UY ĐỨC CỦA PHẬT LỰC CHO CẢ PHÀM LẪN THÁNH MỚI ĐƯỢC VÃNG SINH.

Thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì pháp môn niệm Phật.

Điều hành viên: binh, battinh

KimCangMinhChau
Bài viết: 60
Ngày: 09/05/23 06:11
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia

UY ĐỨC CỦA PHẬT LỰC CHO CẢ PHÀM LẪN THÁNH MỚI ĐƯỢC VÃNG SINH.

Bài viết chưa xem gửi bởi KimCangMinhChau »

KINH TA-MIỆT-NẴNG-PHÁP THIÊN TỬ THỌ TAM QUY Y KHỎI SINH VÀO ÁC ĐẠO. Số 595,

Đời Triệu Tống, Đại sư Pháp Thiên dịch:




Thiên tử Ta-miệt-nẵng-pháp nghe lời hỏi ấy, liền đứng dậy sửa lại y phục, cung kính chắp tay thưa:



-Thưa Thiên chủ Đế Thích! Hiện nay mạng sống của con chỉ còn bảy ngày, sau khi chết sẽ bị đọa vào cõi Diêm-phù-đề, ở thành Vương xá, do nghiệp tạo từ đời trước nên bị làm thân heo.



Thưa Thiên chủ! Khi đã thọ thân ấy thì ở trong nhiều năm phải ăn uống đồ dơ bẩn, con thấy khổ như vậy nên rất buồn lo.



Thiên chủ Đế Thích nghe rồi, rất thương xót nên bảo với Thiên tử Ta-miệt-nẵng-pháp:



-Này Thiên tử! Ông có thể thành tâm quy y Tam bảo, nên nói lời như vầy:



Quy y Phật, Đấng Lưỡng Túc.



Quy y Pháp, bậc lìa dục.



Quy y Tăng, chúng tôn quý.



Lúc đó, Thiên tử Ta-miệt-nẵng-pháp vì sợ chết phải bị đọa vào loài súc sinh nên thưa với Đế Thích:



-Thưa Kiều-thi-ca! Hôm nay con xin nguyện:



Quy y Phật, Đấng Lưỡng Túc.



Quy y Pháp, bậc lìa dục.



Quy y Tăng, chúng tôn quý.



Thiên tử thọ tam quy y rồi, tâm luôn nhớ nghĩ đến Tam bảo, cho tới lúc mạng chung. Đối với pháp của chư Thiên, hàng trí tuệ thấp kém còn bị kiến chấp, không thể quán xét được.



Bấy giờ, Thiên chủ Đế Thích quán xét xem vị Thiên tử kia sinh vào nơi chôn nào. Sinh vào thành lớn Vương xá, thuộc cõi Nam Diêm-phù-đề thọ thân heo chăng, hay chẳng thọ thân heo?



Đế Thích vận dụng hết Thiên nhãn để quán xét mà chẳng thấy, lại quan sát nơi cõi ngạ quỷ, súc sinh cũng không thấy. Lại quan sát cõi người ở thế giới Ta-bà cũng lại chẳng thấy, cho đến chư Thiên của cõi Tứ Thiên vương và trời Đao-lợi, xem xét hết thảy cũng đều không thể thấy. Lúc này Thiên chủ Đế Thích do không thấy nên sinh tâm nghi ngờ, bèn đi đến chỗ Đức Phật nơi rừng cây Kỳ-đà, đảnh lễ sát chân Phật, lui ra ngồi một bên thưa:



-Bạch Thế Tôn! Thiên tử Ta-miệt-nẵng-pháp hiện tại với năm tướng suy bày rõ, mạng sống chỉ còn bảy ngày, nên lăn lộn trên đất, gào khóc bi thương, nói lên các sự thông khổ, khiến người trông thấy đều cảm động.



Khi con đến đó thấy sự việc như vậy bèn hỏi:



-Vì sao Thiên tử buồn bã khóc lóc thảm thiết, vóc dáng tiều tụy như thế?



Thiên tử Ta-miệt-nẵng-pháp nói:



-Nay mạng sống của tôi chỉ còn bảy ngày, sau khi chết sẽ sinh vào thành Vương xá ở cõi Diêm-phù-đề, đọa làm thân heo, trong nhiều năm phải ăn uống những thứ dơ bẩn.



Con nghe như vậy, lòng rất thương xót mới bảo:



-Nay Hiền giả muôn thoát khỏi khổ ấy thì nên quy y Tam bảo, đọc lời như vầy:



Quy y Phật, Đấng Lưỡng Túc.



Quy y Pháp, bậc lìa dục.



Quy y Tăng, chúng tôn quý.



Khi ấy, Thiên tử Ta-miệt-nẵng-pháp vì sợ chết bị đọa làm súc sinh nên thưa:



-Nay con xin nguyện:



Quy y Phật, Đấng Lưỡng Túc.



Quy y Pháp, bậc lìa dục.



Quy y Tăng, chúng tôn quý.



Thiên tử Ta-miệt-nẵng-pháp thọ tam quy rồi sau đấy thì mạng chung.



Đế Thích thưa:



-Bạch Thế Tôn! Nay con không biết Thiên tử Ta-miệt-nẵng-pháp kia thác sinh vào nơi chôn nào?



Đức Thế Tôn dùng Chánh biến tri bảo Đế Thích:



-Này Kiều-thi-ca! Thiên tử Ta-miệt-nẵng-pháp đã được sinh lên cõi trời Đâu-suất, hưởng thọ năm thứ dục lạc.







*Qua bản kinh trên, chúng ta thấy rằng: Cái lực của tam bảo dư sức cứu các khổ địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

-Không những cứu cái khổ hiện tại, mà cứu luôn cái khổ về sau, để an lạc hạnh phúc miên viễn.

-Chính nhờ cái nhân quy Tam Bảo của thiên tử Ta Miệt Nẵng Pháp, sau này sẽ là nhân gặp vô lượng chư Phật là quả Vô Thượng Bồ Đề nhiều kiếp sau.







PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG ĐÀ LA NI KINH

Diêu Tần Tam Tạng Sa Môn PHẬT ĐÀ BA LỢI phụng chiếu dịch - kinh số 967:




Khi đó Thiện Trụ Thiên Tử trong đêm nghe có tiếng nói rằng: “Thiện Trụ

Thiên Tử! Sau 7 ngày nữa ông sẽ chết. Sau khi chết sanh vào cõi Diêm Phù Đề thọ

thân súc sanh 7 lần, và thọ khổ nơi Địa Ngục, từ nơi Địa Ngục ra được thọ thân người

ở nơi nhà bần tiện, khi còn trong thai đã mù hai mắt”.



Khi Thiện Trụ Thiên Tử nghe như vậy rồi, rất là sợ sệt, các lông dựng đứng,

buồn khổ vô cùng, liền mau đến chỗ Thiên Đế Thích, khóc la đảnh lễ nơi chân Thiên

Đế, bạch cùng Thiên Đế rằng: “Xin hãy nghe tôi nói! Tôi cùng các Thiên nữ trước sau

dạo chơi thọ các điều vui sướng, nghe có tiếng bảo rằng: “Thiện Trụ Thiên Tử! Sau 7

ngày nữa mạng ngươi sẽ hết, sau khi chết sanh nơi Nam Diêm Phù Đề bảy lần thọ thân

súc sanh, sau đó lại đọa vào Địa Ngục, từ Địa Ngục ra được, làm thân người sanh vào

nhà bần tiện lại mù hai mắt”. Cúi xin Thiên Đế làm cách nào để cứu tôi thoát khỏi khổ

nạn này”.



Khi Thiên Đế nghe Thiện Trụ Thiên Tử nói xong, rất lấy làm quái lạ suy nghĩ

rằng: “Thiện Trụ Thiên Tử này vì sao lại bị 7 lần thọ các thân ác?”. Tức thời liền nhập

vào Định Quán, thấy Thiện Trụ Thiên Tử 7 lần thọ các thân ác, như là heo, chó, dã can,

nhị hầu, mãng xà, chim cú, các thân, ăn các vật dơ uế. Khi Thiên Đế thấy Thiện Trụ

Thiên Tử đọa 7 lần trong ác đạo, trong tâm rất là khổ não, không biết lấy gì làm chỗ

quy y, chỉ có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là có thể khiến cho Thiện Trụ Thiên Tử

được khỏi khổ này.



Bấy giờ Thiên Đế Thích lúc sáng sớm đem các tràng hoa, hương đốt, hương

bột, các y phục thù diệu trang nghiêm cõi Trời, đi đến rừng Thệ Đa, chỗ Đức Thế Tôn,

đảnh lễ chân Phật, nhiễu bên phải 7 vòng, ở nơi trước Phật cúng dường đầy đủ, hồ quỳ

chắp tay mà bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Thiện Trụ Thiên Tử vì sao phải thọ 7 lần

làm súc sanh và các thân trong đường ác như đã nói”.



Lúc bấy giờ trên đảnh Đức Như Lai phóng ra các thứ ánh sáng chiếu khắp 10

phương thế giới xong, ánh sáng kia xoay vòng quanh Phật ba vòng rồi nhập vào nơi

miệng. Đức Phật mỉm cười bảo Thiên Đế Thích rằng: “Thiên Đế! Có Đà La Ni gọi là

Tôn Thắng hay tịnh các đường ác, hay trừ tất cả khổ não sanh tử, lại hay trừ các khổ

nơi Địa Ngục, Diêm La Vương giới và cõi Súc Sanh, hay phá các Địa ngục, hướng về

đường lành.



Phật bảo: “Thiên Đế! Phương tiện của Ta đây khiến tất cả chúng sanh đáng đọa Địa Ngục đều được giải thoát, thanh tịnh hết thảy các ác đạo khiến người trì tụng được sống lâu. Thiên Đế! Ông nên đem Đà La Ni này trao cho Thiện Trụ Thiên Tử, qua 7 ngày sau ông hãy cùng Thiện Trụ lại đây gặp Ta”.



Khi đó Thiên Đế ở nơi Thế Tôn được thọ Pháp Đà La Ni xong trở về chỗ cũ trao lại cho Thiện Trụ Thiên Tử, Thiện Trụ Thiên Tử được thọ Đà La Ni này, y Pháp thọ trì 6 ngày 6 đêm, các nguyện đều được đầy đủ, các tội đáng phải đọa vào ác đạo chịu khổ thảy đều giải thoát, được vào Đạo Bồ Đề, được sống lâu vô thượng, rất là Đại hoan hỷ, lớn tiếng khen rằng: “Như Lai thật là ít có! Diệu Pháp thật là ít có! Minh nghiệm (hiệu nghiệm của Thần chú) thật là ít có! Rất là khó được, con đã được giải thoát”.



Khi ấy Thiên Đế trải qua 7 ngày, cùng Thiện Trụ Thiên Tử đem các Thiên chúng cầm các tràng hoa, thiêu hương, mạt hương, tràng phan, Thiên cái, Thiên y, anh lạc, các món trang nghiêm, đi đến chỗ Phật rộng bày đại cúng dường dùng các Thiên y và các anh lạc cúng dường Thế Tôn, nhiễu trăm ngàn vòng, trước Phật hớn hở vui mừng ngồi xuống nghe Pháp. Khi ấy Đức Thế Tôn duỗi cánh tay sắc vàng xoa đầu Thiện Trụ Thiên Tử, nói Pháp thọ ký quả Bồ Đề.






*Thần chú chính là thuộc về Khẩu Giác Ngộ của đức Như Lai, nhờ phương tiện khéo của Phật, nhờ uy lực của Phật, Thiện Trụ Thiên Tử đã thoát được 7 kiếp tương lai đọa vào súc sinh.

-Đây là cách của chư Phật, nói rằng: Đức Phật sẵn sàng cứu độ mọi chúng sinh khi họ thành khẩn cầu giúp đỡ.






Kinh Thuyết Vô Cấu Xưng của ngài Huyền Trang đời Đường dịch số 476 :




Đức Phật nói:



-Cũng vậy, vì lỗi của chúng sinh nên không thấy cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh của Thế Tôn, chứ chẳng phải do lỗi của Như Lai.



Này Xá-lợi Tử! Cõi trang nghiêm thanh tịnh của ta, ông không thấy được đâu.



Khi ấy, Phạm vương Trì Kế nói với Tôn giả Xá-lợi Tử:



-Tôn giả đừng nghĩ cõi Phật ấy không trang nghiêm thanh tịnh. Vì sao? Vì cõi Phật ấy rất trang nghiêm thanh tịnh.



Tôn giả Xá-lợi Tử hỏi:



-Này Đại Phạm Thiên vương! Cõi Phật ấy trang nghiêm thanh tịnh thế nào?



Phạm thiên Trì Kế thưa:



-Thưa Tôn giả Xá -lợi Tử! Giống như cung trời Tha hóa tự tại, có vô lượng công đức báu trang nghiêm. Tôi thấy cõi trang nghiêm thanh tịnh của Đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni cũng có vô lượng công đức trang nghiêm như vậy.



Tôn giả Xá-lợi Tử nói:



-Này Đại Phạm Thiên vương! Tôi thấy cõi ấy đất đai lồi lõm, gò đồi, hầm hô", gai gốc, cát sỏi, đất đá, núi non đầy dẫy ô uế.



Phạm thiên Trì Kế thưa:



-Thưa đại Tôn giả! Vì tâm có cao thấp không trang nghiêm, thanh tịnh tức cho ý lạc trí tuệ của Đức Phật cũng như vậy, nên thây cõi Phật không trang nghiêm, thanh tịnh. Nếu các Bồ-tát đôi với hữu tình có tâm bình đẳng nơi công đức trang nghiêm, tức cho ý lạc trí tuệ của Đức Phật cũng vậy thì thây cõi Phật ấy rất trang nghiêm thanh tịnh.

Biết đại chúng nghi ngờ, Đức Thế Tôn liền nhân ngón chân xuống đất. Tức thời hiện ra vô lượng trăm ngàn vật báu đẹp đẽ trang nghiêm trong tam thiên đại thiên thế giới giông như cõi Vô lượng công đức bảo trang nghiêm của Phật Công Đức Bảo Trang Nghiêm, cả đại chúng đều khen ngợi là chưa từng có và đều tự thấy mình ngồi trên hoa sen báu.







*Đức Thích Ca Mâu Ni Phật, nhấn ngón chân xuống đất tức thời cõi Uế Trược thành cõi Tịnh độ trang nghiêm, đây chứng minh thần lực chư Phật, không thể dùng trí phàm phu suy nghĩ, huống gì lạm bàn nổi sao!








Kinh Diệu Pháp Liên Hoa kinh- phẩm Quán Thế Âm Bồ tát Phổ Môn , số 262 do ngài Cưu Ma La Thập dịch :


Phật bảo Bồ-tát Vô Tận Ý :



-Thiện nam! Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sinh bị các khổ não, nghe Bồ-tát Quán Thế Âm này nhất tâm xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, tức thì được Bồ-tát quán sát âm thanh mà tất cả đều được giải thoát.

Nếu CÓ người trì niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm này thì dù vào trong lửa lớn cũng không bị đốt là do sức oai thần của Bồtát vậy.



Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Bồ-tát này liền gặp chỗ cạn.



Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sinh đi vào biển cả để tìm của báu như vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, ngọc trai... giả sử bị gió lớn thổi ghe thuyền trôi dạt vào nước quỷ La-sát, trong số đó dù chỉ một người xưng danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm thì các người đó đều thoát khỏi nạn quỷ La-sát. Do nhân duyên đó mà có tên là Quán Thế Âm.



Nếu lại có người sắp sửa bị hại, xưng danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm thì đao gậy người kia liền gãy khúc mà được thoát nạn.



Nếu có quỷ Dạ-xoa cùng La-sát đầy cõi tam thiên đại thiên muôn đến hại người, nghe người đó xưng danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm thì các quỷ dữ kia còn không dám giương mắt dữ mà nhìn huống là làm hại.



Dù cho có người hoặc có tội, hoặc không tội, thân bị gông cùm xiềng xích, xưng danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm thì liền gãy đứt mà được giải thoát.



Nếu có oán tặc đầy cõi tam thiên, có một lái buôn dắt các thương gia đem nhiều của báu đi qua đường nguy hiểm, trong đó có một người xướng lên rằng:



-Các thiện nam! Chớ nên sợ hãi, các người phải nhất tâm xưng danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm. Vị Bồ-tát này hay đem pháp vô úy thí cho chúng sinh. Nếu các người xưng danh hiệu sẽ được thoát khỏi giặc cướp này.”



Các thương gia nghe rồi đều đồng thanh niệm Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát. Nhờ xưng niệm danh hiệu mà được thoát khỏi.



Vô Tận Ý! Bồ-tát Quán Thế Âm có sức oai thần vòi vọi như vậy.







*Uy thần của Bồ Tát chỉ cần xưng danh hiệu thì không khổ nạn nào ngài không cứu.

-Nếu có người luôn sẵn sàng cứu chúng ta, khi lâm nạn hoặc lúc bức bách lại không biết khẩn cầu vị ấy giúp đỡ, thì đó là lỗi nghiệp lực che chướng của chúng ta ngăn che, chư Phật, Bồ Tát chứ không phải lỗi các Ngài không từ bi.







Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh của ngài Cương Lương Da Xá dịch số 365:


-Hạ phẩm hạ sinh: Có chúng sinh tạo nghiệp bất thiện, năm tội ngũ nghịch, mười việc ác. Người ngu si ấy do nghiệp ác nên chắc chắn rơi vào đường ác, trải qua nhiều kiếp chịu khổ vô cùng. Tuy nhiên, lúc sắp qua đời, người này gặp được thiện tri thức, dùng nhiều lời an ủi và thuyết pháp vi diệu, dạy cho niệm Phật, nhưng do bị khổ làm đau đớn không thể niệm được. Thiện tri thức bảo: “Nếu ngươi không thể niệm Phật thì nên xưng danh hiệu Đức Phật Vô Lượng Thọ, phải chí tâm khiến âm thanh không ngừng, đủ mười niệm: Nam-mô A-di-đà Phật”. Nhờ xưng danh hiệu Phật mà trong mỗi niệm diệt trừ tội sinh tử trong tám mươi ức kiếp. Lúc qua đời thấy hoa sen bằng vàng như mặt trời ở trước người. Chỉ trong một niệm liền sinh đến thế giới Cực lạc, ở trong hoa sen.







*Một đời tạo tội ngũ nghịch cái lực của ác nghiệp họ rất lớn, nhưng lòng từ bi của đức Phật A Di Đà còn lớn hơn nhiều nghiệp lực của họ.

-Phật lực lớn hơn nghiệp lực cá nhân, do đó đức Di Đà dư sức khả năng cứu họ về cõi Cực Lạc tịnh độ.









LƯỢC LUẬN AN LẠC TỊNH ĐỘ NGHĨA CỦA TỔ ĐÀM LOAN SỐ 1957:




Trí bất tư nghi tức là trí lực của Đức Phật, có khả năng lấy ít làm nhiều, lấy nhiều làm ít, lấy gần làm xa, lấy xa làm gần, lấy khinh làm trọng, lấy trọng làm khinh, lấy dài làm ngắn, lấy ngắn làm dài.



Trí của Đức Phật vô lượng vô biên như vậy nên không thể nghĩ bàn.



Thí như một trăm người tiều phu dồn chứa cỏ suốt một trăm năm chất cao đến một ngàn nhận (khoảng tám ngàn thước), dùng lửa đốt nửa ngày liền cháy hết.

Đâu có thể nói cỏ chứa một trăm năm thì lửa đốt nửa ngày không hết?



Lại như người bị què hai chân, nhờ thuyền người khác chở, nhân có gió thổi mạnh chỉ một ngày thuyền đi đến ngàn dặm.

Đâu có thể nói người què vì sao một ngày đi đến ngàn dặm?



Lại như người hạ tiện nghèo khổ, được vật bằng ngọc quý, đem dâng cho chủ, người chủ vui mừng được ngọc liền trọng thưởng cho người kia.

Người này chỉ trong chốc lát giàu có đầy tràn.



Đâu có thể nói có người học trò trải qua mười năm học, chịu đủ mọi cực khổ cay đắng mà cuối cùng không đạt được gì?



Nói sự giàu có kia không được như vậy ư?



Lại như kẻ yếu sức, dùng hết sức mình leo chồm lên con lừa mà không lên nổi và nếu nương theo vua Chuyển luân đi, cỡi lên hư không bay nhảy tự nhiên, vậy có thể đem người đàn ông sức yếu đặt lên lưng lừa mà quyết nói không thể nương hư không ư?



Lại như có sợi dây dài mười thước, một ngàn người đàn ông không thể cắt được, mà đứa trẻ con vung kiếm trong nháy mắt lại làm đứt hai.

Đâu có thể nói sức của đứa trẻ không thể cắt đứt dây ư?



Lại như con chim chạm vào trong nước, thì loài trai đều chết tiêu hết.



Con tê giác chạm vào đất bùn thì người chết đều đứng dậy.



Đâu có thể nói sinh mạng một khi đã chết rồi thì không thể sống lại được? Lại như con ngỗng vàng gọi Tử An.



Tử An sống trở lại, vậy đâu có thể được nói thây chết dưới phần mộ ngàn năm quyết không thể sống lại được?



Tất cả vạn pháp đều có sức mình sức người, nhiếp mình nhiếp người, ngàn mở vạn đóng, vô lượng vô biên, đâu có thể lấy sự hiểu có ngăn ngại mà nghi pháp kia không ngăn ngại được?



Vả lại nếu cho rằng, việc ác trong một trăm năm là trọng, còn nghi niệm Phật mười niệm là khinh, nên không được vãng sinh cõi An lạc, không được nhập vào chánh định, thì việc đó không phải như vậy.






- LUẬN THẬP TRỤ TỲ BÀ SA SỐ 1521 – PHẨM DỊ HÀNH QUYỂN 5 CỦA NGÀI LONG THỌ:




Phật pháp có vô lượng pháp môn, như đường đi ở thế gian có khó có dễ, đường bộ phải đi bộ thì vất vả, đường thủy ngồi thuyền thì vui thú hơn. Đạo của Bồ tát cũng như vậy, hoặc có pháp chịu khó thực hành tinh tiến, hoặc có pháp dùng niềm tin làm phương tiện dễ dàng thực hành nhanh chóng đến được phần vị A duy việt trí.






LUẬN THẬP TRỤ TỲ BÀ SA – DỊ HÀNH PHẨM QUYỂN 5 LẠI NÓI:

Chư Phật Thế Tôn này hiện tại cư trú trong thế giới thanh tịnh khắp mười phương, đều xưng niệm danh hiệu và nhớ nghĩ, bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà như vậy: Nếu người nào nghĩ đến Ta mà xưng niệm danh hiệu tự quay về nương tựa, thì tiến vào phần vị Tất định đạt được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.




KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM CỦA NGÀI TAM TẠNG BÁT NHÃ DỊCH SỐ 293 - PHẨM 40- BỒ TÁT PHỔ HIỀN PHÁT NGUYỆN VÃNG SINH CỰC LẠC TỊNH ĐỘ (HOA NGHIÊM 40):




Nguyện trong lúc tôi sắp qua đời

Không còn tất cả các chướng ngại

Được gặp Đức Phật A -di-đà

Liền được vãng sinh cõi Cực lạc.



Tôi đã vãng sinh cõi kia rồi!

Hiện tiền thành tựu hạnh nguyện này

Tất cả tròn đủ không thừa thiếu

Lợi lạc tất cả các chúng sinh



Chúng hội Di-đà đều thanh tịnh

Tôi từ hoa sen nở sinh ra

Được thấy Đức Phật Vô Lượng Quang

Thọ ký cho tôi đạo Bồ Đề.



“Nhờ Đức Phật kia” thọ ký rồi!

Tôi hóa vô số vạn ức thân

Trí tuệ rộng lớn khắp mười phương

Lợi lạc tất cả cõi chúng sinh.







*Qua đoạn kệ tụng này, chứng minh quá rõ các Đại thánh Bồ Tát không thể tự mình thỏng tay đi đến cõi Cực Lạc.

-Thứ nhất Bồ Tát Phổ Hiền là địa vị Đẳng giác quả vị thứ 41 nhưng không thể tự mình đến Thế giới Cực Lạc.

-Vì thế giới Cực Lạc là kết quả của Phật A Di Đà là cảnh giới giúp chúng sinh hưởng dụng (cảnh giới tha thọ dụng)

-Nếu Đại Bồ Tát không cầu nguyện vãng sinh thì vẫn không thể đến cõi Cực Lạc.

-Đây cũng là đức Phật nói với chúng ta, nếu không nhờ thần lực oai đức Như Lai đến tiếp dẫn đưa đi, không một ai có thể đến thế giới Cực Lạc bằng sức mạnh cá nhân, nói cách khác là tự lực của các chúng sinh và kể cả tự lực của các thánh Bồ Tát và các Đại Bồ Tát các Ngài ấy vẫn không thể nào dùng năng lực của họ đến thế giới của chư Phật. Đây là cảnh giới Phật thuộc về Phật Trí chứ không phải phàm trí của chúng sinh, không phải thánh trí của các Bồ tát mà suy luận hiểu nổi.




-Niệm Phật, lễ lạy chẳng qua là một cách để chiêu mời lực của Phật gia trì.

-Chứ không phải thông qua niệm Phật, lễ Phật bằng tự lực cá nhân, mà dùng sức cá nhân đi đến cõi Phật và vãng sinh Tịnh Độ.

-Chính yếu do uy lực của Phật mà tất cả chúng sinh và các thánh Bồ Tát mới đi được Tịnh Độ.



-Thứ 2: Nhờ đức Phật A Di Đà thọ ký mới có thể lợi lạc các chúng sinh, mới thành tựu được hạnh Phổ Hiền, mới viên mãn được trí tuệ.

-“Nhờ Phật” chính là nhờ vào Phật Lực gia trì, nhờ tha lực của Phật chúng ta và các thánh mới viên mãn được hai tư lương: phước và trí.

Nam mô A Di Đà Phật.


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.63 khách