con vật nào mà không khổ trong cõi phiền trược nầy; dù là con vật nuôi trong nhà được cưng chìu hay được tự do bay, lội, chạy, nhảy giữa thiên nhiên. Nhưng có lẽ và chắc chắn, khổ đau nhất là chúng không thể nào biết được Phật pháp!

Nếu duyên lành nào, được chủ nuôi là người thực hành Phật pháp, rồi bố thí kinh cho chúng nghe thì con vật này quả là đại phước. Chúng sẽ kết được duyên đời sau; mặc dầu không hiểu lời kinh, nhưng do linh diệu, thần lực nhiệm mầu của kinh sẽ giúp chúng ghi nhận được. Tuy nhiên số con vật được như vậy, giống như một giọt nước nhiễu trên ngón tay so với nước đại dương.

Riêng con người, cảnh khổ hiện ra cũng lắm đau buồn, khiếp hãi.

Nỗi đau khổ về thân bệnh day dưa, khổ vì tật nguyền bất lực, khổ vì nghèo đói cơ hàn, khổ vì địa vị thấp kém, khổ vì thất học dại khờ, khổ vì tình cảm yêu thương, khổ vì tình thù dằn vặt, khổ vì ý nguyện bất thành và còn rất nhiều nữa. Những đau khổ nầy thuộc cả hai, thể chất và tinh thần. Ðây là cụ thể hiển hiện mà người tỉnh thức trực diện trải qua, chớ không phải nghe ai kể lại(1).

Như thế, cảnh giới Ta Bà này đâu cần đức Phật Thích Ca buộc chúng ta phải tin là khổ! Sự thật hiển nhiên này rõ ràng hiện chân ra đó! Tuy thế rõ biết nguyên nhân và tận nguồn gốc khổ chỉ có Phật mới rõ, nên dạy cho ta. Phật dạy rõ khổ phát xuất từ Tham, Sân Si, và cảnh giới ô nhiễm như vậy cũng từ duyên khởi của ba độc này.

Con người (chánh báo) thế nào hoàn cảnh (y báo) thế đó. Vì do một cộng nghiệp vọng thức Tham, Sân, Si khổng lồ nên kết thành một thế giới to lớn đủ chứa vô số những vọng tình ô nhiễm, rồi hình thành một thế giới dục (dục giới), là thế giới Ta Bà chúng ta đây.

Có thể nói bất cứ chúng sanh nào (trừ chúng sanh đã và đang chứng đạo giải thoát), mang hình thù chi, hễ ngụ ở Ta Bà là vọng tình ô nhiễm. Nhưng hỏi tại sao phải đủ loại hình chúng sanh?

Là vì nghiệp thức điên đảo, vì phiền não vô minh nên tạo tác vô số NGHIỆP, để quả báo hiện thành vô số hình tướng. Ðó là chân lý, là cảnh tượng sự thật trước mắt, mà ta vừa là nạn nhân vừa là nhân chứng.

Thế thì sự thật nơi đây, thế giới này ta đã tin trăm phần trăm lời Phật dạy, thì cảnh giới Cực Lạc cũng do Phật nói ta lại há không tin.

Nếu Phật không xuất hiện, cái khổ Ta Bà nầy ta phải mù mờ chịu đau khổ mãi, mà chẳng bao giờ biết khổ là do đâu! Và dù biết khổ chăng nữa, ta chắc chắn cho rằng chỉ có loài người khổ, chứ không biết còn vô số chúng sanh khác còn khổ hơn ta - từ đó là nguyên nhân nghiệp sát chất chồng, để kết quả không bao giờ thoát lên cảnh giới tươi sáng huy hoàng được.

Ngày nay con người đang sống vào thời đại có thể nói hoàng kim của văn minh điện tử, thì việc củng cố niềm tin thế giới Cực Lạc lại dễ dàng hơn! Ðây há không phải đại duyên biết được pháp tu niệm Phật ở thời đại này!

Phải nói rằng dù thời tượng pháp nhiều người niệm Phật vững vàng được vãng sanh, nhưng niềm tin của họ chỉ đơn thuần tin Phật, mà khó giải thích Thế giới Cực Lạc bằng kiến thức văn minh thời đó. Do thế chỉ lấy sự tu hành làm chứng có thế giới Cực Lạc (tức là vãng sanh), riêng về phần lý giải khó được người tin. Với hiện nay, vừa lấy sự niệm Phật vãng sanh làm chứng, vừa lấy kiến thức xã hội con người ngày nay làm chứng.

Minh chứng kiến thức ngày nay là ngành thiên văn học.

Ngày nay nhìn lên bầu trời con người đã không thấy xa lạ như con người cách đây một ngàn năm; ngày nay con người có thể phóng phi thuyền lơ lững ở ngoài trái đất cả tháng trời để thám hiểm nhìn ngắm không gian vũ trụ; và ngày nay dưới mắt các nhà khoa học thiên văn, họ xem mặt trăng cũng chẳng khác gì một tỉnh lỵ ở không gian, có thể dụ lịch thường xuyên chẳng trở ngại gì. Sự kiện được như vậy là do con người đã lên thăm mặt trăng từ hơn ba thập niên qua(2); và so với kỷ thuật không gian ngày nay thì thời điểm đánh dấu vàng son đó chỉ là một chuyến đò nhỏ vượt qua con sông thật ngắn.

Ngày xưa con người cứ tưởng chỉ có thế giới này (trái đất) số một, còn lại tất cả chỉ là những hộ tinh (hành tinh phụ quay quanh theo) quay chung quanh; kể cả mặt trời cũng chẳng làm được gì!

Nhưng rồi chẳng bao lâu các Thiên văn gia khám phá ra sự thật, thế giới chúng ta chỉ là một trong nhiều thế giới giữa vũ trụ mênh mông nầy. Thiên văn gia nói là nhiều chớ không nói vô số, vì có thể xấp xỉ đếm được, đó là đầu thế kỷ 19 với viễn vọng kính (telescope) tương đối kỹ thuật cao.

Bây giờ thì không còn đếm được nữa, khi viễn vọng kính hiện đại càng phóng xa bao nhiêu, thế giới muôn hình hiện ra càng nhiều chừng nấy. Ấy vậy khoa học vẫn nói là hàng tỉ; hàng tỉ cũng có thể mường tượng là trăm ngàn tỉ cũng quá nhiều, tuy nhiên với Phật dạy, phải dùng đến "hằng hà sa số". Hằng hà sa số là biểu tượng đến cát sông Hằng (Hằng tên sông, hà nghĩa là sông), vậy nhiều như cát sông Hằng, thế thì đếm làm sao được! Nên gọi bất khả thuyết!

Ðó là lời Phật dạy từ xưa (cách đây hơn 2600 năm), và thiên văn học ngày nay mới biết, hay biết sớm nhất, cũng khoảng đầu thế kỷ 19 (đầu thế kỷ 19 mới tạm đủ phương tiện nghiên cứu).

Ngành Thiên văn cho biết, chỉ trong dãy ngân hà Milk Way thôi, đã có đến hàng trăm tỉ ngôi sao mặt trời, và "mười tỉ hành tinh giống như hành tinh của thái dương hệ"(3). Trái đất chúng ta thuộc thái dương hệ nằm trong Ngân hà này. Nhưng Khoa học lại cho biết, vũ trụ có vô số ngân hà với những dạng hình khác nhau như: hình bánh xe, hình con bướm, hình nước xoáy, hình thai tạng, hình đám mây, hình bông hoa, hình chim phượng, hình con cua v.v... và cứ mỗi ngân hà (Galaxy) lại lớn nhỏ không đồng; có ngân hà đây lớn gấp trăm lần ngân hà kia, và mỗi cái lớn nhỏ đều chứa ít nhất ngàn triệu hay trăm tỉ ngôi sao.

Một điều tất nhiên, các ngân hà, thiên hà lớn như vậy chúng phải cách nhau một khoảng cách cũng khá xa!

Nói đến khoảng cách thật khó mường tượng nổi, bởi chúng ta chỉ quen đo lường trên bề mặt hay bề cao của một vật trong giới hạn tương đối, đằng này là không gian, lại vượt khỏi hành tinh mình đang sống! Tuy nhiên, văn minh khoa học thiên văn đã tính được phần nào, và tất nhiên cũng có giới hạn.

Từ trái đất chúng ta đến mặt trăng, khoa học tính được khoảng 384.400 cây số (kilometre), đây thì quá gần rồi! Từ mặt trời đến trái đất khoảng cách tương đối là 93,000,000 dặm (mile) tương đương 150 triệu cây số, và sức khoa học vẫn cho là gần. Nhưng từ Thái dương hệ nầy đến thái dương hệ khác khoa học tính bằng quang niên (danh từ Ðơn vị thiên văn - Astronomical Unit) tức theo ánh sáng đi một năm. Một quang niên(4) bằng 5.88 tỉ dặm.

Chẳng hạn Thiên hà hình sông M81 cách xa trái đất 10 quang niên; đó là đại khái thấy từ ngân hà nầy đến ngân hà kia là xa như vậy. Nhưng vũ trụ lại có vô số ngân hà chưa biết được, vậy vũ trụ sẽ lớn chừng nào?

Thế thì điều ta tin, chỉ có trái đất chúng ta là có chúng sanh còn vô số hằng hà sa thế giới khác không thể nghĩ bàn, thì sao?

Ta sẽ như đứa bé mẫu giáo cầm trên tay cuốn sách đại học!

Vậy kết lại, những gì Phật dạy đã vượt xa khoa học; tuy nhiên, cũng nhờ khoa học nhất là ngành Thiên văn đã chứng minh được một sự thật, có vô số thế giới trong vũ trụ mênh mông - và thế giới Phật A Di Ðà cũng chẳng còn gì lạ, trong khi vũ trụ có hằng xa số cõi Phật.

GHI CHÚ:

(1) Những nỗi khổ căn bản nhất của con người, được nhà Phật dạy là Bát khổ: Sanh, Lão, Bệnh, Tử, Ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ.

(2) Ngày 20 tháng 7 năm 1969, Phi hành gia Hoa Kỳ lần đầu tiên đặt chân lên mặt trăng, đánh dấu kỳ tích thành công nền văn minh nhân loại (Phi thuyền lịch sử đó mang tên Apollo 11).

(3) (The) Milky Way: Giải Ngân Hà. Là một tập hợp của những Hành tinh và Thiên Hà, gồm có 400 tỉ Sao Mặt trời (Star-like planets). Và 10 tỉ Hành tinh giống như những Hành tinh của Thái Dương Hệ. Chiều dài bằng 100,000 quang niên (một quang niên bằng 5.898 tỉ dặm)...

Ðịnh nghĩa trên được trích từ sách "Ðạo Phật Siêu Khoa Học", của Minh Giác Nguyễn Học Tài, trang 366.

(4) Quang niên (năm ánh sáng): Ánh sáng truyền đi trong chân không 186,000 dặm hay 300.000, cây số trong một giây đồng hồ. Một quang niên bằng 5 tỉ 88 dặm. (Ðạo Phật siêu Khoa học - Minh Giác Nguyễn Học Tài, trang 169).


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
Thánh_Tri
Điều Hành Viên
Bài viết: 3851
Ngày: 21/12/07 21:02

Re: Vượt luân hồi vào Tịnh Độ

Bài viết chưa xem gửi bởi Thánh_Tri »

Thế nào là vượt luân hồi vào tịnh độ?

Luân hồi tức là vòng samsara của tâm thức hư vọng sanh diệt vô thường giết người trong mỗi niệm.

Tịnh độ tức là tâm thể thanh tịnh tròn sang (tạm gọi giả danh) kỳ thật không thể dùng tâm thức phàm phu mà suy lường được, bởi Tịnh Độ hay Chân Tâm vượt ngoài sự suy lường của khói óc võ não. Còn kẹt ở vòng samsara vọng thức thì không thể hay biết suy lường được cảnh giới chân tâm tự tánh.

Do vậy vượt luân hồi là vượt thoát khỏi vòng tâm thức hư vọng mà ta đang sống hằng ngày. Vào Tịnh Độ là xoay trở về với tự tâm bản tánh mà nhiều kiếp mình đã lảng quên.

Do vậy "Nam Mô A Mi Đà Phật" nghĩa là Con xin nguyện quay về với đức Phật A Di Đà, ngài chính là Tự Tánh nơi con mà nhiều nhiếp con đã lảng quên.

"Nam mô" là xoay trở về. "A Di Đà Phật" là Tự Tánh Thường hằng sáng suốt, hay cũng gọi là Chánh Biến Tri (cái biết cùng khắp).

Chỉ có khi nào ta thật sự xoay trở về thấy được Tự Tánh nơi mình, thì lúc đó ta mới có thể nói "Vượt Luân hồi vào tịnh độ".


"Tri Kiến Lập Tri Tức Vô Minh Bổn
Tri Kiến Vô Kiến Tư Tức Niết Bàn"

- Kinh Thủ Lăng Nghiêm
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Vượt luân hồi vào Tịnh Độ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Thật không thể tả được nỗi mừng khi Phật Thích Ca dạy niệm Phật nhất định sẽ sanh về thế giới Cực Lạc.

Xác định hiện hữu thế giới Cực Lạc chuẩn bị hành trang làm niềm tin tìm về, ta mới có vài quan sát nhận định trên; nhưng để có một khái niệm về thế giới thật nhỏ ta cũng cần nêu ra để thấy rằng với trí huệ của Phật, không một thế giới nào ra ngoài huệ nhãn của Ngài. Ðiều này lại giúp ta vững vàng thêm niềm tin Cực Lạc.

Ðúng như vậy, nếu ta cho Phật chỉ nói những gì cao xa khó thấy, thì khi Phật nói những gì gần gũi bên cạnh ta, và ngay cả trước mắt hay trong người chúng ta, ta cũng chẳng thấy nốt!

Phật nói về vi trùng, là những chúng sanh thật nhỏ, nhỏ đến nổi mắt thường không thấy được, phải nhờ đến kính hiển vi (microscope).

Phật nói thế nào! Phật dạy, hãy nên chú nguyện mỗi khi uống nước, phải ý thức mỗi khi di động, tránh vô tình sát hại chúng sanh. Duyên cớ đó mà một lần vài tháng trong mỗi năm, Ngài dạy đại chúng đệ tử nên lưu lại trú xứ, giảm chế việc di chuyển khất thực, hoặc Phật sự bên ngoài vì thời tiết côn trùng sinh nở. Ðó là truyền thống định kỳ an cư kiết hạ Phật chế ra.

Ly nước sạch trong có thể uống được mà Phật còn thấy vô số vi trùng, thử hỏi sau trận mưa dầm, đất cát sền sệch ứ đọng móc meo thì đừng nói chi vi trùng, vô số sinh vật lớn hơn vi trùng cũng đã tràn ngập; vậy dưới huệ nhãn từ bi của ngài đành nào dẫm đạp, khi chứng kiến quá rõ ràng vô số chúng sinh đang đau khổ.

Ðó là thế giới hữu tình cực nhỏ. Ðến thế giới vô tình, thuộc vật chất cực nhỏ, lại càng cho thấy huệ nhãn của Phật không chỗ nào giấu che được.

Trong giáo lý giải thoát, chúng ta hẳn biết mọi vật đều do nhân duyên sinh. Nói về vật chất, tất cả do vô số nguyên tử kết thành. Tùy vào duyên ra sao vật chất đó sẽ tồn tại tương xứng. Nhìn cái bát bằng sành, cái ly bằng thủy tinh sẽ biết tuổi thọ quá ít oi so với cái chuông đồng hay thanh sắt. Tuy nhiên, những nguyên tử cấu tạo nên những vật nào, đều có thời gian hữu hạn của nó, thành ra sau thời gian ngắn hoặc dài, chúng cũng phải ra đi để kết vào duyên khác, tức đồng phải rỉ, và sắt cũng sét tiêu.

Những nguyên tử nhỏ như vậy, khoa học phải nhờ phương tiện kỹ thuật hiện đại phân tích chứng minh và điều đó được thấy qua năng dụng của nó; lại khi tiến đến cực nhỏ, nhỏ hơn nguyên tử nhiều nữa, bây giờ nó có tên khác; nhưng dù đặt tên chi, cũng không làm khoa học ngỡ ngàng cho bằng, mức độ càng quá nhỏ đó, không biết chúng có thật hay không ! Vì độ nhỏ của chúng đến mức khó thể quan sát tin được(5).

Thế thì tại ta không thấy được, chớ nào đâu không có!

Vật nhỏ thì thuật ngữ của kinh đã nhắc qua gọi là vi trần, cực vi trần... Và nhỏ đến nổi, mà ta há chẳng nghe "Sắc bất dị không",(sắc chẳng khác không) tức hình sắc kia nào đâu phải thật, chúng chỉ do vô số cực vi nguyên tử kết thành, và tự mỗi nguyên tử đó cũng phải bị hư hoại, thế cái Có như vậy đâu khác gì Không (không thật có)!

Tóm lại, đó là những chướng ngại của những người chưa chứng đạo như chúng ta, nên cái thấy từ xa đến gần đều chẳng hoàn bị, và sẽ không bao giờ hoàn bị, trừ khi ta được huệ nhãn như Phật.

Niềm tin về thế giới Nhiễm, Tịnh đã có căn cứ, đến đây niềm tin có được sanh về thế giới Tịnh (Cực Lạc) hay không!

Qua những điều dẫn chứng, sự thấy biết của đấng giác ngộ, so với hiểu biết con người phàm phu; chúng ta thấy rằng, xưa hay nay nếu chưa chứng đạo vẫn là cái thấy phiến diện, cái biết nhị biên(6), do thế cái thấy của người chưa chứng đạo thật là mù mờ, hạn hẹp.

Tuy nhiên con người ngày nay, dù không duyên thấy đấng giác ngộ, hay gần chư Thánh Tăng, nhưng lòng tin Phật pháp và sự kiểm chứng theo nền văn minh tiến bộ của loài người, khiến ta không những thoái tâm bồ đề mà còn xác định lập trường giải thoát của giáo lý Phật đà vững chãi hơn.

Kết lại mà nói, thế giới Tịnh và thế giới ô nhiễm thật sự đã hiện hữu.

Phật và hàng Bồ Tát là nhân chứng thế giới Thanh tịnh, và chúng ta những người còn ô nhiễm phiền não là chứng nhân của thế giới uế tịnh này.

Nhưng Chư Phật, Bồ Tát là quả của nhân tu chứng từ chúng sanh; thế thì thế giới Thanh Tịnh, tức thế giới Phật chỉ là thế giới tương lai cho chúng sanh sinh về mà thôi. Vậy còn gì phải thắc mắc có được sanh về hay không!

Huống chi chính kim ngôn của đấng Ðại giác xác nhận cho ta điều này. Quả là Phật đại từ đại bi, việc hiển nhiên như thế mà ngài vẫn thương chúng sanh mà nhắc nhở.
  • Hành trang thứ hai
Nguyện là khắc ghi vào tâm một tư duy, một ý tưởng, một hoài bão, một ước ao... để rồi tha thiết chân thành, cảm kích trọn đời sự việc đeo đuổi đó.

Cuộc đời thật rối ren, phức tạp, con người phải vất vả đương đầu vượt qua, tuy nhiên mỗi người trong mỗi hoàn cảnh đều thao thức ưu tư nuôi dưỡng ý niệm lẽ sống cho mình; chính nhờ như thế tạo nên thế giới biệt lập cho riêng mình (thế giới riêng) mà ung đúc nuôi dưỡng lẽ sống năng động hơn.

Từ đây, có một số người thao thức chung một ý tưởng, một tư duy, hóa thành dòng sống nhịp nhàng đồng điệu làm đẹp cho đời. Ðó là sự hình thành các tổ chức, hội đoàn, đoàn thể chuyên môn về một chức năng phục vụ đời sống, cho đến vấn đề tinh tế như triết lý, siêu hình qua hình thức gọi là tôn giáo đạo giáo vậy.

Lẽ đó khách quan mà nhìn, tác dụng của ý tưởng, tư duy có một sức mạnh ảnh hưởng đến nhân sinh vũ trụ. Và tất nhiên nhân sinh và vũ trụ quan của một số người nào đó sẽ trở thành tốt hay xấu đều do nhận thức hiểu biết riêng của một số người.

Hành giả tu niệm pháp môn nào, tất phải tha thiết pháp môn đó; tha thiết bằng lời hay hành động, tùy theo sở năng của mình. Sự tha thiết bằng lời, khiến hành giả ca tụng tán dương, nhưng ca tụng tán dương là để phô diễn điều ưa thích hướng đến bên ngoài, và điều mà hành giả phải ca tụng tự trong sâu thẩm của tâm hồn đó là NGUYỆN vậy.

Hẳn nhiên có phô diễn được bên ngoài cũng do bên trong, nhưng ở đây chưa thể gọi là nguyện. Vì nguyện thường tự đeo đuổi mãi trong lòng, cho dù sự nguyện đó có được phô diễn hay không phô diễn, tâm nguyện vẫn không chấm dứt, không ngừng nghỉ, thành ra nó phải là sâu nhiệm.

Nguyện chân thành tha thiết, là hòa nhịp vào hết cả thân tâm, không phải bị một chướng ngại gì làm rung chuyển. Có nghĩa, thân trong tình huống hoàn cảnh nào vẫn luôn giữ lời nguyện, không làm sai trái phản lại.

Tất nhiên thân giữ được lời nguyện là do tâm. Nhưng nên cẫn thận vì cũng dễ thấy; nhiều khi Tâm vẫn giữ nguyện mà thân chẳng làm! Do vậy công phu giảm sút đạo lực yếu dần.

Tại sao Tâm có nguyện mà thân chẳng thể hiện! Vì không tha thiết. Không tha thiết nên chỉ có nguyện bằng âm thanh nơi khí quản, nên không khác âm thanh đối thoại hằng ngày! Dù vẫn có tác dụng tạo ra công đức, nhưng không đủ lực thu kết lại con đường đi tới mau hơn. Do đó người ta thường châm biếm là nói suông chẳng làm; ở đây là nguyện rỗng chẳng có cảm ứng!

Nguyện có tha thiết chân thành, hành động sẽ dần dần biến đổi từ thô đến tế, từ ngoài vào trong, và từ tác động nhẹ nhàng nhưng nghiệp dụng thật vững bền kiên cố.

Niệm Phật hòa vào được sự gia trì của Phật lực là do Nguyện tha thiết này. Nhưng Phật lực là gì, là Niệm Phật trong nguyện lực vậy. Niệm Phật trong nguyện lực tha thiết là tự tánh Di Ðà hiển lộ, là phát được tánh chân thiện, tánh giác ngộ, tánh từ bi tỏa ra chiếu đến khắp nơi.

Những tánh chân thiện như vậy là tánh huệ là tánh Chân Như, tánh Niết Bàn hay nói thẳng đó là tánh Phật.

Tánh huệ đó tạo nên dòng sáng, hòa vào từ quang (dòng sáng hào quang) của đức Phật Di Ðà, và ảnh Ngài xuất hiện. Hành giả sẽ thấy Ngài qua hai ảnh lực một là tự tánh của hành giả chiêu cảm ra, vì tánh huệ của hành giả ứng hợp với tánh Phật; hai là kim tướng của đức Di Ðà tỏa hiện từ những hào quang vô lượng phóng khắp mười phương.

Ðến đây đã tạm đầy đủ, và hẳn nhiên hành giả đã biết mình phải nguyện thế nào, nguyện ra sao.

Hành giả niệm Phật, duy nhất chỉ nguyện sanh về Cực Lạc, điều này không thể sai khác.

Lại nguyện khi chứng đạo giải thoát nơi Cực Lạc, liền quay lại cõi trược phiền để độ chúng sanh. Phải cần nguyện độ chúng sanh tâm hành giả mới thuần với tâm Phật, và mới mong được sanh Cực Lạc chóng được thành chánh giác.

Hành giả lại nhớ nguyện, là kể từ đây cho đến ngày rời bỏ xác thân ngũ uẩn này, mọi công đức gì, hành giả chỉ cầu hồi hướng sanh về Cực Lạc mà thôi.

Hành giả cũng nguyện cho tất cả chúng sanh đủ nhân duyên gặp được pháp môn Niệm Phật để tương lai sanh về Cực Lạc.

Ðó là một vài điểm phát khởi Nguyện lực cầu sanh Cực Lạc trong hành trang thứ hai vậy.
  • Hành trang thứ ba
Hành trang cuối cùng này, là những gì thành tựu của hai hành trang trên, giống như vật dụng, lương thực, đã đủ đầy trong ba lô, người du mục chỉ còn mang lên vai tiến bước.

Kẻ du mục không thể ra đi khi trên ba lô chẳng có món gì; lại không thể đến nơi nếu ba lô chưa đủ đầy phương tiện cần thiết. Như thế người du mục khôn ngoan, không những rõ biết trong ba lô chứa đựng món gì, mà còn biết rõ hành trang như thế sẽ mất bao ngày tới đích. Có như vậy sự lên đường mới được phấn khởi và ngày tới điểm sẽ huy hoàng.

Tuy nhiên hành trang thứ ba này xem ra vô cùng quan trọng, vì dù hai hành trang đầu (tín, nguyện) có đầy đủ, hay dư thừa chăng nữa cũng thành vô dụng nếu đôi chân của hành giả hãy còn nằm yên một chỗ.

Hành giả phải đứng lên bước tới, hãy vững mạnh mà đi. Nếu hành giả không thể đi được! Vì sao? Vì hành giả chưa đủ niềm tin, chưa có lập nguyện. Chỉ có vậy thôi, ngoài ra không gì cả. Nhưng nếu hành giả đã tin rồi, đã có lập nguyện, sao lại không đi?

Ðó là phần còn lại, quyết định cho người niệm Phật đi về thế giới Cực Lạc vững vàng.

Có lẽ, chúng ta đã biết niệm Phật không phải chỉ mới trong đời nay, mà đã từng trong quá khứ, nhưng vì những bước niệm Phật của ta ngập ngừng do dự, nên đã chẳng đến nơi, thành ra đời này sanh ra còn duyên niệm Phật, nhưng lại bước đi quá khập khễnh.

Cũng không ít người thật có tin, thật có nguyện, và còn nguyện tha thiết nữa kìa, tuy thế vẫn hãy uể oải bước đi! Nói như thế, không phải mâu thuẩn với hành trang thứ hai (nguyện), mà nói như thế để chúng ta biết động lực vô hình của vô minh, sinh từ ái dục quá mạnh khiến người niệm Phật dù đủ hành trang trên vai mà vẫn ngoái đầu tiếc thương, tiếc rẽ cuộc đời!

Tiếc thương gì? Luyến lưu chi?

Ta dư hiểu điều này, đó là bao việc quay bủa chung quanh đời sống. Ðó là năm món ham muốn: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ (tài, sắc, danh, thực, thùy) - chúng đã trì trệ bước chân của ta từ vô thỉ đến nay.

Công phu niệm Phật chỉ được nhất tâm tinh tấn, là khi ta trực nhận sự giả dối vô thường của chúng, tức ý thức, xem chúng là việc chẳng cần phải quan tâm; lại xem chúng là chân lý vô thường trong dòng pháp giải thoát.

Hiểu rõ năm món ham muốn như vậy, người niệm Phật mới đi vào sâu thẩm tự tâm, sáng suốt phát ra danh hiệu Phật. Ðây chính là phương pháp nhận ra vọng tưởng và xem nhẹ vọng tưởng. Xin thưa rằng tại sao chúng ta lại xem nhẹ vọng tưởng mà không nói là diệt vọng tưởng!

Thật tình để nói, diệt vọng tưởng là việc vô cùng khó khăn, điều này chắc chắn ai cũng đồng ý; với căn cơ của người thời nay sống trong hoàn cảnh không Phật, xa Thánh Tăng, cái khó chỉ có tăng không giảm!. Trong khi biết rằng tâm chúng sanh lại vô thường, làm sao diệt hết vọng tưởng! Không thể diệt được trong một ngày, mà chắc chắn một giờ cũng không được.

Nhưng vẫn có người diệt được; sự diệt được này phải đòi hỏi hành giả hài hòa giữa tâm cảnh bên trong và hoàn cảnh bên ngoài. Trước hết hành giả phải điều thân, sống trong giới hạnh oai nghi, rồi tư duy thiền định, vậy mới sinh ra được định tâm thanh tịnh; tuy nhiên thuận duyên để làm được thế, hành giả phải sống trong cảnh yên tịnh, an bình tránh nơi khích động, huyên náo. Và khi thành tựu điều thân và tâm, bấy giờ hoàn cảnh mới hài hòa tâm cảnh hành giả; đó là lúc hành giả có thể rời nơi yên mà đến cảnh ồn cũng vẫn an tâm.

Nơi đây, ta là người công phu niệm Phật, và niệm Phật trong mọi hoàn cảnh, nên chẳng giống người quán tâm thiền định; cho nên chẳng lo vọng tưởng diệt, hay không diệt, mà chỉ tập trung vào danh hiệu Phật, thế mới nói là xem nhẹ vọng tưởng đi.

Suy ra nữa, nếu ta không xem nhẹ chúng, lại không diệt được chúng, ta không thể niệm Phật nhất tâm. Thế thì không diệt được vọng tưởng lại quá quan tâm vọng tưởng, chỉ làm phân tâm niệm Phật mà thôi.

Ðến đây thấy rằng, bước đầu học Phật, buộc phải hiểu cơ bản giáo lý, vô thường, vô ngã, nhân quả duyên sinh, để có thể là những tác duyên hòa thuận giúp người vượt qua những chặng đường cám dỗ trong đời sống.

Niệm Phật trong mọi hoàn cảnh là tạo mãi chủng tử Phật vào A Lại Da thức (thức thứ tám theo Duy thức học), là nơi sâu thẳm của tâm, là nơi tàng chứa tích tụ muôn duyên sự. Có thực hành như vậy ta mới bớt đi sự khuyến dụ khích động hấp dẫn của dòng đời; mà chúng là nguyên nhân chính làm đầy vọng tưởng trong tâm.

Ta không quan tâm đến năm thứ dục lạc kia, nghĩa là ta sống mà không hệ lụy quá đáng với nó, để thành thái quá sa lầy; ta vẫn sống với nó nhưng trong dè dặt răn đe, và hưởng ứng nó bằng tâm người tỉnh thức - biết chuyển hóa thế nào là phương tiện tùy duyên để sanh về cõi Thanh tịnh là cứu cánh.

Hành trang người niệm Phật đã đầy đủ; hành trang thứ ba cũng đang trên đường về đích. Người tỉnh thức không còn chút nào lo lắng, mỉm cười mời gọi mọi người đi theo.

GHI CHÚ:

(5) Nguyên tử vẫn còn lớn hơn ba thành phần chính của nó là: Dương điện tử (Proton), Trung hòa tử (Neutron), và Âm điện tử (Electron).

Cũng trong sách "Ðạo Phật siêu Khoa học" Tác giả có viết: "Gần đây, Vật lý gia Murray Gell-Mann cho rằng dưới Proton và Neutron còn có những hạt vi phân Tiềm Nguyên tử vi tế hơn mà ông đặt tên là Quark... "trang 18 - 19.

(6) Nhị biên: cái thấy đối đãi của Có, Không - Tịnh, Nhiễm - Thánh, Phàm - Ðắc, Ðọa v.v...


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Vượt luân hồi vào Tịnh Độ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chương VI
BỒ ĐỀ TÂM QUYẾT ĐỊNH VÃNG SANH CỦA HÀNH GIẢ NIỆM PHẬT

Người tỉnh thức bấy giờ quá đổi vui mừng không sao kể xiết; gặp ai cũng cố khuyên nên niệm Phật, nên lo vãng sanh Cực Lạc, nên xem thường đời sống giả tạm này, và nên tìm về đời sống vĩnh hằng tự tại vượt siêu mọi chướng ngại đối đãi của các pháp hữu vi.

Một số người nghe theo liền thực hành, lại một số dè dặt nghi ngờ sự thật, và điều làm kẻ tỉnh thức phải lưu tâm, là một số cho rằng pháp tu quá dễ như vậy, mà đây gọi là Pháp huyền diệu, sâu nhiệm sao!

Người tỉnh thức giựt mình! Nhưng, tri ân ghi nhận điều nghi ngờ này! Vì đã khơi dậy vào tâm bao duyên xưa quá khứ.

Từ một kẻ say ngủ, người đã lạc loài trong điên đảo vọng tưởng, trong vọng thức mê tình, trong cuồng si nghiệp báo, nên chẳng nhận ra quay về phát tâm học Phật - rồi khi học Phật lại phải nghi ngờ hằng bao kiếp, nên chẳng thể vói tay đụng vào thật cảnh để kết quả mịt mờ vô định trong biển khổ trầm luân.

Học Phật mà vẫn còn vô minh, chuyện vẫn là sự thật! Nếu không, sao ta phải sinh đi sinh lại, kết duyên rồi buông duyên, nhận quả rồi buông quả!

Pháp Phật muôn đời chân lý (giải thoát), chỉ người không hiểu sinh ra nông nỗi vậy thôi. Nhưng đôi khi, vì nghi ngờ giáo pháp lại giúp người mở mắt sáng ra.

Ở đời, nếu ai nói gì tin vậy, mà không hỏi vì sao, thế nào, làm sao học hỏi chi được.

Hỏi tức là học, và do nghi mới hỏi. Cho nên nghe rằng, nghi nhỏ hiểu nhỏ, nghi lớn hiểu lớn.

Pháp tu vượt thoát luân hồi qua danh hiệu Phật quả thật dễ dàng, tuy thế pháp tu dễ mà ngoài Phật nói ra, lại không một ai biết! Không ai biết vậy có dễ không!

Chính Phật biết điều khó này, nên khi nói ra đã phải nhấn mạnh "... Xá Lợi Phất cùng với các ông đây (vô số Thánh phàm Tăng, và Trời, người) đều nên tin lời ta và lời của chư Phật thuyết" (... Xá Lợi Phất nhữ đẳng giai đương tín thọ ngã ngữ cập chư Phật sở thuyết).

Phật tự nói đã là đầy đủ, lại còn minh chứng thêm rằng, chư Phật ở phương khác cũng đều nói như Ngài vậy.

Bây giờ người tỉnh thức nhận ra rằng, vì quá sốt sắng buộc người tin, huống nữa tin một pháp môn khó tin nhất, nên người ta mới e dè, nghi ngại như vậy.

Việc có được sáng tõ, là phải biết niệm Phật để làm gì! Khi biết để làm gì, những nghi ngại so sánh trên đường tu sẽ được giải tỏa.

Niệm Phật được vãng sanh về Cực Lạc, đó là câu trả lời quá thường tình, không chút suy nghĩ.

Về Cực Lạc làm gì?

Ðể tiếp con đường tu cho đến thành Phật rồi độ chúng sanh. Ðây là điểm quan yếu nhất mà người niệm Phật phải biết và cũng chính đây lại chỉnh trang, sửa sai quan điểm cho rằng niệm Phật chẳng có gì cả, và tệ hơn lại cho pháp môn này quá dễ, nên không tin, không đáng học.

Hẳn biết, tất cả phương tiện sinh hoạt trong thế gian đều nhất quán phục vụ cho con người sinh tồn trong xã hội. Từ đó theo từng khía cạnh phương diện vấn đề, mà liên hệ sinh ra bao số công việc nhịp nhàng diễn tiến, điều khiển đời sống con người ngày phát triển hơn. Tuy vậy, chung quy phải lấy nền tảng tinh thần mang tính thiện để tồn sinh, đó là chân lý hài hòa đời sống.

Cũng vậy giáo lý giải thoát mà đức Thế Tôn dạy, lấy nền tảng Giới, Ðịnh, Huệ làm phương tiện đi đến giải thoát; nhưng lý tưởng giải thoát phải phát xuất bằng tâm Bồ Ðề tức tâm làm Phật.

Xét cho cùng, trong Phật pháp, không một pháp môn nào ngoài ba môn học này (Giới, Ðịnh, Huệ) mà được giải thoát; lại nói cho cùng phải có tâm cầu thành Phật mới khỏi lạc mất tâm Bồ Ðề.

Thế thì niệm Phật là một pháp môn trong 84000 pháp môn cũng không ra ngoài chân lý ấy. Cho nên niệm Phật, mà thiếu Bồ Ðề Tâm không thể đi về cõi Phật. Và vậy pháp môn niệm Phật này có sâu hay cạn, dễ hay khó, đối với hành giả niệm Phật cũng phải phát Bồ Ðề Tâm; đây là việc đáng ghi nhất mà người niệm Phật phải biết. Nói tóm lại người tu các pháp môn khác như Thiền, Mật, Luật... cũng chẳng thể thiếu Bồ Ðề Tâm mà thành tựu được. Vậy ra vấn đề nói dễ hay khó, tin hay không tin, sẽ biến mất nơi đây, vì tất cả hành giả ai là người con Phật phải cùng nhau phát BỒ ÐỀ TÂM để thành Phật cứu chúng sanh.
  • Niệm Phật thế nào gọi là phát Bồ Ðề Tâm?
Trước hết nên hiểu thêm về Tâm, và thế nào gọi là tâm Bồ Ðề!

Tâm được giảng theo chuyên môn bác học như môn Duy thức quá tinh vi, khúc chiết, chẳng hạn gọi là Tâm vương và tâm sở. Tâm vương là tám thứ tâm, gọi là "Bát thức tâm vương", như: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức, Ý thức, Mạt na thức và A lại da thức(1). Tâm sở gọi đủ tên là "Tâm sở hữu pháp", Tâm sở này được khám phá, phân định đến năm mươi mốt thứ, được lập thành sáu nhóm có tên: Biến hành, Biệt cảnh, Thiện, Bất thiện, Tùy phiền não, Bất định.

Những thứ này mang hành tướng nghiệp dụng tâm lý tinh thần và thể chất của con người một cách phức tạp, tinh vi.

Và Tâm vương lại là nơi sai khiến chúng, nhưng lại có khi bị chúng gây mê! Có thể hiểu tám thứ Tâm này (Bát Thức Tâm vương), là nơi khởi lên sự liên hệ chằng chịt, gây ra nguyên nhân dấy tác nghiệp thiện, ác của một chúng sanh.

Ðại khái theo nghĩa triết học Duy thức là vậy, tuy nhiên, hiểu một cách đơn giản, chỉ có hai phần: Vọng tâm và chơn tâm.

Con người chúng ta đã say sưa bám theo uẩn thân từ vô số kiếp, nên chẳng thể tỏ rõ được chân tâm, đành sống với vọng tâm ngũ uẩn. Nhưng chân tâm cũng nhờ ngũ uẩn thân mà hiện hữu, và sự hiện hữu này lại quá vi tế, quá mầu nhiệm sâu xa nên khó thể nghĩ bàn, do đó một số người không tin là ngoài cái thân thô kệch và cái tư tưởng kiến thức (vọng tưởng "tâm" điên đảo) này lại còn cái gì nữa. Nhưng lạ lùng thay chính ngay cái biết (thức) như vậy, dù là cái không tin, họ đã đi gần đến chân tâm, lý do họ đang gần như đứng ngoài chủ thể và đối tượng tư tưởng mà thẩm định. Tuy nhiên cái biết hãy còn rất mờ, vì chưa thể dùng tâm vô phân biệt, tâm không đối đãi qua nhận thức các pháp đều do duyên sinh và cũng do duyên diệt.

Vậy hỏi ai đã được chân tâm? Tất nhiên chơn tâm khó nhận diện, khó đạt thành; chỉ có các vị chứng đạo mà thôi.

Vấn đề rõ ràng là tất cả đều nhờ vào việc học Phật mà suy ra. Nếu không ta lấy đâu làm nguyên tắc tiêu chuẩn để học và hành, nhận diện được chân tâm!

Kết lại, những gì của tư tưởng hành động ngược lại hướng đi giải thoát, đây là do vọng tâm sai khiến; và những gì xuôi thuận theo giải thoát là chân tâm vậy. - Thế thì chân tâm sẽ xuất hiện dưới mọi hành tướng mà không phân biệt người tu tại gia hay xuất gia.

Ðến đây đã thấy chân tâm là Bồ Ðề Tâm, là tâm hướng về giải thoát; tâm cầu thành Phật để độ chúng sanh.

Hành giả niệm Phật dù chẳng thể nhất tâm trong mỗi thời niệm, nhưng ý tưởng tâm niệm độ sanh khi thành tựu đạo nghiệp nơi Liên cảnh, chắc chắn sẽ là lực tác động vững vàng cho con đường vãng sanh Cực Lạc.

Ngược lại niệm Phật chỉ có cầu sanh Cực Lạc mà không có ý nguyện thành Phật độ sanh, sẽ là trở ngại cho phẩm cao nơi Liên cảnh. Cũng từ đó có thể dễ dàng rơi vào cõi người hay cõi thiên hưởng phước hữu lậu, nếu giờ phút cuối không xác định được niệm lực của mình là duy chỉ độ sanh.

Sở dĩ phải cầu thành Phật độ sanh khi công phu niệm Phật, do vì thế giới Cực Lạc thuần chất Bồ Ðề Tâm, là nơi chư vị thượng thiện nhân bất thoái chuyển hay nói đúng hơn là nơi của chư Phật tương lai - chính do đồng hành tâm niệm Bồ Ðề như thế mới hòa hợp một chỗ, và đó là tương hợp với hạnh nguyện Phật A Di Ðà.

Vậy phát Bồ Ðề Tâm niệm Phật là dùng tâm lực và Phật lực; tâm lực là công phu tinh tấn chuyên nhất vào sự hành trì của hành giả, Phật lực cũng là nguyện lực của chính hành giả, chuyển từ tâm thô của một chúng sanh tục nhiễm hướng về chân tâm mầu sáng của đức Phật A Di Ðà, để hòa quyện thành thế giới nhiệm mầu thanh tịnh, đó chính là thế giới Cực Lạc vậy.

Ðại lược như trên trình bày, đó là lý mầu tự tâm theo nghĩa của Bồ Ðề Tâm giải thoát; nhưng sự sâu nhiệm bằng tâm Từ Bi hiện ngay cảnh giới khổ đau này lại càng giúp ta phát mạnh thêm Bồ Ðề Tâm.

Hành giả niệm Phật trong cảnh giới phiền trược, chắc chắn phải vì nhận thức cuộc đời là khổ. Do hiểu như thế mới cầu sanh thế giới Tịnh. Nhưng sự nhận thức khổ đây, lẽ nào hành giả không khởi từ bi tâm khi nhìn thấy hành giả là một trong muôn người khổ! Trong muôn sự khổ kia lại càng khổ hơn nếu chẳng biết được có một thế giới để quay về. Thông cảm như vậy hành giả càng tinh tấn niệm Phật vì thấy muôn người đang đau khổ, khổ hơn cả chính mình.

Hành giả quan sát gần hơn, thấy rằng bao nhiêu sự tranh chấp của con người trong thế giới trược phiền này, càng làm nỗi khổ chỉ có tăng mà không giảm, thấy như thế hành giả lại quyết chí niệm Phật nhất tâm hơn.

Hành giả quan sát thêm nữa về những chúng sanh không phải là người, nỗi khổ này thật càng cay nghiệt đáng thương hơn; hành giả càng niệm Phật không ngừng.

Tóm lại tất cả vì từ bi thương nghĩ đến mọi người mọi vật mà niệm Phật càng tinh tấn; để có thể cứu cánh vãng sanh, quay về cụ thể hóa niềm thương nghĩ đó.

Người chưa hiểu nguyên lý pháp tu niệm Phật thường hay ngộ nhận, cho niệm Phật, ích kỷ chỉ cầu riêng mình sanh Cực Lạc, chẳng đoái tưởng đến người khác.

Ðiều này không cần xác định thêm nữa về tâm nguyện của người niệm Phật, vì chỉ cần Bồ Ðề Tâm nói lên đủ nguyện lực của hành giả niệm Phật rồi.

Việc người niệm Phật chiếu cái nhìn từ bi đến muôn loài chúng sanh, trong đó có luôn cả hành giả, tất nhiên phải là cái chiếu nhìn trí huệ.

Từ bi phải có trí huệ mới là từ bi của Phật. Thương người chỉ thương trong nhất thời bồng bột, trong biến dịch của tư duy thô thiển, cái thương đó không phải trí huệ.

Thương người đúng với chánh pháp, vẫn là cái thương bình thường qua xúc cảm tinh thần, qua vật chất thỏa hợp, nhưng những tác dụng này phải mở bày ra sự thật của chân lý; phải cho người thương thấy được mặt thật cuộc đời, và sự mầu nhiệm của con người giác ngộ ý thức được sự thật này. Ðó là cái thương sáng suốt và trí huệ của người tu Phật, và nơi đây, chính là cái thương của người niệm Phật vậy.

Khi hành giả càng quán chiếu vào đời sống chúng sanh đa dạng, càng phát được Bồ Ðề Tâm, đó là sự mầu nhiệm của người niệm Phật. Vì sao? Vì cảnh tượng muôn hình muôn dạng, do tâm thức biến hiện chiêu cảm ra (Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức); nói cho dễ hiểu vì nghiệp duyên quá phức tạp của từng loại chúng sanh mang trong người muôn động niệm. Cho nên cảnh trí mới muôn màu muôn vẽ, chúng sanh mới đủ loại dị hình. Cũng như do chánh báo, y báo của thế giới này, duy vì nặng dục ái mà ra, thành thử phải khổ nhiều hơn vui.

Vì dục ái vốn từ ba độc Tham, Sân, Si nên chúng sanh ở đây khó lòng sáng suốt giác ngộ, khó lòng thoả mãn thèm khát, thế đó trở thành cảnh giới khổ nhiều hơn vui.

Nhìn được như thế người niệm Phật càng phát tâm sợ cho cái tâm thức phiêu lưu này, và cảnh trí khổ đó nào đâu ra ngoài tâm thức! Thế càng sợ thì càng thương cho muôn loài chúng sanh, cuối cùng càng phát tâm Bồ Ðề để sớm cứu độ chúng sanh.

GHI CHÚ:

(1) Cái biết của mắt, của tai, của mũi, của lưỡi, của thân, của ý thức, của thức thứ bảy, và thức thứ tám.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Vượt luân hồi vào Tịnh Độ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chương VII
NIỆM PHẬT ĐI VÀO ĐỜI
Người tỉnh thức mỉm cười chiêm nghiệm lại cuộc đời đã qua; từ khi còn là kẻ lang thang đây đó trong ba cõi, sáu đường, rồi mệt nhoài tỉnh thức quờ quạng tìm được con đường tương đối sáng, để dần dần tiến đến ngày nay và giờ đây thấy được ánh sáng vàng tuyệt đối.

Tâm người tỉnh thức dào dạt niềm hân hoan, niềm hỷ lạc của Bồ Ðề giác ngộ. Giác ngộ cuộc đời và giác ngộ giáo lý.
  • - Giác ngộ cuộc đời:
Là những chuổi thời gian kết nối nhau vô tận; là những cảnh tượng không gian mắc dính theo thời gian thay đổi đến vô chung.

Thời gian và không gian là những gì của khái niệm mà ý thức con người đặt định ra; qua đó nó được quan sát nhận định là lớn, nhỏ, xa, gần diễn tiến theo hoàn cảnh tâm cảnh con người.

Không gian, thời gian cõi Ta Bà này đặt định tùy thuộc vào vị trí, tầm cở kích thước của trái đất, và sự hiện hữu của mặt trời, trong quỹ đạo hấp dẫn nhau gọi là Thái dương hệ. Và giả dụ cõi Ta Bà chúng ta đổi lại vị trí, cũng như chu vi diện tích của Mộc Tinh (Jupiter)(1) vậy thời gian và không gian lại thay đổi hẳn so với hiện nay. Chừng đó cái nhìn về cuộc đời có thể khác hơn! Tuy nhiên dù con người ở Mộc tinh có khác con người ở đây thế nào, cũng không ra ngoài chân lý khổ. Bởi vì, thế giới đó vẫn còn trong cõi dục.

Thế thì cuộc đời được quan niệm thế nào cũng chẳng ra ngoài vòng lẩn quẩn của Thành, Trụ, Hoại, Không; tức cái chu kỳ quỹ đạo của những hành tinh quay quanh mặt trời rồi có ngày cũng chấm dứt. Hoặc chấm dứt vì trái đất lệch đi đường quay, hoặc đường quay chưa lệch mà bị thiên thạch hay vật lạ ngoài không gian làm cho lệch, hay mặt trời thay đổi vị trí đột ngột, bởi vì mặt trời cũng vẫn là những ngôi sao lang thang trong vũ trụ mà thôi.

Ðánh giá cuộc đời thế này thế kia chỉ là những kiến thức đối đãi tùy cảnh tùy tâm mà ra; dù nó được hội ý, đồng tình với hết những con người trên trái đất này, nó vẫn không là gì cả, khi nói đến chân lý tột cùng của sự vô thường sinh diệt. Nhưng con người lại tuyệt vời siêu việt, ý thức được chân lý này, nên vẫn có thể tiếp nhận hay từ chối trong sự thăng hoa đời sống.
  • - Giác ngộ giáo lý:
Ðời sống văn minh nhân loại ngày nay đã minh chứng, và đạo giáo lại nói lên sự vượt bực của văn minh tinh thần.

Trong những nền văn minh đạo giáo của nhân loại, một số người lại tìm thấy một đạo giáo văn minh vượt trên tất cả. Nhưng đạo giáo này lại không cho mình là vượt trên hết, vì tự giáo lý của đạo này nói lên điều đó(2).

Ðiểm chính của đạo giáo đó, không thể tách ly với con người, nghĩa là có người thì có, không người không có. Tuy nhiên phương tiện hành động đạt đến đích thành tựu của đạo giáo này rất tinh vi quyền biến, và kết quả đạt được cũng muôn vàn, do thế người hành theo có thể tùy vào khả năng và trí huệ đều được thỏa đáng. Ðạo giáo đó là đạo giác ngộ, là đạo Phật.

Thật tình mà nói, đạo Phật không phải là tôn giáo, cũng không phải triết học, chỉ đơn giản là một pháp học giúp người nhìn rõ cuộc đời và con người trong sự thật chính nó, qua tiến trình tư duy sáng suốt, từ đó hành động đạt đến hạnh phúc rốt ráo.

Ðiều này cụ thể rõ ràng, không chút gì huyền hoặc mê tín.

Tuy nhiên nền tảng đạo Phật là từ bi, nên tùy duyên thế giới thế nào, mà xuất hiện thế đó để tùy thuận độ sanh. Ðiều này nói đến việc du hành của chư Bồ Tát nhập cuộc vào đời. Như là, chúng sanh đang khát vọng, ngưỡng cầu một nơi thờ phượng qua ảnh tượng Thánh thần, qua hành động lễ cúng van xin; Bồ Tát liền nhập cuộc để làm duyên tiếp độ(3).

Và bao giờ thấy được thời duyên, liền giảng giải - Bồ Tát sẽ khai thị chánh pháp đưa chúng sanh quay về tự tánh, khiến chúng sanh đó tự biết thế nào là đạo trạng thanh tịnh. Nếu có chúng sanh nào vào được đạo tràng thanh tịnh tự tâm, bấy giờ Bồ Tát lại từ bi khai phóng cho chúng sanh đó vào thêm đạo tràng của chân như tuyệt đối, tức tỉnh ngộ ra tất cả chỉ là phương tiện. Cuối cùng Bồ Tát sẽ chuyển tâm "Bồ Tát mới phát tâm" làm tâm Phật để cùng nhau hành động như mọi người nhưng trong chánh pháp nhiệm mầu, huyền diệu.

Thế nên chưa nhận rõ pháp mầu của Phật, ta hay ngộ nhận những nghi thức, lễ nghi mà cho không khác tôn giáo thờ lạy, van xin!

Ðạo Phật lại càng chẳng phải là những ngôn từ văn chương, những kỹ thuật chuyển vận ngữ văn theo một cấu trúc văn điệu có tính cách tận dụng đề cao trí thức diễn đạt ngôn ngữ con người, mà hay thường gọi là triết lý. Ðiều này chỉ có ích cho cuộc sống qua một vài khía cạnh, duy trì làm đẹp văn hóa. Tuy nhiên đạo Phật cũng không phủ nhận và tất nhiên đã biết, đạo Phật xuất hiện từ con người, từ nhân sinh quan trong đời sống, do vậy tất cả định nghĩa cho triết học cũng phải quay về mà hành động theo giáo lý giải thoát. Và tuyệt nhiên nếu nhìn về nhân sinh, vũ trụ chỉ bằng ngôn từ hay ra ngoài chân lý nhân quả, duyên sinh, vô ngã... thì chẳng phải là đạo Phật, tức chẳng giúp gì được con người thoát khỏi luân hồi đau khổ, ngược lại chỉ rối rắm thêm trong cái vòng lẩn quẩn vốn đã rối ren.

Trong niềm tư duy đó, người tỉnh thức nhận ra niệm Phật là cách dễ nhất đi vào đời. Người niệm Phật quan sát thấy rằng, từ xưa con người ngoài những việc phát triển kiến tạo, mưu sinh như lịch sử từ hàng thế kỷ qua, nay lại chẳng khác gì! Rồi tương lai hàng lớp thế hệ trẻ lại tiếp tục. Ðiều đó có phải vì, người trước hay người nay chưa bao giờ quay lại chính mình để tìm thấy một thế giới Phật; thế giới thanh tịnh, niết bàn! Nếu thế giới vật chất được mãi xây dựng thành tựu là do phát xuất manh nha từ tâm ý, thì thế giới siêu vật chất, đó là thế giới tâm linh cũng không ngoài phát sinh từ tâm ý con người mà ra.

Niệm Phật là manh nha cho mình ý tưởng xây dựng thế giới siêu vật chất; niệm Phật mãi mãi là cụ thể hóa thế giới tâm linh, sẽ biến hiện ngay con người một thế giới an lạc và bình an trong lòng. Thế giới thanh tịnh tâm, là thế giới bình an lưu xuất bên ngoài con người niệm Phật.

Bao nhiêu người biết niệm Phật, thì bấy nhiêu người được bình an.

Có phải chúng ta đã bất an trong đời sống? Có phải chúng ta ao ước được yên thân?

Ðiều này nói lên đời sống đã không thanh tịnh nơi tự tâm rồi. Chỉ có niệm Phật mới giải quyết được những dằn vặt bất an trong đời sống; chỉ có niệm Phật mới toại nguyện được niềm ao ước vĩnh hằng.

Nhưng điều gì đã làm con người bất an?

Ta đã thấy ngay câu trả lời căn bản, là do thế giới nhiễm ô này.

Một khi hoàn cảnh không chân thật, không nhẹ nhàng thanh tịnh, chúng sanh sống trong hoàn cảnh đó tất phải không an. Thế giới đó không tránh khỏi thiên tai đe dọa.

Thiên tai trù dập vào đời sống như: núi lửa phát phún, sóng thần cuốn hút, động đất lấp vùi, lũ lụt cuốn trôi, hay nắng khô đồng cháy... thế đó cũng đã quá khổ, nhưng còn cái khổ bên trong nào đâu thua kém.

Chúng ta dư thấy ở thế giới văn minh giàu có số người tự vận, quyên sinh chẳng kém gì các nước lạc hậu. Và lạ thay kẻ tự vận có khi lại là triệu phú hay đang trong danh vọng cao sang. Sự thể như vậy, cho thấy bên trong người ấy hết sức kinh động đến mức không thể chịu đựng đành tìm cái chết! Tìm hiểu đoán được, họ có thể vì thất bại phá sản nơi thương trường, hay lỡ làm việc gì ô danh, nhục tiếng, do thế đau thương, hay nhục nhã mà quyên sinh.

Nhưng cũng không hiếm trường hợp tự vận chết đi vì những dằn vặt nội tình chưa đến nỗi phải trầm trọng như trên. Và đau thương hơn, chỉ vì thấy đời không thú vị nữa nên không thích sống!

Những nỗi bất an bên trong như thế là quá rồi, và còn lại vô số người như chúng ta vẫn đang đối diện và chịu đựng bao bất an khác! Dù chúng không đến nổi xúi giục ta chết đi, nhưng vẫn đủ sức giết lần ta, nghĩa là ta sống trong sự héo mòn đau khổ, và cuối cùng dẫn ta tái sanh đến hằng kiếp.

Một vài bất an thường tình mà ta phải đối diện như: không toại nguyện sống với người thương, không ưng lòng sống với người ghét, và không thuận lòng vừa ý những gì mong đợi(4). Chỉ ba điều này thôi đời sống đã không an rồi.

Ðó là những bất an trong đời, mà hễ là người tất phải đối diện.

Nhưng xưa nay vẫn xuất hiện các vị Thánh, sống trong hoàn cảnh và tâm cảnh như chúng ta mà chẳng bao giờ phải bất an! Do vì chư vị biết niệm Phật trong tâm.

GHI CHÚ:

(1) Mộc tinh: một trong chín hành tinh quay chung quanh mặt trời; là hành tinh lớn nhất trong thái dương hệ chúng ta. Thời gian ngày đêm ngắn hơn Trái đất, nhưng một năm thì gấp 12 lần, tức 12 năm ở quả đất.

(2) Giáo lý cao siêu vượt lên tất cả được diễn giải trong Kinh Kim Cang: Kinh chỉ người biết, kẹt chấp vào ngã và pháp là chướng ngại trên đường giải thoát, nên người đắc đạo chẳng cho mình đắc đạo mới là đắc đạo! Ðoạn kinh nói lên điều huyền diệu như sau: "Tu Bồ Ðề, ý của ông nghĩ thế nào? Vị Tư Ðà Hàm có thể tự nghĩ rằng mình chứng quả Tư Ðà Hàm không?" Tu Bồ Ðề bạch rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn, không thể được. Vì sao? Vì vị Tư Ðà Hàm gọi là bực Nhứt Vãng Lai, mà thật không có vãng lai, nên gọi là Tư Ðà hàm". (Dịch giả Thích Thiện Thanh).

(3) Kinh Pháp Hoa - Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn, thứ hai mươi lăm, nói lên điều này.

(4) Một trong những bát khổ: Sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Vượt luân hồi vào Tịnh Độ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Ðây muốn nói, dù bao nhiêu pháp tu khác nhau nhưng chẳng khác gì niệm Phật. Ðứng về mặt tướng, còn có tọa thiền, tụng kinh, niệm chú, nhưng về mặt tánh thì nhất quán, trừ hoặc hiển chơn, tồi tà phụ chánh (trừ phiền não phát trí chân, dẹp tà ngụy xiển dương chánh pháp).

Ngồi thiền là an thân, để tâm được định và cứu cánh nhận rõ bộ mặt mình, quay về với chân tánh là chân như là Phật tánh.

Tụng kinh, niệm chú, niệm Phật là đọc, niệm lên pháp ngữ, mật chú, danh hiệu Phật để thanh tịnh lắng nghe mà nghiêm thân tịnh ý, để rồi tâm được an và cứu cánh thân tâm hòa vào lời kinh, mật chú, danh hiệu Phật như hòa vào chân tánh Như Lai.

Chính lẽ đó thế gian vẫn còn nhiều người an tâm do thực hành tha thiết lời Phật dạy. Vậy nơi đây nếu hành giả niệm Phật luôn luôn, trong mọi hoàn cảnh, hành giả đã đi lần đến con đường chư Thánh đi.

Tiếc rằng nhiều người không duyên nên chẳng tin niệm Phật.

Niệm Phật lại chẳng khó, và điều để tin rằng ta sẽ niệm Phật được luôn luôn là do chính tâm ta vô thường; chính tâm ta vô thường, nên dù tâm có vọng tưởng đến đâu, nó vẫn có lúc ngừng nghỉ, vì không thể vọng tưởng hoài; và ngay lúc nghỉ này ta liền nhớ câu niệm Phật!

Vấn đề lại đưa ra, làm sao ta nhớ niệm Phật?

Vì sợ làm sao ta nhớ, nên ta phải tập cho nhớ, tức phải niệm Phật ngay bây giờ; ngay khi thức tỉnh cuộc đời như đã quán sát - thức tỉnh rằng, pháp môn đang đeo đuổi đây, là pháp thù thắng hợp với thời đại nguyên tử ngày nay.

Khi tâm hằng ghi nhớ danh hiệu Phật, hành giả vừa giảm được nỗi bất an thường tình, vừa chuyển hóa vào tâm niềm an lạc. Công hiệu và thần lực của danh hiệu Phật có thể chuyển tâm thức ta về thế giới Thanh tịnh, xá gì lại không chuyển nỗi những bất an thường tình hiện tại! Do vì ta chưa đặt hết niềm tin vào Phật lực để hóa thành tâm lực nên còn vướng động vọng niệm để kết quả chưa đủ duyên hiện ứng.

Hành giả niệm Phật vào đời, nhất định lạc quan vui vẻ; không vì thấy rõ cuộc đời là bất an rồi sinh tâm cầu thoát ly xa lánh. Dù rằng việc niệm Phật cấp bách, công phu ngày đêm, vẫn hợp cho việc thoát ly, tuy nhiên phẩm vị vãng sanh cao, chắc chắn cho người phát Bồ Ðề Tâm niệm Phật. Chung quy lại người niệm Phật vào đời vẫn được vãng sanh, không khác gì nhập thất tịnh tu một chỗ.

Với lý tánh tâm nguyện Bồ Ðề, hoàn cảnh nào cũng không trở ngại, cho nên phải phát tâm Bồ Ðề mà hành mọi Phật sự; do đó nên hiểu người nhập thất mà không phát Bồ Ðề Tâm niệm Phật chưa chắc đã được phẩm cao, bằng người đi vào đời niệm Phật phát Bồ Ðề tâm. Vậy hành giả nào vì nghiệp duyên chưa thể dứt bỏ thế tục, vẫn an nhiên thực hành pháp tu niệm Phật mà chẳng lo rằng ta được vãng sanh hay không?
  • ĐỚI NGHIỆP VÃNG SANH
Nhân đây người niệm Phật lại nghĩ, những hành nghiệp thiện, ác cùng lúc không ngừng phát ra khi niệm Phật. Và đây là vấn đề nói đến sự kiện Ðới Nghiệp Vãng Sanh.

Chính nơi nghĩa "Ðới nghiệp vãng sanh" mới thấy, niệm Phật là tuyệt diệu pháp môn. Nói như thế vẫn không mâu thuẩn, trong ý niệm tất cả pháp tu đều đưa về nhất quán, thanh tịnh thân tâm, giải thoát luân hồi. Nhưng thực tế liễu thoát sinh tử một đời, thì việc dễ, khó, hiện thể rõ ràng khác nhau ở mọi pháp tu.

Người tu Thiền, tất nhiên ai cũng hiểu phải trải qua cấp bực giải thoát từng phần, để đoạn dần kiến tư hoặc; rồi mới đắc quả vị Thánh. Khi đã thành Thánh việc tu vẫn còn gian nan, bởi vì có tới tứ Thánh quả. Và khi giải quyết tứ quả xong, bây giờ vị Thánh đó bắt đầu chuyển qua con đường Bồ Tát để hành Bồ Tát đạo là đoạn đường cuối thành Phật - tất nhiên đối với quả Thánh Vô Sanh (đã đắc tứ quả) việc hành đạo so với ta thật dễ muôn lần, nhưng đó là so với ta, chứ quả vị Phật hãy còn dài, do vậy mà thấy trong kinh, Phật phải dùng mọi phương tiện nhắc nhở quý Ngài tiếp tục tu(5), nếu không lại ngỡ mình đã đến đích (thành Phật).

Cho nên trình độ chứng đạo nào cũng cần nên gần Phật; đến những vị có túc duyên gặp Phật trong quá khứ, nhưng vì một nghịch duyên nào đó mà chưa thành, phải chịu rơi vào thế giới không Phật, vị này có thể tu đến quả Bích Chi (Duyên Giác: quán 12 nhân duyên), nhưng lại phải cần sự xuất hiện của Phật, thì nhân duyên chứng đạo Vô thượng mới thành, nếu không cũng dễ lầm, rằng đã đến đích (Phật quả).

Thế thì thiền định mà chưa đạt quả Thánh thì chỉ là phước báo của nhơn thiên, mà quả giải thoát chỉ gieo vào duyên xa chưa biết chừng nào. Ðiều này mới thấy, trong kinh thường tả vô số Bồ Tát thường hiện diện trong lần Phật thuyết kinh, để chỉ mong sớm học được giải thoát.

Vậy thì niệm Phật là giải quyết ngay vấn đề gần Phật, và cầu thành Phật ở tại bất cứ thế giới nào.

Khi nương tựa vào Phật, tâm không rời, tất nhiên ta đã thiết lập cho mình Phật tại tâm, để cuối cùng sanh đi nơi nào cũng còn chủng tử Phật.

Nhưng pháp tu niệm Phật, Phật Thích Ca dạy, kết quả của hành giả niệm Phật sẽ được vãng sanh về cõi Cực Lạc A Di Ðà.

Phật lại dạy, bất cứ thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào khi lâm chung tâm không tán loạn niệm được mười câu hiệu Phật sẽ được vãng sanh; đây bao gồm cả cư sĩ và tu sĩ. Thế thì cho thấy còn có pháp môn nào vượt qua được sự mầu nhiệm này.

Do vậy người cư sĩ chẳng cần phải lo vị trí của mình chưa thanh tịnh, chưa yên ổn, chưa nhất tâm v.v... Ðiều mà hành giả cư sĩ đáng lo, là có phát được Bồ Ðề Tâm hay không!

Ðới nghiệp vãng sanh, không phải nhấn mạnh vào giới cư sĩ mà nói chung cả hai giới, vì khó ai có thể dứt khoát được một đời tịnh nghiệp mà vãng sanh, cho nên không rơi vào thô thì cũng tế. Người tu sĩ trọn một đời tu đến ngày ra đi vẫn chưa thể giải quyết được những bất thiện nhân nghiệp trong một đời, dĩ nhiên là bất thiện vi tế; do đó nếu nói phải sạch nghiệp mới vãng sanh thì ai lại làm được! Cho nên trừ nghiệp tội thật ác (ngũ trọng tội) ra, khi lâm chung biết sám hối đều được vãng sanh về cõi Phật.

Ðây chúng ta thấy, do nguyện lực của Phật A Di Ðà và diệu dụng thần lực của tự tâm chính ta, nên hoán chuyển tức khắc cảnh giới tự tâm, để hòa hợp vào cảnh giới Phật mà khoảnh khắc được vãng sanh.

Tuy nhiên, dù đứng trên mặt lý nhận định thật rõ ràng, và sự vẫn xãy ra như thật, vậy mà số người được vãng sanh chẳng thấy là bao. Lý do hoặc người niệm Phật ỷ lại, hoặc giờ phút cận tử nghiệp gặp chướng duyên.

- Ỷ lại, mình sẽ mang nghiệp vãng sanh nên hay tạo nghiệp bất thiện; dù bất thiện này không nghiêm trọng, nhưng khiến tâm thức xem nhẹ câu niệm Phật để giờ lâm chung không thể tha thiết nhất tâm.

Nghiệp bất thiện đây liên hệ đến việc, quên mất Bồ Ðề Tâm, tỉ dụ xem thường việc ăn chay, việc bố thí giúp người, hay nói lời vọng ngữ.

- Chướng duyên vào giờ phút lâm chung, có thể đến từ người trong gia đình hay bạn bè thân quyến. Thay vì khuyên ta niệm Phật, hoặc niệm Phật cho ta nghe, ngược lại chỉ gợi lên những việc thế gian luyến ái buồn thương, hoặc khơi nhắc chuyện đau thương làm ta xúc động quên mất câu niệm Phật.

Xét cho cùng, do chính người niệm Phật chủ động chứ chẳng để ai quyết định cho mình; khi đã hiểu ÐỚI NGHIÊP VÃNG SANH là thù thắng, thì ngay trong lúc lâm bệnh phải có chuẩn bị sắp xếp, có thế mới thắng được chướng duyên.

Người cư sĩ vì gia duyên thế sự ràng buộc, nhưng nếu giữ được tâm niệm hằng thẩm vào sự cầu sanh về thế giới thanh tịnh, thì danh hiệu Phật dù niệm ít vẫn hằng chuyển mạnh vào tâm. Và muốn giữ được tâm niệm sâu như vậy, tất phải ý thức việc làm, sự sống của mình hiện tại. Phải xem rằng tất cả những tác nghiệp này trong công việc hiện tại, đều ngoài ý mình muốn, nhưng vì đã lỡ duyên nghiệp đời sống nên phải giải quyết, hành xử.

Ngoài ý muốn, nghĩa là không muốn những nghiệp nhân này ngày một dính mắc; không muốn phải tiếp tục mâu thuẩn vừa tạo thiện lại tạo bất thiện, duy chỉ có cái muốn là dứt luân hồi, dứt vay nghiệp, để được sanh về thế giới Vô Lượng Quang. Ðiều đó mới là ý muốn, còn lại hiện thời, tất cả ngoài ý muốn.

Như thế công phu niệm Phật của hành giả cư sĩ này, dù niệm ít nhưng lại thẩm sâu, và tất nhiên chỉ chính hành giả này biết rõ hơn ai.

Lại thêm một điều mầu nhiệm, có thể giải quyết luôn việc ngoài ý muốn đó mà chẳng chút gì là ngoài hay trong. Nghĩa là hành giả cư sĩ niệm Phật này, vừa thầm niệm cầu sanh Tịnh Ðộ, vừa giới thiệu pháp tu đến mọi người, như thể tạo thêm công đức giúp hoằng dương giáo pháp Phật Ðà, và nhất là pháp tu tối thắng mà hành giả đang âm thầm thực hiện.

Vậy thì bao việc làm đó, hẳn nhiên trở thành phương tiện đem giáo pháp mầu nhiệm đến gần chúng sanh hơn, và ngày ra đi của hành giả chắc mọi người sẽ ngạc nhiên, sao lại vãng sanh được; trong khi với người hiểu được Niệm Phật đới nghiệp vãng sanh sẽ thấy sự thật phải là như vậy! Và hơn ai hết chính hành giả niệm Phật sẽ mỉm cười nơi Liên Ðài Lạc cảnh.

GHI CHÚ:

(5) Kinh Pháp Hoa - Phẩm Hóa thành dụ thứ bảy.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Vượt luân hồi vào Tịnh Độ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chương VIII
NGHĨ VỀ SỰ CHẾT CHẮC CHẮN
Đã có hành trang, đã vững tâm Bồ Ðề, người tỉnh thức vui vẽ an nhiên với danh hiệu Phật, bước đi vào đời không sợ chướng ngại.

Giờ đây người đã quá lục tuần (hơn 60 tuổi); đã niệm Phật hơn hai mươi năm; và công phu tu niệm đến nay càng tinh tấn.

Nhìn bên ngoài hình tướng, sinh hoạt, có thể chẳng thấy người tỉnh thức công phu nhiều như hồi còn trung trẻ, nhưng thật sự bên trong đã nhiếp tâm sâu thẩm. Danh hiệu Phật bây giờ không chỉ đi với người qua những giờ công phu lần chuổi hay thiền tọa niệm Phật, mà đi với người qua những thao tác hằng ngày. Dù làm việc gì người tỉnh thức vẫn không quên, nhưng nếu quên lại trở về nhẹ nhàng gần như không cần cố gắng.

Phật hiệu bây giờ trở thành chất liệu sống; tuy nhiên thâm tâm của người hãy còn tự nhủ, cho mình vẫn còn vọng động vào những giấc ngủ say, vì không có danh hiệu Phật ở đó. Người lo ngại rằng, lúc ngủ mê, lỡ phải bỏ xác không hay, thì phẩm vị làm sao làm chủ! Nói như vậy, cho thấy người tỉnh thức đã biết mình chắc chắn vãng sanh nhưng phải vãng sanh ở phẩm cao kìa! Nghĩa là tự tại ra đi trong câu niệm Phật.

Người tỉnh thức bất chợt lo ngại về sự chết. Nhưng lại mĩm cười, vì chính sự kiện này mà con người mới thức tỉnh lo tu.

Hành giả niệm Phật, sau khi hiểu rõ được ba tư lương quan trọng làm hành trang, hiểu rõ Bồ Ðề Tâm là lực đưa người niệm Phật vãng sinh tịnh độ. Hiểu rõ như thế, nhưng hành giả thường hay quên rằng, việc thực hiện sự tin hiểu đó rất hạn hẹp với thời gian của một đời người. Vì đời người luôn nằm trong thúc ép, dày vò của đời sống nên thời gian gần như chiếm trọn công phu của hành giả - nếu nói, dùng ý thức để quán sát vô thường mà ghi nhận, rồi tinh tấn niệm Phật hơn, hay để khắc sâu vào tâm, chờ ngày đới nghiệp vãng sanh có lẽ cũng không phải dễ. Vì ngoài ngoại cảnh phải đối đầu, mà nội cảnh tức thân ngũ uẩn, lại khiến ta trầm trệ khi đau bệnh kéo đến.

Do đó thật chẳng có nhiều cơ hội công phu, và rõ ràng để nói, đời người quá ngắn, quá mong manh!

Nói đến đời người quá ngắn, là nói đến ngày chết sẽ đến với ta một cách chắc chắn, chắc chắn y như là ăn phải no, không ăn thì đói.

Như vậy ta chỉ có thể công phu một cách tinh tấn, một cách sâu nhiệm, một cách vững vàng và một cách quyết tử, là khi nghĩ rằng, ta đây sắp chết đến nơi rồi!

Ta chết đến nơi rồi! Ðây nói quá đáng không?

Ai là Phật tử hẳn phải đồng ý, không gì quá đáng cả! Ðó là căn cứ vào giáo lý giải thoát; các pháp hữu vi đều vô thường, có sanh tất có diệt.

Thành thật mà nói, có khi cái chết xảy đến còn nhanh hơn con người ý thức. Ðây là sự thật.

Sự việc xảy ra, khi ta vừa tin một người thân, ngã bệnh, hay người láng giềng lâm bệnh nan y hoặc tai nạn chết đi. Họ chết đột ngột, hay cái tin chết đột ngột đó không phải nhanh hơn ta ý thức sao!

Chính ngay trong gia đình ta cũng vậy; thử để tâm suy nghĩ xem, ta có ngờ thành viên trong gia đình của mình bây giờ, còn lại mấy người! Ðó cũng nhanh hơn ta ý thức vậy! Thậm chí nhìn lại ngay thân thể ta đây, cũng đã và đang đi dần đến chết, vì thân thể đây đã khác hơn mười năm qua.

Thật may cho ta, còn ý thức kịp, nếu không ta chỉ còn là thân trung ấm sống lưng chừng giữa dòng nghiệp thức kéo lôi; giữa hai bên dương gian, âm cảnh. Chừng ấy ngu ngơ đứng nhìn ngũ uẩn hư hoại, và câu chuyện nghiệp báo luân hồi sẽ đưa ta vào vai tuồng khác; lúc ấy vì không thể tự chủ nên chẳng biết vai tuồng tiếp của ta sẽ là vai người hay vai thú!

Có nhiều quan niệm ý thức về sự chết, khiến người ta vượt qua sự thật mà cố sống, như là:

- Chẳng gì sợ cả vì rồi ai cũng chết.

- Chết thì cũng sợ nhưng không cần phải lo vì nó chưa đến, và ta vẫn còn khoẻ đây!

- Từ xưa đến nay có ai sống hoài đâu, ta già rồi phải chết có gì thắc mắc!

- Con người chết đi còn "linh hồn", nên sẽ trở lại con người mà thôi, chớ đâu chết luôn!

- Thân thể là vật chất, tinh thần nương vào vật chất, khi phần vật chất hư hoại chết đi, tinh thần cũng mất, vậy đâu còn cái gì nữa mà lo; chỉ một lần sống này thôi rồi biến tiêu tất cả.

- Biết chừng đâu, đời này chết đi, đời sau sung sướng hơn!

Ðại lược như vậy.

Nguyên lý căn bản, con người phải có lý tưởng quan niệm sống, điều đó tạo thành sức mạnh duy trì nuôi dưỡng cơ thể và tinh thần. Và những suy nghĩ trên đều hợp lý với ai đó đã nghĩ vậy. Tuy nhiên, chân lý vẫn là chân lý; chân lý về Khổ về nguyên nhân Khổ về cảnh giới an lạc sau khi khổ được diệt tiêu đi, và phương cách thực hành chân lý, vẫn là muôn thuở xuất hiện ở thế gian này, để ai đó nếu có thể nhận ra rồi thực hành sẽ được kết quả không còn khổ nữa.

Sở dĩ chân lý xuất hiện như vậy, vì đối tượng của chân lý là khổ, nếu không có khổ không có chân lý này (Tứ Diệu Ðế). Như thế cuộc đời phải là khổ nên có chân lý, và ai đó lại có thể cho đời không khổ thì việc đã được giải quyết, mà không cần đến sợ chết!

Người học Phật nói chung và hành giả tu pháp niệm Phật nói riêng, tất có lập trường rõ rệt. Sợ chết của người học Phật không giống thế gian, và không sợ chết cũng lại khác quan niệm bên ngoài.

- Sợ chết xãy ra với người học Phật, là khi công phu tu hành chưa trọn, việc tu niệm chưa thành, đường tu vẫn chưa thông suốt. Lở khi chết đi, lại phải lần nữa làm người tìm học lại từ đầu; nhưng trên đường học Phật lắm việc gian nan thử thách, đâu gì bảo đảm đời sau tốt hơn đời này. Ðến như Ngộ Ðạt Quốc sư chín đời làm bậc cao Tăng, ấy thế không khỏi đời thứ mười sinh tâm tham đắm ngã mạn lợi danh, nên bị quả báo hiện ra mà điếng hồn khiếp vía, nếu không nhờ Bồ Tát giải bày cứu đỡ, mạng mất chẳng còn, lại ô danh, nhục tiếng. Người học Phật sợ chết là lý do vậy.

Ngược lại, sẽ không sợ chết khi rõ biết đường tu của mình, và lúc nào cũng sống nơi chánh pháp. Lại rõ biết hơn nữa, chết chỉ là tiến trình sanh tử của một tác nhân trong vòng duyên khởi luân hồi của kiếp sống. Người học Phật có thể chuyển hóa đời sống vượt khỏi quả báo luân hồi, thì việc bỏ thân này chỉ để vượt lên giải thoát.

Người niệm Phật luôn nghĩ về sự chết là việc giúp cho mình gia công tu niệm tinh tấn hơn. Hơn nữa ý thức một đời không thể giải quyết thành tựu đạo nghiệp, trong khi pháp tu niệm Phật lại chuyển được tâm thức hành giả sanh về thế giới hoàn toàn thuận duyên để tiếp tục lộ trình thành Phật thì phải lo nắm bắt.

Xưa nay không biết bao người chết đi bỏ lại mọi sự nghiệp còn dang dỡ, điều này há không phải là bài học ngàn vàng cảnh tỉnh cho ta!

Thử nghĩ, đã được bao nhiêu việc có thể gọi là giải quyết xong ở thế gian này? Chẳng có là bao! Và con người vẫn còn khiếm khuyết mãi!

Không thể nào xong, là vì lòng người không dừng lại, hay nói đúng hơn vì nghiệp tánh chúng sanh ở cõi dục này hầu như toàn chứa ba độc Tham, Sân, Si. Nếu nói giải quyết được, thế sao con người lại phải mưu cầu mãi đến nỗi tạo ra chiến tranh giết chóc.

Do đó còn sống cũng chưa giải quyết xong, mà chết rồi việc vẫn còn nguyên đó; thế là ra đi trong đau tiếc, rồi tái sanh lại trong tìm kiếm tham cầu. Tham những gì đã chưa xong trong quá khứ, mà không biết rằng mãi mãi sẽ chẳng xong.

Ðến như người tu cũng vậy, nếu còn chấp ngã, chấp pháp, thì mãi chẳng giải quyết xong! Ðời này tu pháp này, đời sau tu pháp khác và sẽ mãi mãi là vị tu sĩ ham say Phật pháp nhưng kỳ thật chẳng hiểu gì Phật pháp! Kết quả cũng chết đi sống lại trong luân hồi.

Người học Phật đúng pháp, thật sợ cái chết như trên, và người niệm Phật lại càng sợ lâm vào tình cảnh này. Niệm Phật mà chẳng vãng sanh giống như cái chết trong luân hồi của thế gian mà thôi.

Ý thức được sự mong manh của đời người, sự khó khăn vất vả trong đời sống qua những biến động chập chùng phức tạp của tâm thức, người niệm Phật phải kinh hãi lo sợ cái chết ập đến bất cứ lúc nào, trong lúc tâm thức quên đi danh hiệu Phật.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Vượt luân hồi vào Tịnh Độ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chương IX
NHỮNG CÔNG ĐỨC, PHƯỚC ĐỨC CÓ CÔNG NĂNG
TRỢ GIÚP HÀNH GIẢ NIỆM PHẬT VÃNG SANH
Cuộc đời đã hiển bày chân tướng, người tỉnh thức sẵn sàng trong niềm an lạc chờ đợi ngày vãng sanh.

Các pháp thế gian đều giả tạm, kể cả thân này chẳng phải là vật quý báu nhất mà con người đã vọng kiến nhận lầm. Thân này được xem quý nhất khi biết ý thức, hiện thể chuyển vào dòng pháp giải thoát.

Tuy nhiên, thế nào đi nữa, chẳng thể phủ nhận mang ơn thân này, tức mang được dòng thức chân như, sanh diệt thật nhiệm mầu.

Người tỉnh thức vui mừng tận dụng hết sức những gì có thể làm được trước khi xả bỏ huyễn thân. Và việc làm của người tỉnh thức hiện nay, phải là công đức, phước đức có công năng hồi hướng trở thành phước báo vãng sanh.

Việc làm trước nhất phải từ thân, rồi đến ngoài thân.
  • - Từ thân phải buông bỏ chấp trước.

    - Ngoài thân phải hành hạnh bố thí xả ly.
Phải chăng vì đã đã ôm chấp, giữ gìn ngũ uẩn thân một cách si mê thái quá, nên chẳng có công đức, phước đức mà vượt khỏi luân hồi?

Công đức là công phu tu niệm, là việc tác duyên tu thiện ngay tự bản thân, mà không ai có thể giúp mình được. Nói dễ hiểu, là công sức của hành giả phát được đức tánh thiện, sinh ra các pháp lành đó là công đức.

Hành giả niệm Phật chính ngay tự thân đã là công đức, do điều khiển được ba thân khẩu ý thanh tịnh, và nếu hành giả có thể tự điều khiển mình công phu niệm Phật hằng thẩm như thế suốt đời, thế đã quá đủ mà không cần phải làm gì nữa.

Nhưng không! Hành giả khó thể làm được; nguyên nhân, hành giả còn phải liên hệ với sự sống, còn phải chấp tác, còn phải đi lại, còn phải đương đầu với hoàn cảnh phức tạp chung quanh trước khi xả báo thân - nên phan duyên bên ngoài tác động vào tâm khó mà giữ câu niệm Phật mãi được.

Khó nhất nữa, hành giả lại đang sống trong thời xa Phật như hiện nay (hơn 2600 năm), chính vậy nên phải cần tạo thêm công đức, nghĩa là công phu thêm nữa ngoài giờ công phu niệm Phật.

Công phu nhiều ít, sâu cạn tùy do sức lực căn cơ hành giả, chẳng hạn lạy Phật, tụng kinh mỗi ngày. Nhất định là phải mỗi ngày, dù hành giả chỉ rảnh lạy có một lạy! Nhưng nếu hành giả vì cơ thể không thể lễ lạy, hay thậm chí đọc không được chữ, thì thay thế công quả chấp tác làm việc.

Hoặc hành giả cũng không tạo được duyên chấp tác tại chùa, kể cả ở nhà riêng; bây giờ hãy quán chiếu vào mỗi công tác đi đứng ăn uống ngủ nghỉ của mình, tất cả phải là điều có lợi cho chúng sanh, tức phải sinh ra thiện pháp, nghĩa là nhất tâm vào việc làm không để tâm vọng tưởng.

Phải như vậy, những tác động đó mới giữ hợp hòa với tánh Phật, là danh hiệu Phật mà hành giả đã và đang thực hành, như thế đó là công đức.

Thật ra đối với người không thể lễ lạy, tụng kinh, chấp tác mà chỉ ý thức với sinh hoạt thường tình thôi, như thế mặc nhiên đã công phu niệm Phật đến nhất tâm rồi.

Suy ra, khi danh hiệu Phật ngưng nghỉ trong tâm hành giả, vì phải ăn cơm, uống nước, vệ sinh v.v... nhưng trong những động tác đó không có vọng tưởng, đây cũng chẳng khác gì đang niệm Phật, bởi vì có niệm thanh tịnh, mà niệm Phật là niệm thanh tịnh vậy. Tuy nhiên lưu ý rằng, đây nhắm vào hành giả đang tu pháp niệm Phật, chứ không có nghĩa hễ ai ý thức được việc mình làm, thì đồng với công phu niệm Phật, điều này hoàn toàn khác, vì việc làm của hành giả niệm Phật là hồi hướng đến cảnh giới Phật là rốt ráo của Bồ Ðề Tâm, chứ không phải làm mà chẳng có tâm Bồ Ðề chẳng có ý thức.

Nhấn mạnh hơn, chúng ta đang luận về pháp tu niệm Phật, không phải các pháp tu khác, và càng không phải so sánh đến các bậc thượng căn Bồ tát đốn ngộ, đốn tu.

Người niệm Phật không cần lo lắng rằng, mình bị kẹt vào pháp tu, hay dính mắc vào cảnh giới Cực Lạc. Dù hành giả vẫn hiểu tất cả phải xả bỏ không chấp trước, bởi các pháp đều do duyên sinh, nên vô ngã.

Việc này người học Phật có lẽ ai cũng hiểu; còn chấp là còn kẹt, còn chấp là còn khổ, và những cái chấp đó bao gồm luôn cả pháp tu niệm Phật.

Hành giả niệm Phật không cần luận thêm nhiều nữa, vì đã hiểu và tin, ở phần nhận thức về cảnh giới thật hay giả của Ta Bà, Cực Lạc và nguyên nhân của sự thị hiện giữa Phật Thích Ca, và A Di Ðà.

Tuy nhiên nếu người học Phật sợ chấp rồi phá chấp, mà không biết rõ căn cơ của mình, vị trí của mình, nghiệp tánh của mình, và sự chứng đắc của mình thì thật nguy hiểm, vì sao? Vì chỉ là nói suông mà tạo ra nghiệp luân hồi. Rồi không chừng trở thành mâu thuẩn bởi chính mình, khi phải sống chấp vào hằng hà sa số nhân duyên trong vũ trụ, hay nói cho gần là trái đất này, lại nói gần hơn là xã hội đất nước này, nói gần hơn nữa là gia đình của mình, công việc của mình... và ngay trên con người của mình kẹt chấp đủ thứ để sinh tồn. Thế là biến thái, thành người không được bình thường, đơn giản cũng vì không giải thích nổi cái chấp kia thật hay không thật.

Chưa đạt đến cái nhìn của Ðại Bồ Tát, của Phật, ta chỉ sống trong mộng mị mà thôi, và xét cho cùng nên chấp có, hơn là chấp không! Chấp có ta còn làm công đức, còn đóng kịch tu trong cuộc đời huyễn v.v..., nhưng chấp không thì vô phương cứu chữa. Ðiển hình, loài người từ man khai đến giờ, nhờ chấp có mà đến nay mới văn minh, nhờ chấp có đến nay mới khám phá được không gian là mênh mông rộng lớn, và nhờ chấp có mà ta mới bắt đầu suy nghĩ lại việc chấp của ta có đúng hay sai.

Chúng ta hãy thử nhận định lời Ðại Sư Tế Tỉnh trả lời cho một người, gặn hỏi về các pháp là huyễn, vậy việc cầu sanh Cực sẽ thế nào! Ðây cũng tựa như chấp không.

Hỏi: Tất cả các pháp đều như mộng huyễn. Cõi Ta Bà cố nhiên vẫn huyễn, song cảnh Cực Lạc cũng lại là mộng. Như thế niệm Phật cầu về Cực Lạc nào có ích chi?

Ðại sư đáp: Không phải thế đâu! Các bậc Bồ Tát từ đệ thất địa trở về trước, đều tu hành trong huyễn mộng. Ðến như bậc Ðẳng Giác vẫn còn ở trong mộng lớn vô minh. Duy có Phật mới là bậc Ðại giác, hoàn toàn thức tỉnh. Ðang lúc còn trong mộng, thì cảnh vui cũng khổ vẫn uyển nhiên. Như thế cam chịu cảnh khổ ở Ta Bà, sao bằng về hưởng cảnh mộng vui nơi Cực Lạc. Phương chi mộng ở Ta Bà là từ mộng vào mộng, lần lượt đi sâu vào chỗ chìm mê. Mộng ở Cực Lạc là từ mộng ra khỏi mơ, lần lượt đến ngôi đại giác. Cho nên mộng cảnh tuy vẫn đồng mà kết quả ở đôi nơi khác xa, vì thế phải niệm Phật cầu về Cực Lạc!
(1).

Thế thì việc niệm Phật, nếu có sợ chấp, là sợ chấp vào tánh nghiệp vô minh của mình, mà tự cao ngã mạn cho người khác tu sai, cho tất cả đạo giáo khác trên thế giới là hạ cấp không bằng mình v.v... Chấp như vậy mới đáng sợ, và sẽ khó vãng sanh, vì phá đi Bồ Ðề tâm, là tâm độ chúng sinh. Chúng ta há không nghe kinh Phật dạy, Bồ Tát lớn thường thị hiện vào mọi nơi và nơi ấy bất kể con người nào hay tôn giáo chi.

Nói về phước đức ngoài thân.

Phước đức ngoài thân, thật ra cũng là trong thân, do trong tâm có suy nghĩ, bên ngoài mới hiển lộ, dù có hiện qua trung gian cũng vậy. Hiểu cơ bản, phước đức không phải do công sức tự thân, mà chỉ do những vật phẩm, những ngoại duyên bên ngoài, thành ra đối với công đức không so sánh được; do đó một người triệu phú phát tâm cúng dường một triệu đồng, so với phước báo của người đem công sức của mình tạo đức cúng dường, người triệu phú kia khó thể hơn được.

Tuy vậy cũng tùy vào sự phát tâm; nếu người triệu phú, phát tâm tha thiết quên mình là triệu phú, quên luôn số tiền, chỉ biết chánh tâm cung kính hồi hướng vãng sanh hay hồi hướng thành đạo, phước đức này quả không kém gì công đức.

Ðiều muốn nói đây, là phước đức Bố Thí của hành giả niệm Phật.

Phải nhận rõ vấn đề bố thí và phải bố thí như thế nào để được lợi ích, để thành công đức hồi hướng vãng sanh.

Bố thí mà không cầu vào pháp hữu vi, không chấp kẹt vào tự ngã và pháp thí, duy chỉ mong đạt được đạo giải thoát và giúp người đạt giải thoát, đạt đến trình độ vậy gọi là cùng cực của Bố Thí hay có thể gọi là Bố thí Ba La Mật.

Nhưng ta hiểu thế nào, khi một người bố thí giúp người, giữ tâm bình thản không cầu gì, mà họ là người không hiểu Phật pháp, vậy có phải đã hành bố thí Ba La Mật! Tất nhiên là không, và tuyệt nhiên sẽ không phải. Người đó vẫn còn mãi dạo chơi trong luân hồi cho dù có bố thí như vậy suốt đời và nhiều đời chăng nữa, nếu không nhận hiểu Phật pháp.

Ðơn giản để hiểu vì sao, vì người này làm với tâm không tu Phật, và tâm mà không tu Phật làm sao hiểu được Phật pháp để biết: các pháp là vô ngã, tâm người vô thường. Chính không biết như thế, người này chắc chắn thế nào cũng có ngày quay về chấp ngã, chấp pháp, nghĩa là không sớm thì chày người này cũng sẽ từ từ chấp vào việc làm bố thí của mình, dù thời gian có lâu bao nhiêu đi nữa. Và cho dù được phước báo sanh lên cõi trời, cõi người hàng tỉ lần, nhưng rồi cũng phải cạn phước, để kết quả sanh ra kẹt chấp đủ thứ.

Bố thí như thế cũng đáng ca ngợi, duy chỉ tiếc chưa hiểu Phật pháp có thể chuyển nhẹ ý thức qua việc làm của mình thì ngày thành Phật chẳng xa.

Bố Thí Ba La Mật nhìn qua, tương tự lối bố thí bình thản trên, chẳng thấy cầu chi, nhưng thật ra có nguyên nhân, phát xuất từ tâm đại bi, trí tuệ của người mang tín lực Bồ Ðề tâm. Chỉ có như thế mới làm được những việc bố thí phi thường mà xem rất nhẹ nhàng thanh thoát.

Với thế gian bố thí chỉ là phước báo nhỏ nhoi, hơn nữa bố thí của thế gian vẫn còn nhiều giới hạn, bởi không thể bố thí được thân mình. Nếu lại bố thí được thân, xem như quá giỏi, nhưng sự giỏi đó trở thành tiếc cho, vì không hồi hướng công đức thành đạo độ cho muôn người, mà lại kẹt chấp chỉ vì bố thí một người hay vì lưu danh, vang tiếng (mà thí thân).

Cho nên Bố Thí Ba La Mật hoàn toàn khác hẳn với người thế gian, và người hành được thường là các bậc Bồ Tát lớn(2).

Có ba cách bố thí căn bản, giúp người Phật tử tiến đến sự nghiệp tu đạo chóng thành. Ðó là bố thí tài, bố thí pháp và bố thí vô úy (sự không sợ hãi).

GHI CHÚ:

(1) Mấy Ðiệu Sen Thanh tập I của HT Thích Thiền Tâm. Ðại sư Tế Tỉnh được tôn là Tổ thứ mười hai tông Tịnh Ðộ.

(2) Ở Việt Nam có Bồ Tát Thích Quảng Ðức, thiêu thân bố thí cúng dường, cầu cho pháp nạn được tiêu (20-4-1963).


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Vượt luân hồi vào Tịnh Độ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • Bố thí Tài
Người có tài sản với việc bố thí tài thật thuận duyên, nhưng phải là người biết phát tâm nghĩ tưởng người khác, nếu không vẫn là việc khó làm dù gia sản có đến bạc triệu. Nhưng, giá mà người triệu phú này biết được, sở dĩ mình giàu có đây, là do đời trước biết bố thí, biết tu thiện họ chẳng dám làm ngơ. Tiếc rằng tất cả đều quên hết!

Như đã hiểu các pháp hiện hữu trong vũ trụ, đều do vô số nhân duyên, duyên khởi tạo thành, thì mọi việc: nghèo, đói, giàu sang, xấu hèn, cao đẹp v.v... cũng phải có nhân duyên. Nhân duyên đến từ: ích kỷ, hà tiện hay rộng lượng, từ tâm của chúng ta từ những kiếp trước.

Không thể khẳng định rằng ngày nay kiến thức được như vậy, giàu sang được như đây là do chính ta tạo ra, hay có chăng đáng nói là do sự giúp đở hỗ trợ của cha mẹ, Thầy cô ở trường ngoài ra đều do ta tạo ra.

Nhận định như vậy chỉ đúng một phần, một phần rất nhỏ. Hãy quan sát, suy nghĩ kỹ xem, bao nhiêu người cũng có cha mẹ như ta, cũng học hành như ta, thậm chí cũng tốt nghiệp ra trường cùng lúc như ta, và có khi đã học vượt hơn ta nữa, thế mà họ vẫn khổ, không phải cái khổ tinh thần đâu, vì đó là đương nhiên, họ đang khổ về vật chất đấy!

Chứng minh điều này, xảy ra vào thời chiến tranh; bấy giờ hoàn cảnh xoay chuyển phức tạp. Số người chết vì đói trong đó không thiếu gì người giàu và học vị cao. Sự việc lại còn xảy ra ngay thời bình, cũng không hiếm gì người giàu có hôm qua mà ngày nay phá sản trở thành tay trắng; còn người kiến thức cao vẫn long đong với công việc chẳng thể xoay xở hợp đúng với danh vị, kiến thức của mình.

Ðó là lý do gì? Chắc chắn người học Phật phải biết! Và sự thành tựu của ta ngày nay bất cứ phương diện gì, đều là do nhờ ơn của vô số người chung quanh. Nếu tính kể hết ai là người chịu ơn, có lẽ ta sẽ tiêu mất sự tự cao của mình và thấy mình còn nhỏ hơn phân nửa hạt cát trong sa mạc.

Do vậy ta không những mang ơn chúng sinh hữu tình, mà còn cả vật vô tình nữa. Vật vô tình mà nói, chỉ nội ngôi nhà ta ở thôi cũng đã có hàng ngàn nhân duyên tạo thành, mà nhân duyên đó há là tự nhiên sao! Thành ra ta phải mang ơn vô số những vật vô tình vậy. Còn hữu tình, đâu phải tuyệt đối là loài người; nếu không có những côn trùng sống ẩm thấp dưới lòng đất kia chưa chắc gì ta lại tồn tại cho lâu, vì phần lớn ta sống nhờ vào thực vật, mà các loài chúng sanh đó phần nào là duyên làm nên đất đai mầu mỡ. Nếu nói đến những quốc gia sống nhờ vào nguồn lợi tức chăn nuôi động vật, thì nợ của hữu tình thôi, còn cao hơn núi Tu Di.

Cho nên ta phải khiêm hạ, đối xử với tất cả bằng sự đáp lại, đó là thực hành việc bố thí. Và sự đáp lại cụ thể là tài vật hiện thời của ta.

Ðối tượng của bố thí là những người kém may mắn, là những nơi chốn đất nước hay bị thiên tai hoành hành.

Hành đúng pháp bố thí rốt ráo, là phải thực hiện trong sự hoan hỷ, thậm chí còn mong mỏi để bố thí nữa, có vậy sanh ra nơi đâu lại chẳng gặp duyên lành, và luôn luôn làm người đầy đủ.
  • Bố Thí Pháp
Bố thí tiền tài vật chất, ta còn có thể khiếm khuyết, chứ Pháp có lẽ ai cũng dư. Tuy nói vậy cũng thành không dễ, nếu gặp phải nghịch duyên, vì không thuận duyên sẽ không thực hiện được.

Nhưng pháp là gì?

Ðây chỉ nói thuần theo nghĩa bố thí pháp - đó là ngôn ngữ hoặc diễn ra bằng lời hay viết thành sách giúp người chuyển hóa nhận ra chân lý chánh pháp.

Vậy bố thí pháp là dùng mọi phương tiện khéo léo dẫn giải cho người hiểu thế nào để tu hành lần về giác ngộ giải thoát.

Nhưng ai có thể làm việc này! Tất nhiên ai cũng có thể, nhưng chỉ e người ta có làm được hay không! Chính lẽ đó mới gọi là bố thí!

Người ta không làm được, hoặc vì ngộ nhận, tưởng là những gì cao siêu, hoặc cảm thấy mình còn chưa xong, có đâu giảng cho người khác! Nhưng nếu vì nghĩ vậy, vẫn còn đỡ hơn người đủ khả năng mà không nói ra giúp người thì đây ảnh hưởng rất lớn đến việc tu niệm của hành giả đó.

Việc này kinh nói sẽ bị quả báo do giấu nhẹm chánh pháp; cũng không khác quả báo để hình tượng Phật khuất ánh sáng, chưa từng lễ lạy.

Trong pháp Phật có năm thừa: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, và Bồ Tát thừa.

Tùy trình độ nào của mình, hãy nói lên hiểu biết đó. Ta không thể mới hiểu về Nhân, Thiên mà giảng về Thanh Văn, Duyên Giác và ngược lại vì quá hiểu đại thừa Bồ Tát, mà không muốn nói cho người biết những căn bản ở cõi người!

Xét như vậy, hai thừa Nhân, Thiên, Phật tử nào cũng có thể bố thí. Vì sanh cõi trời hay trở lại cõi người, không ra ngoài những nghiệp nhân căn bản như: hiếu thảo cha mẹ, thương yêu gia đình, làm công dân tốt; với thầy dạy của thế gian và đạo giáo cư xử tử tế lễ nghi v.v...

Nền tảng của giải thoát đến từ năm giới: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Ðó là bước đầu học giới lần đưa người tiến tới những bước cao hơn.

Bằng hoàn cảnh nào đó, ta uyển chuyển đón nhận ý kiến của người để giúp họ nhận ra con đường căn bản giải thoát. Có người vì không giữ được một giới trong năm giới, như uống rượu mà từ chối quy y Tam Bảo; ta phải cảm thông, và vẫn khuyên quy y. Việc không giữ giới rượu được, thì thôi còn bốn giới chẳng có sao, cả đến mất thêm một giới "không sát sanh" nữa, ta cũng khuyên nên quy y, vì ta biết lợi ích của quy y Tam Bảo.

Trường hợp, không thể giữ được giới nào lại hỏi có quy y được không, ta cũng phương tiện mà giúp họ. Ðiều này chắc chắn Phật cũng từ bi mà gia bị. Bởi vì quy y chỉ là nương về một con đường sáng, mà kẻ kia đang còn trong tối vậy là điều cần thiết. Dù rằng kẻ kia cứ mãi mê không chịu chạy ra bóng tối (không thọ giới), nhưng hắn vẫn còn tin là hắn đang ở trong tối (chịu quy y), và bên ngoài kia là ánh sáng, vậy quá tốt rồi. Chỉ sợ là không bao giờ chịu quy y Tam Bảo, có nghĩa không bao giờ tin có con đường giác ngộ giải thoát.

Người bố thí pháp lại chẳng ra ngoài chánh pháp khi không đề cập đến quy y hay thọ giới, đó là trường hợp đối tượng quá xa lạ với Phật pháp. Bấy giờ người bố thí hãy nói nhân quả, làm lành tránh ác, và những gì gần gũi với đối tượng để dần dần giúp họ hiểu được nền tảng quy y.

Từ nền tảng quy y Tam Bảo là căn bản, tuần tự đến những con đường cao hơn, (Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát) mà hành giả lượng sức được mình cũng như căn cơ đối tượng, để bố thí một cách trọn vẹn.
  • Bố thí vô úy (không sợ hãi)
Bố thí không sợ hãi, tựa như bố thí Pháp; có điều bố thí không sợ hãi nghe gần gũi và dễ nhận ra hơn; vì đối tượng đang trong tình trạng lo lắng sợ hãi, được gặp người giúp đỡ cứu nguy.

Sự kiện lo sợ trong đời đại lược như: sợ nghèo đói, sợ cô đơn, sợ bóng tối, sợ thiên tai, sợ nhân tai v.v... Nói chung, những lo sợ xung đột từ thân tâm tiếp xúc ngoại cảnh qua hai vấn đề vật chất và tinh thần.

Nhận xét thấy rằng, bố thí vô úy là ý nghĩa sâu được khai triển ra từ Bố thí tài và pháp. Vì như đã nói, chỉ có hai vấn đề sợ hãi, vật chất và tinh thần; nếu đầy đủ vật chất, tinh thần thì không còn lo sợ nữa. Tất nhiên tinh thần đây phải hiểu đúng theo chánh pháp; chỉ có hiểu đúng chánh pháp mới thấy tất cả, ngược lại khó thể tránh được sợ hãi khi còn ôm giữ cái tôi (ngã) và các thứ chung quanh (pháp).

Thế thì theo nghĩa đen của bố thí không sợ hãi, ai cũng có thể làm được trong giới hạn khả năng của mình; chẳng hạn giúp người sợ nghèo đói bằng cách tìm giúp việc làm cho họ. Giúp người diệt tánh sợ hãi bóng tối, và những chuyện lo nghĩ bông lung, bằng cách giải thích hiện tượng trời đất tự nhiên trong vũ trụ; chẳng hạn họa hoạn thiên tai thuộc về sự vận hành của vật lý thiên nhiên, và cuối cùng cho biết, nhân loại ngày nay đã quá văn minh, nên chắc chắn tìm được phần nào phương pháp chống đỡ, nếu so với người xưa thật mới đáng sợ.

Tuy nhiên, sự thật mà nói, người ta không khỏi lo sợ khi chưa giải quyết được những bí ẩn cuộc đời. Do vậy khi được nhân duyên giúp đỡ đối tượng hiểu về Phật pháp, đây mới đầy đủ ý nghĩa bố thí vô uý. Bởi vì những sợ hãi như trên vừa kể sẽ không chấm dứt, và nhân loại văn minh tới đâu, vẫn không tránh được thiên tai hoạn họa. Người ban cho sự vô uý, có giải thích hay giúp đỡ thế nào cũng chỉ an ủi nhất thời, trong khi đối tượng lại mang một thứ bệnh nan y của sợ hãi!

Vì do nghiệp tánh tham sân si của con người đang trong cõi ái nhiễm, làm sao không bồn chồn lo sợ! Chỉ có giảm trừ nghiệp độc tham, sân, si mới trừ được không sợ hãi. Và như cõi Ta Bà này tìm đâu thấy phương thuốc nào ngoài Phật pháp!

Phật pháp không những giải thích, trả lời xác thực cụ thể nỗi lo sợ của con người, lại còn giúp họ dứt sự lo sợ, an sống yên vui đến cuối cuộc đời.

Với hiện tượng thiên nhiên, thiên tai trời đất, Phật pháp giải thích y như khoa học, nghĩa là do áp suất của bốn chất đất, nước, gió, lửa, không quân bình nên tạo ra sự đắp đổi bên này sang bên kia, nhân đó trở nên xáo động thành ra, động đất, núi lửa, sóng thần.v.v... Nhưng Phật pháp còn nói xa hơn, là sự kiện như vậy chỉ là hiện tượng của Thành, Trụ, Hoại, Không (Sinh, Trụ, Dị, Diệt) của hết thảy các pháp, không khác gì con người mới sanh ra chập chững, rồi già đi chết mất (thể xác). Trái đất hiện ta đang ở cũng vậy, cũng có một số tuổi giới hạn của nó, chẳng hạn 200 tỉ năm! Và bây giờ nó đã mấy tỉ tuổi rồi, thế chắc chắn nó sẽ chết trong một ngày gần đây; và triệu chứng báo chết, là những cơn bệnh như chúng ta gọi là thiên tai địa đất đó.

Về tinh thần sợ hãi mông lung, thì thuốc chửa trị của Phật phải là thần diệu; không những cứu người bệnh đời này, lại cứu đến nhiều đời sau nữa; và cứu cho đến khi chẳng còn sợ hãi! Tưởng không cần giải thích nhiều thêm toa thuốc của Phật, vì đến đây chắc con bệnh đã hiểu.

Hiểu rằng ba độc Tham, Sân, Si là nguyên nhân tác nghiệp khiến chúng sanh phải luân hồi, để sinh ra đủ thứ chuyện! Nhưng do đâu có ba độc tham, sân, si? Vì chấp ngã và pháp; nhưng sao chấp ngã, pháp? Vì vô minh! Hay vì đơn giản rằng, con bệnh chưa gặp Phật pháp thế thôi! Gặp Phật pháp, bấy giờ mới thấy Tứ Diệu Ðế là chân lý cuộc đời, và Tam Pháp Ấn(3) là phương pháp hành xử Tứ Diệu Ðế, và giải quyết Ngã, Pháp.

Tóm lại thấy rằng, Bố thí không sợ hãi, có thành tựu trọn vẹn hay không đều do hành giả khôn khéo đưa người vào chánh pháp .

Ðến đây hành giả niệm Phật đã thấy, việc bố thí là công đức không thể thiếu, và càng phải thực hành hơn. Người Phật tử mới quy y hiểu đạo, ít có nhân duyên thường xuyên thực hành công phu tu niệm, chỉ có quy y nương về chánh đạo khỏi sợ lạc đường, mà còn được khuyên tu bố thí, huống gì một hành giả đang tín tâm tu niệm.

Những phước báo công đức từ nơi niệm Phật dù đủ đưa hành giả về Cực Lạc, nhưng phước báo bố thí Tài, Pháp, Vô úy, lại bồi thêm phẩm vị vãng sanh, và nếu Pháp thí kia được thành tựu khuyên người niệm Phật, thì hành giả đã chắc chắn vãng sanh ở phẩm vị thật cao.

GHI CHÚ:

(3) - Chư hành vô thường: Mọi diễn tiến các pháp hữu vi, từ ngoại giới cho đến tâm cảnh con người đều biến đổi xê dịch.

- Chư pháp vô ngã: Tất cả các sự vật đều không có thật thể, chúng hình thành hiện hữu là do nhân duyên sinh.

- Niết Bàn tịch tĩnh: Lìa khỏi sự đối đải, thấy rõ các pháp do duyên sinh thì an vui tịch tĩnh.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Vượt luân hồi vào Tịnh Độ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chương X
VƯỢT QUA SINH TỬ
Bao thăng trầm biến động cuộc đời đã trở thành quá khứ, người tỉnh thức giờ đây chỉ biết an trú vào diệu pháp chân như qua hồng danh Phật; còn lại tất cả chỉ là những giả pháp duyên sinh quay cuồng trong pháp giới.

Ðã quá tuổi xế chiều, đã nhìn cuộc đời thật rõ và đã niệm Phật chẳng rời, từ khi nhân duyên biết qua dòng pháp giải thoát - trong đó chính sự là bản kinh thật nhỏ A Di Ðà nhưng công năng siêu việt.

Nhiều lần, người tỉnh thức phát lên cười hoan hỷ. Sao lại may mắn vậy! Sao lại giữa thế gian chìm nổi bấp bênh này có thể tìm được một con thuyền kim cương! Ðúng là thuyền kim cương chẳng sai; chỉ có kim cương mới chịu đựng được sóng to gió lớn; chỉ có kim cương mới khiến hành giả đặt trọn niềm tin rắn chắc.

Dù dòng đời là giả, dù biển lớn mênh mông chỉ là giấc mơ, dù vô số con thuyền cứu vớt kẻ đắm chìm chỉ là phương tiện, nhưng giấc mộng cuộc đời có phải là điều làm ta thổn thức bất an!

Ai sinh, ai tử, ai lặn hụp biển đời và ai đó đưa tay cứu vớt!

Có phải tự ta là chính nhân chìm đắm, và tự ta có thể cứu vớt ta chăng!

Vâng! Tất cả do ta, tất cả từ nơi ta quyết định. Nhưng biển trầm thức qua không gian vô tận, thời gian vô cùng khó mà biết được tự bao giờ ta đã trôi lăn, và tự bao giờ ta lại có duyên được ngày hôm nay. Ðó là sự liên hệ khởi lên từ dòng pháp duyên khởi trùng trùng mà kinh Hoa Nghiêm đã nói.

Do thế không phải hôm nay ta mới gặp Phật pháp, không phải hôm nay ta mới biết giáo lý siêu việt này. Ta đã biết lâu lắm rồi, nhưng vì do chưa thể thành Phật, nên vẫn phải đi đi về về qua những cảnh giới say mê của một chúng sanh ngây dại.

Và điều huyền diệu của Pháp Phật không một lực nào có thể che ngăn, nên vẫn hằng hữu trong vũ trụ và chư vị Bồ Tát vô số vô biên đi vào mọi thế giới để hóa độ chúng sanh, nhưng do ta chỉ thấm nhuần quá ít, lại do thần lực của Bồ Tát so với Phật không được khắp trùm, để chỉ là những hạt mưa nhỏ an ủi nhất thời mà không thể ướt sủng giúp ta vượt hẳn qua bờ giải thoát.

Ngày nay, lại một lần nữa trong vô số lần ngụp chìm trong dòng sinh tử, ta gặp được giáo pháp, gặp được vô số con thuyền, dù thuyền nào cũng là kim cương rắn chắc, nhưng có một con thuyền, thuyền này không buộc ta phải đơn độc tự lực lài léo con thuyền đến bến; mà cả hai, ta tự lực và tha lực của chư Thánh chúng Bồ Tát.

Tuy là vô số con thuyền tiếp vớt chúng sanh, nhưng nào chúng sanh hay biết! Giáo pháp là chân lý hiện hữu sờ sờ trước mặt nhưng nào có được bao người nhận ra; để rồi thuyền chân lý vẫn lặng lẽ trôi, mà nào đếm được mấy ai đoái hoài cần đến.

Riêng con thuyền đi thẳng bến bờ Cực Lạc, lại không dễ dàng làm khách say đắm biển mê tin nhận, nên rồi cứ mãi mà trôi!

Quả thật lực nghiệp sâu dày của chúng ta đáng sợ!

Thoáng trong suy nghĩ tự tâm, người tỉnh thức thấy mình quá hạnh phúc, vì đã đón được con thuyền Cực Lạc tây phương.

Người tỉnh thức nhẹ nhàng vững tâm ngồi xuống trong tư thế kiết già thiền định; bắt đầu theo dõi hơi thở thật đều và từ trong tâm tuôn ra hàng hàng danh hiệu Phật.

Người tỉnh thức lắng nghe, lắng nghe thật rõ danh hiệu Phật A Di Ðà, và bất chợt người đi vào định.

Trong định người thấy một hoa sen thật đẹp, thật tinh khiết vượt lên thật cao, vượt lên trên ba cõi, vượt lên cả ý thức của người, nhưng kỳ diệu hoa sen ấy vẫn ở trước mắt người tỉnh thức!

Người lại tiếp thấy một hoa, hai hoa, bốn hoa, sáu hoa đến mười, đến vạn đến vô cùng không thể đếm được, nhưng kỳ thật vô số hoa sen đó thật gần trước mắt của người.

Rồi người tự tại dạo chơi trên hoa sen trong niềm an lạc, thanh tịnh vô biên. Người thử sức dạo chơi thật nhanh để xem chu vi diện tích của hoa, nhưng nào đo lường được sự to lớn vô ngần đó. Thế là người ngừng lại ý tưởng dạo chơi, liền tức khắc người ra khỏi hoa sen và trở lại ngắm nhìn hoa như ban đầu; nhưng niềm an lạc vẫn còn vô biên ngây ngất.

Người thử phóng ý dạo chơi trở lại, tức khắc lâu đài hoa sen sáng rực, và người đang đứng vào đó; hóa ra người là sen, hay sen cũng chính là người!

Cảnh tượng xảy ra thật nhẹ nhàng, an lạc, người cảm thấy dễ chịu, không phải thắc mắc đặt ra thật hư, hư giả.

Bấy giờ một ánh sáng hực vàng hiện ra, ánh sáng thật mạnh, có thể xuyên thủng hết tất cả vật thể, nhưng không làm tổn hại đến vật nào. Ánh sáng có thể đi thật xa, xa đến ba cõi, vượt qua ý thức của người. Người tỉnh thức bấy giờ thấy mình hòa vào ánh sáng, vượt theo ánh sáng, đi qua ba cõi và đi vào vô số thế giới, nhưng người chưa ý thức được thế giới người vào là cõi Bồ Tát hay cõi Phật.

Ánh sáng thật nhanh, thật xa, thật sáng, nhưng kỳ thật người vẫn thấy được người thật gần với ánh sáng! Rồi cũng như tâm trạng vào hoa sen, người cảm thấy an lạc thanh tịnh vô biên. Người lại thử cho tâm đi vào ánh sáng, rồi đi ra, đi vào một cách dễ dàng tự tại, hóa ra người ý thức được người cũng là ánh sáng, và ánh sáng đó cũng chính là người.

Cảnh tượng xảy ra trong nhịp nhàng êm dịu tuồng như sóng nhạc lạ lùng mà người chưa từng nghe được ở thế gian; rồi người cũng chẳng thắc mắc chẳng nghi ngại, hình như bấy giờ người an định sâu hơn!

Ðến đây một đạo hào quang hiện ra rực rỡ bao trùm tất cả, vượt xuất muôn phương suốt thông ba cõi; hào quang phóng chiếu phủ lên toàn thân người tỉnh thức, hóa người thành một màu vàng óng ánh trong suốt như pha lê. Người tỉnh thức bấy giờ cảm thấy trang nghiêm thanh tịnh và an lạc vô cùng, người nhận ra một diệu dụng, một từ quang tận đáy tâm người.

Liền đó người thấy tiếp vô số hào quang quyện theo, hòa theo ánh hào quang lớn, lại tỏa ra ánh sáng vạn mầu, dường như làm người phát mạnh tâm bồ đề hơn, và cho người một niềm yêu thương sâu đậm nhất.

Những hào quang nhỏ từ từ đi sâu vào toàn thân người tỉnh thức, rồi phóng tỏa ra, cứ thế vào ra trong niềm an định tuyệt vời. Bấy giờ hào quang lớn phóng ra thật xa và hút theo các hào quang nhỏ, và hào quang nhỏ lại kết tụ phía sau hào quang lớn; lúc này người tỉnh thức trọn vẹn niềm chân tín an lạc nhứt, khi nhìn thấy hình sắc dung nghi kim tướng của hào quang lớn kia...

Người tỉnh thức xúc động quỳ xuống, kính dâng lên niềm tri cảm sâu xa thanh tịnh và nơi đây, giây phút này, người tỉnh thức nhẹ nhàng ra định trong danh hiệu Phật - rồi hoan hỷ mỉm cười, nhắm đôi mắt lại; thầm hẹn trở lại Ta Bà trong niềm yêu mến. Và ngay lúc này, một mùi hương, một nhạc lạ nhẹ vang, tiễn người về Tịnh độ.
    • Nam Mô Cực Lạc giới Di Ðà hải hội, Vô Lượng quang Như Lai.
      Thích Phổ Huân
      Kính phụng
LỜI BẠT
Những ý tưởng (tâm thức) biến hiện chập chùng trong suốt tiến trình lang thang, gặp đạo, tu đạo của kẻ lữ hành đơn độc, đã được diễn tả qua hình ảnh thâm trầm buồn vui lẫn lộn.

Buồn cho sự ngủ vùi chẳng thức tỉnh từ bao kiếp xưa, và vui khi thức tỉnh gặp được đạo vàng.

Vậy kẻ say ngủ, rồi tỉnh thức đó là ai!

Có lẽ chính chúng ta, những người hoài bão đã và đang đi tìm nghĩa lý cuộc đời trong dòng khổ mênh mông này. Hay thân tình để nói, đó là anh, là em, là Thầy là trò, là cô bác là tất cả người thân sơ đang tỉnh thức ngay giờ phút này.

Giờ phút sẽ trở nên linh thiêng nếu ta ý thức được. Vì có gì linh thiêng cho bằng cuộc đời! Có gì linh thiêng cho bằng đời sống!

Ý thức tồn tại trong đời là ý thức tối trọng; sự tối trọng phải là mạng sống con người.

Con người làm đẹp cuộc đời, con người là hiện thân tất cả.

Ý thức trong sáng rốt ráo hơn, khi con người có thể vượt lên khỏi cuộc đời, để nhìn cuộc đời trọn vẹn không dính mắc; nên chẳng bị đời vùi dập khổ đau, và như thế mới thấy chân thiện cuộc đời.

Thấy được chân thiện cuộc đời, sẽ chuyển hóa cuộc đời theo ý ta, nhận ra cuộc đời chỉ là lớp lớp nhân duyên tạo tác, duyên khởi tạo thành, nhưng tất cả từ do con người chủ động sinh ra (như là thức biến).

Cuối cùng thể hiện niềm hân hoan ôm trọn cuộc đời vào tâm, chuyển mọi ô nhiễm thế gian hóa thành thanh tịnh. Tự thấy tánh mình hằng giác, hằng còn trong vô cùng pháp giới đồng thể với pháp thân thanh tịnh. Và động lực phát khởi nhân duyên đi vào pháp thân thanh tịnh đó chính là niệm Phật vậy.

Người học Phật chỉ có một điều, trên lộ trình hành đạo, là tìm được sự an tâm, tìm được cái nhìn an nhiên trước mọi hoàn cảnh hiện tại. Niệm Phật, một trong những vô số phương tiện pháp môn giúp người an tâm, giúp người an nhiên tự tại nhìn rõ cuộc đời.

Sở dĩ ta không thể an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh, chính vì tâm chẳng được an; tâm chẳng an vì thiếu chánh niệm. Niệm Phật là chánh niệm, là sáng suốt tự tâm. Nếu Thiền quán đạt được sự an định trong đời sống qua thực tập theo dõi những thao tác của tâm, lộ hiện ra thân tướng - thì niệm Phật cũng hằng nhắc ta đang nhiếp thủ tánh giác hằng xuất ra Phật hiệu thanh tịnh nơi tâm.

Và vì đời sống hiện thời lại quá văn minh, sinh ra nhiều vấn đề phức tạp, nên việc thực hành pháp môn ghi niệm danh hiệu thanh tịnh Phật Ðà, có lẽ dễ nhắc nhở con người hơn!

Nhắc con người trong lúc say mê đắm đuối quên hẳn chính mình; quên mất ngoài vườn còn nở một nụ hoa!
  • Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
    Ðình tiền tạc dạ nhất chi mai(1).
    (Mãn Giác Thiền sư)
Nụ hoa chánh niệm đó! Nụ hoa mà mọi người đều có, nhưng bị che khuất đi, nhất là ngay đời sống của thế kỷ 21 này.

Thế kỷ mà con người hiện hơi ái ngại cho nền kỷ nguyên văn minh quá tuyệt.

Cách đây hơn mười năm, người viết có dịp được đi Âu Châu, mục kích sững sờ lượng người làm việc tấp nập, đi đi lại lại tại những trung tâm thành phố các nước văn minh như Luân Ðôn, Ba Lê, nhưng rồi gần mười năm sau, trở lại Luân Ðôn ghé thăm Ba Lê cảnh tượng vẫn y như vậy, nếu không nói còn bận hơn! Họ bận đến nỗi, tận dụng cả thời gian chờ đợi chuyến bay ở phi trường, mà chăm chú làm việc trên máy vi tính xách tay (Laptop) ngay giữa đông người qua lại.

Tuy nhiên ta phải công nhận kỹ thuật hiện đại hóa, ngày càng thay thế việc làm con người một cách hoàn hão tốt đẹp; nhưng lại e rằng; dân số thế giới rồi đây chẳng tránh được nạn "nhân mãn thất nghiệp", cũng do từ nguyên nhân phát triển này.

Thế ra thời đại văn minh quá tuyệt bây giờ, mà con người vẫn phải lu bù bận rộn. Nhưng lại mỉa mai và lạ lùng thay, một số lớn công dân trong nước văn minh sẽ thành thất nghiệp, nếu cứ đà văn minh máy móc cơ khí thay thế hết việc làm con người.

Như vậy đủ thấy, thời đại hôm nay tâm người khó thể được an! Vì người có việc làm lại quá bận làm sao tâm an. Ngược lại người sợ thất nghiệp, hay đã đang thất nghiệp còn lo lắng bất an hơn nữa.

Là người học Phật, hiểu rõ giáo lý nhân duyên, nhân quả, nên không thể bình phẩm đánh giá lỗi khuyết do ai. Huống gì đó là luật duyên sanh, nhân quả của dòng pháp hữu vi.

Tuy nhiên, đối diện với sự sinh diệt khởi lên của hoàn cảnh, người học Phật phải sáng suốt nhận định căn tánh của mình, mới có thể vượt qua khỏi vòng nhân quả trả vay, vay trả.

Thực hành pháp tu niệm Phật trong thời đại này phải nói đúng lúc, để không bị gió nghiệp cuốn hút đi, vì những lay động xúc tác của vô vàn nhiễm pháp đã và đang xâm nhập vào tâm.

Kết lại hành trình của kẻ say ngủ đã chấm dứt khi tìm lại được tự tánh mình là Phật, tự tánh mình là Như Lai Tạng, là Chân Như, là Niết Bàn, là Viên Giác, là tất cả đồng hiện xuất ra từ danh hiệu Phật A Di Ðà.

Cuối cùng người viết ước mong rằng, đoạn kết của người tỉnh thức trong tập sách này, sẽ là hiện thực một ngày đến với chúng ta.
    • Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
      Nam Mô A Di Ðà Phật

      Tỳ Kheo Thích Phổ Huân
      Chùa Pháp Bảo - Sydney
      Úc Ðại Lợi (AUSTRALIA)
      Ngày 11 tháng 3 năm 2003
GHI CHÚ:

(1) Ðừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Ðêm qua, sân trước, một cành mai.
(Ngô Tất Tố dịch)
Hình ảnh


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
Thánh_Tri
Điều Hành Viên
Bài viết: 3851
Ngày: 21/12/07 21:02

Re: Vượt luân hồi vào Tịnh Độ

Bài viết chưa xem gửi bởi Thánh_Tri »

Thế nào là Vượt Qua Sinh Tử?

Trước hết phải hiểu Sinh Tử nghĩa là gì. Không phải khi cái thân có thì gọi là sinh, và không phải khi cái thân chết mất đi rồi thì gọi là Tử. Sinh Tử là nói ngay cái tâm sanh diệt vọng động lăng xăng hằng ngày không dừng khởi niệm của mình.

Vậy thì Vượt Qua Sinh Tử không phải là còn cái thân thúi nầy trường tồn mãi mãi, cũng không phải cái thân nầy chết không còn tái lại thân khác nữa mà gọi là thoát sinh tử. Mà Vượt Qua Sinh Tử nghĩa là như thiền tông nói "Vượt Đầu Sào Trăm Thước". Trăm thước nầy là còn ý thức, còn sanh tử. Nhảy khỏi đầu sào trăm thước nầy thì mới lìa ý thức, vượt thoát sanh tử, minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật.

Do vậy, ngày nào còn chưa lìa khỏi ý thức thì ngày đó còn chưa thoát sanh tử. Ngày nào còn sống bằng vọng tâm sanh diệt vô thường thì ngày đó còn sanh tử. Chỉ khi nào trở về chân tâm, lìa khỏi vọng tâm, không còn sống bằng ý thức nữa thì mới vượt thoát sanh tử.

Dù thân thể có trường sanh bất tử, dù thân thể có chết đi trả về tứ đại mà chưa vượt khỏi ý thức thì không thể gọi là Vượt thoát sanh tử được.

Cũng không phải rời khỏi cỏi nầy sang cõi khác mà gọi là thoát sanh tử được. Bởi ngày nào còn sống bằng ý thức, chưa minh tâm kiến tánh thì ngày đó còn sanh tử dù là bất cứ ở nơi nào.

Còn người nào mà vượt thoát ý thức, nhảy khỏi đầu sào trăm thước, minh tâm kiến tánh, thì dù thân thúi vẫn còn đó, và vẫn còn sống tại cõi đời, nhưng họ vẫn được và mới that sự được gọi là người vượt thoát sinh tử.


"Tri Kiến Lập Tri Tức Vô Minh Bổn
Tri Kiến Vô Kiến Tư Tức Niết Bàn"

- Kinh Thủ Lăng Nghiêm
anhshipga
Bài viết: 554
Ngày: 05/08/12 06:07
Giới tính: Nam

Re: Vượt luân hồi vào Tịnh Độ

Bài viết chưa xem gửi bởi anhshipga »

Thánh_Tri đã viết:Thế nào là Vượt Qua Sinh Tử?

Trước hết phải hiểu Sinh Tử nghĩa là gì. Không phải khi cái thân có thì gọi là sinh, và không phải khi cái thân chết mất đi rồi thì gọi là Tử. Sinh Tử là nói ngay cái tâm sanh diệt vọng động lăng xăng hằng ngày không dừng khởi niệm của mình.

Vậy thì Vượt Qua Sinh Tử không phải là còn cái thân thúi nầy trường tồn mãi mãi, cũng không phải cái thân nầy chết không còn tái lại thân khác nữa mà gọi là thoát sinh tử. Mà Vượt Qua Sinh Tử nghĩa là như thiền tông nói "Vượt Đầu Sào Trăm Thước". Trăm thước nầy là còn ý thức, còn sanh tử. Nhảy khỏi đầu sào trăm thước nầy thì mới lìa ý thức, vượt thoát sanh tử, minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật.

Do vậy, ngày nào còn chưa lìa khỏi ý thức thì ngày đó còn chưa thoát sanh tử[. Ngày nào còn sống bằng vọng tâm sanh diệt vô thường thì ngày đó còn sanh tử. Chỉ khi nào trở về chân tâm, lìa khỏi vọng tâm, không còn sống bằng ý thức nữa thì mới vượt thoát sanh tử.

Dù thân thể có trường sanh bất tử, dù thân thể có chết đi trả về tứ đại mà chưa vượt khỏi ý thức thì không thể gọi là Vượt thoát sanh tử được.

Cũng không phải rời khỏi cỏi nầy sang cõi khác mà gọi là thoát sanh tử được. Bởi ngày nào còn sống bằng ý thức, chưa minh tâm kiến tánh thì ngày đó còn sanh tử dù là bất cứ ở nơi nào.

Còn người nào mà vượt thoát ý thức, nhảy khỏi đầu sào trăm thước, minh tâm kiến tánh, thì dù thân thúi vẫn còn đó, và vẫn còn sống tại cõi đời, nhưng họ vẫn được và mới that sự được gọi là người vượt thoát sinh tử.
Ông lại vớ vẩn. Càng nói càng sai.

1.Thế cái thân của ông đang sống phải gọi là gì đây? Nếu Sinh tử = Vọng tưởng, thì chính ông đang vọng tưởng!

Sinh là sống, Tử là chết. Sinh tử là là 2 vấn đề đối đãi về bản chất, vì chấp vào đối đãi rồi khởi tâm phân biệt mà sinh ra tình cảm ham sống sợ chết, rồi từ đó mà phải chịu đau khổ . Nếu nhìn nhận Sinh chỉ là sống, tử chỉ là chết thì ...................cứ vô tư mà sống đi!


2.Thức chẳng lìa tâm. Ông làm cách nào để lìa đây? Tôi bảo đảm ông luyện đến khi nào 1 hớp uống cạn nước sông Giang Tây thì lúc đó ông sẽ lìa.

3. Ông bị nhiễm nặng cái nghĩa "chết đi sống lại" của tổ sư tông Lâm Tế. Rồi vác cái lý luận đó đi khắp diễn đàn, gượng ép áp đặt vô tất cả mọi thứ. Nếu ông thâm sâu về yếu chỉ tông Lâm Tế thì hãy nói xem "đầu sào trăm thước" làm thế nào để bước thêm bước nửa? ( câu hỏi này của Từ Minh chứ không phải của tôi).

4. Ông nên để ý những từ mà tôi bôi đậm: đầy rẫy những phân biệt đối đãi.

Há không nghe tổ sư nói Chí đạo vô nan, duy hiềm giản trạch.


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.5 khách