VÃNG SANH LỄ TÁN KỆ
Đời Đường, Sa môn Thiện Đạo tập ký.
Tỳ kheo Thích Hoằng Đạo dịch Việt văn.
KỆ LỄ TÁN SÁU THỜI
(Thiện Đạo) xin cung kính sưu tập những bài Vãng Sinh Lễ Tán Kệ, hoặc từ trong kinh Vô Lượng Thọ, hoặc do các ngài Long Thọ, Thiên Thân, cùng các vị sa môn Trung quốc trước tác, hợp lại thành một quyển, chia làm sáu thời. Chỉ mong lấy đây làm chỗ buộc tâm, trợ giúp cho việc vãng sinh của chính mình, đồng thời nguyện những người chưa thấy nghe được hiểu rõ, và hơn nữa, cũng nguyện làm ích lợi cho đời sau.
- - Thứ nhất, trong kinh Vô Lượng Thọ, Đức Thích Ca cùng mười phương chư Phật tán thán danh hiệu của Đức A Di Đà, khuyến tấn chúng sinh xưng danh, lễ lạy, tưởng niệm, nhất định sẽ vãng sinh Cực Lạc. Phần này, tổng cộng có mười chín lạy, nên lạy vào buổi chiều.
- Thứ hai, (Thiện Đạo) y vào kinh Vô Lượng Thọ, sưu tập những đoạn văn thiết yếu, làm thành kệ lễ tán, tổng cộng có hai mươi bốn lạy, nên lạy vào buổi tối.
- Thứ ba, y vào Nguyện Vãng Sinh Lễ Tán Kệ của ngài Long Thọ Bồ Tát, có mười sáu lạy, nên lạy vào lúc nửa đêm.
- Thứ tư, y vào Nguyện Vãng Sinh Lễ Tán Kệ của ngài Thiên Thân Bồ Tát, có hai mươi lạy, nên lạy vào lúc cuối đêm.
- Thứ năm, y vào Nguyện Vãng Sinh Lễ Tán Kệ của Pháp sư Ngạn Tông, có hai mươi mốt lạy, nên lạy vào buổi sáng.
- Thứ sáu, Nguyện Vãng Sinh Lễ Tán Kệ của bần đạo (Thiện Đạo), y vào Quán Vô Lượng Thọ Kinh mà trước tác, có hai mươi lạy, nên lạy vào lúc giữa trưa.
Trả lời: Y theo lời dạy của Quán Vô Lượng Thọ Kinh, muốn được chắc chắn vãng sinh Cực Lạc, cần phải đầy đủ ba tâm, mới được chắc chắn vãng sinh. Ba tâm đó là gì?
- - Một là chí thành tâm, nghĩa là thân nghiệp thì chuyên cần lễ bái Đức A Di Đà, khẩu nghiệp thì chuyên cần tán thán, xưng dương Đức A Di Đà, ý nghiệp thì chuyên cần tưởng nghĩ, quán sát Đức A Di Đà. Mỗi hành động, ý nghĩ, đều phải chân thực, nên gọi là chí thành tâm.
- Hai là thâm tâm, tức là lòng tin chân thực. Tin nhận rằng mình là phàm phu tràn đầy phiền não, thiện căn mỏng ít, trôi lăn ba cõi, chưa ra khỏi nhà lửa. Hiện nay tin nhận thệ nguyện rộng lớn của Đức A Di Đà, không một mảy may nghi ngờ. Xưng niệm danh hiệu của ngài, tối thiểu là mười niệm, chắc chắn đều được vãng sinh.
- Ba là hồi hướng phát nguyện tâm, nghĩa là tất cả mọi thiện căn tu tập được, đều hồi hướng cầu nguyện vãng sinh, nên gọi là hồi hướng phát nguyện tâm.
Lại như Tịnh Độ Luận của ngài Thiên Thân có nói: "Nếu như có người phát nguyện vãng sinh, nên khuyên họ tu năm niệm môn. Năm môn nếu đầy đủ, ắt sẽ được vãng sinh". Năm môn đó là gì?
- - Thứ nhất: Thân nghiệp lễ bái, nghĩa là nhất tâm chuyên chú, chí thành cung kính chắp tay, cúng dường hương hoa, lễ lạy Đức Phật A Di Đà. Chuyên tâm lễ bái Đức A Di Đà, cho đến trọn đời, mà không lễ bái các vị Phật, Bồ tát nào khác. Đây gọi là lễ bái môn.
- Thứ hai: Khẩu nghiệp tán thán, nghĩa là chuyên nhất một lòng tán thán thân tướng quang minh của Đức A Di Đà, thân tướng quang minh của tất cả thánh chúng, cùng quang minh của tất cả bảo vật trang nghiêm của cõi Cực Lạc. Đây gọi là tán thán môn.
- Thứ ba: Ý nghiệp nhớ tưởng quán sát, nghĩa là chuyên chú một lòng nhớ tưởng quán sát thân tướng quang minh của Đức A Di Đà, của tất cả thánh chúng, cùng sự trang nghiêm thanh tịnh của cõi Cực Lạc, như Quán Vô Lượng Thọ Kinh đã nói rõ. Ngoại trừ lúc ngủ, mọi thời thường thường tưởng niệm, nhớ nghĩ, quán sát những sự việc này. Đây gọi là quán sát môn.
- Thứ tư: Bất cứ lúc nào, bất cứ nơi nào, tất cả công đức do ba nghiệp, bốn uy nghi tạo tác, không kể trước sau, lớn nhỏ, đều phải dùng lòng chân thực phát nguyện, nguyện sinh Cực Lạc. Đây gọi là tác nguyện môn.
- Thứ năm: Đối với tất cả thiện căn mà mình tự tu tập được, cũng như tất cả thiện căn mà tất cả phàm thánh tu tập được, đều sinh lòng tùy hỷ sâu xa. Như tất cả chư Phật Bồ tát đã tu tùy hỷ, con cũng tùy hỷ như vậy, đem thiện căn tùy hỷ này, cùng thiện căn đã tu tập được, nguyện cùng với chúng sinh hồi hướng vãng sinh Cực Lạc. Đây gọi là hồi hướng môn.
Sau khi vãng sinh Cực Lạc, được sáu thần thông, trở lại sinh tử, giáo hóa chúng sinh, lòng không nhàm mỏi, cùng tận đời vị lai, cho đến khi thành Phật. Đây cũng gọi là hồi hướng môn.
Hơn nữa, khuyến tấn hành giả tu tập "bốn pháp tu", sách tấn các hạnh ba tâm, năm niệm, mau được vãng sinh. Bốn pháp tu ấy là gì?
- - Một là cung kính tu, nghĩa là cung kính lễ lạy Đức Phật A Di Đà, cùng tất cả thánh chúng cõi Cực Lạc. Đây gọi cung kính tu. Thệ nguyện trọn đời tu tập không gián đoạn. Đây gọi là trường thời tu.
- Hai là vô dư tu, nghĩa là một lòng xưng niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà, một lòng nghĩ nhớ, một lòng quán tưởng, một lòng lễ lạy, tán thán Đức Phật A Di Đà, cùng tất cả thánh chúng cõi Cực Lạc, không tu những công hạnh khác. Đây gọi là vô dư tu. Thệ nguyện trọn đời tu tập không gián đoạn. Đây gọi là trường thời tu.
- Ba là vô gián tu, nghĩa là cung kính, lễ lạy, xưng danh, tán thán, nhớ tưởng, quán sát, hồi hướng phát nguyện, niệm niệm tương tục, không để các hành nghiệp khác làm gián đoạn. Đây gọi là vô gián tu. Hơn nữa, không để cho các phiền não tham sân si làm gián đoạn sự tu tập. Mỗi khi phạm tội, liền lập tức sám hối, không để trì hoãn, giữ cho thường được thanh tịnh. Đây cũng gọi là vô gián tu. Thệ nguyện trọn đời tu tập không gián đoạn. Đây gọi là trường thời tu.
Kinh Văn Thù Bát Nhã nói: "Khuyến cáo người tu Nhất hành tam muội, phải nên buộc tâm vào một chỗ, ở một mình nơi thanh tĩnh, xả bỏ ý tưởng tạp loạn, buộc tâm vào một vị Phật, không nên tu pháp quán tưởng tướng mạo, mà chỉ nên chuyên tâm xưng niệm danh hiệu của ngài, thì trong một niệm có thể thấy được Đức Phật A Di Đà, cùng tất cả chư Phật v.v..."
Hỏi: Tại sao không khuyên tu pháp quán tưởng, mà lại khuyên tu pháp xưng niệm danh hiệu. Đây là có ý gì?
Trả lời: Đây là do chúng sinh nghiệp chướng sâu dầy, cảnh giới quán tưởng rất vi tế, mà tâm thì lại phù động, tán loạn. Nếu tu pháp quán tưởng e rất khó thành tựu. Đức Đại Thánh Thích Ca cảm thấy thương xót, cho nên chỉ khuyên chuyên tu xưng niệm danh hiệu. Đây là vì pháp xưng danh dễ tu, nếu như niệm niệm không gián đoạn, ắt sẽ được vãng sinh.
Hỏi: Nếu như chỉ chuyên tâm xưng niệm danh hiệu một vị Phật, tại sao lại thấy nhiều vị Phật hiện tiền. Đây phải chăng là tà chánh bất phân, hiện nhiều Phật hoặc hiện một Phật.
Trả lời: Mỗi vị Phật đều chứng nhập chân như, hình tướng quyết định không sai biệt, dù cho tuy niệm một Phật mà thấy nhiều Phật, cũng đâu có gì trái ngược với chân lý?
Hơn nữa, Quán Vô Lượng Thọ Kinh nói: Đức Phật khuyên chúng sinh lúc tọa thiền, quán tưởng, lạy Phật, niệm Phật v.v..., tốt nhất là nên xoay về hướng tây, giống như cây nghiêng về hướng nào thì sẽ ngã về hướng đó. Trong trường hợp bất đắc dĩ, không thể xoay về hướng tây, thì nên quán tưởng mình đang xoay về hướng đó cũng được.
Hỏi: Tất cả chư Phật, đồng chứng ba thân, viên mãn từ bi, trí tuệ ắt không có sự khác biệt. Hành giả tùy sức mình lễ lạy, tưởng nghĩ, ấn định thời khóa xưng niệm danh hiệu một vị Phật, đều được vãng sinh. Tại sao lại chỉ tán thán Tây phương, khuyên chuyên tâm lễ lạy, tưởng niệm v.v... Đây là có ý nghĩa gì?
Trả lời: Cảnh giới mà chư Phật chứng đắc, đều bình đẳng như nhau. Nếu như từ phương diện phát nguyện mà nói, đây không phải là không có nhân duyên. Như Đức Phật A Di Đà, vốn đã phát thệ nguyện sâu nặng, dùng danh hiệu, quang minh, nhiếp thọ giáo hoá mười phương chúng sinh, hơn nữa, những người có lòng tin, niệm Phật cầu vãng sinh, hoặc hành trì trọn đời, hoặc ít nhất là xưng niệm mười danh hiệu, do nguyện lực của Phật, đều được vãng sinh dễ dàng. Bởi thế, Đức Thích Ca, cũng như chư Phật đều khuyến tấn hành giả chuyên tu hạnh Tây phương. Đây là điều khác biệt. Vả lại, đây không có nghĩa là xưng niệm danh hiệu các Đức Phật khác thì không thể trừ chướng, diệt tội. Nên biết điều này.
Nếu như có thể hành trì như trên, niệm niệm tương tục, trọn hết một đời, thì chắc chắn mười người tu, mười người vãng sinh, trăm người tu, trăm người vãng sinh. Vì sao? Vì không có tạp duyên nào khác, nên đắc được chánh niệm, vì tương ưng với bổn nguyện của Phật, vì không đi ngược với giáo lý, và vì tùy thuận lời dạy của Phật.
Nếu như xả bỏ sự chuyên tâm mà tu tạp nghiệp, thì trăm người tu, chỉ có được một hai người vãng sinh, ngàn người tu chỉ có năm ba người vãng sinh. Vì sao? Vì tạp duyên loạn động làm mất chánh niệm, vì không tương ưng với bổn nguyện của Phật, vì đi ngược với giáo lý, vì làm trái với lời dạy của Phật, vì hệ niệm không tương tục, vì sự tưởng nghĩ đến Phật thường gián đoạn, vì sự hồi hướng không ân cần, chân thực, vì các phiền não tham, sân thường đến làm gián đoạn chánh niệm, vì không có tâm hổ thẹn sám hối, vì không tương tục nghĩ nhớ đến việc báo ơn Phật, vì sinh khởi tâm khinh mạn, tuy cũng tu tập, nhưng lại chạy theo danh lợi, vì hay phân biệt nhân ngã, không chịu thân cận những bậc đồng tu thiện tri thức, và vì thích gần gũi những tạp duyên, làm chướng ngại chánh hạnh vãng sinh của chính mình và người khác.
Gần đây, tôi tự mình nghe rằng người tăng kẻ tục ở khắp mọi nơi, kiến giải, công hạnh không đồng nhau, chuyên tu tạp tu cũng không giống nhau, thế nhưng, những người chuyên ý tu tập, thì mười người vãng sinh cả mười, còn những người tu tạp hạnh, tâm ý không chuyên nhất, thì trong ngàn người tu, không có đến một người vãng sinh!
Hai hạnh "được, mất" này, như phần trên vừa nói rõ, ngưỡng mong các vị tu hạnh vãng sinh, cần phải khéo léo suy ngẫm. Nếu như trong đời này, đã có thể phát nguyện vãng sinh Cực Lạc, thì trong tất cả mọi lúc, đi đứng nằm ngồi, đều nên tự khuyến tấn mình, ngày đêm không bỏ phế, trọn suốt một đời hành trì chánh hạnh. Trong cuộc đời này, dường như phải chịu chút khổ, thế nhưng, giây phút trước vừa mệnh chung, giây phút sau ắt sẽ vãng sinh Cực Lạc, từ đó thọ mệnh vô cùng, vĩnh viễn hưởng thọ sự vui sướng, nhẫn đến khi thành Phật, không còn phải chịu sự khổ sinh tử, đây không phải là điều vui thú hay sao?