Vãng sanh lễ tán kệ

Thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì pháp môn niệm Phật.

Điều hành viên: binh, battinh

Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Vãng sanh lễ tán kệ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Thiện Đạo Hòa Thượng Toàn Tập

VÃNG SANH LỄ TÁN KỆ

Đời Đường, Sa môn Thiện Đạo tập ký.
Tỳ kheo Thích Hoằng Đạo dịch Việt văn.

KỆ LỄ TÁN SÁU THỜI
Khuyến tấn tất cả chúng sinh phát nguyện vãng sinh cõi Tây phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.

(Thiện Đạo) xin cung kính sưu tập những bài Vãng Sinh Lễ Tán Kệ, hoặc từ trong kinh Vô Lượng Thọ, hoặc do các ngài Long Thọ, Thiên Thân, cùng các vị sa môn Trung quốc trước tác, hợp lại thành một quyển, chia làm sáu thời. Chỉ mong lấy đây làm chỗ buộc tâm, trợ giúp cho việc vãng sinh của chính mình, đồng thời nguyện những người chưa thấy nghe được hiểu rõ, và hơn nữa, cũng nguyện làm ích lợi cho đời sau.
  • - Thứ nhất, trong kinh Vô Lượng Thọ, Đức Thích Ca cùng mười phương chư Phật tán thán danh hiệu của Đức A Di Đà, khuyến tấn chúng sinh xưng danh, lễ lạy, tưởng niệm, nhất định sẽ vãng sinh Cực Lạc. Phần này, tổng cộng có mười chín lạy, nên lạy vào buổi chiều.

    - Thứ hai, (Thiện Đạo) y vào kinh Vô Lượng Thọ, sưu tập những đoạn văn thiết yếu, làm thành kệ lễ tán, tổng cộng có hai mươi bốn lạy, nên lạy vào buổi tối.

    - Thứ ba, y vào Nguyện Vãng Sinh Lễ Tán Kệ của ngài Long Thọ Bồ Tát, có mười sáu lạy, nên lạy vào lúc nửa đêm.

    - Thứ tư, y vào Nguyện Vãng Sinh Lễ Tán Kệ của ngài Thiên Thân Bồ Tát, có hai mươi lạy, nên lạy vào lúc cuối đêm.

    - Thứ năm, y vào Nguyện Vãng Sinh Lễ Tán Kệ của Pháp sư Ngạn Tông, có hai mươi mốt lạy, nên lạy vào buổi sáng.

    - Thứ sáu, Nguyện Vãng Sinh Lễ Tán Kệ của bần đạo (Thiện Đạo), y vào Quán Vô Lượng Thọ Kinh mà trước tác, có hai mươi lạy, nên lạy vào lúc giữa trưa.
Hỏi: Hiện nay muốn khuyến tấn mọi người vãng sinh, không biết các pháp an tâm, lập hạnh, tác nghiệp, có được nhất định vãng sinh hay không?

Trả lời: Y theo lời dạy của Quán Vô Lượng Thọ Kinh, muốn được chắc chắn vãng sinh Cực Lạc, cần phải đầy đủ ba tâm, mới được chắc chắn vãng sinh. Ba tâm đó là gì?
  • - Một là chí thành tâm, nghĩa là thân nghiệp thì chuyên cần lễ bái Đức A Di Đà, khẩu nghiệp thì chuyên cần tán thán, xưng dương Đức A Di Đà, ý nghiệp thì chuyên cần tưởng nghĩ, quán sát Đức A Di Đà. Mỗi hành động, ý nghĩ, đều phải chân thực, nên gọi là chí thành tâm.

    - Hai là thâm tâm, tức là lòng tin chân thực. Tin nhận rằng mình là phàm phu tràn đầy phiền não, thiện căn mỏng ít, trôi lăn ba cõi, chưa ra khỏi nhà lửa. Hiện nay tin nhận thệ nguyện rộng lớn của Đức A Di Đà, không một mảy may nghi ngờ. Xưng niệm danh hiệu của ngài, tối thiểu là mười niệm, chắc chắn đều được vãng sinh.

    - Ba là hồi hướng phát nguyện tâm, nghĩa là tất cả mọi thiện căn tu tập được, đều hồi hướng cầu nguyện vãng sinh, nên gọi là hồi hướng phát nguyện tâm.
Đầy đủ ba tâm này, ắt sẽ được vãng sinh. Nếu thiếu một trong ba, ắt sẽ không được vãng sinh. Như trong Quán Vô Lượng Thọ Kinh đã nói rõ ràng. Đây là điều cần phải biết.

Lại như Tịnh Độ Luận của ngài Thiên Thân có nói: "Nếu như có người phát nguyện vãng sinh, nên khuyên họ tu năm niệm môn. Năm môn nếu đầy đủ, ắt sẽ được vãng sinh". Năm môn đó là gì?
  • - Thứ nhất: Thân nghiệp lễ bái, nghĩa là nhất tâm chuyên chú, chí thành cung kính chắp tay, cúng dường hương hoa, lễ lạy Đức Phật A Di Đà. Chuyên tâm lễ bái Đức A Di Đà, cho đến trọn đời, mà không lễ bái các vị Phật, Bồ tát nào khác. Đây gọi là lễ bái môn.

    - Thứ hai: Khẩu nghiệp tán thán, nghĩa là chuyên nhất một lòng tán thán thân tướng quang minh của Đức A Di Đà, thân tướng quang minh của tất cả thánh chúng, cùng quang minh của tất cả bảo vật trang nghiêm của cõi Cực Lạc. Đây gọi là tán thán môn.

    - Thứ ba: Ý nghiệp nhớ tưởng quán sát, nghĩa là chuyên chú một lòng nhớ tưởng quán sát thân tướng quang minh của Đức A Di Đà, của tất cả thánh chúng, cùng sự trang nghiêm thanh tịnh của cõi Cực Lạc, như Quán Vô Lượng Thọ Kinh đã nói rõ. Ngoại trừ lúc ngủ, mọi thời thường thường tưởng niệm, nhớ nghĩ, quán sát những sự việc này. Đây gọi là quán sát môn.

    - Thứ tư: Bất cứ lúc nào, bất cứ nơi nào, tất cả công đức do ba nghiệp, bốn uy nghi tạo tác, không kể trước sau, lớn nhỏ, đều phải dùng lòng chân thực phát nguyện, nguyện sinh Cực Lạc. Đây gọi là tác nguyện môn.

    - Thứ năm: Đối với tất cả thiện căn mà mình tự tu tập được, cũng như tất cả thiện căn mà tất cả phàm thánh tu tập được, đều sinh lòng tùy hỷ sâu xa. Như tất cả chư Phật Bồ tát đã tu tùy hỷ, con cũng tùy hỷ như vậy, đem thiện căn tùy hỷ này, cùng thiện căn đã tu tập được, nguyện cùng với chúng sinh hồi hướng vãng sinh Cực Lạc. Đây gọi là hồi hướng môn.

    Sau khi vãng sinh Cực Lạc, được sáu thần thông, trở lại sinh tử, giáo hóa chúng sinh, lòng không nhàm mỏi, cùng tận đời vị lai, cho đến khi thành Phật. Đây cũng gọi là hồi hướng môn.
Năm môn đầy đủ, ắt sẽ được vãng sinh. Mỗi một môn, đều khế hợp với ba tâm vừa nói trên. Nên biết, khởi nghiệp tu hành năm môn vừa kể trên, không luận nhiều ít, đều gọi là hành nghiệp chân thực.

Hơn nữa, khuyến tấn hành giả tu tập "bốn pháp tu", sách tấn các hạnh ba tâm, năm niệm, mau được vãng sinh. Bốn pháp tu ấy là gì?
  • - Một là cung kính tu, nghĩa là cung kính lễ lạy Đức Phật A Di Đà, cùng tất cả thánh chúng cõi Cực Lạc. Đây gọi cung kính tu. Thệ nguyện trọn đời tu tập không gián đoạn. Đây gọi là trường thời tu.

    - Hai là vô dư tu, nghĩa là một lòng xưng niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà, một lòng nghĩ nhớ, một lòng quán tưởng, một lòng lễ lạy, tán thán Đức Phật A Di Đà, cùng tất cả thánh chúng cõi Cực Lạc, không tu những công hạnh khác. Đây gọi là vô dư tu. Thệ nguyện trọn đời tu tập không gián đoạn. Đây gọi là trường thời tu.

    - Ba là vô gián tu, nghĩa là cung kính, lễ lạy, xưng danh, tán thán, nhớ tưởng, quán sát, hồi hướng phát nguyện, niệm niệm tương tục, không để các hành nghiệp khác làm gián đoạn. Đây gọi là vô gián tu. Hơn nữa, không để cho các phiền não tham sân si làm gián đoạn sự tu tập. Mỗi khi phạm tội, liền lập tức sám hối, không để trì hoãn, giữ cho thường được thanh tịnh. Đây cũng gọi là vô gián tu. Thệ nguyện trọn đời tu tập không gián đoạn. Đây gọi là trường thời tu.
Lại nữa, các vị Bồ tát đã ra khỏi sinh tử, tất cả việc thiện tu tập được, đều hồi hướng Phật quả, đây tức là tự lợi. Giáo hóa chúng sinh, đến cùng tận đời vị lai, đây tức là lợi tha. Thế nhưng, chúng sinh đời nay, đều bị phiền não trói buộc, chưa thể thoát ly được sự khổ não của sự sinh tử trong ba đường ác, bọn họ nên tùy duyên tu tập, tất cả thiện căn đều phải mau chóng hồi hướng, cầu nguyện vãng sinh cõi Cực Lạc của Đức A Di Đà. Sau khi sanh về cõi ấy, thì sẽ không còn sự sợ hãi. Lúc ấy sẽ tự nhiên y vào bốn pháp tu trên, lợi mình lợi người, viên mãn tất cả công đức.

Kinh Văn Thù Bát Nhã nói: "Khuyến cáo người tu Nhất hành tam muội, phải nên buộc tâm vào một chỗ, ở một mình nơi thanh tĩnh, xả bỏ ý tưởng tạp loạn, buộc tâm vào một vị Phật, không nên tu pháp quán tưởng tướng mạo, mà chỉ nên chuyên tâm xưng niệm danh hiệu của ngài, thì trong một niệm có thể thấy được Đức Phật A Di Đà, cùng tất cả chư Phật v.v..."

Hỏi: Tại sao không khuyên tu pháp quán tưởng, mà lại khuyên tu pháp xưng niệm danh hiệu. Đây là có ý gì?

Trả lời: Đây là do chúng sinh nghiệp chướng sâu dầy, cảnh giới quán tưởng rất vi tế, mà tâm thì lại phù động, tán loạn. Nếu tu pháp quán tưởng e rất khó thành tựu. Đức Đại Thánh Thích Ca cảm thấy thương xót, cho nên chỉ khuyên chuyên tu xưng niệm danh hiệu. Đây là vì pháp xưng danh dễ tu, nếu như niệm niệm không gián đoạn, ắt sẽ được vãng sinh.

Hỏi: Nếu như chỉ chuyên tâm xưng niệm danh hiệu một vị Phật, tại sao lại thấy nhiều vị Phật hiện tiền. Đây phải chăng là tà chánh bất phân, hiện nhiều Phật hoặc hiện một Phật.

Trả lời: Mỗi vị Phật đều chứng nhập chân như, hình tướng quyết định không sai biệt, dù cho tuy niệm một Phật mà thấy nhiều Phật, cũng đâu có gì trái ngược với chân lý?

Hơn nữa, Quán Vô Lượng Thọ Kinh nói: Đức Phật khuyên chúng sinh lúc tọa thiền, quán tưởng, lạy Phật, niệm Phật v.v..., tốt nhất là nên xoay về hướng tây, giống như cây nghiêng về hướng nào thì sẽ ngã về hướng đó. Trong trường hợp bất đắc dĩ, không thể xoay về hướng tây, thì nên quán tưởng mình đang xoay về hướng đó cũng được.

Hỏi: Tất cả chư Phật, đồng chứng ba thân, viên mãn từ bi, trí tuệ ắt không có sự khác biệt. Hành giả tùy sức mình lễ lạy, tưởng nghĩ, ấn định thời khóa xưng niệm danh hiệu một vị Phật, đều được vãng sinh. Tại sao lại chỉ tán thán Tây phương, khuyên chuyên tâm lễ lạy, tưởng niệm v.v... Đây là có ý nghĩa gì?

Trả lời: Cảnh giới mà chư Phật chứng đắc, đều bình đẳng như nhau. Nếu như từ phương diện phát nguyện mà nói, đây không phải là không có nhân duyên. Như Đức Phật A Di Đà, vốn đã phát thệ nguyện sâu nặng, dùng danh hiệu, quang minh, nhiếp thọ giáo hoá mười phương chúng sinh, hơn nữa, những người có lòng tin, niệm Phật cầu vãng sinh, hoặc hành trì trọn đời, hoặc ít nhất là xưng niệm mười danh hiệu, do nguyện lực của Phật, đều được vãng sinh dễ dàng. Bởi thế, Đức Thích Ca, cũng như chư Phật đều khuyến tấn hành giả chuyên tu hạnh Tây phương. Đây là điều khác biệt. Vả lại, đây không có nghĩa là xưng niệm danh hiệu các Đức Phật khác thì không thể trừ chướng, diệt tội. Nên biết điều này.

Nếu như có thể hành trì như trên, niệm niệm tương tục, trọn hết một đời, thì chắc chắn mười người tu, mười người vãng sinh, trăm người tu, trăm người vãng sinh. Vì sao? Vì không có tạp duyên nào khác, nên đắc được chánh niệm, vì tương ưng với bổn nguyện của Phật, vì không đi ngược với giáo lý, và vì tùy thuận lời dạy của Phật.

Nếu như xả bỏ sự chuyên tâm mà tu tạp nghiệp, thì trăm người tu, chỉ có được một hai người vãng sinh, ngàn người tu chỉ có năm ba người vãng sinh. Vì sao? Vì tạp duyên loạn động làm mất chánh niệm, vì không tương ưng với bổn nguyện của Phật, vì đi ngược với giáo lý, vì làm trái với lời dạy của Phật, vì hệ niệm không tương tục, vì sự tưởng nghĩ đến Phật thường gián đoạn, vì sự hồi hướng không ân cần, chân thực, vì các phiền não tham, sân thường đến làm gián đoạn chánh niệm, vì không có tâm hổ thẹn sám hối, vì không tương tục nghĩ nhớ đến việc báo ơn Phật, vì sinh khởi tâm khinh mạn, tuy cũng tu tập, nhưng lại chạy theo danh lợi, vì hay phân biệt nhân ngã, không chịu thân cận những bậc đồng tu thiện tri thức, và vì thích gần gũi những tạp duyên, làm chướng ngại chánh hạnh vãng sinh của chính mình và người khác.

Gần đây, tôi tự mình nghe rằng người tăng kẻ tục ở khắp mọi nơi, kiến giải, công hạnh không đồng nhau, chuyên tu tạp tu cũng không giống nhau, thế nhưng, những người chuyên ý tu tập, thì mười người vãng sinh cả mười, còn những người tu tạp hạnh, tâm ý không chuyên nhất, thì trong ngàn người tu, không có đến một người vãng sinh!

Hai hạnh "được, mất" này, như phần trên vừa nói rõ, ngưỡng mong các vị tu hạnh vãng sinh, cần phải khéo léo suy ngẫm. Nếu như trong đời này, đã có thể phát nguyện vãng sinh Cực Lạc, thì trong tất cả mọi lúc, đi đứng nằm ngồi, đều nên tự khuyến tấn mình, ngày đêm không bỏ phế, trọn suốt một đời hành trì chánh hạnh. Trong cuộc đời này, dường như phải chịu chút khổ, thế nhưng, giây phút trước vừa mệnh chung, giây phút sau ắt sẽ vãng sinh Cực Lạc, từ đó thọ mệnh vô cùng, vĩnh viễn hưởng thọ sự vui sướng, nhẫn đến khi thành Phật, không còn phải chịu sự khổ sinh tử, đây không phải là điều vui thú hay sao?


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Vãng sanh lễ tán kệ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

PHẦN THỨ NHẤT
Trong kinh Vô Lượng Thọ, Đức Thích Ca khuyến khích hành giả lễ bái, tán thán mười hai danh hiệu quang minh của Đức A Di Đà. Tổng cộng gồm mười chín lạy cầu nguyện vãng sinh. Nên lạy vào buổi chiều. Dùng đây làm pháp sám hối bậc trung và bậc hạ cũng được.

1. Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật cùng tất cả Tam bảo. Con nay xin đảnh lễ, nguyện vãng sinh Cực Lạc.

Đức Phật Thích Ca là bậc thầy của tất cả tăng tục hiện đời. Tam bảo là phước điền vô lượng. Nếu có thể lạy một lạy, tức là nhớ nghĩ đến việc báo đáp ơn Thầy, nhờ đây mà hoàn thành công hạnh, rồi dùng công hạnh này hồi hướng cầu sanh Cực Lạc.

2. Nam mô mười phương, ba đời, tất cả Tam bảo, trong vi trần cõi nước, tận hư không, khắp pháp giới. Con nay xin đảnh lễ, nguyện vãng sinh Cực Lạc.

Mười phương hư không vô biên, Tam bảo vô tận. Nếu như lạy một lạy, tức là phước điền vô lượng, công đức vô cùng. Nếu có thể chí tâm lạy một lạy, thì đối với tất cả Phật, tất cả pháp, tất cả Bồ tát thánh tăng, tất cả xá lợi, đều được thiện căn giải thoát cho thân khẩu ý, tăng ích đạo nghiệp, dùng đây hồi hướng cầu nguyện vãng sinh.

3. Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật. Nguyện cùng chúng sinh đều quy mạng, con xin đảnh lễ sinh Cực Lạc.

Hỏi: Vì sao hiệu là A Di Đà?

Trả lời: Kinh A Di Đà và kinh Quán Vô Lượng Thọ đều nói: Đức Phật A Di Đà, quang minh vô lượng, chiếu mười phương cõi, không bị chướng ngại, chỉ riêng nhiếp thủ chúng sinh tu pháp quán tưởng và niệm danh hiệu Phật, cho nên hiệu là A Di Đà. Đức Phật A Di Đà cùng tất cả nhân dân trong cõi Cực Lạc thọ mạng vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, cho nên hiệu là A Di Đà. Lại nữa, Đức Thích Ca cùng mười phương chư Phật, tán thán quang minh của Đức A Di Đà, có mười hai tên gọi, đều khuyên chúng sinh, xưng danh lễ lạy, tương tục không gián đoạn, hiện đời sẽ được vô lượng công đức, sau khi mạng chung, quyết định sẽ được vãng sinh. Như kinh Vô Lượng Thọ nói: "Nếu chúng sinh nào, chạm quang minh này, ba cấu tiêu diệt, thân ý nhu nhuyễn, hoan hỷ vui mừng, sanh các tâm lành. Nếu trong tam đồ, hoặc nơi khổ sở, thấy quang minh này, không còn khổ não, đến khi mạng chung, đều được giải thoát. Phật Vô Lượng Thọ, quang minh rực rỡ, soi khắp mười phương, khắp các cõi Phật, đều cùng nghe thấy. Không phải chỉ mình ta khen ngợi quang minh ấy, mà tất cả chư Phật Bồ tát, Thanh văn Duyên giác v.v..., thảy đều khen ngợi. Nếu chúng sinh nào, nghe được oai thần công đức của quang minh này, một lòng xưng tán, ngày đêm không ngừng, tùy theo ý nguyện của mình mà được vãng sinh. Thường được các vị Bồ tát, Thanh văn, ca ngợi công đức. Phật nói: Sự thù thắng vi diệu, cùng uy thần của quang minh của Phật A Di Đà, dù ta nói liên tục ngày đêm, trải qua một đại kiếp, cũng không nói hết được".

Kính thưa các hành giả, phải nên biết rằng, tướng hảo quang minh của Đức A Di Đà, Đức Thích Ca Như Lai dù nói một kiếp cũng không hết được. Như Quán Vô Lượng Thọ Kinh nói: "Mỗi một quang minh, chiếu khắp mười phương thế giới, nhiếp thọ không bỏ chúng sanh niệm Phật". Hiện nay, Quán Vô Lượng Thọ Kinh đã có những nhân duyên tăng thượng thù thắng để nhiếp thọ hộ trì hành giả, tại sao (hành giả) lại không chịu tương tục xưng danh, quán sát, lễ bái, tưởng niệm, cầu nguyện vãng sinh cõi nước Cực Lạc!

4. Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Vô Lượng Quang Phật. Nguyện cùng chúng sinh đều quy mạng. Con xin đảnh lễ sinh Cực Lạc.

5. Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Vô Biên Quang Phật. Nguyện cùng chúng sinh đều quy mạng. Con xin đảnh lễ sinh Cực Lạc.

6. Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Vô Ngại Quang Phật. Nguyện cùng chúng sinh đều quy mạng. Con xin đảnh lễ sinh Cực Lạc.

7. Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Vô Đối Quang Phật. Nguyện cùng chúng sinh đều quy mạng. Con xin đảnh lễ sinh Cực Lạc.

8. Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Diệm Vương Quang Phật. Nguyện cùng chúng sinh đều quy mạng. Con xin đảnh lễ sinh Cực Lạc.

9. Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Thanh Tịnh Quang Phật. Nguyện cùng chúng sinh đều quy mạng. Con xin đảnh lễ sinh Cực Lạc.

10. Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Hoan Hỷ Quang Phật. Nguyện cùng chúng sinh đều quy mạng. Con xin đảnh lễ sinh Cực Lạc.

11. Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Trí Tuệ Quang Phật. Nguyện cùng chúng sinh đều quy mạng. Con xin đảnh lễ sinh Cực Lạc.

12. Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Bất Đoạn Quang Phật. Nguyện cùng chúng sinh đều quy mạng. Con xin đảnh lễ sinh Cực Lạc.

13. Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Nan Tư Quang Phật. Nguyện cùng chúng sinh đều quy mạng. Con xin đảnh lễ sinh Cực Lạc.

14. Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Vô Xứng Quang Phật. Nguyện cùng chúng sinh đều quy mạng. Con xin đảnh lễ sinh Cực Lạc.

15. Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật. Nguyện cùng chúng sinh đều quy mạng. Con xin đảnh lễ sinh Cực Lạc.

16. Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật, thương xót che chở con, khiến hạt giống pháp tăng trưởng, đời này và đời sau, nguyện Phật thường nhiếp thọ. Nguyện cùng chúng sinh đều quy mạng. Con xin đảnh lễ sinh Cực Lạc.

17. Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Quán Thế Âm Bồ tát. Nguyện cùng chúng sinh đều quy mạng. Con xin đảnh lễ sinh Cực Lạc.

18. Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Đại Thế Chí Bồ tát. Nguyện cùng chúng sinh đều quy mạng. Con xin đảnh lễ sinh Cực Lạc.

Tất cả hành giả niệm Phật, lúc lâm chung, hai vị Bồ tát này đều cầm đài hoa đến tiếp dẫn. Đức Phật A Di Đà phóng đại quang minh chiếu thân hành giả, lại cùng vô số Hóa Phật, các vị Bồ tát, Thanh văn, v.v..., đồng thời đưa tay tiếp đón. Trong khoảnh khảy ngón tay, hành giả được vãng sinh Cực Lạc. Vì muốn báo ân, cho nên chí tâm đảnh lễ một lạy.

19. Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới chư Bồ tát Thanh tịnh Đại hải chúng. Nguyện cùng chúng sinh đều quy mạng. Con xin đảnh lễ sinh Cực Lạc.

Các vị Bồ tát này, cùng theo Phật đến tiếp dẫn hành giả. Vì muốn báo ân, cho nên chí tâm đảnh lễ một lạy.

Nguyện vì sư tăng, cha mẹ, các bậc thiện tri thức, cùng pháp giới chúng sinh, đoạn trừ ba chướng, được vãng sinh cõi Cực Lạc của Đức A Di Đà, xin quy mạng sám hối.

Chí tâm sám hối.
  • Nam mô sám hối thập phương Phật,
    Nguyện diệt tất cả tội gốc rễ.
    Nay đem phước thiện đã tu tập,
    Làm nhân an lạc cho chúng sinh.
    Xin nguyện tất cả lúc lâm chung,
    Thắng duyên, thắng cảnh đều hiện tiền.
    Nguyện thấy Đại Bi A Di Đà,
    Quán Âm, Thế Chí, mười phương Phật.
    Mong các ngài, uy thần nhiếp thọ,
    Nương bổn nguyện Phật, sinh Cực Lạc.
Sám hối phát nguyện xong rồi, chí tâm quy mạng A Di Đà Phật.

Sau đó xướng bài kệ phát nguyện:
  • Các công đức lễ sám,
    Xin nguyện lúc lâm chung.
    Thấy Phật Vô Lượng Thọ,
    Thân vô biên công đức.
    Những ai có lòng tin,
    Sau khi được thấy Phật.
    Nguyện được mắt "ly cấu",
    Vãng sinh cõi Cực Lạc,
    Thành Vô thượng Bồ đề.
Sám hối phát nguyện rồi, tất cả cung kính:
  • Quy y Phật, đắc Bồ đề,
    Đạo tâm thường không thoái chuyển.
    Nguyện cùng tất cả chúng sinh,
    Hồi hướng nguyện sinh An Lạc.
    Quy y Pháp, được trí tuệ,
    Chứng đắc môn Đại tổng trì.
    Nguyện cùng tất cả chúng sinh,
    Hồi hướng nguyện sinh An Lạc.
    Quy y tăng, dứt tranh luận,
    Cùng nhau sống chung hòa hợp.
    Nguyện cùng tất cả chúng sinh,
    Hồi hướng nguyện sinh An Lạc.
Xin cho ba nguyện của chúng sinh được thanh tịnh, phụng trì lời Phật dạy, kính lễ tất cả hiền thánh. Nguyện cùng tất cả chúng sinh, hồi hướng vãng sinh nước An Lạc.

Các vị hãy lắng nghe bài kệ vô thường buổi chiều:
  • Cả đời bận bịu lo sự việc,
    Nào biết tuổi đời lướt qua nhanh.
    Mạng sống như ngọn đèn trước gió,
    Trôi lăn sáu nẻo, biết về đâu?,
    Chưa được giải thoát khỏi biển khổ
    Sao lại dửng dưng không lo sợ.
    Mọi người hãy nhân khi tráng kiện,
    Cố gắng nỗ lực cầu thánh đạo.
Tụng bài kệ này xong, hãy nên phát nguyện thêm:

Nguyện đệ tử chúng con, lúc sắp mạng chung, tâm không điên đảo, ý không thác loạn, không mất chánh niệm, thân tâm không bị thống khổ, mà được an tường, như nhập thiền định. Chư thánh chúng hiện ra trước mặt, con nương bổn nguyện của Phật, được về cõi Cực Lạc, thượng phẩm vãng sinh. Sau khi vãng sinh, được sáu thần thông, đi khắp mười phương thế giới, nhiếp thọ, cứu độ chúng sinh khổ não. Chừng nào hư không giới tận, thệ nguyện của con mới tận. Phát nguyện xong rồi, xin chí tâm quy mạng A Di Đà Phật.

Bài kệ buổi tối:
  • Phiền não sâu không đáy,
    Biển sinh tử vô biên.
    Thuyền vượt khổ chưa có,
    Sao vẫn còn ngủ yên.
    Phải siêng năng tinh tiến,
    Nhiếp tâm tu tọa thiền.
Bài kệ nửa đêm:
  • Các vị đừng ôm thây thúi ngủ,
    Các thứ bất tịnh, tạm gọi người.
    Như bị bệnh nặng, bị tên đâm,
    Các khổ tụ tập, sao còn ngủ?
Bài kệ cuối đêm:
  • Thời gian trôi qua nhanh,
    Thoắt đã đến canh năm.
    Niệm niệm, vô thường đến,
    Thường sống với thần chết.
    Khuyên các vị tu đạo,
    Siêng tu, chứng Niết bàn.
Bài kệ buổi sáng:
  • Muốn được vui tịch diệt
    Thường học pháp sa môn.
    Y, thực, nuôi mạng sống,
    Đẹp, xấu, tùy người cho.
Các vị, buổi sáng mỗi người nên tụng "lục niệm".

Bài kệ buổi trưa:
  • Người mà không tinh tiến,
    Như cây không có gốc.
    Hoa hái để dưới nắng,
    Tươi tốt được bao lăm?
    Đời người cũng như vậy,
    Vô thường đến bất ngờ.
    Khuyên các người tu đạo,
    Siêng tu mới là chân.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Vãng sanh lễ tán kệ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

PHẦN THỨ HAI
Sa môn Thiện Đạo, y vào kinh Vô Lượng Thọ, sưu tập những kinh văn thiết yếu, làm thành kệ lễ tán, tổng cộng có hai mươi bốn lạy, nên lạy vào buổi tối.

1. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Biển trí nguyện Di Đà,
    Rộng sâu không bờ đáy.
    Nghe tên, muốn vãng sinh,
    Đều được sinh Cực Lạc.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
2. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Ở thế giới Ta bà,
    Có sáu mươi bảy ức.
    Bồ tát bất thoái chuyển,
    Đều được sinh Cực Lạc.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
3. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Các vị tiểu Bồ tát,
    Cùng người tu ít phước.
    Số lượng không kể xiết,
    Đều được sinh Cực Lạc.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
4. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Trong mười phương cõi Phật,
    Chư Bồ tát, Tỳ kheo.
    Số lượng không đếm xiết,
    Đều được sinh Cực Lạc.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
5. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Tất cả các Bồ tát,
    Đem hoa trời vi diệu.
    Báu, hương, y vô giá,
    Cúng dường Phật Di Đà.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
6. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Cùng nhau tấu nhạc trời,
    Cất tiếng ca hòa nhã.
    Tán thán bậc Chí Tôn,
    Cúng dường Phật Di Đà.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
7. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Tuệ nhật chiếu thế gian,
    Tiêu trừ mây sinh tử.
    Kính nhiễu Phật ba vòng,
    Đảnh lễ Di Đà Tôn.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
8. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Thấy Cực Lạc nghiêm tịnh,
    Vi diệu, bất tư nghì.
    Liền phát tâm Vô thượng,
    Nguyện nước con cũng vậy.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
9. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Khi ấy Phật Di Đà,
    Hân hoan nở nụ cười.
    Miệng xuất vô lượng quang,
    Chiếu khắp mười phương cõi.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
10. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Quang quay về nhiễu Phật,
    Ba vòng, nhập vào đảnh.
    Tất cả chúng trời, người,
    Đều hân hoan, vui mừng.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
11. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Tiếng Phật rền như sấm,
    Phạm âm giảng pháp mầu.
    Mười phương Bồ tát đến,
    Phật đều biết nguyện họ.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
12. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Sanh về cõi Cực Lạc,
    Mau chóng được thần thông.
    Đức Phật A Di Đà,
    Thọ ký thành Chánh Giác.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
13. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Cung kính vui vẻ đi,
    Du hóa mười phương cõi.
    Phụng sự muôn ức Phật,
    Rồi trở về Cực Lạc.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
14. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Người không có thiện căn,
    Không nghe được tên Phật.
    Kẻ kiêu mạn, biếng lười,
    Khó mà tin pháp này.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
15. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Quá khứ gặp chư Phật,
    Mới tin được pháp này.
    Khiêm, kính, nghe, phụng hành,
    Lòng vui mừng, hoan hỷ.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
16. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Ai nghe được danh hiệu,
    Đức Phật A Di Đà.
    Vui mừng, thường nhớ nghĩ,
    Đều được sinh cõi ấy.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
17. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Dù qua biển lửa lớn,
    Để được nghe tên Phật.
    Rồi vui mừng khen ngợi,
    Đều được sanh Cực Lạc.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
18. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Vạn năm, Tam bảo diệt,
    Kinh này trụ trăm năm.
    Lúc đó, nghe một niệm,
    Đều được sanh Cực Lạc.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
19. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Khó gặp đời có Phật,
    Khó đầy đủ tín, tuệ.
    Được gặp, nghe pháp mầu,
    Điều này lại càng khó.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
20. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Tự tin, bảo người tin,
    Đây là điều rất khó.
    Đại bi, độ tất cả,
    Chân thành báo Phật ân.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
21. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Thương xót, che chở con,
    Làm lớn hạt giống Pháp.
    Đời này và đời sau,
    Xin Phật thường nhiếp thọ.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
22. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương Cực Lạc thế giới Quán Thế Âm Bồ tát.
  • Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
23. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương Cực Lạc thế giới Đại Thế Chí Bồ tát.
  • Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh cõi An Lạc.
24. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương Cực Lạc thế giới chư Bồ tát Thanh tịnh Đại hải chúng.
  • Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
Nguyện vì sư tăng, cha mẹ, các bậc thiện tri thức, cùng pháp giới chúng sinh, đoạn trừ ba chướng, được vãng sinh cõi Cực Lạc của Đức A Di Đà, xin quy mạng sám hối.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Vãng sanh lễ tán kệ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

PHẦN THỨ BA
Y vào Nguyện Vãng Sinh Lễ Tán Kệ của Long Thọ Bồ Tát, tổng cộng có mười sáu lạy, nên lạy vào buổi tối.

1. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Kính lạy Bậc trời người cung kính,
    A Di Đà Phật Lưỡng Túc Tôn.
    Ở cõi nước An Lạc vi diệu,
    Vô lượng chúng đệ tử vây quanh.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
2. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Thân vàng thanh tịnh như núi vua,
    Dáng đi an định như voi chúa.
    Đôi mắt thanh tịnh như sen xanh,
    Con xin cúi lạy Phật Di Đà.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
3. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Tôn nhan thanh tịnh như trăng rằm,
    Uy quang tỏa sáng ngàn nhật nguyệt.
    Âm thanh tựa trống trời Xí la,
    Con xin cúi lạy Phật Di Đà.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
4. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Thân trụ trong mão Đức Quán Âm,
    Đầy đủ diệu tướng bảo trang nghiêm.
    Hàng phục ngoại đạo, ma kiêu mạn,
    Con xin cúi lạy Phật Di Đà.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
5. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Không nhơ, khó sánh, đại thanh tịnh,
    Đức hạnh sáng sạch như hư không.
    Việc làm lợi ích, được tự tại,
    Con xin cúi lạy Phật Di Đà.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
6. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Mười phương chư Bồ tát nổi danh,
    Cùng các loài ma đều tán thán.
    Vì chư chúng sinh, trụ nguyện lực,
    Con xin cúi lạy Phật Di Đà.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
7. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Ao báu đáy vàng sinh liên hoa,
    Thiện căn sinh vi diệu đài tòa.
    Ngài ngự trên tòa uy nghiêm quá,
    Con xin cúi lạy Phật Di Đà.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
8. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Các Bồ tát từ khắp mười phương,
    Hiện thần thông đến cõi An Lạc,
    Cung kính chiêm ngưỡng tôn nhan Phật,
    Con xin cúi lạy Phật Di Đà.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
9. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Mọi vật đều vô thường, vô ngã,
    Như trăng dưới nước, điện, ảnh, sương.
    Vì chúng nói pháp vô danh tự,
    Con xin cúi lạy Phật Di Đà.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
10. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Cõi nước Cực Lạc không ác danh,
    Không có người nữ, cùng ác đạo.
    Mọi người chí tâm kính trọng Phật,
    Con xin cúi lạy Phật Di Đà.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
11. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Cõi ấy có vô số phương tiện,
    Không có nẻo ác, cùng bạn ác.
    Vãng sinh, không thoái, sẽ thành Phật,
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
12. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Công đức của Phật A Di Đà,
    Việc thiện vô biên như biển lớn.
    Hành giả tu thiện căn thanh tịnh,
    Hồi hướng pháp giới, sinh Cực Lạc.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
13. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Thương xót che chở con,
    Làm lớn hạt giống Pháp.
    Đời này và đời sau,
    Nguyện Phật thường nhiếp thọ.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
14. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương Cực Lạc thế giới Quán Thế Âm Bồ tát.
  • Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
15. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương Cực Lạc thế giới Đại Thế Chí Bồ tát.
  • Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước Cực Lạc.
16. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương Cực Lạc thế giới chư Bồ tát Thanh tịnh Đại hải chúng.
  • Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
Nguyện vì sư tăng, cha mẹ, các bậc thiện tri thức, cùng pháp giới chúng sinh, đoạn trừ ba chướng, được vãng sinh cõi Cực Lạc của Đức A Di Đà, xin quy mạng sám hối.

Chí tâm sám hối:
  • Từ vô thỉ, thọ thân đến nay,
    Thường dùng mười ác, hại chúng sinh.
    Bất hiếu cha mẹ, báng Tam bảo,
    Tạo tội ngũ nghịch, nghiệp không lành.
    Vì những nhân duyên tội ác này,
    Vọng tưởng điên đảo, thường trói buộc.
    Nên thọ vô lượng khổ sinh tử,
    Cúi xin sám hối, nguyện tiêu trừ.
Sám hối phát nguyện xong rồi, chí tâm quy mạng A Di Đà Phật.

Chí tâm khuyến thỉnh:
  • Chư Phật đại từ Vô thượng tôn,
    Thường dùng :không tuệ" chiếu ba cõi,
    Chúng sinh đui mù, không hiểu biết.
    Trầm luân biển khổ lớn sinh tử,
    Thỉnh thường trụ thế chuyển pháp luân.
    Cứu độ chúng sinh thoát cảnh khổ.
Khuyến thỉnh xong rồi, chí tâm quy mạng A Di Đà Phật.

Chí tâm tùy hỷ:
  • Từ xưa nay, ôm lòng đố kỵ,
    Ngã mạn, phóng dật, vì vô minh.
    Thường đem lửa sân hận độc hại,
    Thiêu đốt thiện căn từ, trí tuệ.
    Hôm nay suy tư mới tỉnh ngộ,
    Phát tâm tinh tiến đại tùy hỷ.
Tùy hỷ xong rồi, chí tâm quy mạng A Di Đà Phật.

Chí tâm hồi hướng:
  • Trôi lăn trong ba cõi,
    Si, ái, nhập bào thai.
    Sinh ra, rồi già, chết,
    Chìm đắm trong biển khổ.
    Con nay tu phước này,
    Hồi hướng sinh An Lạc.
Hồi hướng xong rồi, chí tâm quy mạng A Di Đà Phật.

Chí tâm phát nguyện:
  • Nguyện xả bỏ bào thai,
    Vãng sinh nước An Lạc.
    Mau thấy Phật Di Đà,
    Thân vô biên công đức.
    Được phụng sự chư Phật,
    Cùng chư vị hiền thánh.
    Được sáu phép thần thông,
    Cứu hộ chúng sinh khổ.
    Hư không pháp giới tận,
    Nguyện con mới cùng tận.
Phát nguyện xong rồi, chí tâm quy mạng A Di Đà Phật. (Những phần còn lại, cũng giống như trên).


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Vãng sanh lễ tán kệ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

PHẦN THỨ TƯ
Y vào Nguyện Vãng Sinh Lễ Tán Kệ của ngài Thiên Thân, tổng cộng có hai mươi lạy, nên lạy vào lúc cuối đêm. (Phần sám hối giống như trên).

1. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Thế Tôn, con một lòng,
    Quy mạng khắp mười phương.
    Vô Ngại Quang Như Lai,
    Cùng Phật giáo tương ưng.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
2. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Quán tướng thế giới kia,
    Hơn hẳn đường ba cõi.
    Cứu cánh tựa hư không,
    Rộng lớn không bờ bến.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
3. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Chánh đạo đại từ bi,
    Thiện căn xuất thế sinh.
    Quang minh sạch đầy đủ,
    Như gương vành nhật nguyệt.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
4. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Đủ tính chất trân bảo,
    Gồm hết diệu trang nghiêm.
    Quang vô cấu rực rỡ,
    Sáng sạch rọi thế gian.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
5. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Hoa báu ngàn vạn loại,
    Che khắp suối ao hồ.
    Gió thoảng lay hoa lá,
    Quang giao thoa động chuyển.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
6. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Cung điện cùng lầu gác,
    Thấy mười phương không ngại.
    Cây tạp đủ quang sắc,
    Lan can báu giáp vòng.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
7. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Vô lượng bảo giao nhau,
    Hư không giăng lưới ngọc.
    Đủ loại linh vang hưởng,
    Ngân nga âm diệu pháp.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
8. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Phạm âm ngộ sâu xa,
    Vi diệu vọng mười phương.
    Chánh giác A Di Đà,
    Vua Pháp khéo trụ trì.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
9. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Như Lai tịnh hoa chúng,
    Chánh giác hoa hóa sinh.
    Yêu thích vị Phật pháp,
    Thiền định làm món ăn.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
10. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Dứt lìa thân tâm não,
    Thường thọ lạc không ngừng.
    Cõi thiện căn Đại thừa,
    Bình đẳng, không tên xấu.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
11. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Người nữ, người tàn tật,
    Cùng Nhị thừa không sinh.
    Chúng sinh bao ước nguyện,
    Tất cả đều đầy đủ.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
12. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Vô lượng vua báu lớn,
    Đài hoa sạch vi diệu.
    Tướng tốt rạng một tầm,
    Sắc tượng vượt quần sanh.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
13. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Chúng trời, người, bất động,
    Biển trí thanh tịnh sinh.
    Như núi chúa Tu Di,
    Thắng diệu không ai sánh.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
14. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Chúng trượng phu trời, người,
    Chiêm ngưỡng, kính vây quanh.
    Mưa thiên nhạc, hoa, y,
    Diệu hương, cúng dường Phật.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
15. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Nước An Lạc thanh tịnh,
    Thường chuyển vô cấu luân.
    Hoá Phật, Bồ tát nhật,
    Như Tu Di trụ trì.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
16. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Dùng tâm không phân biệt,
    Tán thán công đức Phật.
    Có thể mau đầy đủ,
    Biển báu công đức lớn.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
17. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Thương xót che chở con,
    Tăng trưởng hạt giống Pháp.
    Đời này và đời sau,
    Xin Phật thường nhiếp thọ.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
18. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương Cực Lạc thế giới Quán Thế Âm Bồ tát.
  • Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
19. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương Cực Lạc thế giới Đại Thế Chí Bồ tát.
  • Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
20. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương Cực Lạc thế giới chư Bồ tát Thanh tịnh đại hải chúng.
  • Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
Nguyện vì sư Tăng, cha mẹ, các bậc thiện tri thức, cùng pháp giới chúng sinh, đoạn trừ ba chướng, được vãng sinh cõi Cực Lạc của Đức A Di Đà, xin quy mạng sám hối.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Vãng sanh lễ tán kệ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

PHẦN THỨ NĂM

Y vào Nguyện Vãng Sinh Lễ Tán Kệ của pháp sư Ngạn Tông, tổng cộng có hai mươi mốt lạy, nên lạy vào buổi sáng.

1. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Nhân địa Pháp Tạng lâu,
    Quả báo Cực Lạc sâu.
    Trân báu làm mặt đất,
    Bảo ngọc mọc thành rừng.
    Hoa sắc màu hy hữu,
    Sóng giảng pháp nhiệm màu.
    Chừng nào được tiếp dẫn,
    Thỏa mãn tâm mong cầu.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
2. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Đời trược khó ở lâu,
    Nguyện vãng sinh càng sâu.
    Dây vàng giăng lối bước,
    Lưới ngọc phủ rừng châu.
    Màu sắc toàn màu thật,
    Âm thanh diễn pháp mầu.
    Chớ nghĩ Tây phương viễn,
    Chỉ cần mười niệm sâu.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
3. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Đã thành bậc Chánh giác,
    Chân hữu khắp không uy.
    Ở Tây phương hiện nhỏ,
    Chỉ là tạm tùy cơ.
    Lá châu màu rạng rỡ,
    Nước, cát chói hoàng huy.
    Muốn được vô sinh quả,
    Cực Lạc phải nương y.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
4. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Tướng bạch hào sáng chói,
    Dấu tay báu rõ ràng.
    Đất, nước đều là kiếng,
    Hương, hoa nhiều như mây.
    Siêng tu, vãng sinh dễ,
    Tu ít, khó nghe danh.
    Nếu như không nghi hoặc,
    Trội hơn cả đám đông.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
5. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Lòng tràn đầy từ bi,
    Quang minh trùm pháp giới.
    Vô duyên độ chúng sinh,
    "Hữu tướng định" không khó.
    Hoa, tùy tâm biến đổi,
    Cung điện, tùy thân hiện.
    Cảnh xuất thế hy hữu,
    Nhập thiền mới nhìn ra.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
6. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Do công đức hồi hướng,
    Sẽ được vãng Tây phương.
    Tràng phan đầy bảo địa,
    Gió mát thổi hương trời.
    Sen báu đầy mặt nước,
    Lưới báu phủ hư không.
    Nếu nguyện sinh tha thiết,
    Sẽ khoái lạc vô cùng.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
7. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Muốn chọn cõi vãng sinh,
    Tây phương là đúng nhất.
    Cây báu cùng lầu báu,
    Lối đi lót y trời.
    Cơm thơm tùy tâm hiện,
    Lầu báu theo bên thân.
    Có duyên đều vào được,
    Nhưng ít người vãng sinh.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
8. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Thành Phật đã mười kiếp,
    Lập cõi độ chúng sinh.
    Đáy ao vàng chói sáng,
    Lá bằng ngọc sáng ngời.
    Chim từ châu báu hiện,
    Người từ hoa hóa sinh.
    Xin thỉnh chư thánh chúng,
    Sớm đến rước vãng sinh.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
9. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Các cõi Phật mười phương,
    Đều là nhà Pháp vương.
    Nếu tìm cõi hữu duyên,
    Sớm mong chớ tìm lầm.
    Nước công đức như ý,
    Hoa làm bằng bảy báu.
    Nếu như thường quán tưởng,
    Cõi Cực Lạc không xa.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
10. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Cực Lạc không biến đổi,
    Xưa nay thường như vậy.
    Đài sáng bằng ngàn báu,
    Bát phong hòa tiếng nhạc.
    Ao nhiều chim thuyết pháp,
    Khắp trời rải thiên hoa.
    Sinh rồi, không sợ thoái,
    Tùy ý nở liên hoa.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
11. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Hoa tòa nhiều vô số,
    Thánh chúng cũng khó lường.
    Mỗi người hoa sen nở,
    Sóng nói lời pháp hay.
    Tĩnh lặng không tai ách,
    Bất Thoái làm bạn lành.
    Xin hỏi người sanh trước,
    Đến đây được bao lâu.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
12. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Phóng quang cứu Tỳ Xá,
    Trên không dẫn Vi Đề.
    Chư thiên dâng bảo cái,
    Người đều mặc bảo y.
    Sáu thời nghe chim hót,
    Hoa lún dưới bước chân.
    Mọi việc đều chân chánh,
    Chẳng lẽ lại còn mê.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
13. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Khuyên người tu ba phước,
    Đều tiêu diệt ngũ thiêu.
    Công phát tâm đã đến,
    Buộc tâm tội liền tiêu.
    Chim, hoa, ánh sáng báu,
    Tiếng gió vang lời nhạc.
    Nên mừng pháp dễ tu,
    Đừng lo không được vãng.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
14. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Màu châu là màu nước,
    Kim quang tức là đài.
    Đúng thời hoa biến mất,
    Tùy nguyện hoa lại khai.
    Trên ao thường ẩn hiện,
    Bay tự tại vãng lai.
    Tâm trực sẽ vãng sinh,
    Phải nên tu hồi hướng.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
15. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Mây diệu hoa đẹp mắt,
    Nước cam lộ rửa tâm.
    Cùng vãng sinh, dễ biết,
    Tuổi thọ bằng, khó phân.
    Vui nhiều, không biếng nhác,
    Lời pháp xa, nghe gần.
    Sao còn tham ngũ trược,
    Để cho lửa đốt thân.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
16. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Trên đài, trời người hiện,
    Thấy Bồ tát trong quang.
    Lưng trời, bốn bảo các,
    Vây quanh bảy lan can.
    Nghi nhiều, sinh biên địa,
    Đức ít, khó thượng sinh.
    Tin đủ, không lo nghĩ,
    Tây phương, tâm đã an.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
17. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Sáu căn thường hợp đạo,
    Sẽ không đọa tam đồ.
    Một niệm biến mười phương,
    Trở về, đắc pháp nhẫn.
    Đất bằng, rộng vô biên,
    Gió lay, làm mát mẻ.
    Nhắn với người niệm Phật,
    Hãy rời chốn khổ đau.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
18. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Thương xót gia hộ con,
    Khiến mầm pháp tăng trưởng.
    Đời này và đời sau,
    Xin Phật thường nhiếp thọ.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
19. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Cực Lạc thế giới Quán Thế Âm Bồ tát.
  • Dước gót chân ngàn căm,
    Trong quang, hiện năm đường.
    Dùng lòng bi tiếp dẫn,
    Người vãng sinh vô cùng.
    Trong định vẫn thuyết pháp,
    Tâm tĩnh đắc thần thông.
    Nghe tên đều nguyện vãng,
    Trong quang hiện hoa vàng.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
20. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương Cực Lạc thế giới Đại Thế Chí Bồ tát.
  • Bi, lực đều vô thượng,
    Quang chiếu kẻ hữu duyên.
    Cõi Phật đều dao động,
    Tay cầm cánh hoa sen.
    Chim không phải chim thật,
    Thiên chẳng phải là thiên.
    Nên biết, cầu diệu lạc,
    Giới hương phải vẹn toàn.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
21. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương Cực Lạc thế giới chư Bồ tát Thanh tịnh Đại hải chúng.
  • Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
Nguyện vì sư tăng, cha mẹ, các bậc thiện tri thức, cùng pháp giới chúng sinh, đoạn trừ ba chướng, được vãng sinh cõi Cực Lạc của Đức A Di Đà, xin quy mạng sám hối.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Vãng sanh lễ tán kệ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

PHẦN THỨ SÁU
Nguyện Vãng Sinh Lễ Tán Kệ của sa môn Thiện Đạo, y vào Quán Vô Lượng Thọ Kinh mà trước tác, có hai mươi lạy, nên lạy vào lúc giữa trưa (Phần sám hối giống như trên).

1. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Quán cõi A Di Đà Cực Lạc,
    Toàn bằng báu vật, rộng, bằng phẳng.
    Do bốn mươi tám nguyện trang nghiêm,
    Vô cùng tinh diệu, vượt các cõi.
    Số lượng hải chúng cõi Cực Lạc,
    Dù đếm vĩnh viễn cũng không xong.
    Xin khuyên hãy vãng sinh về đó,
    Hằng sa tam muội tự nhiên thành.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
2. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Vô lượng vô biên vô số ức,
    Tràng bảy báu, bảo địa trang nghiêm.
    Bốn phương tám hướng toàn vật báu,
    Nhìn thấy tự nhiên chứng vô sinh.
    Cõi vô sinh, vĩnh viễn thường trụ,
    Mỗi báu rạng rỡ vô số quang.
    Hành giả nếu như thường quán tưởng,
    Lâm chung nhất định vãng Tây phương.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
3. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Bảo địa trang nghiêm khôn kể xiết,
    Giây vàng giăng lối, tự nhiên thành.
    Tất cả đều do Di Đà nguyện,
    Bồ tát, trời, người rải hoa báu.
    Đất báu, màu báu, tia sáng báu,
    Mỗi tia biến thành vô số đài.
    Trong đài, thiên vạn ức lầu báu,
    Quanh đài vô số ức bảo tràng.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
4. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Phía trên của mỗi một đài báu,
    Vô số nhạc báu làm trang nghiêm.
    Tám luồng ánh sáng từ quang xuất,
    Tùy căn cơ phát diệu âm thanh.
    Quán tưởng âm thanh cũng hơi khó,
    Đi đứng nằm ngồi thường nhiếp tâm.
    Chỉ trừ lúc ngủ, thường nghĩ nhớ,
    Tam muội vô vi tức Niết bàn.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
5 Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Nước báu, rừng báu, cùng cây báu,
    Hoa báu, lá báu, rễ nhánh báu.
    Hoặc ngàn cây báu mọc thành rừng,
    Hoặc trăm cây báu thành hàng lối.
    Mỗi hàng xứng nhau, lá quyện nhau,
    Màu sắc khác nhau, quang cũng vậy.
    Mỗi cây ba chục vạn do tuần,
    Nhánh, cành đều nói pháp vô sinh.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
6. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Bảy lớp lưới, bảy lớp cung điện,
    Ánh sáng giao nhau, màu rực rỡ.
    Chư thiên đồng tử hiện ở trong,
    Anh lạc rạng ngời siêu nhật nguyệt.
    Mỗi hàng, lá báu ngàn màu sắc,
    Hoa nở sáng chói tựa kim luân.
    Quả phóng ánh quang thành lọng báu,
    Trần sa cõi Phật hiện vô biên.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
7. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Ao báu, bờ báu phủ cát vàng,
    Sông báu, lá báu, hoa sen báu.
    Mỗi hoa đều mười hai do tuần,
    Lưới báu, màn báu, lan can báu.
    Nước công đức chảy vòng cây báu,
    Nghe tiếng sóng, chứng quả vô sinh.
    Nay xin khuyên nhắc người hữu duyên,
    Gắng sức tỉnh ngộ, về cố hương.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
8. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Trên những lối đi giăng dây vàng,
    Có ngàn vạn ức lầu, nhạc báu.
    Các thiên đồng tử rải hương hoa,
    Bồ tát mười phương như mây tụ.
    Vô lượng vô biên không kể xiết,
    Kính lễ Đức Phật, rồi đứng bên.
    Linh báu, cây báu phát tiếng mầu,
    Ca ngợi công đức ba vị Thánh.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
9. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Di Đà bổn nguyện, hoa vương tòa,
    Do tất cả châu báu hợp thành.
    Trên đài bốn trụ giăng màn báu,
    Di Đà an tọa, hiển chân thân.
    Thân ngài quang minh chiếu pháp giới,
    Người chạm quang minh, tâm không thoái.
    Ngày đêm sáu thời chuyên tưởng niệm,
    Lâm chung, an lạc như tam muội,
    Nguyện cùng các chúng sinh.
    Vãng sinh nước An Lạc.
10. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Thân tâm Di Đà trùm pháp giới,
    Ảnh hiện trong tâm của chúng sinh.
    Cho nên khuyên bạn nên quán sát,
    Nương tâm khởi tưởng, hiện chân dung,
    Chân dung bảo tượng ngồi đài hoa.
    Tâm khai thấy cõi ấy trang nghiêm,
    Cây báu, Tam Tôn, hoa đầy khắp,
    Gió lay, tiếng nhạc vút ngang trời.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
11. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Thân sắc Di Đà như kim sơn,
    Tướng hảo quang minh chiếu mười phương.
    Riêng người niệm Phật được soi nhiếp,
    Nên biết Bổn nguyện rất kiên cường.
    Mười phương chư Phật đều minh chứng,
    Chuyên xưng danh hiệu vãng Tây phương.
    Đến đó hoa khai, nghe diệu pháp,
    Nguyện hạnh thập địa tự nhiên thành.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
12. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Quán Âm Bồ tát đại từ bi,
    Đã đắc đạo, nhưng không thành Phật.
    Quán sát chúng sinh trong thân mình,
    Sáu thời quán sát, thường cứu độ.
    Ứng hiện thân quang màu tử kim,
    Tướng hảo, uy nghi vô cùng cực.
    Thường đưa trăm ức cánh tay vàng,
    Độ kẻ hữu duyên về Cực Lạc.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
13. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Thế Chí Bồ tát khó tư nghì,
    Uy quang phổ chiếu vô cùng cực.
    Những kẻ hữu duyên được soi chiếu,
    Tăng trưởng trí tuệ, vượt ba cõi.
    Uy lực Ngài chấn động pháp giới,
    Hóa Phật tụ tập đầy hư không.
    Khuyên kẻ hữu duyên thường nhớ tưởng,
    Không còn sinh tử, chứng lục thông.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
14. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Ngồi thẳng kiết già nhập tam muội,
    Dùng tâm quán tưởng cảnh Tây phương.
    Thấy được cõi Di Đà Cực Lạc,
    Trên không bảy thứ báu trang nghiêm.
    Thân Đức Di Đà lớn vô biên,
    Khuyên các hành giả, tùy căn cơ.
    Quán thân Đức Phật cao trượng tám,
    Viên quang, hóa Phật, như Phật thật.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
15. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Thượng bối, thượng hành, bậc thượng căn,
    Cầu sinh Tịnh độ, đoạn tham sân.
    Hành nguyện khác nhau, chia ba phẩm,
    Tu tập năm môn, giúp ba nhân.
    Một ngày, bảy ngày, chuyên tinh tiến,
    Lâm chung, ngồi đài, xuất lục trần.
    Mừng thay, khó gặp, nay đã gặp,
    Chứng được vô vi pháp tính thân.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
16. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Trung bối, trung hành, bậc trung căn,
    Một ngày trai giới, ngồi sen vàng.
    Hiếu dưỡng cha mẹ, dạy hồi hướng,
    Làm nhân cho sự vãng Tây phương.
    Phật cùng thánh chúng đến tiếp dẫn,
    Về Cực Lạc thân cận Di Đà.
    Sau bảy ngày, hoa sen sẽ nở,
    Ba phẩm sen nở, chứng tiểu quả.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
17. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Hạ bối, hạ hành, bậc hạ căn,
    Thập ác, ngũ nghịch, tội tham sân.
    Trộm vật thường trụ, báng Chánh pháp,
    Chưa từng hổ thẹn, tu sám hối.
    Lúc chết, tướng ác hiện như mây,
    Lửa dữ địa ngục hiện ở trước.
    Bỗng gặp vãng sinh thiện tri thức,
    Khuyên gấp niệm Phật A Di Đà.
    Hóa Phật, Bồ tát đến tiếp dẫn,
    Khi đó mới phát Bồ đề tâm.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
18. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Cõi nước Di Đà tùy cơ cảm,
    Tây phương Cực Lạc khó tư nghì.
    Thường nghe Bát nhã, hết vọng tưởng,
    Hằng niệm Vô sinh, không còn lo.
    Tất cả trang nghiêm đều nói pháp,
    Không cần quan tâm cũng hiểu ngay.
    Tùy ý xuống ao hoa thất giác,
    Ngưng thần lĩnh hội bát bội chi.
    Vô lượng Bồ tát làm đồng học,
    Tính hải Như Lai đều là thầy.
    Dùng nước tâm Di Đà tắm gội,
    Quán Âm Thế Chí đắp pháp y.
    Chốc lát châu du toàn pháp giới,
    Được Phật thọ ký chứng vô sinh.
    Cõi nước tiêu dao vô cùng ấy,
    Đời này không vãng, đợi đời nào.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
19. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương A Di Đà Phật.
  • Thương xót che chở con,
    Tăng trưởng hạt giống Pháp.
    Đời này và đời sau,
    Xin Phật thường nhiếp thọ.
    Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
20. Nam mô chí tâm quy mạng lễ Tây phương Cực Lạc thế giới Quán Âm, Thế Chí chư Bồ tát Thanh tịnh Đại hải chúng.
  • Nguyện cùng các chúng sinh,
    Vãng sinh nước An Lạc.
Nguyện vì sư tăng, cha mẹ, các bậc thiện tri thức, cùng pháp giới chúng sinh, đoạn trừ ba chướng, được vãng sinh cõi Cực Lạc của Đức A Di Đà, xin quy mạng sám hối.

Hai phẩm Sám hối, Phát nguyện, giống như phần trước. Ai chỉ cần phần cốt yếu thì chọn phần đầu, nếu cần vắn tắt thì chọn phần giữa, còn nếu cần chi tiết rộng rãi thì chọn phần dưới. Phần chi tiết khuyến khích những hành giả có tâm chân thực nguyện vãng sinh. Khi sám hối, hoặc đối với bốn chúng, hoặc đối với mười phương Phật, hoặc đối với xá lợi Phật, tượng Phật, v.v..., hoặc đối với một người, hoặc tự chính mình. Lại phải hướng về mười phương Tam bảo cùng tận hư không giới, cùng tận chúng sinh giới, v.v... mà phát lồ sám hối. Sám hối có ba phần: thượng, trung, hạ.
  • - Thượng phẩm sám hối, nghĩa là các lỗ chân lông đều rỉ máu, thống khổ hối hận, hai mắt cũng rỉ máu. Đây gọi là thượng phẩm sám hối.

    - Trung phẩm sám hối, nghĩa là toàn thân toát mồ hôi nóng, hai mắt rỉ máu. Đây gọi là trung phẩm sám hối.

    - Hạ phẩm sám hối, nghĩa là toàn thân nóng bức, hai mắt đẫm lệ. Đây gọi là hạ phẩm sám hối.
Ba phẩm sám hối này, tuy có sự sai khác, đều là do từ lâu đã trồng căn lành giải thoát, khiến cho đời này kính pháp trọng thầy, không tiếc thân mạng. Nhẫn đến phạm những tội nhỏ, đều hết lòng như pháp sám hối. Người nào sám hối như vậy, bất luận lâu mau, đều có thể mau chóng diệt trừ tất cả những tội nặng. Nếu không như vậy, dù cho vất vả tụng niệm suốt ngày, tất cả đều vô ích, giống như chưa sám hối. Nên biết, lúc sám hối, dù không thể có những biểu hiện bên ngoài như vừa nói ở phần trên, nhưng nếu có tâm chí thành chí thiết, thì những tội chướng cũng sẽ tiêu diệt một cách nhanh chóng.

Kính bạch mười phương chư Phật, mười phương tôn pháp, chư đại Bồ tát, tất cả thánh hiền, tất cả long thiên bát bộ, pháp giới chúng sinh, cùng tất cả đại chúng đang có mặt, chứng tri cho con là .... phát lồ sám hối, từ vô thỉ cho đến ngày nay, tất cả tội chướng:

Sát hại tất cả Tam bảo, sư tăng, cha mẹ, lục thân quyến thuộc, tất cả chúng sinh trong pháp giới, số lượng không kể xiết.

Trộm cắp tài vật của tất cả Tam bảo, sư tăng, cha mẹ, lục thân quyến thuộc, tất cả chúng sinh trong pháp giới, số lượng không kể xiết.

Sinh khởi tà tâm đối với tất cả Tam bảo, sư tăng, cha mẹ, lục thân quyến thuộc, tất cả chúng sinh trong pháp giới, không thể kể xiết.

Vọng ngữ lừa dối với tất cả Tam bảo, sư tăng, cha mẹ, lục thân quyến thuộc, tất cả chúng sinh trong pháp giới, không thể kể xiết.

Nói lời vô nghĩa (ỷ ngữ) đối với tất cả Tam bảo, sư tăng, cha mẹ, lục thân quyến thuộc, tất cả chúng sinh trong pháp giới, không thể kể xiết.

Nói lời hung ác đối với tất cả Tam bảo, sư tăng, cha mẹ, lục thân quyến thuộc, tất cả chúng sinh trong pháp giới, không thể kể xiết.

Nói lời đâm thọc (lưỡng thiệt) đối với tất cả Tam bảo, sư tăng, cha mẹ, lục thân quyến thuộc, tất cả chúng sinh trong pháp giới, không thể kể xiết.

Hoặc phá năm giới, tám giới, mười giới (sa di), hai trăm năm mươi giới (tỳ kheo), năm trăm giới (tỳ kheo ni), ba tụ giới Bồ tát, mười vô tận giới, nhẫn đến tất cả giới luật, uy nghi, v.v... Tự mình làm, hoặc bảo người khác làm, hoặc thấy người làm mà vui, không thể kể xiết.

Những tội chướng mà con đã tạo tác như vậy, nhiều như số vi trần trong mười phương thế giới. Hư không vô biên, tội ác mà con đã tạo cũng vô biên. Phương tiện vô biên, tội ác mà con đã tạo cũng vô biên. Pháp tính vô biên, tội ác mà con đã tạo cũng vô biên. Pháp giới vô biên, tội ác mà con đã tạo cũng vô biên. Tam bảo vô biên, chúng con xâm tổn, cướp đoạt, sát hại cũng vô biên. Giới phẩm vô biên, chúng con hủy phạm giới luật cũng vô biên. Những tội chướng như vậy, trên cho đến các bậc Bồ tát, dưới cho đên các bậc Thanh văn Duyên giác, cũng không thể biết hết được, chỉ có chư Phật mới có thể biết được số lượng tội nghiệp mà chúng con đã tạo là bao nhiêu. Nay con đối trước Tam bảo, cùng chúng sinh trong mười phương pháp giới, phát lồ sám hối, không dám che dấu. Xin nguyện mười phương Tam bảo cùng pháp giới chúng sinh, chứng nhận sự sám hối, ghi nhớ cho sự thanh tịnh của con. Kể từ ngày hôm nay, nguyện cùng pháp giới chúng sinh, cải tà quy chánh, phát tâm Bồ đề, đối xử nhau từ bi, xem nhau như Phật, làm quyến thuộc Bồ đề, làm chân thật thiện tri thức, cùng vãng sinh về Tây phương Cực Lạc, nhẫn đến khi thành Phật. Những tội như vậy, vĩnh viễn đoạn trừ sự tương tục, không còn dám tái phạm. Sám hối rồi, chí tâm quy mạng A Di Đà Phật
  • (Hết phần Quảng sám)
Trước khi nhập quán hoặc ngủ nghỉ, nên phát nguyện như sau, hoặc đứng hoặc ngồi, một lòng chắp tay, hướng về phía tây, niệm mười câu A Di Đà Phật, Quán Âm Thế Chí, chư Bồ tát Thanh tịnh Đại hải chúng xong, nguyện:

"Đệ tử ..... hiện tại là phàm phu sinh tử, tội chướng sâu nặng, trôi lăn sinh tử khổ không thể tả, ngày nay gặp được thiện tri thức, được nghe danh hiệu bổn nguyện của đức A Di Đà Phật, một lòng xưng niệm cầu nguyện vãng sinh, nguyện Phật từ bi không quên lời thệ nguyện rộng lớn nhiếp thọ chúng sinh. Đệ tử chúng con chưa thấy thân Phật tướng hảo quang minh, nguyện Phật từ bi thị hiện cho chúng con được thấy thân tướng của ngài, các vị Bồ tát Quán Âm Thế Chí, cùng cảnh giới quang minh thanh tịnh trang nghiêm của cõi Cực Lạc".

Nói xong, một lòng chánh niệm, sau đó tùy ý nhập quán hoặc ngủ nghỉ. Như vậy, hoặc trong lúc đang phát nguyện, hoặc trong lúc ngủ nghỉ, thấy được cảnh giới, ngoại trừ kẻ không chí thành. Điều này đã có nhiều người chứng nghiệm.

Hỏi: Nếu niệm một câu A Di Đà Phật, hiện đời sẽ được công đức lợi ích gì?

Đáp: Niệm một câu A Di Đà Phật có thể diệt trừ được tám mươi ức kiếp sanh tử trọng tội. Lễ Phật, niệm Phật cũng tương tự như vậy. Thập Vãng Sinh Kinh nói: "Nếu có chúng sinh niệm A Di Đà Phật nguyện sinh Cực Lạc, đức A Di Đà sẽ cho hai mươi lăm vị đại Bồ tát đến hộ trì hành giả. Người đó trong lúc đi đứng nằm ngồi, hoặc ngày hoặc đêm, tất cả mọi nơi, không cho ác quỷ ác thần não hại hành giả". Lại như Quán Kinh nói: "Nếu xưng niệm, lễ lạy A Di Đà Phật, nguyện sinh Cực Lạc, Phật A Di Đà sẽ cho vô số hóa Bồ tát giống như Bồ tát Quán Âm Thế Chí đến hộ trì hành giả. Lại cùng với hai mươi lăm vị đại Bồ tát trước, vây quanh hành giả, trăm vòng ngàn vòng, trong tất cả mọi thời, bất kể hành giả đó đi đứng nằm ngồi, các ngài thường không rời người ấy". Nay đã có được sự lợi ích thù thắng làm chỗ nương tựa, nguyện các hành giả đều nên chí tâm cầu nguyện vãng sinh. Lại như Vô Lượng Thọ Kinh nói: "Nếu ta thành Phật, mười phương thế giới chúng sinh xưng niệm danh hiệu của ta, nhẫn đến tối thiểu là mười niệm, nếu như không được vãng sinh, ta thề không thành Chánh giác". Đức A Di Đà hiện nay đã thành Phật ở cõi Cực Lạc, như vậy phải nên biết rằng lời thệ nguyện trọng đại đó là chân thật, không phải hư dối. Chúng sinh xưng niệm, ắt được vãng sinh. Lại như Kinh A Di Đà nói: "Nếu có chúng sinh, nghe được danh hiệu đức A Di Đà, phải nên chấp trì danh hiệu, hoặc một ngày, hai ngày, nhẫn đến bảy ngày, một lòng hệ niệm không loạn. Khi người ấy mạng chung, đức A Di Đà và các thánh chúng hiện ra trước mặt, lúc đó, người ấy tâm không điên đảo, liền được vãng sinh về cõi Cực Lạc. Phật bảo ngài Xá Lợi Phất, ta thấy được sự lợi ích, cho nên mới nói như vậy. Nếu ai nghe điều này, phải nên phát nguyện vãng sinh cõi Cực Lạc". Phần dưới quyển kinh nói: "Phương đông, số chư Phật nhiều như cát sông Hằng, các phương nam, tây, bắc, cùng phương trên phương dưới, số chư Phật cũng nhiều như cát sông Hằng, mỗi vị đều ở tại cõi nước của mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che trùm tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thực như sau: Này các chúng sinh, phải nên tin tưởng kinh Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm". Thế nào gọi là Hộ Niệm? Nếu có chúng sinh xưng niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà, hoặc bảy ngày, hoặc một ngày, hoặc tối thiểu là mười niệm, hoặc một niệm, đều được vãng sinh. Các vị Phật đều chứng thành sự kiện này, nên gọi là Hộ Niệm Kinh. Kế đó, đoạn văn phần dưới nói: "Nếu xưng niệm danh hiệu Phật cầu vãng sinh, thường được hằng hà sa chư Phật ở sáu phương hộ niệm, cho nên được gọi là Hộ Niệm Kinh".

Hiện nay có những điều thệ nguyện tăng thượng để nương tựa, các vị Phật tử tại sao lại không nỗ lực cầu nguyện vãng sinh!
  • NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
haizen
Bài viết: 27
Ngày: 05/08/10 20:05
Giới tính: Nam
Đến từ: Hải phòng

Re: Vãng sanh lễ tán kệ

Bài viết chưa xem gửi bởi haizen »

Hàng xóm tôi có một bà rất chăm tụng kinh niệm Phật, nhưng trong cuộc sống thực thì lại là một người nóng nảy cục cằn keo kiệt ích kỷ. Hầu như ngày nào hàng xóm cũng phải nghe những tiếng chửi mắng chồng con của bà. Mọi người ai cũng kiêng sợ bà vì đã rất nhiều lần khi có mâu thuẫn với láng giềng, cả xóm lại được nghe bản trường ca rất tục tĩu mà bà tuôn ra đến đau đầu nhức óc. Vậy những người "miệng nam mô bụng một bồ thuốc súng" như bả có được vãng sinh Cực lạc không ạ ? khungbo khungbo khungbo


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Vãng sanh lễ tán kệ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

haizen đã viết:Hàng xóm tôi có một bà rất chăm tụng kinh niệm Phật, nhưng trong cuộc sống thực thì lại là một người nóng nảy cục cằn keo kiệt ích kỷ. Hầu như ngày nào hàng xóm cũng phải nghe những tiếng chửi mắng chồng con của bà. Mọi người ai cũng kiêng sợ bà vì đã rất nhiều lần khi có mâu thuẫn với láng giềng, cả xóm lại được nghe bản trường ca rất tục tĩu mà bà tuôn ra đến đau đầu nhức óc. Vậy những người "miệng nam mô bụng một bồ thuốc súng" như bả có được vãng sinh Cực lạc không ạ ? khungbo khungbo khungbo
Cụ bà đó trước sau gì cũng được vãng sanh. Còn người như "haizen" có ý tưởng nhạo báng, bịt lỗ tai thì không được vãng sanh.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
haizen
Bài viết: 27
Ngày: 05/08/10 20:05
Giới tính: Nam
Đến từ: Hải phòng

Re: Vãng sanh lễ tán kệ

Bài viết chưa xem gửi bởi haizen »

Hi hi! Tôi bịt lỗ tai vì quá ớn tiếng chửi bới của bà hàng xóm đó thôi, chứ không phải như ý ĐH battinh nghĩ đâu. Nhưng ĐH battinh nói bà già đó cũng được vãng sinh thì chỉ là quan điểm riêng của ĐH mà thôi, chứ chắc gì Phật A Di Đà đã đồng ý tiếp độ bả. Bả mà được vãng sinh (nếu theo như ĐH battinh nói) thì tôi cũng xin kiếu, cõi Cực lạc khi đó cũng trở thành cõi Cực khổ mà thôi, các huynh ở trên đó mà nghe bả ca nhé, tôi cứ ở lại cõi Ta bà này mà tu cho khoẻ, ít nguy cơ bị tăng-xông hơn trên đó là cái chắc! baibaibai


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Vãng sanh lễ tán kệ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

haizen đã viết:Hi hi! Tôi bịt lỗ tai vì quá ớn tiếng chửi bới của bà hàng xóm đó thôi, chứ không phải như ý ĐH battinh nghĩ đâu. Nhưng ĐH battinh nói bà già đó cũng được vãng sinh thì chỉ là quan điểm riêng của ĐH mà thôi, chứ chắc gì Phật A Di Đà đã đồng ý tiếp độ bả. Bả mà được vãng sinh (nếu theo như ĐH battinh nói) thì tôi cũng xin kiếu, cõi Cực lạc khi đó cũng trở thành cõi Cực khổ mà thôi, các huynh ở trên đó mà nghe bả ca nhé, tôi cứ ở lại cõi Ta bà này mà tu cho khoẻ, ít nguy cơ bị tăng-xông hơn trên đó là cái chắc! baibaibai
Toàn là những điều tưởng tượng cả! Bạn đang ở cõi Ta Ba đang khổ vì nghe bà ấy ca nên bịt hai lỗi tai lại để khỏi nghe tiếng khổ, vậy chứ bạn tu thế nào mới là khỏe, sướng!? Tu như bạn là có nguy cơ bị "tăng xông" một trăm phần trăm rồi. :D vì bạn đang thọ khổ... :-P

Bạn có đọc kinh A Di Đà do đức Phật Thích Ca nói: Cõi Cực lạc thuần vui không có điều khổ, những người vãng sanh về đó đều là bậc Bồ tát bất thoái chuyển v.v... Nói ví dụ cho ngay, nếu bà cụ đó được vãng sanh về cõi Cực Lạc rồi, thì bả có còn "ca" những điều mà bạn đang thọ khổ chăng? Bà về đó được nghe tiếng chim cây cối nói pháp ngày đêm êm dịu, hoa trên không vi nhiễu khắp cùng, cảnh an lạc vui sướng thế thì bà ấy cũng cảm thấy tâm an lạc mà niệm Phật, Pháp, Tăng...

Đuối lý rồi chào tạm biệt há! Cung tiễn bạn đi tìm chỗ nào khổ hơn vì phải nghe bà cụ này ca: "Nam Mô A Di Đà... Phật, Nam Mô A Di Đà... Phật!" tangbong


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
haizen
Bài viết: 27
Ngày: 05/08/10 20:05
Giới tính: Nam
Đến từ: Hải phòng

Re: Vãng sanh lễ tán kệ

Bài viết chưa xem gửi bởi haizen »

Hi hi! ĐH bảo tôi toàn tưởng tượng, thế ĐH không tưởng tượng à? Thực tế bây giờ bà già đó chăm tụng kinh niệm Phật, mong mỏi được vãng sinh như thế mà còn chẳng chịu thực hành lời Phật dạy, vậy mà ĐH dám đảm bảo khi đã được lên cõi Cực Lạc thì bả lập tức trở thành con người tốt được sao? Theo thói thường, con người ta khi đã được vãng sinh rồi- tức là đã đạt được mục đích rồi thì hay trở nên tự mãn, giải đãi dù có được thiện trí thức động viên, sách tấn. Cho nên nêú ĐH cho rằng bà già đó hễ vãng sinh là sẽ trở thành người lương thiện tinh tấn tu hành thì chắc đó phải là một phép lạ của cõi Cực Lạc do thần thông của Đức A Di Đà tạo nên chăng? Nhưng, nếu được như vậy thì Chư Phật chỉ cần dùng thần thông hốt hết chúng sinh lên cõi Cực Lạc là xong, đâu còn phải thốt lên rằng:

“Tự mình điều ác làm

Tự mình làm nhiễm ô

Tự mình ác không làm

Tự mình làm thanh tịnh

Tịnh không tịnh tự mình,

Không ai thanh tịnh ai.”
(Kinh Pháp Cú)


Đức Phật chỉ là người chỉ đường còn đi hay không là tự chính mình, như người uống nước nóng lạnh tự biết, sự tu tập cũng vậy, không ai tu tập thay cho mình, cũng không ai hộ trì cho mình được. Nên dù xung quanh toàn Bồ tát, các Ngài cũng không thể đảm bảo sẽ cảm hoá giáo dục bả thành công được, trừ khi chính bả phải thực tâm và quyết tâm sửa mình. Trên thế gian này, những người "miệng nam mô bụng một bồ thuốc súng" như bả nhiều lắm, mà những người "máu tu ăn gian" như vậy đều được vãng sinh hết thì không ai dám chắc họ sẽ không tiếp tục quậy vì những tập khí cũ đâu phải dễ dàng gột bỏ ngay được, như thế thì cõi Cực Lạc có còn là "thuần vui", là "an lạc" nữa không? Và khi đó dưới trần gian người ta cứ tha hồ làm ác mà chẳng có chút kiêng dè vì chỉ cần tụng kinh niệm Phật là yên tâm, đã có ô dù của Phật A Di Đà che chở rồi thì cần gì phải vất vả tu tâm sửa tính, bỏ ác tạo phúc làm chi cho mệt!!! ;) ;) ;)

ĐH đọc Kinh A Di Đà, chắc còn nhớ một câu mà Đức Phật đã dạy:"Xá-Lợi-Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyên mà được sanh về cõi đó". Thật vậy, chỉ tụng kinh niệm Phật suông thôi thì không đủ, chúng ta còn phải tạo được một nền tảng phước đức sâu dày thì mới hội đủ nhân duyên về với cõi Cực Lạc, như thế cũng là phù hợp với luật nhân quả công bằng mà mười phương ba đời Chư Phật đều tuyên thuyết. Hành giả ngoài việc niệm Phật, tức là tưởng nhớ ân đức và công hạnh của Chư Phật một cách miên mật với lòng thiết tha tôn kính, phải nguyện hiện thực hoá lòng tôn kính Phật bằng việc tự mình thực hành lời Phật dạy: từ bỏ điều xấu ác, gắng tu thập thiện nghiệp, thương người giúp người, tu thiền tập định tự thanh tịnh tâm ý, bồi đức tạo phước rất nhiều... Chư Phật không muốn và cũng không thể dùng thần thông khiến chúng sinh giác ngộ được. Đề Bà Đạt Đa xuất gia được ở thân cận với Phật Thích Ca và Thánh chúng mà còn nổi tâm tà thì chắc chắn nếu được vãng sinh ở cùng với chư Thánh trên cõi Cực Lạc, ông ta cũng sẽ "nguyễn y vân" mà thôi! baibaibai
Sửa lần cuối bởi haizen vào ngày 15/12/12 20:16 với 1 lần sửa.


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.78 khách