CHÁNH HẠNH NIỆM PHẬT
Kinh Duy Ma nói: "Trưởng giả Bảo Tích và năm trăm Trưởng giả tử bạch đức Phật rằng:
- Chúng con đã phát tâm cầu đạo giác ngộ Chân Chánh Vô Thượng, mong được nghe về cõi nước Phật thanh tịnh, mong đức Phật nói về hạnh Tịnh độ của Bồ tát.
Đức Phật bảo:
- Này Bảo Tích, chúng sinh là Tịnh Độ của Bồ tát".
Pháp sư Tăng Triệu nói: "Chư Phật và Bồ tát rỗng lặng không có hình tướng, do ứng vật nên biểu hiện ra hình tướng. Hình tướng không có bản chất thường hằng, huống chi cõi nước mà thường hằng hay sao? Bởi lẽ, chúng sinh muôn loài hạnh nghiệp không đồng, nên dẫn đến báo ứng sai biệt. Thế nên, thanh tịnh thì ứng hiện ra ngọc báo, uế trược thì ứng hiện ra ngói gạch. Đẹp xấu là do tự họ, đối với ta không nhất định. Cõi không nhất định mới là cõi chân thật, thế thì sự nhơ và sạch của cõi nước là thuộc chúng sinh, do đó nói rằng chúng sinh là Tịnh độ của Bồ tát".
Nói về thể tánh của Tịnh Độ Như Lai vốn không phương hướng chỗ nơi. Do chúng sinh có hạnh hỗn tạp nên cùng xem mà thấy lại khác nhau. Vì cái thấy khác mà phát sinh sự tịnh uế. Bởi không phương hướng chỗ nơi nên cõi chân thật mới biểu hiện; nếu như xét về tịnh và uế đó là quả báo của chúng sinh. Cõi Phật chân thật vốn không phương hướng chỗ nơi, lẽ nào lại bảo rằng hai cõi phàm Thánh khác nhau, rồi mới biện rõ sự thanh tịnh và uế trược?
Pháp sư Đạo Sinh nói: "Hành giả Tịnh Độ do thực hành đến chỗ tột cùng mà dẫn đến Tịnh Độ, chẳng phải nhờ tạo tác. Nếu muốn tạo ra cõi nước thì thuộc về phần chúng sinh rồi, nhưng gượng nói tạo tác thì cần phải nói rõ chỗ căn bản của sự tạo tác để bày tỏ ý nghĩa rốt ráo, rồi sau đó mới nói về việc tu hành".
Pháp sư La Thập nói: "Trưởng giả Bảo Tích hỏi về tướng trạng của Tịnh Độ. Đức Thế Tôn đáp rằng: chúng sinh là Tịnh Độ của Bồ tát".
Đây vốn là nói về nhân ở trên quả.
Quốc sư Thanh Lương nói: "Trong tâm chư Phật luôn luôn có chúng sinh mới thành Phật. Trong tâm chúng sinh, mỗi niệm mỗi niệm, chứng nhập Tịnh Độ chân thật".
Kinh Duy Ma nói: "Bồ tát tùy theo sự giáo hóa chúng sinh mà nhận lấy cõi nước thanh tịnh, vì để làm lợi ích mọi chúng sinh. Ví như có người muốn xây dựng cung thất ở nơi đất trống thì tùy ý không chướng ngại, nhưng muốn xây dựng ở nơi hư không rốt cuộc không thể thành tựu. Bồ tát cũng như thế, vì thành tựu chúng sinh nên nguyện nhận lấy cõi Phật. Nên biết, tâm ngay thẳng, tâm sâu xa, tâm Đại thừa là Tịnh Độ của Bồ tát".
Pháp sư Tăng Triệu nói: "Sự thanh tịnh của cõi nước phải do chúng sinh, sự thanh tịnh của chúng sinh phải nhờ các hạnh. Hạnh thanh tịnh thì chúng sinh thanh tịnh, chúng sinh thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh. Đó là lẽ tất nhiên không thể sai khác. Cõi nước không có cong vạy nhơ bẩn là xuất phát từ tâm ngay thẳng, cho nên nói tâm ngay thẳng là Tịnh độ của Bồ tát. Tâm ngay thẳng nghĩa là chất trực không xiểm nịnh. Tâm này là cội gốc của vạn hạnh".
Pháp sư Đạo Sinh nói: "Trồng tâm gieo đức sâu chắc khó nhổ, đó là tâm sâu xa. Nương vào vạn hạnh mà chuyên chở cả thiên hạ không xót một người, đó là tâm Đại thừa. Ba tâm này là hạnh của người mới học. Muốn hoằng dương đại đạo, trước cần phải ngay thẳng tâm mình; tâm đã chân thật ngay thẳng, sau đó mới có thể vào sâu trong hạnh; đã vào sâu nơi hạnh thì vận dụng rộng lớn không bến bờ. Đây là thứ tự của ba tâm, đủ ba tâm này kế đến tu lục độ, cho tới vạn hạnh".
Pháp sư La Thập nói: "Tâm ngay thẳng là tâm thành thật, sự bắt đầu của sự phát tâm ở nơi thành thật. Thấu suốt đạo lý gọi là tâm sâu xa, tiến thẳng đến trí tuệ Phật gọi là tâm Đại thừa".
Kinh Duy Ma nói: "Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ là Tịnh Độ của Bồ tát. Bốn tâm vô lượng(87), bốn pháp nhiếp hóa(88) chúng sinh là Tịnh Độ của Bồ tát. Phương tiện là Tịnh độ của Bồ tát. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo(89) là Tịnh độ của Bồ tát. Hồi hướng là Tịnh độ của Bồ tát. Thập thiện là Tịnh độ của Bồ tát.
- Như thế, này Bảo Tích! Bồ tát thuận theo tâm ngay thẳng thì có thể khởi phát hạnh; thuận theo sự phát khởi hạnh thì được tâm sâu xa; thuận theo tâm sâu xa thì được ý điều phục; thuận theo ý điều phục thì đúng như lời dạy mà thực hành; đúng như lời dạy mà thực hành thì có thể hồi hướng; thuận theo sự hồi hướng thì có phương tiện; thuận theo phương tiện thì làm thành tựu chúng sinh; theo sự làm thành tựu chúng sinh thì cõi Phật thanh tịnh; thuận theo cõi Phật thanh tịnh thì thuyết pháp thanh tịnh; thuận theo sự thuyết pháp thanh tịnh thì trí tuệ thanh tịnh; thuận theo trí tuệ thanh tịnh thì tự tâm thanh tịnh; thuận theo tự tâm thanh tịnh thì tất cả công đức thanh tịnh".
Pháp sư La Thập nói: "Tâm ngay thẳng là đem tâm chân thành tin tưởng Phật pháp. Lòng tin đã lập, có thể phát khởi sự thực hành các điều lành. Các điều lành đã được tích lũy thì tâm càng sâu xa. Tâm sâu xa kiên cố thì không theo các điều ác, bỏ ác theo thiện gọi là điều phục tâm. Tâm đã điều phục thì gặp việc thiện liền làm, gặp điều thiện liền làm, thì có thể làm việc khó làm; có thể làm việc khó làm thì muôn việc lành đều được đầy đủ; muôn điều lành đầy đủ thì có thể hồi hướng Phật đạo; hướng mà càng tiến là do sức mạnh của phương tiện. Chỗ cốt yếu của phương tiện có ba điều:
- - Một: khéo léo tự tu hành không chấp tướng.
- Hai: không chấp vào chỗ chứng đắc.
- Ba: khéo léo giáo hóa chúng sinh.
Các kinh tuy nói rộng về hạnh của Tịnh Độ, nhưng chưa trình bày rõ thứ bậc lần lượt của hạnh. Nay ở đây giải thích rõ ràng, cực kỳ sâu rộng; chẳng thể nhanh chóng vượt qua, cần phải tìm đường lối, thực hành có thứ tự. Thế nên nói, dấu vết của sự phát khởi hạnh bắt đầu từ tâm ngay thẳng. Tâm ngay thẳng chính là tâm chân thật. Tâm này mọi loài ai cũng có, bởi vì tự mê mờ không hay biết đó thôi. Vì thế, Lục Tổ nói: "Một niệm ngay thẳng chính là Di Đà, một niệm tà hiểm chính là chúng sinh". Bởi lẽ, con người ở nơi đời trược ác vô minh hiện hành, miệng nói tâm tôi ngay thẳng mà hành động lại nhiều cong vạy, chìm trong biển khổ không thể thoát ra. Do vậy, đức Phật từ bi thương xót, dùng phương tiện chỉ dạy, đem pháp niệm Phật để dẫn dắt họ, hàng phục tâm loạn khiến họ lìa bỏ con đường tà vạy hiểm nguy trở về nẻo giác ngộ chân chánh, tuy còn là chúng sinh mà được sinh về Tịnh độ. Cho nên, luận Bảo Vương nói: "Thanh châu gieo vào nước đục, nước đục không thể không trong. Phật hiệu gieo vào tâm loạn, tâm loạn trở thành tâm Phật". Vì thế, nhân niệm Phật mà hiển bày tâm ngay thẳng, do tâm ngay thẳng mà thực hành các điều lành; do thực hành các điều lành mà được Tịnh độ của Phật. Như thế, há chẳng phải là phương tiện trí lực của Phật Tổ sao?
Pháp sư Tăng Triệu nói: "Do tích đức nên tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh thì không có đức nào không thanh tịnh". Pháp sư Đạo Sinh nói: "Công hạnh là nhân thù thắng của Tịnh Độ. Công đức là quả nhiệm mầu của Tịnh Độ. Nhân quả Tinh Độ vốn là bóng và tiếng vang của tâm". Cho nên nói: "Muốn được Tịnh Độ, phải thanh tịnh tâm mình". Đó gọi là: "Tiếng hòa thì vang thuận, hình thẳng tất bóng ngay".
- CHÚ THÍCH:
- a. Từ vô lượng: duyên vô lượng chúng sinh, tư duy cách làm cho chúng sinh được vui mà nhập vào Từ đẳng chí.
b. Bi vô lượng: duyên vô lượng chúng sinh, tư duy cách làm cho chúng sinh lìa khổ mà nhập vào Bi đẳng chí.
c. Hỷ vô lượng: tư duy vô lượng chúng sinh có khả năng lìa khổ được vui, trong tâm thâm cảm vui mừng mà nhập vào Hỷ đẳng chí.
d. Xả vô lượng: tư duy vô lượng chúng sinh tất cả bình đẳng, không có oán, thân khác nhau mà nhập vào Xả đẳng chí.
- a. Bố thí nhiếp.
b. Ái ngữ nhiếp.
c. Lợi hành nhiếp.
d. Đồng sự nhiếp.
- a. Tứ niệm xứ:
- Thân niệm xứ: tức quán sắc thân này đều là bất tịnh.
- Thọ niệm xứ: quán các cảm thọ khổ, vui... thảy đều khổ.
- Tâm niệm xứ: quán thứ tâm này niệm niệm sinh diệt và không thường trụ.
- Pháp niệm xứ: quán các pháp do nhân duyên sinh, không có tính chất tự chủ, tự tại, đó là các pháp vô ngã.
b. Tứ chánh cần:
- Điều ác đã sinh phải trừ hẳn.
- Điều ác chưa sinh không cho sinh.
- Điều thiện chưa sinh phải phát khởi.
- Điều thiện đã sinh làm cho tăng trưởng.
c. Tứ như ý túc:
- Dục như ý túc: hy vọng pháp sở tu được đầy đủ như nguyện.
- Tinh tấn như ý túc: đối với pháp sở tu thì phải chuyên chú nhất tâm, không có xen tạp, được đầy đủ như nguyện.
- Niệm như ý túc: đối với pháp sở tu ghi nhớ, không quên, được đầy đủ như nguyện.
- Tư duy như ý túc: tâm tư duy pháp sở tu, không để quên mất, được đầy đủ như nguyện.
d. Ngũ căn: căn nghĩa là năng sinh, năm căn này có công năng sinh ra tất cả các thiện pháp.
- Tín căn: tin sâu chánh đạo và pháp trợ đạo thì có công năng sinh ra tất các vô lậu thiền định giải thoát.
- Tinh tấn căn: tu theo chánh pháp không xen không tạp.
- Niệm căn: ghi nhớ chánh pháp không quên.
- Định căn: nhiếp tâm không tán loạn, nhất tâm tịch định.
- Huệ căn: quán chiếu các pháp rõ ràng.
e. Ngũ lực: lực là lực dụng có công năng phá ác sinh thiện.
- Tín lực: tín căn tăng trưởng có công năng phá trừ các nghi hoặc.
- Tinh tấn lực: tinh tấn căn tăng trưởng có công năng phá trừ sự biến nhác của thân tâm.
- Niệm lực: niệm căn tăng trưởng có công năng phá triệt các tà niệm, thành tựu công đức chánh niệm xuất thế.
- Định lực: định căn tăng trưởng có công năng diệt trừ các loạn tưởng, phát sinh các thiền định.
- Huệ lực: huệ căn tăng trưởng có công năng ngăn chặn các hoặc kiến, tư trong ba cõi.
f. Thất giác phần:
- Trạch pháp giác phần: có công năng giản trạch sự chân, ngụy của các pháp.
- Tinh tấn giác phần: tu các đạo pháp không xen tạp.
- Hỷ giác phần: khế ngộ chân pháp, tâm được hoan hỷ.
- Trừ giác phần: có công năng đoạn trừ các kiến hoặc phiền não.
- Xả giác phần: có công năng xa lìa cảnh giới niệm trước của sở kiến.
- Định giác phần: có công năng biết rõ thiền định sở phát.
- Niệm giác phần: có công năng tư duy đạo pháp mà mình tu.
g. Bát chánh đạo:
- Chánh kiến: có công năng thấy được chân lý.
- Chánh tư duy: tâm không tà niệm.
- Chánh ngữ: lời không hư vọng.
- Chánh nghiệp: trụ trong thiện nghiệp thanh tịnh.
- Chánh mạng: nuôi mạng sống bằng pháp khất thực.
- Chánh tinh tấn: tu các đạo hạnh không xen tạp.
- Chánh niệm: chuyên tâm nhớ nghĩ thiện pháp.
- Chánh định: thân tâm tịch tĩnh, chính trụ trong lý chân không.