LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì pháp môn niệm Phật.

Điều hành viên: binh, battinh

Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

THIÊN THỨ SÁU
CHÁNH HẠNH NIỆM PHẬT
Cõi Thường Tịch Quang vốn không có sắc tướng, nhưng có ứng thì biểu hiện ra hình tướng. Đạo Bồ đề đã mở ra con đường chính yếu, nếu không thực hành thì chẳng đến được.

Kinh Duy Ma nói: "Trưởng giả Bảo Tích và năm trăm Trưởng giả tử bạch đức Phật rằng:

- Chúng con đã phát tâm cầu đạo giác ngộ Chân Chánh Vô Thượng, mong được nghe về cõi nước Phật thanh tịnh, mong đức Phật nói về hạnh Tịnh độ của Bồ tát.

Đức Phật bảo:

- Này Bảo Tích, chúng sinh là Tịnh Độ của Bồ tát".

Pháp sư Tăng Triệu nói: "Chư Phật và Bồ tát rỗng lặng không có hình tướng, do ứng vật nên biểu hiện ra hình tướng. Hình tướng không có bản chất thường hằng, huống chi cõi nước mà thường hằng hay sao? Bởi lẽ, chúng sinh muôn loài hạnh nghiệp không đồng, nên dẫn đến báo ứng sai biệt. Thế nên, thanh tịnh thì ứng hiện ra ngọc báo, uế trược thì ứng hiện ra ngói gạch. Đẹp xấu là do tự họ, đối với ta không nhất định. Cõi không nhất định mới là cõi chân thật, thế thì sự nhơ và sạch của cõi nước là thuộc chúng sinh, do đó nói rằng chúng sinh là Tịnh độ của Bồ tát".

Nói về thể tánh của Tịnh Độ Như Lai vốn không phương hướng chỗ nơi. Do chúng sinh có hạnh hỗn tạp nên cùng xem mà thấy lại khác nhau. Vì cái thấy khác mà phát sinh sự tịnh uế. Bởi không phương hướng chỗ nơi nên cõi chân thật mới biểu hiện; nếu như xét về tịnh và uế đó là quả báo của chúng sinh. Cõi Phật chân thật vốn không phương hướng chỗ nơi, lẽ nào lại bảo rằng hai cõi phàm Thánh khác nhau, rồi mới biện rõ sự thanh tịnh và uế trược?

Pháp sư Đạo Sinh nói: "Hành giả Tịnh Độ do thực hành đến chỗ tột cùng mà dẫn đến Tịnh Độ, chẳng phải nhờ tạo tác. Nếu muốn tạo ra cõi nước thì thuộc về phần chúng sinh rồi, nhưng gượng nói tạo tác thì cần phải nói rõ chỗ căn bản của sự tạo tác để bày tỏ ý nghĩa rốt ráo, rồi sau đó mới nói về việc tu hành".

Pháp sư La Thập nói: "Trưởng giả Bảo Tích hỏi về tướng trạng của Tịnh Độ. Đức Thế Tôn đáp rằng: chúng sinh là Tịnh Độ của Bồ tát".

Đây vốn là nói về nhân ở trên quả.

Quốc sư Thanh Lương nói: "Trong tâm chư Phật luôn luôn có chúng sinh mới thành Phật. Trong tâm chúng sinh, mỗi niệm mỗi niệm, chứng nhập Tịnh Độ chân thật".

Kinh Duy Ma nói: "Bồ tát tùy theo sự giáo hóa chúng sinh mà nhận lấy cõi nước thanh tịnh, vì để làm lợi ích mọi chúng sinh. Ví như có người muốn xây dựng cung thất ở nơi đất trống thì tùy ý không chướng ngại, nhưng muốn xây dựng ở nơi hư không rốt cuộc không thể thành tựu. Bồ tát cũng như thế, vì thành tựu chúng sinh nên nguyện nhận lấy cõi Phật. Nên biết, tâm ngay thẳng, tâm sâu xa, tâm Đại thừa là Tịnh Độ của Bồ tát".

Pháp sư Tăng Triệu nói: "Sự thanh tịnh của cõi nước phải do chúng sinh, sự thanh tịnh của chúng sinh phải nhờ các hạnh. Hạnh thanh tịnh thì chúng sinh thanh tịnh, chúng sinh thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh. Đó là lẽ tất nhiên không thể sai khác. Cõi nước không có cong vạy nhơ bẩn là xuất phát từ tâm ngay thẳng, cho nên nói tâm ngay thẳng là Tịnh độ của Bồ tát. Tâm ngay thẳng nghĩa là chất trực không xiểm nịnh. Tâm này là cội gốc của vạn hạnh".

Pháp sư Đạo Sinh nói: "Trồng tâm gieo đức sâu chắc khó nhổ, đó là tâm sâu xa. Nương vào vạn hạnh mà chuyên chở cả thiên hạ không xót một người, đó là tâm Đại thừa. Ba tâm này là hạnh của người mới học. Muốn hoằng dương đại đạo, trước cần phải ngay thẳng tâm mình; tâm đã chân thật ngay thẳng, sau đó mới có thể vào sâu trong hạnh; đã vào sâu nơi hạnh thì vận dụng rộng lớn không bến bờ. Đây là thứ tự của ba tâm, đủ ba tâm này kế đến tu lục độ, cho tới vạn hạnh".

Pháp sư La Thập nói: "Tâm ngay thẳng là tâm thành thật, sự bắt đầu của sự phát tâm ở nơi thành thật. Thấu suốt đạo lý gọi là tâm sâu xa, tiến thẳng đến trí tuệ Phật gọi là tâm Đại thừa".

Kinh Duy Ma nói: "Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ là Tịnh Độ của Bồ tát. Bốn tâm vô lượng(87), bốn pháp nhiếp hóa(88) chúng sinh là Tịnh Độ của Bồ tát. Phương tiện là Tịnh độ của Bồ tát. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo(89) là Tịnh độ của Bồ tát. Hồi hướng là Tịnh độ của Bồ tát. Thập thiện là Tịnh độ của Bồ tát.

- Như thế, này Bảo Tích! Bồ tát thuận theo tâm ngay thẳng thì có thể khởi phát hạnh; thuận theo sự phát khởi hạnh thì được tâm sâu xa; thuận theo tâm sâu xa thì được ý điều phục; thuận theo ý điều phục thì đúng như lời dạy mà thực hành; đúng như lời dạy mà thực hành thì có thể hồi hướng; thuận theo sự hồi hướng thì có phương tiện; thuận theo phương tiện thì làm thành tựu chúng sinh; theo sự làm thành tựu chúng sinh thì cõi Phật thanh tịnh; thuận theo cõi Phật thanh tịnh thì thuyết pháp thanh tịnh; thuận theo sự thuyết pháp thanh tịnh thì trí tuệ thanh tịnh; thuận theo trí tuệ thanh tịnh thì tự tâm thanh tịnh; thuận theo tự tâm thanh tịnh thì tất cả công đức thanh tịnh".

Pháp sư La Thập nói: "Tâm ngay thẳng là đem tâm chân thành tin tưởng Phật pháp. Lòng tin đã lập, có thể phát khởi sự thực hành các điều lành. Các điều lành đã được tích lũy thì tâm càng sâu xa. Tâm sâu xa kiên cố thì không theo các điều ác, bỏ ác theo thiện gọi là điều phục tâm. Tâm đã điều phục thì gặp việc thiện liền làm, gặp điều thiện liền làm, thì có thể làm việc khó làm; có thể làm việc khó làm thì muôn việc lành đều được đầy đủ; muôn điều lành đầy đủ thì có thể hồi hướng Phật đạo; hướng mà càng tiến là do sức mạnh của phương tiện. Chỗ cốt yếu của phương tiện có ba điều:
  • - Một: khéo léo tự tu hành không chấp tướng.
    - Hai: không chấp vào chỗ chứng đắc.
    - Ba: khéo léo giáo hóa chúng sinh.
Đủ ba điều đó thì được Tịnh Độ. Cõi nước đã thanh tịnh thì chúng sinh thuần tịnh. Chúng sinh thuần tịnh ắt đồng với đức hạnh của vị chủ giáo hóa. Cho nên nói, thảy đều thanh tịnh".

Các kinh tuy nói rộng về hạnh của Tịnh Độ, nhưng chưa trình bày rõ thứ bậc lần lượt của hạnh. Nay ở đây giải thích rõ ràng, cực kỳ sâu rộng; chẳng thể nhanh chóng vượt qua, cần phải tìm đường lối, thực hành có thứ tự. Thế nên nói, dấu vết của sự phát khởi hạnh bắt đầu từ tâm ngay thẳng. Tâm ngay thẳng chính là tâm chân thật. Tâm này mọi loài ai cũng có, bởi vì tự mê mờ không hay biết đó thôi. Vì thế, Lục Tổ nói: "Một niệm ngay thẳng chính là Di Đà, một niệm tà hiểm chính là chúng sinh". Bởi lẽ, con người ở nơi đời trược ác vô minh hiện hành, miệng nói tâm tôi ngay thẳng mà hành động lại nhiều cong vạy, chìm trong biển khổ không thể thoát ra. Do vậy, đức Phật từ bi thương xót, dùng phương tiện chỉ dạy, đem pháp niệm Phật để dẫn dắt họ, hàng phục tâm loạn khiến họ lìa bỏ con đường tà vạy hiểm nguy trở về nẻo giác ngộ chân chánh, tuy còn là chúng sinh mà được sinh về Tịnh độ. Cho nên, luận Bảo Vương nói: "Thanh châu gieo vào nước đục, nước đục không thể không trong. Phật hiệu gieo vào tâm loạn, tâm loạn trở thành tâm Phật". Vì thế, nhân niệm Phật mà hiển bày tâm ngay thẳng, do tâm ngay thẳng mà thực hành các điều lành; do thực hành các điều lành mà được Tịnh độ của Phật. Như thế, há chẳng phải là phương tiện trí lực của Phật Tổ sao?

Pháp sư Tăng Triệu nói: "Do tích đức nên tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh thì không có đức nào không thanh tịnh". Pháp sư Đạo Sinh nói: "Công hạnh là nhân thù thắng của Tịnh Độ. Công đức là quả nhiệm mầu của Tịnh Độ. Nhân quả Tinh Độ vốn là bóng và tiếng vang của tâm". Cho nên nói: "Muốn được Tịnh Độ, phải thanh tịnh tâm mình". Đó gọi là: "Tiếng hòa thì vang thuận, hình thẳng tất bóng ngay".
  • CHÚ THÍCH:
(87) Bốn tâm vô lượng: bốn tinh thần phải có của Phật, Bồ tát để độ khắp vô lượng chúng sinh, làm cho chúng sinh lìa khổ được vui.
  • a. Từ vô lượng: duyên vô lượng chúng sinh, tư duy cách làm cho chúng sinh được vui mà nhập vào Từ đẳng chí.

    b. Bi vô lượng: duyên vô lượng chúng sinh, tư duy cách làm cho chúng sinh lìa khổ mà nhập vào Bi đẳng chí.

    c. Hỷ vô lượng: tư duy vô lượng chúng sinh có khả năng lìa khổ được vui, trong tâm thâm cảm vui mừng mà nhập vào Hỷ đẳng chí.

    d. Xả vô lượng: tư duy vô lượng chúng sinh tất cả bình đẳng, không có oán, thân khác nhau mà nhập vào Xả đẳng chí.
(88) Bốn pháp nhiếp hóa: bốn phương pháp lợi tha để nhiếp phục chúng sinh quay về với Phật pháp:
  • a. Bố thí nhiếp.
    b. Ái ngữ nhiếp.
    c. Lợi hành nhiếp.
    d. Đồng sự nhiếp.
(89) Ba mươi bảy phẩm trợ đạo: ba mươi bảy pháp trợ giúp việc tu tập. Ba mươi bảy đạo phẩm được chia làm bảy khoa như sau:
  • a. Tứ niệm xứ:
    - Thân niệm xứ: tức quán sắc thân này đều là bất tịnh.
    - Thọ niệm xứ: quán các cảm thọ khổ, vui... thảy đều khổ.
    - Tâm niệm xứ: quán thứ tâm này niệm niệm sinh diệt và không thường trụ.
    - Pháp niệm xứ: quán các pháp do nhân duyên sinh, không có tính chất tự chủ, tự tại, đó là các pháp vô ngã.

    b. Tứ chánh cần:
    - Điều ác đã sinh phải trừ hẳn.
    - Điều ác chưa sinh không cho sinh.
    - Điều thiện chưa sinh phải phát khởi.
    - Điều thiện đã sinh làm cho tăng trưởng.

    c. Tứ như ý túc:
    - Dục như ý túc: hy vọng pháp sở tu được đầy đủ như nguyện.
    - Tinh tấn như ý túc: đối với pháp sở tu thì phải chuyên chú nhất tâm, không có xen tạp, được đầy đủ như nguyện.
    - Niệm như ý túc: đối với pháp sở tu ghi nhớ, không quên, được đầy đủ như nguyện.
    - Tư duy như ý túc: tâm tư duy pháp sở tu, không để quên mất, được đầy đủ như nguyện.

    d. Ngũ căn: căn nghĩa là năng sinh, năm căn này có công năng sinh ra tất cả các thiện pháp.
    - Tín căn: tin sâu chánh đạo và pháp trợ đạo thì có công năng sinh ra tất các vô lậu thiền định giải thoát.
    - Tinh tấn căn: tu theo chánh pháp không xen không tạp.
    - Niệm căn: ghi nhớ chánh pháp không quên.
    - Định căn: nhiếp tâm không tán loạn, nhất tâm tịch định.
    - Huệ căn: quán chiếu các pháp rõ ràng.

    e. Ngũ lực: lực là lực dụng có công năng phá ác sinh thiện.
    - Tín lực: tín căn tăng trưởng có công năng phá trừ các nghi hoặc.
    - Tinh tấn lực: tinh tấn căn tăng trưởng có công năng phá trừ sự biến nhác của thân tâm.
    - Niệm lực: niệm căn tăng trưởng có công năng phá triệt các tà niệm, thành tựu công đức chánh niệm xuất thế.
    - Định lực: định căn tăng trưởng có công năng diệt trừ các loạn tưởng, phát sinh các thiền định.
    - Huệ lực: huệ căn tăng trưởng có công năng ngăn chặn các hoặc kiến, tư trong ba cõi.

    f. Thất giác phần:
    - Trạch pháp giác phần: có công năng giản trạch sự chân, ngụy của các pháp.
    - Tinh tấn giác phần: tu các đạo pháp không xen tạp.
    - Hỷ giác phần: khế ngộ chân pháp, tâm được hoan hỷ.
    - Trừ giác phần: có công năng đoạn trừ các kiến hoặc phiền não.
    - Xả giác phần: có công năng xa lìa cảnh giới niệm trước của sở kiến.
    - Định giác phần: có công năng biết rõ thiền định sở phát.
    - Niệm giác phần: có công năng tư duy đạo pháp mà mình tu.

    g. Bát chánh đạo:
    - Chánh kiến: có công năng thấy được chân lý.
    - Chánh tư duy: tâm không tà niệm.
    - Chánh ngữ: lời không hư vọng.
    - Chánh nghiệp: trụ trong thiện nghiệp thanh tịnh.
    - Chánh mạng: nuôi mạng sống bằng pháp khất thực.
    - Chánh tinh tấn: tu các đạo hạnh không xen tạp.
    - Chánh niệm: chuyên tâm nhớ nghĩ thiện pháp.
    - Chánh định: thân tâm tịch tĩnh, chính trụ trong lý chân không.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chương 1
CÔNG PHU TIẾN TU
Thuyết Tịnh Độ duy tâm đã rõ, mọi người đều biết nhưng cần phải đích thực đạt đến, sau đó mới thôi. Muốn chứng đạo này nên lấy lòng tin chân chánh làm cửa vào, lấy việc tu tâm làm hạnh chính yếu. Công hạnh này gọi là Tịnh nghiệp, là tư lương của sự vãng sinh Tây Phương. Hạnh nghiệp này tùy theo sự tu tập của mỗi người. Bởi lẽ, tất cả mọi người sức mạnh có lớn nhỏ, cơ trí có cạn sâu nên hạnh nghiệp chẳng đồng nhau. Người trí căn cơ bậc thượng ngay đây tự ngộ, rõ bản tâm mình, thấy bản tánh mình chính là Di Đà. Đây tức là cảnh giới Tối thượng thừa không trụ chấp, không nương tựa của Như Lai, chỗ này trong muôn người chẳng có một ai đến được. Kẻ chưa thể đốn ngộ thì cần phải tin chắc Tịnh độ, nhất tâm niệm Phật, lần lượt tiến tu, nương nhờ nguyện lực của Phật Di Đà nhiếp trì, tự mình một lòng chân thật thực hành công phu, thì chắc chắn muôn người không sót một.

Tuy bảo rằng một môn niệm Phật, thật ra ý nghĩa bao hàm vô tận. Thế nên, Tổ sư lập giáo thâu nhiếp mọi căn cơ lợi độn, có chân thật, có quyền biến, có sâu cạn, có đốn tiệm, ai nấy đều có thể tu trì. Bậc thượng căn tham cứu tọa thiền; trung căn quán tưởng trì niệm, sáu thời lễ bái, ngày đêm tinh chuyên, thậm chí mười niệm cũng được thành công, hoàn toàn ở nơi một lòng thực hiện. Những pháp ấy đều có tướng trạng của sự thực hành, thềm thang thứ bậc, tùy sức hành trì, mọi người đều có thể cùng tiến bước.

Hạnh môn này là con đường thành tựu Phật quả Bồ đề, cần phải tự tin, tự hành, tự tu, tự độ. Quan trọng ở chỗ lập chí lớn, phát nguyện lớn, tự thực hành công phu, nỗ lực hướng đến trước, chớ cho là dễ dàng. Ví như gánh nặng một trăm hai mươi cân, đến khi tự mình gánh được mới là xong việc. Quyết định chẳng ở nơi việc biết thuyết pháp, thể hội đạo, giáo hóa rộng rãi mọi người; quyết định chẳng ở nơi việc có truyền có trao, làm ra dáng vẻ trên hình thức; quyết định chẳng ở nơi việc thiết lập đạo tràng rộng lớn, đốt nhiều nhang đèn. Bởi vì, chấp nơi sự tướng thì không rõ lý chân chánh, thuận theo thinh sắc ắt trái ngược với tông chỉ chân thật. Ví như đếm tiền của người mà tự mình không có nửa đồng, bán thuốc hay mà không tự cứu được bệnh của mình. Thế nên, Tổ sư Huệ Viễn nói: "Người đạt được ý chỉ giống như ngọn đèn sáng trong căn nhà tối. Người chẳng rõ ý chỉ tức đồng với kẻ chấp ngón tay không thấy mặt trăng". Sao chẳng tỏ ngộ vô tâm là chánh, động niệm đều tà? Mặt trời trí tuệ ẩn lấp trong mây mù, gương tâm phủ mờ bởi khách trần bụi bặm. Do đó, ý niệm rong ruỗi, tình dục lăng xăng, dây dưa không dứt, càng ngăn chặn càng khởi lên nhiều. Kẻ rơi vào vô ký chỉ ngưng trệ chỗ ngơ ngáo, hiếm lắm mới có được người tương đối tốt nhưng lại đồng với kẻ tà mạn không sao chỉ dẫn, khó nói về chánh định. Họ chẳng mong cầu vào nơi pháp giới, mãi mãi ở trong lồng chậu trần lao.

Phàm người tu Tịnh Độ, rõ ràng muốn chống lại sinh tử, không phải chỉ nói liền xong. Nên nghĩ đến vô thường mau chóng, thời gian chẳng đợi người, cần phải làm cho được một việc này. Nửa tiến nửa lùi, lúc tin lúc nghi, rốt cuộc làm được việc gì? Sao có thể thoát khỏi luân hồi?

Nếu tin được thì từ hôm nay trở đi, nên phát khởi tâm đại dõng mãnh, đại tinh tấn. Đừng hỏi rằng thể hội hay không thể hội, thấy tánh hay không thấy tánh, chỉ cần nắm chặt một câu Nam mô A Di Đà Phật như dựa vào ngọn núi Tu Di(90) chẳng lay động. Phải chuyên tâm nhất ý, hoặc tham cứu niệm Phật, quán tưởng niệm Phật, nghĩ nhớ mà niệm, hoặc dùng pháp thập niệm; hoặc mặc niệm, chuyên niệm, buộc niệm, lễ niệm. Tâm an trụ nơi danh hiệu Phật, thường nhớ thường niệm, sáng cũng niệm, tối cũng niệm, đi cũng niệm, ngồi cũng niệm, không để tâm luống qua, câu niệm Phật chẳng rời tâm. Ngày ngày giờ giờ đừng buông bỏ, miên mật khít khao như gà ấp trứng, thường giữ cho hơi ấm nối tiếp nhau, như thế tức là tịnh niệm tiếp nối. Lại thêm dùng trí tuệ chiếu soi, thì biết Tịnh Độ tức là tự tâm. Đó chính là công phu tu tiến của bậc thượng trí vậy.

Như thế, nắm chặt được, làm chủ được, nương tựa được ổn thỏa, dù gặp cảnh giới khổ vui, thuận nghịch ở trước mắt nhưng vẫn chỉ niệm Phật A Di Đà, không có một niệm tâm thay đổi, không có một tâm niệm thối lui biếng trễ, không còn một niệm xen tạp, cho đến trọn đời mãi không có niệm nào khác, quyết định cầu sinh về cõi Cực Lạc Tây Phương.

Nếu quả thật dụng công được như thế thì vô minh từ bao kiếp, nghiệp chướng trong sinh tử tự nhiên tiêu tan, tập khí phiền não trần lao tự nhiên hết sạch không còn sót. Tận mắt thấy Phật A Di Đà chẳng lìa tâm niệm, công thành hạnh mãn, nguyện lực trợ nhau, đến khi mạng chung quyết định sinh về Thượng phẩm.

Nếu như sức mạnh chưa đủ, nên tùy theo khả năng của mình mà tu tập. Chưa thể chuyên nhất thực hành công phu, cũng phải sớm tối lễ niệm; dù cho việc nhà bận rộn vẫn không quên mười niệm xưng danh. Mỗi ngày dụng tâm mạnh mẽ chuyên cần, tích lũy công hạnh, phát nguyện phát tâm, thệ hoàn tất trong đời này đồng lên cõi Tịnh.

Như thế, thật đáng gọi là:
  • Sông đều chảy ra biển
    Mây nhất định về non.


    CHÚ THÍCH:
(90) Tu Di: vốn là tên núi trong thần thọai Ấn Độ, được sử dụng trong vũ trụ quan Phật giáo, cho rằng đây là ngọn núi cao, đứng sừng sững ở chính giữa một Tiểu thế giới. Lấy núi này làm trung tâm, chung quanh có tám lớp núi, tám lớp biển bao bọc mà hình thành một thế giới (thế giới Tu Di).

Vũ trụ quan Phật giáo chủ trương vũ trụ do vô số thế giới cấu thành, 1000 thế giới gọi là một Tiểu thiên thế giới, 1000 Tiểu thiên thế giới gọi là một Trung thiên thế giới, 1000 Trung thiên thế giới gọi là một Đại thiên thế giới. Họp cả Tiểu thiên, Trung thiên và Đại thiên lại gọi chung là Tam thiên đại thiên thế giới, đây tức là một phạm vi hóa độ của một đức Phật. Tầng dưới cùng của mỗi một thế giới là một lớp khí, gọi là Phong luân; Trên Phong luân là một lớp nước, gọi là Thủy luân; trên Thủy luân là một lớp vàng, có thuyết nói đá cứng, gọi là Kim luân; Trên Kim luân tức là đất đai do núi, biển, các đại châu... cấu tạo thành. Núi Tu di ở giữa thế giới này.
Chương 2
LÀM ĂN NUÔI SỐNG TRỢ ĐẠO

Bồ tát tại gia, bậc Cao lưu niệm Phật, nếu hàng ngày đi đến dự tiệc trai ở nhà tín thí, ngồi hưởng sự cúng dường của Người, Trời, như thế đều không hợp với lẽ thường. Chẳng bằng vẫn lo kế sinh nhai mà có tâm tu hành, lẽ nào lại trở ngại việc làm? Hoặc gieo giống làm ruộng, hoặc kinh doanh nơi phố thị, hoặc giàu có của cải, hoặc mỗi ngày tìm cầu chút ít. Nên suy tư, chuyên cần thì không lười biếng, kiệm ước ắt có dư; lấy đó tu thân mới là Phật tử. Nếu như xa hoa lười biếng, kinh tế thiếu hụt, tuy muốn tu hành cũng không được. Tin tưởng và biết rõ việc sửa trị nước nhà, làm ăn nuôi sống đều thuận với chánh pháp, công xảo kỹ nghệ thảy là lợi ích chúng sinh.

Muốn tu chánh nhân Tịnh nghiệp, nên lấy việc làm ăn để hỗ trợ đạo. Lão Hoàn ở Đàm Châu thường đập sắt để tu hành, cư sĩ Bàng Uẩn bán vợt tre mà dưỡng đạo; Dụ Di Đà họa tượng làm nghề nghiệp; Đới Phật Am bán đuốc nuôi thân.

Như thế, thật đáng gọi là: "Một ngày không làm, một ngày không ăn".
Chương 3
LÀM PHƯỚC TRỢ DUYÊN

Có đệ tử tu Tịnh nghiệp hỏi Đại sư Từ Chiếu rằng:

- Đệ tử chuyên tu Niệm Phật Tam muội, có thể thực hành thêm bố thí, trì giới, cúng dường, làm phước chăng?

Sư đáp:

- Ông có thể chuyên niệm Phật A Di Đà nhưng không trì giới thì có tội hủy phạm; nếu không bố thí thì tăng trưởng nghiệp tham lam keo kiệt; nếu không cúng dường Tam Bảo thì có nghiệp ngã mạn; nếu không cung kính tất cả mọi người thì có tội khinh thường kẻ khác. Hủy phạm đọa vào địa ngục, tham lam keo kiệt đọa vào ngạ quỷ, ngã mạn thường ở trong đường ác, khinh người đời đời nghèo hèn. Bị những nghiệp ác ấy ngăn che mà muốn sinh về Tịnh độ đâu thể được! Người niệm Phật như thế ví như gieo hạt trên đất khô mà mong thu hoạch, làm sao có được? Thế nên, Pháp sư Tăng Triệu nói: "Hữu vi tuy giả dối nhưng nếu vứt bỏ thì Phật đạo khó thành. Vô vi tuy chân thật, nếu chấp vào thì trí tuệ không tỏ sáng".

- Nay, ông muốn tu Niệm Phật Tam muội để được vãng sinh Tịnh Độ, mau chóng thành tựu quả Phật Bồ đề, cần phải chuyên lấy niệm Phật làm chánh hạnh, lại tu phước đức làm trợ hạnh. Sớm tối thường chuyên cần cúng dường Tam Bảo, lễ bái, sám hối, bố thí, trì giới, làm trong sạch ba nghiệp, tăng trợ duyên thanh tịnh, chớ làm các điều ác, thực hành mọi việc lành, tất cả căn lành tu tập thảy đều hồi hướng Tịnh độ, thành tựu công đức niệm Phật, nhanh chóng chứng ngộ Bồ đề.

Như thế, thật đáng gọi là: "Đi thuyền nước xuôi, lại thêm đôi chèo tốt".
Chương4
BỎ ÁC LÀM LÀNH
Trong Tịnh Độ Thập Môn dạy rằng: "Người tu Tịnh Độ phải bỏ ác làm lành mới thành tựu được công đức". Nếu người tuy niệm Phật Di-đà, nhưng tâm tật đố mạnh mẽ, gọi là "dấu dao nhọn trong lòng". Người này lúc lâm chung, toàn thân đau nhức như ngàn mũi dao đâm vào mình. Hoặc nói ta có thể trì giới, người kia không làm được; ngạo mạn đối với sư tăng; chê bai, xem thường tất cả mọi người thì hiện đời tổn phước đoản thọ, bị bệnh lao, thổ huyết mà chết. Nếu người niệm Phật trần cấu chưa sạch, khi niệm ác sinh khởi phải lập tức tự kiểm điểm. Hoặc có tâm tham lam keo kiệt, tâm sân hận, tâm si ái, tâm tật đố, tâm dối trá, tâm nhân ngã, tâm cống cao, tâm nịnh hót, tâm tà kiến, tâm khinh mạn, tâm kia đây và tất cả tâm bất thiện sinh khởi, đều do sự đắm nhiễm từ các cảnh giới thuận nghịch.

Nếu lúc chúng sinh khởi, cần phải gấp rút to tiếng niệm Phật, nhiếp vọng niệm trở về chánh niệm, chớ để cho tâm ác tiếp nối. Ngay khi ấy dẹp trừ hết sạch, dứt hẳn không còn sinh khởi trở lại. Tất cả tâm tin sâu, tâm chí thành, tâm phát nguyện hồi hướng, tâm từ bi, tâm khiêm hạ, tâm bình đẳng, tâm phương tiện, tâm nhẫn nhục, tâm trì giới, tâm hỷ xả, tâm thiền định, tâm tinh tấn, tâm Bồ đề cùng tất cả tâm niệm lành thường nên giữ gìn. Lại cần phải xa lìa những điều phi phạm hạnh, đoạn trừ luật nghi tà ác, cẩn thận chớ nuôi dưỡng gà, chó, heo, dê, săn bắn, bắt cá, những việc ấy đều không nên làm.

Nên biết, trong cõi nước Cực Lạc, các bậc Thượng thiện nhân do vứt bỏ việc ác làm theo các điều lành mà được sinh về Tịnh độ, không thối chuyển ở nơi đạo Bồ đề. Người niệm Phật nên học theo Phật, lấy việc bỏ ác làm lành làm điều răn mình. Chỉ hay y theo đây mà tu trì, đó là chánh hạnh của Tịnh độ.

Như thế, thật đáng gọi là:
  • Gió cuốn, mây tan, tầng không tịnh
    Một vầng trăng sáng giữa trời không.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chương 5
CỨU TẾ NẺO U MINH

Sa môn Thích tử, Bồ tát tại gia đã tu Tịnh nghiệp Tây phương, nên vận dụng lòng từ bi rộng lớn, đúng như pháp tiến tu, khéo làm theo lời Phật dạy, biết rõ nhân quả, phân biệt phải trái, chứa nhóm tư lương phước đức và trí tuệ xuất thế gian, tròn đầy công đức của bậc Đại trượng phu, bậc Đẳng giác(91), Diệu giác[/b](92)[/b]. Thế nên, đức Thế Tôn răn dạy nhiều lần: "Các đệ tử của ta tùy ở nơi nào thì nên bố thí giáo pháp và thức ăn, cứu tế tất cả loài hữu tình trong pháp giới, giải trừ nỗi cực khổ đói khát của chúng sanh, giáo hóa khiến họ đồng tiến đến Bồ đề. Nếu không bố thí thức ăn thì không có tâm từ bi, người ấy chẳng phải đệ tử của ta mà là đồ chúng ác".

Trong kinh có nói rõ ràng: "Xét kỹ tất cả chúng sanh không rõ tự tánh nên sinh khởi tham lam, tật đố, sân hận, ngu si. Trong các loài Trời, Người, A tu la, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh bị đói khát nung nấu ưu sầu khổ não, ở trong đêm dài tăm tối, dù mong cầu ra khỏi nhưng chẳng biết đến bao giờ. Xét theo lý, mọi chúng sanh là cha mẹ đời trước của ta. Như lời Phật nói, họ đều là kẻ oán người thân của chúng ta trong nhiều kiếp. Thế nên, vận dụng lòng từ bi của Quán Âm, tu hạnh nghiệp Phổ Hiền, thệ đều cứu tế tất cả cứu thoát khỏi trầm luân. Người có khả năng thì thiết lập trai đàn cúng dường, người không có khả năng thì trì chú thí thực, phóng sanh. Công đức của việc thí thực thù thắng rộng lớn vô biên, đầy đủ những lợi ích nhiệm mầu nói không thể hết. Nay nêu sơ lược vài điều bày tỏ cùng các bậc Hiền nhân rằng:

Vừa phát tâm bố thí, hạnh vi diệu toàn bày, đầy đủ Tam đàn, tu trọn Lục độ, lợi mình lợi người, tự giác giác tha. Khéo tập hợp phước đức và trí tuệ xuất thế, mãi làm tư lương Tịnh Độ, bồ đắp nền tảng rộng lớn, thành tựu thể dụng trọn vẹn. Cho đến việc chôn lấp xương khô, mai táng tử thi vô chủ, vì mọi u hồn thay thế tỏ bày sám hối; bắc cầu, đào giếng, giúp đỡ khách vãng lai; ẩm thực, tiền tài tùy sức mình mà ban ân bố thí. Mỗi khi thấy người nghèo túng cơ hàn, thống thiết xót thương, đến như người già cả cô độc bệnh hoạn, càng thêm thương xót, thường tìm cách giúp đỡ, uyển chuyển vận dụng lòng từ bi chân thật.

Phàm tu tất cả các căn lành đều nguyện chúng sanh thành Phật, đem việc lợi ích thù thắng ấy hướng về Tây phương, mong mọi loài hữu tình cùng lên bờ giác. Thế nên, do trong nước rối loạn mà Lương Võ Đế tu nghì Thủy Lục, Tam Tạng Bất Không có pháp cứu tế cô hồn
".

Như thế, thật đáng gọi là:
  • Một trận mưa khắp cùng pháp giới
    Bao tâm hồn khô khát thắm tươi.


    CHÚ THÍCH:
(91) Đẳng Giác: Cũng gọi là Đẳng chánh giác, một trong mười tôn hiệu của Phật. Đẳng giác là sự giác ngộ chân chánh bình đẳng, tức giác ngộ chân lý hoàn toàn, chỉ cho sự giác ngộ của chư Phật.

Cũng gọi Đẳng Chánh Giác, Hữu Thượng Sĩ, Nhất Sanh Bổ Xứ, Kim Cương Tâm, Lân Cực.

Về nội dung thì ngang hàng với Phật, nhưng về mặt tu hành thực tế còn kém Phật một bậc, gọi là Đẳng giác. Trong năm mươi hai giai vị tu hành của Bồ tát, Đẳng giác ở giai vị thứ 51; trong sáu chủng tánh thì thuộc chủng tánh thứ năm. Đây là giai vị tu hành cùng tột của Bồ tát.

(92) Diệu Giác: Một trong năm mươi hai giai vị, một trong bốn mươi hai giai vị tu hành của hàng Bồ tát Đại thừa, chỉ cho quả Phật rốt ráo giác hạnh viên mãn, bởi thế, Diệu giác cũng là tên khác của quả Phật. Còn gọi là Diệu giác địa, biểu hiện cảnh giới lý tưởng cùng tột. Bồ tát ở giai vị Đẳng giác, đoạn trừ một phẩm vô minh cuối cùng mà được vào giai vị Diệu giác. Ở giai vị này, Bồ tát đã dứt sạch tất cả phiền não, trí tuệ viên mãn vi diệu, đã giác ngộ lý Niết bàn.

Khi phân tích sự sai khác giữa giai vị Diệu giác của Biệt giáo và Viên giáo, Thiên Thai tứ giáo nghi cho rằng, vị Diệu giác của Biệt giáo hiên báo thân viên mãn, ngồi ở tòa Đại Bảo Hoa Vương dưới cây bồ đề thất bảo trong thế giới Liên Hoa Tạng, vì các Bồ tát độn căn mà quay bánh xe pháp vô lượng Tứ Đế. Còn vị Diệu giác của Viên giáo thì thành tựu pháp thân thanh tịnh, ở trong cõi Thường Tịch Quang, lấy hư không làm tòa ngồi.
Chương 6
PHÓNG SINH
Muốn tiến đến Bồ đề, tâm từ bi là căn bản. Phàm tu Tịnh nghiệp, lấy việc cứu tế sinh vật làm đầu.

Xét các loài phi cầm, tẩu thú, thủy tộc cá tôm, hoặc mắc vào lưới, hoặc bị nhốt trong lồng chậu, xỏ mang bẻ cánh, buộc chân treo ngược. Đem chúng đến chỗ nước sôi lửa đốt, dao bén kề trên cổ, lo buồn sợ hãi, kinh hoàng hốt hoảng, trông trời mây mà hồn tiêu, nhớ suối rừng mà phách lạc. Tuy biết muôn phần chết, những vẫn hy vọng một cơ hội sống còn, mắt đẩm lệ kêu thương cầu cứu vãn. Cho nên, đệ tử Phật thương xót, đem tiền của để chuộc sinh mạng, mở lồng thú thả chậu, cắt dây mở trói, thắp hương rải nước, chắp tay chú nguyện, việc pháp thí đã hoàn tất vui vẻ thả chúng, hoặc thả xuống ao, hoặc thả về rừng núi, đều do Phật đạo mà khai triển lòng từ bi, cho đến trên thì đối với con người, dưới thì thấm nhuần loài trùng kiến.

Nếu hay cứu tử, cần phải phóng sinh, đã phóng sinh tự nhiên trường thọ. Nhờ sự lợi ích thù thắng này, hồi hướng Tây phương, nguyện khắp cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Cho nên, trưởng giả Lưu Thủy cứu sống đàn cá, Sa di hộ mạng bầy kiến, Trịnh Xương Đồ thiêu đốt lưới giăng; thiền sư Trí Khải lập ao phóng sinh; Dương Bảo chữa bệnh cho chim sẻ; Mãn Trọng thả tôm hến; Tổ sư Nguyên có bài tụng về giới sát; thiền sư Mãn thuyết giảng về phóng sinh.

Như thế, thật đáng gọi là:
  • Ân cần vì mở mối Đinh hương
    Nở thắm trên cành xuân tự tại.
Chương 7
LỤC ĐỘ VẠN HẠNH ĐỒNG TU
Lục độ là sáu pháp Ba la mật: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ. Nếu người niệm Phật chuyên tu Tam Muội, học pháp xuất thế gian thì cần phải đạt đến chỗ thiện tột cùng. Phải biết, Lục độ vạn hạnh chẳng ra ngoài nhất tâm, ở trong nhất tâm đầy đủ tất cả pháp. Ví như tắm trong biển cả thì đã dùng nước của mọi dòng sông, như muôn loại hương làm thành viên, nếu đốt một viên thì đầy đủ các mùi hương; như người lấy vật báu, được hạt châu vương Như Ý thì tất cả các báu phát sinh vô tận. Tại sao biết điều đó? Vì nắm giữ một câu A Di Đà Phật nên được Tam Muội. Trong một niệm tương ưng với Lý thể, các pháp hiện tiền, Lục độ vạn hạnh thảy đều đầy đủ.

Bố thí thì tâm không nhiễm trước, Trì giới thì không khởi vọng duyên, Nhẫn nhục thì năng sở đều quên. Tinh tấn thì tâm không gián đoạn, Thiền định thì động tính đều lặng lẽ, Trí tuệ thì chẳng thiết lập tơ hào. Ở trong một độ phát sanh vô lượng độ, trong mỗi một độ như mạng lưới của Đế Thích. Chỉ cần biết nhất tâm vốn rỗng lặng, tự nhiên vạn hạnh đầy đủ. Thế nên, tám muôn bốn ngàn pháp môn, tám muôn bốn ngàn trí tuệ, tám muôn bốn ngàn công đức, đều từ một tâm niệm Phật mà ra. Trong kinh Hoa Nghiệm, Bồ tát Hiền Thủ nói: "Phật tử ở trong tất cả thời, khéo dùng tâm mình thì được tất cả công đức thù thắng vi diệu".

Như thế, thật đáng gọi là:
  • Một tánh viên thông tất cả tánh
    Một pháp chứa đựng tất cả pháp.
Chương 8
ĐẠI SĨ DUY MA DẠY TÁM PHÁP TỊNH ĐỘ
Kinh Duy Ma nói: "Chư Bồ tát ở thế giới Chúng Hương hỏi:

- Bồ tát thành tựu mấy pháp, ở thế giới này hạnh không lỗi lầm, được sinh về Tịnh độ?

Ngài Duy Ma Cật đáp:

- Bồ tát thành tựu tám pháp, ở thế giới này hạnh không lỗi lầm, được sinh về Tịnh Độ.

Tám pháp ấy là:

1. Làm lợi ích chúng sanh không mong cầu đền đáp.

2. Thay thế chúng sanh chịu mọi khổ não, làm mọi công đức đều ban cho chúng sanh.

3. Tâm đối với chúng sanh bình đẳng, khiêm hạ, vô ngại; đối với chư Bồ tát xem đồng như chư Phật.

4. Những kinh chưa nghe, khi nghe chẳng nghi ngờ.

5. Không trái ngược với hàng Thanh văn.

6. Không tật đối đối với sự cúng dường của người khác.

7. Không xem trọng lợi ích của mình, ở nơi đó điều phục tâm mình.

8. Thường tỉnh xét lỗi mình, không bàn cãi điều dở của người, thường dùng nhất tâm cầu mọi công đức.

Đó là tám pháp giúp cho hạnh không lỗi lầm, được sinh về Tịnh Độ.
Chương 9
SO SÁNH SỰ KHÓ DỄ CỦA VIỆC TU HÀNH
Cõi uế trược Ta Bà bao nỗi khổ tập hợp nên cầu đạo khó thành. Tịnh Độ Lạc bang các điều lành hội tụ dễ lên ngôi Bất thối. Người xưng danh hiệu thì chư Phật hộ niệm được vãng sanh, kẻ phát tâm Bồ đề thì ánh sáng của Phật Di Đà chiếu soi, nhờ đó được thăng tiến. Bồ tát, La hán cùng làm bạn; nước chim, cây rừng thảy đều niệm Phật; bên tai thường nghe diệu pháp, trong lòng dứt hẳn tham sân, vui vẻ vô cùng, tuổi thọ vô lượng, vừa sanh về cõi ấy liền được vào hàng Bất thối. Há lại so sánh trong cõi Trời, Người, chạm mắt có nhiều điều thuận nghịch! Trên con đường Quyền thừa, căn lành hiếm khi trọn vẹn, bậc Tam hiền chưa lên Sơ địa(93) còn chưa thấy đạo nên mất chánh niệm; ngài Xá Lợi Phất đã vào hạng Lục trụ(94), gặp lúc ác duyên còn thối tâm. Thế nên, trên hội Pháp Hoa có năm ngàn người bỏ đi; trong kinh Bảo Tích, người thối thất đạo tâm rất nhiều. Xét trong thời có Phật còn vậy, huống gì đời nay!

Trong Hoa Nghiêm Hợp Luận hỏi rằng: Như kinh Niết Bàn nói:

- Chỉ nghe hai chữ "thường trụ" còn không đọa dịa ngục trong bảy kiếp. Kinh Hoa Nghiêm nói: "Giả sử nghe danh hiệu Như Lai và lời thuyết pháp mà không tin hiểu cũng có thể trở thành hạt giống Phật pháp".

Đáp rằng:

- Từ hàng phàm phu bước vào đạo, chưa thành tựu sự hiểu biết thù thắng, chưa được cho là được, lại phát sanh kiêu mạn, chẳng gần bạn lành, không kính người hiền, vì lười biếng giải đãi nên ở trong loài Người, Trời theo duyên thuận nghịch vừa khởi niệm ác liền thành địa ngục.

Nếu lòng tin thuần nhất không kiêu mạn, thường mong cầu bạn lành thì không có lỗi làm đó. Tại sao? Vì trong giáo lý quyền biến, hàng Lục trụ và bậc Tam hiền chưa lên Sơ địa đều chưa thấy đạo, mọi hạnh nghiệp tu tập đều là hữu vi, chỉ có thể điều phục vô minh, người có sức mạnh thì không thối thất. Lên Bát địa mới được vào vô công dụng hạnh.


Thế nên biết, bậc Tam thừa trải qua A tăng kỳ(95) kiếp công hạnh không thành, môn niệm Phật trong khoảng khảy móng tay liền lên bậc Bất thối. Vì thế, người sanh Tịnh Độ chỉ có thiện không có ác; quả vị không thối chuyển nên quyết định thành Phật. Kinh A Di Đà nói: "Những chúng sanh về cõi nước Cực Lạc đều là bậc Bất thối chuyển", chính là nói nghĩa này.

Than ôi! Người mới phát tâm tu hành, lòng tin còn cạn cợt, nếu chẳng có tha lực khó mà tiến tu. Thệ nguyện của Phật sâu rộng, chỉ cần có duyền đều được nhiếp thọ. Nên tin, học đạo các môn khác như kiến bò lên non cao, vãng sanh Tịnh Độ tợ đi thuyền xuôi buồm thuận gió. Phật A Di Đà tiếp dẫn tiến thẳng đến Bồ đề, các bậc Thánh nắm tay vượt qua ba cõi. Thượng phẩm thì lên quả Phật, Hạ sinh còn hơn thiên cũng. Thế nên, tin khắp cả chớ nghi ngờ, cùng nhau tiến tu không thối chuyển.

  • CHÚ THÍCH:
(93) Sơ địa: Hoan hỷ địa, là một trong mười địa của Đại thừa Bồ tát. Bồ tát đã đầy đủ của một sơ a tăng kỳ kiếp, mới chứng đắc Thánh tánh, vì đã phá trừ rồi kiến hoặc, tỏ được lý ngã không, pháp không nên sanh lòng hoan hỷ, gọi là hoan hỷ địa.

(94) Lục trụ: Sáu giai vị tu hành của Bồ tát. Quả vị do Bồ tát chứng được ở sáu giai vị này đều không bị thối thất nên gọi là Trụ. Đó là:

  • a. Chủng tánh trụ: Thập trụ, Thập hạnh.
    b. Giải hành trụ: Thập hồi hướng.
    c. Tịnh tâm trụ: Sơ địa.
    d. Hành đạo tích trụ: từ Nhị địa đến Thất địa.
    e. Quyết định trụ: từ Bát địa đến Cửu địa.
    f. Cứu cánh trụ: Thập trụ.
(95) A tăng kỳ kiếp: Là một đơn vị số lượng của Ấn Độ, là số cực lớn chẳng thể tính đếm được. Theo cách tính thì một a tăng kỳ kiếp có một nghìn vạn vạn vạn... triệu.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chương 10
NGÀI THIÊN THAI KHAI THỊ HAI HẠNH MÔN:
CHÁN NẢN VÀ ƯA THÍCH CỦA PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ
Trong Thập Nghi Luận nói: "Muốn sanh về Tịnh Độ phải đầy đủ hai hạnh: chán nản và ưa thích.

- Chán nản xa lìa: Thường quán xét thân này, máu mủ, phân tiểu, nhơ nhớp hôi tanh.

1. Quán xét người đời từ tình dục, tham ai mà sanh ra, đó là hạt giống bất tịnh.

2. Quán xét sự hòa hợp của tinh huyết cha mẹ, đó là sự thọ sanh bất tịnh.

3. Khi trong thai mẹ đó trú xứ bất tịnh.

4. Chỉ dùng máu huyết của mẹ làm thức ăn, tức là sự ăn uống bất tịnh.

5. Mười tháng đầy đủ, từ sản môm mà sanh ra tức là chỗ sanh bất tịnh.

6. Trong thân thể chỉ là máu huyết, tức là toàn thân bất tịnh.

7. Sau khi chết sình thối rã rời, tức là rốt ráo bất tịnh.

Quán thân mình đã vậy, xét mọi người cũng thế. Kế đến quán xét về cảnh giới nhơ uế nơi Ta Bà đủ các thứ khổ tập hợp: sanh, già, bệnh, chết, nỗi khổ về oán ghét mà gặp gỡ, nỗi khổ về thương yêu mà xa lìa, ư bi phiền não, ba đường
(96), tám nạn(97), sáu nẻo luân hồi; đất, nước, gió, lửa vô thường bại hoại; tham, sân, si, mạn gặp cảnh sanh tâm. Cần phải chán nản xa lìa, vừa phát ý sanh chán nản xa lìa thì Tịnh Độ ắt được thành tựu.

- Hạnh ưa thích: Cầu sanh Tịnh Độ là vì muốn cứu tất cả sự đau khổ cho chúng sanh. Thế nên, phát khởi tâm ưa thích Tây phương Tịnh Độ, trăm thứ báu trang nghiêm, đất vàng, rừng ngọc, ao hoa lấp lánh, thần thông tự tại, tùy ý đi dạo các cõi nước, dứt hẳn sinh tử, không còn phiền não. Phật A Di Đà tướng hảo sáng ngời, tự nhiên tỏ ngộ pháp môn, ý phục và thức ăn tự nhiên hóa hiện. Tịnh Độ có nhiều sự vui vẻ, cho nên cần phải ưa thích
".
  • CHÚ THÍCH:
(96) Ba đường: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.

(97) Tám nạn: Xem chú thích số (64).
Chương 11
ĐẠO TRÀNG TỊNH NGHIỆP
Tịnh nghiệp là hạnh vi diệu vô tướng vô vi, là tông nhiệm mầu không nhiễm và không vướng mắc. Đạo tràng là chỗ trụ trì của chư Phật trong ba đời, là cảnh giới của đạo giác ngộ chân chánh Bồ đề. Lẽ nào, danh tướng số lượng không lường xét được? Chẳng phải là sự trình bày của trí thức năng sở. Đạt được ý chỉ thì lấy thành kính làm trang nghiêm, lấy hạnh nguyện làm khuôn phép. Cho nên, trong kinh Duy Ma khai thị về các tướng trạng của đạo tràng; Liên Xả của Tổ Huệ Viễn có lời tựa về tiết độ. Vì vậy, người hiểu ý nghĩa này vào nơi thật tướng, cảnh trí hợp nhất, sự lý đồng hành, đốt hương Ngũ phần Pháp thân(98), thắp đèn trí tuệ sáng ngời, dứt bặt suy nghĩ, gọi đó là trì trai thanh tịnh.

Bảo rằng trang nghiêm nghĩa là cúng dường bình đẳng; đi, đứng, nằm, ngồi chẳng rời đạo tràng, nhất cử nhất động đều là Phật sự. Niệm niệm Di Đà xuất thế, tâm tâm Bồ tát phóng quang; mỗi hạnh đều là Tây phương, mỗi bước đều lên Bảo sở, không có một pháp nào mà chẳng là chánh pháp, nói một lời đều là viên âm, khởi một niệm thiên long hộ trì, hành một lệnh ma vương vỡ mật. Thế thì, một hội Linh Sơn nghiễm nhiên chưa tan, đó gọi là cúng dường pháp lên Như Lai một cách chân chánh. Luận về công đức thì vô lượng vô biên, luận về quả báo thì khó nghĩ khó bàn. Lấy đó mà cầu phước, có phước nào không đạt được; lấy đây độ sinh, tất cả chúng sinh đều được độ. Đó gọi là công đức chân thật, đó gọi là đạo tràng Tịnh nghiệp.

Than ôi! Hiện nay, vào thời mạt pháp, có những kẻ si mê không cứu xét tâm mình, không biết nghĩa lý Phật dạy, chấp trước ngoại cảnh cho là thật, một mực bám vào hình tướng tu hành. Bên đây lập mấy hội đạo tràng, bên kia đốt mấy cân nhang đèn, chỗ nọ giáo hóa bao nhiêu người sám hối thọ giới, lúc nào hóa duyên được bao nhiêu. Lại xưng rằng ta là kẻ truyền tông của đáơ này, họ là đồ đệ của sư trưởng nọ, kia hiện là chữ Phổ, đây là tông chữ Giác. Chẳng xét suy cội gốc từ đâu mà phát xuất, ai nấy lo cạnh tranh theo cành lá, chẳng thích hợp với lẽ phải.

Lại còn tiếng Hán, tiếng Hồ (Ấn Độ), hễ động đến liền cho đây là đúng, cho kia là sai. Giải thích bừa bãi về kinh Phật, bí mật trao truyền giáo lý tà ngụy. Đánh trống miệng, đùa giỡn nơi công án của người xưa, tranh ngã tranh nhâ, luận cao luận thấp, lượm thượm không ít, để xấu thêm nhiều. Chẳng biết hổ thẹn lo sợ nên mới làm bừa như thế! Họ làm cho đạo chân thật Tịnh Độ biến thành một trường tạp kich, lấy danh hiệu Di Đà vạn đức làm thành lời ca phù phiếm, đánh mất tông chỉ của Tổ sư, đặt giáo môn của Liên Tông vào chỗ ngu dốt. Người thấu đạt âm thầm bi thương, kẻ hiểu biết xem thời kinh ngạc.

Lại có những kẻ đánh gõ bao nạc, niệm tụng chân ngôn, pha trộn sự ứng phó của thầy cúng, chú nước vẽ bùa, luận bàn họa phước, giống như việc làm của đồng bóng. Sai khiến chư Thiên, đuổi vong bắt ma, quở mắng Tam Bảo, trị bệnh đuổi tà, trăm điều quái lạ, muôn thứ kỳ quặc. Chân bôn ba làm tôi tớ cho người, bận rộn lăng xăng, chẳng quản sinh mạng chỉ lo dong ruỗi theo môn đồ. Khi đọc tụng sai lầm lộn lạo, lúc lễ niệm rối loạn không còn trật tự, mở kinh ra thì ngủ gục, xếp kinh lại thì nói chuyện đời. Cùng nhau tụ tập, cố tình huyễn hoặc người, thành phe thành nhóm gây ầm ỉ. Chẳng xét nhân quả, không quan tâm đến tội lỗi, mượn pháp môn rộng lớn của Phật Tổ nhận sự lễ bái cũng dường của trời người, đẹp vốn là đẹp, tốt thì chưa tốt.

Nếu là người trì giới Phật, ở trong cửa Phật, nên học đạo của Như Lai, tụng kinh Phật, thực hành hạnh Phật mới thấu suốt tâm của Tổ sư. Chưa thể siêu Phàm nhập Thánh, chỉ e không có đạo đức xứng đáng để nhận sự cũng dường. Ví như vải lau bàn làm ô nhiễm nơi tự thân, tợ đá mài dao chưa khỏi tiêu mòn nơi bản thể. Nếu có thể giác ngộ, chỉ nên xoay đầu trở lại, ban sơ theo Phật trì trai, rốt cuộc là vì việc gì? Đã không thể cứu vãn sanh tử, chi bằng tự thối lui cảnh tỉnh tu trì, chuyên niệm Di Đà, ân cần cầu mong sám hối. Gần người trí thưa hỏi đạo lý, ở chỗ vắng cứu xét tâm vương, nhanh chóng khiến cho biển nghiệp dứt ba đào, hiển bày ly châu chiếu soi trời đất, thành tựu trọn vẹn chính mình, làm lợi ích rộng lớn cho mọi người.

Nếu gặp đạo tràng ứng cúng chớ nên buông lung xem thường, y theo tiết độ không trái ngược, tuân theo kinh điển, giữ gìn trai giới mà tuân giữ, thực hành đúng pháp, hiện tiền liền được niệm Phật tam muội. Đây là pháp môn an lạc, trên có thể báo đáp bốn ân, dưới có thể cứu giúp ba cõi. Nếu làm được như vậy thật chẳng uổng là Phật tử, cũng khỏi cô phụ tánh linh của chính mình. Tín nguyện trợ nhau, sự thực hành và hiểu biết đều đầy đủ. Làm được như thế tức là Phật Di Dà hiện tại, từ đây tu trì quả thật là mắt sáng của trời, người. Đó là nhân duyên lớn, chẳng phải sự lợi ích nhỏ. Thể hội hay chăng?
  • Non xanh, chốn cao thấy trời rộng
    Sen trắng nở, thời nghe nước thơm.
Chương 12
TỰ TU HÀNH VÀ GIÁO HÓA NGƯỜI
Đức Phật nói: "Mình chưa được độ, trước muốn độ người là sự phát tâm của Bồ tát. Tự giác đã tròn, lại giác ngộ cho người là Như Lai ứng thế". Bởi vậy, Tổ sư Liên Tông sáng lập một môn niệm Phật, sự tu hành và hiểu biết phù hợp tương ưng, lợi mình lợi người, giáo hóa mọi moài có phương pháp, dạy người có đạo lý, được tôn xưng là đạo sư. Ngài chuyên lấy niệm Phật Tam muội chỉ dẫn mọi người, khiến cho tất cả vượt khỏi thế gian. Do đó, giáo pháp truyền khắp thiên hạ, ai nấy đều kính ngưỡng.

Người làm thầy thời nay không thông suốt đạo lý, hạn cuộc nơi danh tướng, tập hợp nhiều đồ chúng mà không tu hạnh chân thật. Có danh xưng làm thầy suông mà không có pháp làm mẫu mực cho người, không có đức hạnh mà muốn nhận sự cung kính của mọi người. Thật đáng xấu hổ!

Trong kinh nói: "Phàm muốn độ người, trước phải độ mình".

Kinh Duy Ma nói: "Bệnh mình không thể chữa, sao cứu được bệnh người".

Kinh Địa Ngục Báo Ứngnói: "Tự mình không thanh tịnh mà muốn dạy người thanh tịnh, thật là vô lý".

Luận Đại Trí Độ nói: "Ví như có hai người, ai nấy đều có thân thuộc bị nước nhận chìm. Một người gấp rút liền nhảy xuống nước để cứu vớt, vì không có phương tiện nên bị nước nhận chìm. Một người khác có phương tiện qua lấy thuyền bè chèo đến cứu vớt, vì vậy mọi người đều được thoát khỏi nạn chìm đắm".

Thế nên, bậc làm thầy có tâm độ người mà không có trí tuệ để độ người, sao có thể khoanh tay ngồi yên? Bụng trống không tâm cao ngạo, không chịu gần gũi minh sư, chỉ biết ngông cuồng ngã mạn, tiếp nhận sự cung kính cúng dường lễ bái của người. Do tham hư danh mà gieo trồng tai họa thật sự, ví như phàm phu xưng bừa là Đế vương ắt chuốc lấy tội tru diệt. Đây tức là điều ở trước nói rằng: "Không có phương tiện mà cứu người", đâu thể làm càn được!

Nói chunng bậc làm thầy người, muốn độ đệ tử cần phải quán xét nhân địa tu hành của Phật tổ thuở trước, cội nguồn của việc được đạo, chánh ấn của sự truyền tông. Pháp môn niệm Phật mỗi mỗi khảo cứu rõ ràng, tự tin tự hành, tu trì từng pháp, thành tựu tất cả, đã lợi mình rồi sau đó mới làm lợi ích ngo người. Đó là nương thuyền đại nguyện lực của Phật A Di Đà cứu vớt những chúng sanh chìm đắm trong biển khổ. Mình người đều được lợi ích, vậy chẳng phải là việc nên làm hay sao? Điều này gọi là: người giác ngộ giúp cho người sau giác ngộ; tự mình tin pháp môn này, lại dạy cho người cùng tin pháp môn này; tự mình thực hành đạo này, lại dạy cho người cùng thực hành đạo này; tự mình nguyện vãng sanh Tịnh Độ, lạy dạy người phát nguyện vãng sanh Tịnh Độ; tự mình thấy được bản tánh Di Đà, lạy dạy cho người thấy được bản tánh Di Đà. Dụng tâm như thế, lẽ nào chẳng phải là hạnh của Bồ tát?

Thầy trò đều tiếp nhận chánh nhân, đồng thực hành chánh đạo, lần lượt hóa độ đến cùng tận bờ mé vị lai. Tất cả chúng sanh cùng ngộ Phật thừa, cùng thoát sanh tử, công đức ấy đâu thể dễ dàng suy lường được. Lấy đó để làm thầy người, có gì để ân hận. Nếu không như vậy, hai đường mê ngộ, tà chánh quả báo khác nhau.

Như thế, thật đáng gọi là:
  • Trong hang sư tử sinh sư tử
    Dưới núi chồn hoang sinh ra chồn.
Chương 13
DÙNG SỰ VIỆC KIỂM XÉT TÂM
Trong Tự Hành Lục của thiền sư Vĩnh Minh ghi: "Các bậc Thánh ngày xưa chẳng khoe tài năng, thường nghĩ những bậc Hiền thuở trước cũng chẳng phô bày đạo đức của mình. Song, kinh Phật có lời dạy, trước tự mình tu hành sau mới giáo hóa mọi người. Nhà Nho có nói, tiến cử người thân có tài đức mà không sợ nghi kỵ".

Thiền sư thường dạy chúng rằng: "Nhân xem trong Hoằng Minh Tập, bậc tiên đức có lập ra môn cứu xét ba nghiệp, nói rằng: Nói chung, tâm tự trách còn mê mờ nên ý chỉ xác thực chưa bày tỏ, cho nên dùng sự việc để kiểm xét tâm. Mọi việc tu tập đã biết chưa đến đâu, phải càng thêm hổ thẹn. Sao gọi là nghiệm xét?

Kiểm xét thân này, từ sớm đến trưa, từ trưa đến chiều, từ chiều đến tối, từ tối đến sáng, cho đến mỗi thời mỗi khắc, mỗi phút mỗi giây, xem xét có bao nhiêu tâm, bao nhiêu hạnh, bao nhiêu thiện, bao nhiêu ác, bao nhiêu tâm muốn chế phục phiền não, bao nhiêu tâm nghĩ nhớ về Tam Bảo và Tứ Đế
(99), bao nhiêu tâm tỏ ngộ lý Khổ, Không, Vô Thường; bao nhiêu tâm nghĩ đến báo đáp ân đức từ bi của cha mẹ, bao nhiêu tâm nguyện thay thế chịu khổ cho chúng sanh, bao nhiêu tâm phát khởi nghĩ nhớ về đạo nghiệp của Bồ tát, bao nhiêu tâm muốn bố thí, trì giới; bao nhiêu tâm muốn nhẫn nhục, tinh tấn, bao nhiêu tâm muốn thiền định hiển bày trí huệ, bao nhiêu tâm muốn từ bi tế độ chúng sanh trong sáu đường, bao nhiêu tâm muốn khuyến khích gắng sức làm những điều khó làm, bao nhiêu tâm muốn vượt lên để hoàn thành những điều khó hoàn thành, bao nhiêu tâm muốn nhẫn chịu đau khổ để kiến lập Phật pháp, bao nhiêu tâm muốn làm Phật để hóa độ muôn loài.

Trên đã kiểm xét tâm, kế đến kiểm xét miệng. Thời khắc như trên, từ sáng đến giờ đã diễn thuyết được mấy câu thâm nghĩa, đã xem được bao nhiêu kinh điển, đã tụng hiểu được bao nhiêu văn tự, đã tán thán công đức của Phật được mấy lần, đã hồi hướng phát nguyện được mấy lần.

Kế đến lại kiểm xét về thân. Thời khắc như trên, đã lễ Phật được mấy lạy; đã lễ pháp, lễ tăng mấy lần, đã làm việc quét tháp, lau chùa được mấy lần; đã dâng hương, rải hoa, đốt đèn được mấy lần; đã quét dọn bụi nhơ, sắp đặt những vật dụng cúng dường được mấy lần; đã treo phan, chắp tay, cúng dường được mấy lần; đã cung kính kinh hành nhiễu Phật trăm ngàn vòng được mấy lần trong một ngày.

Kiểm xét như thế mới thấy rằng thể hội lý rất ít, trái ngược đạo rất nhiều. Nghiệp trắng sạch không đủ để nói, phiền não trọng chướng um tùm đầy mắt. Sự tối tăm chướng ngại cứ tích lũy thêm nhiều, làm sao giải thoát?

Kiểm xét như trên mới thấy chẳng có công phu để tự cứu mình, sao có thời gian rảnh rỗi để luận bàn việc thiện ác của người? Thế nên cần phải dùng ba nghiệp để tự giáo huấn quở trách chính mình, biết rõ những việc làm có bao nhiêu điều lành, bao nhiêu điều dữ. Do vậy, nếu không tự kiểm xét quở trách mình trước thì sao có thể giáo hóa dẫn dắt mọi người. Bởi thế, cho nên Bồ tát vì độ chúng sanh tự mình phải tu hành trước
".

Kinh Duy Ma nói: "Của cải vô lượng thì thâu nhiếp hóa độ dân nghèo, vâng giữ giới luật thanh tịnh thì thâu nhiếp hóa độ ngững người phạm giới, dùng nhẫn nhục điều hòa hành vi thì thâu nhiếp hóa độ những người sân hận, dùng đại tinh tấn thì thâu nhiếp hóa độ những người lười biếng, nhất tâm thiền định thì thâu nhiếp hóa độ những người loạn ý, dùng trí huệ quyết định thì thâu nhiếp hóa độ những người vô trí". Kinh còn nói: "Tự mình giữ giới mới khuyên bảo người khác giữ giới, tự mình ngồi thiền mới khuyên bảo người khác ngồi thiền".

Luận Đại Trí Độ nói: "Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu ni chẳng bỏ phước xâu kim".Bồ tát Long Thọ giải thích rằng: như ông lão trăm tuổi nhảy múa là tại sao? Là vì chỉ dạy cho con cháu.

Huống chi, lúc chưa đạt đến bậc cứu cánh hoàn toàn đều vì môn lợi mình, Từ Sơ tâm đến Thập tín, trải qua Thâp trụ, Thập hạnh(100), Thập hồi hướng(101), Thập địa đến tận bậc Đẳng giác, đạt đến ngôi vị như Bồ tát Phổ Hiền gần kề quả Phật vẫn là lợi mình. Môn lợi người là khi lên ngôi Diệu giác, đến quả vị Phổ Hiền sau khi thành Phật(102) mới là hạnh lợi người.

Nhân thiền sư Vĩnh Minh tự nói, nên ghi chép đôi điều. Hạnh đối trị đã có thể quán xét thì môn nhiếp hóa không thể bỏ. Giới luật và trí tuệ đều tu, quyền biến và chân thật song hành, thể dụng thâu nhiếp lần nhau, sự lý vô ngại. Nay dẫn bài kệ sau cùng trong Vạn Thiện Đồng Quy Tập để nói rõ sự tu hành viên mãn:
  • Bồ đề không phát mà phát
    Phật đạo vô cầu nên cầu
    Diệu dụng vô hành mà hành
    Chân trí vô tác mà tác
    Khởi bi tỏ ngộ đồng thể
    Hành từ thâm nhập vô duyên
    Không xả bỏ mà bố thí
    Không giữ gìn mà đủ giới
    Tiến tu rõ không chỗ khởi
    Tập nhẫn thấu chẳng tổn thương
    Bát Nhã rõ cảnh vô sanh
    Thiền định biết tâm không trụ
    Tỏ không thân mà đủ tướng
    Chứng vô thuyết mà luận bàn
    Xây dựng đạo tràng trăng nước
    Trang nghiêm thế giới tánh không
    Bày biện vật dụng huyễn hóa
    Cúng dường Như Lai bóng vang
    Sám hối tội tánh vốn không
    Khuyến thỉnh pháp thân thường trụ
    Hồi hướng rõ không sở đắc
    Tùy hỷ phước bằng chân như
    Tán thán ta, người rỗng rang
    Phát nguyện năng, sở bình đẳng
    Lễ bái pháp hội ảnh hiện
    Hành đạo cất bước chân không
    Đốt hương thấu suốt vô vi
    Tụng niệm tỏ thông thật tướng
    Tán hoa hiển bày không vướng
    Khảy tay bày tỏ khử trần
    Thực hành Lục độ tiếng vang
    Tu tập vạn hạnh không hoa
    Thâm nhập pháp tánh duyên sinh
    Thường dạo pháp môn như huyễn
    Thệ đoạn trần lao vô nhiễm
    Nguyện sinh Tịnh Độ duy tâm
    Bước trên thật tế lý địa
    Ra vào vô đắc quán môn
    Hàng phục ma quân bóng gương
    Làm mọi Phật sự trong mộng
    Rộng độ chúng sanh như huyễn
    Đồng chứng Bồ đề vắng lặng.


    CHÚ THÍCH:
(99) Tứ Đế: Bốn chân lý khổ, nguyên nhân của khổ, cảnh giới chấm dứt khổ và con đường dẫn đến cảnh giới ấy.

(100) Thập hạnh: Mười hạnh lợi tha mà hàng Bồ tát từ giai vị thứ 21 ssến giai vị thứ 30 phải tu tập. Đó là:
  • a. Hoan hỷ hạnh.
    b. Nhiêu ích hạnh.
    c. Vô sân hận hạnh.
    d. Vô tận hạnh.
    e. Ly si loạn hạnh.
    f. Thiện hiện hạnh.
    g. Vô trước hạnh.
    h. Tôn trọng hạnh.
    i. Thiện pháp hạnh
    j. Chân thật hạnh.
(101) Thập hồi hướng: Mười địa vị, từ giai vị thứ 31 đến 40 trong 52 địa vị tu hành của Bồ tát. Đó là:
  • a. Cứu hộ nhất thiết chúng sanh ly chúng sanh tướng hồi hướng.
    b. Bất hoại hồi hướng.
    c. Đẳng nhất thiết Phật hồi hướng.
    d. Chí nhất thiết xứ hồi hướng.
    e. Vô tận công đức tạng hồi hướng.
    f. Tùy thuận bình đẳng thiện căn hồi hướng.
    g. Tùy thuận đẳng quán nhất thiết chúng sinh hồi hướng.
    i. Vô phược trước giải thoát hồi hướng.
    j. Pháp giới vô lượng hồi hướng.
(102) Quả vị Phổ Hiền sau khi thành Phật: Nghĩa là sau khi đã thành Phật còn tu hạnh Bồ tát giáo hóa làm lợi ích mọi người. Lại sau khi chứng được quả Phật, noi theo đức hạnh của Bồ tát Phổ Hiền giáo hóa, làm lợi ích chúng sanh.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

LIÊN TÔNG BẢO GIÁM
QUYỂN BẢY

THIÊN THỨ BẢY
CHÁNH NGUYỆN NIỆM PHẬT
Lý do trí dẫn đường, hạnh do nguyện hưng khởi. Hạnh nguyện cân bằng thì lý trí gồm đủ, lý trí gồm đủ thì mỗi tâm mỗi niệm đều là Di Đà, mỗi cõi nước mỗi hạt bụi đều là Tịnh Độ. Nếu tự mình chẳng có sức mạnh của hạnh nguyện rộng lớn thì làm sao có thể đạt đến chỗ đó?

Muốn mọi người chứng nhập Tam muội này, cần phaitroongf sâu cội gốc ở nơi Tín, Nguyện. Nguyện là ưa muốn, muốn sanh về Tây phương Tịn Độ, muốn tấy Phật A Di Đà nên phát nguyện àny, do dựa vào sức đại nguyện tiến thẳng đến cõi kia. Cho nên, ngài Từ Chiếu nói: "Luôn luôn phát nguyện ưa thích vãng sanh, ngày ngày nguyện cầu chớ cho thối thất. Nếu không có tâm phát nguyện thì căn lành chìm mất". Kinh Hoa Nghiêm nói: "Không phát đại nguyện, đó là việc làm của ma".

Cho nên Bồ tát Phổ Hiền có nguyện rộng lớn vô biên như biển cả. Phật A Di Đà có lập 48 lời đại nguyện. Thế nên biết, chư Phật trong mười phương, các bậc tiên hiền thuở xưa đều do nguyện lực mà thành tựu đạo Bồ đề. Không hưng khởi tâm phát nguyện ưa thích thì không thể thành tựu hạnh phát nguyện và ưa thích đó, nên nói pháp môn rộng lớn không có nguyện thì chẳng thành. Đức Phật tùy theo tâm mỗi người đều làm cho họ mãn nguyện. Huống gì chúng ta chuyên tu niệm Phật, nguyện sanh về Tịnh Độ, lẽ nào lại không được mãn nguyện hay sao?

Trong Văn Sám nói:
  • Nguyện tôi không thối tâm Bồ đề
    Nguyện tôi quyết định sanh An Dưỡng
    Nguyện tôi mau thấy Phật Di Đà
    Nguyện tôi trọn đời không niệm khác
    Duy tâm Tịnh Độ chẳng rời xa.
Kinh Di Đà còn nói: "Nếu có người tin phải nên phát nguyện, nguyện sanh về cõi nước kia".

Trong Văn Sám còn nói:
  • Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
    Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
    Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
    Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Đây gọi là bốn điều nguyện lớn. Vì thế, ngài Từ Chiếu biên tập Văn Sám, do sợ mọi người vướng mắc vào sự, không rõ lý nên mới nói:
  • Tự tánh chúng sanh thệ nguyện độ
    Tự tánh phiền não thệ nguyện đoạn.
    Tự tánh pháp môn thệ nguyện học
    Tự tánh Phật đạo thệ nguyện thành.
Bốn câu này nói thẳng lý chân thật rõ ràng, để khiến cho tất cả mọi người độ hết thảy chúng sanh vọng niệm ở trong tự tánh. Nghĩa là do những tâm niệm tà mê, tạp tưởng, tham lam, si mê, tật đố, sân hận, ác độc, nên khiến họ phát thệ nguyện lớn tự tánh tự độ.

Lại ở trong tự tánh đoạn trừ tất cả phiền não, là tư tưởng tà, ý niệm ác, trần lao nghiệp thức như mây mù che lấp tự tánh nên ánh sáng chẳng hiện. Vì thế khiến họ phát thệ nguyện lớn, tự đoạn trừ khiến chúng mãi mãi không cho dấy khởi.

Lại ở trong tự tánh tu học tất cả pháp môn, nghĩa là niệm Phật Tam muội, bi trí, hạnh nguyện, vô lượng pháp môn. Cho nên, khiến họ phát thệ nguyện lớn tự ngộ tự tu, thường không thối thất, tiến thẳng đến Bồ đề, chẳng để họ được chút ít mà cho là đầy đủ.

Lại ở trong tự tánh tự tin có Phật, phát thệ nguyện lớn thường tự soi xét, tự nguyện thành tựu đạo giác ngộ của Phật.

Đó là tâm lão bà(103) của ngài Từ Chiếu thiết tha mở ra cánh cửa cho người sau một cách rõ ràng. Chỉ cần mọi người tự tin tự nhận, từ chỗ đó bước vào ngộ Di Đà tự tánh, rõ Tịnh Độ duy tâm, vào cảnh giới chư Phật, thành tựu đạo giác ngộ vô thượng.

Than ôi! Người tốt lành ở thế gian không biết ý nghĩa này, chỉ hướng ra bên ngoài tìm cầu những thứ khác, chẳng khác nào người cầm thần châu trong tay mà lại đi xin ăn. Như thế, không phải là rất mê lầm lắm sao!

Nguyện khắp cả những người thấy nghe pháp này, lần lượt khuyên bảo nhắc nhở lẫn nhau, càng phát khởi chánh niệm, sớm bước lên con đường diệu huyền. Biết ở trước thì ở trước chẳng phải, rõ ở sau thì ở sau là quả vị. Lập chí khí lớn, phấn phát đạo dõng mãnh, phát khởi đại thệ nguyện, thệ độ vô biên chúng sanh, thệ đoạn vô tận phiền não, thệ học vô lượng pháp môn, thệ nguyện vãng sanh thế giới Cực Lạc gặp Phật A Di Đà, thệ cùng tất cả người lành thành tựu trọn vẹn Phật đạo vô thượng.

Như thế, mới thật đáng gọi:
  • Không có gió xuân hoa chẳng nở
    Hoa tươi phải cảm ơn gió xuân.


    CHÚ THÍCH:
(103) Tâm lão bà: Tấm lòng từ bi thiết tha của thiền sư tận tình khuyên bảo, hướng dẫn người học để giúp họ lãnh ngộ.
Chương 1
KHUYÊN PHÁT ĐẠI NGUYỆN
Ngài Từ Chiếu nói: "Có hạnh không nguyện, hạnh ấy ắt trơ trụi; có nguyện không hạnh, nguyện ấy chỉ là nguyện suông. Không hạnh không nguyện thì sống trên cõi đời thật luống uổng; có hạnh có nguyện thì vào thẳng chỗ vô vi. Đây chính là căn bản tu Tịnh nghiệp của Phật Tổ".

Xem kỹ thời nay, người có lòng tin bước vào pháp hội, hoặc vì bệnh khổ phát tâm, hoặc vì báo đáp song thân mà khởi ý, hoặc vì bảo hộ gia đình, hoặc vì sợ tội mà trì trai. Tuy có lòng tin nhưng không hạnh nguyện, dù bảo rằng niệm Phật nhưng chẳng thấu suốt cội nguồn.

Phần nhiều mọi người tu tập duyên lành đều hoàn thành tâm nguyện nnhỏ hẹp, ít có người vì sự sanh tử của chính mình mà phát nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Thường thường dâng hương đốt đèn nơi đạo tràng, những lời chúc nguyện hồi hướng đều là bày tỏ trước thần minh cầu tiêu trừ tai nạn, kéo dài tuổi thọ mà thôi. Thế nên, trái với ý chỉ của kinh sám, chẳng hợp với bản nguyện của chư Phật, dù cho cả đời tu tập tụng niệm nhưng không hiểu rõ nghĩa lý, dụng công sai lầm, đó gọi là trọn ngày đếm tiền cho người mà tự mình không có nửa đồng xu. Vì vậy, đến khi lâm chung không được vãng sanh Tịnh Độ, là vì không có hạnh nguyện.

Lại có một hạng người ngu, theo Phật thọ giới, bèn ở trước Tam Bảo dâng hương thệ nguyện rằng: "Nếu tôi phá giới thì cam chịu bệnh dữ bức bách thân thể, mãi ở trong địa ngục". Hoặc nói mắt bên trái chảy máu, mắt bên phải ra mủ, tự cam tự chịu giống như sự cam kết ở nơi quan ty. Thấy phần nhiều họ chỉ nơi trên miệng mà không có lòng thành, phá trai phạm giới, tự nguyện chịu quả báo, đau khổ nào kham, cam tâm đẩy mình vào nơi đọa lạc, tự chuốc lấy điềm tan thân mất mạng. Đâu biết rằng, Phật Tổ đại từ đại bi đâu từng dạy người như thế! Đó đều là lỗi lầm của thầy tà, đem lời nguyền rủa làm sự phát nguyện, tại sao quá mê hoặc đến thế?

Tôi từng thương xót khuyên bảo cùng nhau phát nguyện chân thành cầu sinh Tịnh Độ, nguyện cùng nhau thành Phật. Họ liền nói: Tôi là phàm phu đâu dám mong về Tịnh Độ và muốn thành Phật. Chúng tôi có tâm ấy, lại trở thành vọng tưởng.

Tôi đáp rằng:

- Không phải thế. Thiện tri thức! Phật là giác, Tịnh Độ là tâm. Tâm này ai cũng có. Giác tức Phật, mê tức là chúng sanh. Người đời trái với tánh giác, đuổi theo trần lao nên xoay vần theo nghiệp duyên thiệc ác. Trong ba cõi, bốn loài, sáu đường chịu quả báo tốt xấu, đều do nhận lầm tứ đại làm thân ta, cho sáu trần là có thật, đuổi theo cảnh huyễn, ngày đêm trôi nổi, chưa từng có một giây phút phản tỉnh soi sáng lại mình.

Từ lúc sanh ra cho tới già, chỉ lo việc nhà không xong, chẳng vừa lòng với tài sản, có càng nhiều càng mong cầu, càng tham lam càng không thấy đủ. Tuy nói làm lành thờ Phật, lễ bái, tạo phước, dâng hương mà chỉ nguyện vinh hoa phú quý, trường sanh bất tử. Vừa làm được vàiđiềutốt nhỏ liền nguyện cầu đủ thứ, mong lúa thóc đầy kho, tơ lụa chất đống, con cháu vinh hiển, trâu ngựa đầy đàn; vừa có một việc không vừa ý liền oán trách Phật không phò hộ, mỗi ngày tiền của tăng thêm, chuyện vui luôn đến mới bảo thiên long cảm ứng. Tham lam tính toán như thế chính là vọng tưởng mà tự mình không hay biết, trở lại nói việc niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ là vọng tưởng. Há chẳng phải rất là điên đảo hay sao!

Phàm nói làm phước thì đều thuộc hữu vi. Bởi lẽ, nhân hữu lậu của thế gian chẳng phải là đạo vô vi xuất thế. Phật tử tu hành nên khéo tư duy. Hôm nay có duyên gặp Phật pháp cần phải cứu xét cội gốc, chớ cạnh tranh trên ngọn ngành. Một niệm soi sáng trở lại, tu pháp xuất thế, nguyện bỏ ta bà, nguyên sanh Tịnh Độ, cũng như kẻ khách ở nơi quê người đã lâu, nghĩ nhớ muốn trở về cố hương. Tâm nguyện sinh Tịnh Độ, nguyện thành Phật này, sao đồng với vọng tưởng của phàm phu được! Lẽ nào chẳng thấy trong Sám Văn nói:
  • Nguyện tôi lúc mạng sắp lâm chung
    Diệt trừ tất cả các chướng ngại
    Tận mắt thấy Phật A Di Đà
    Liền được vãng sanh cõi An lạc.
Như thế, thật đáng gọi là:
  • Một mai lạc bước con đường cũ
    Mới hay từ trước dụng tâm sai.
Chương 2
LỜI TỰA VÀ KỆ NIỆM PHẬT PHÁT NGUYỆN
CỦA TÔNG CHỦ TỪ CHIẾU
Trong kinh Di Đà Tiết Yếu nói: "Việc cấp thiết nhất của người niệm Phật là không khéo tương ưng. Tại sao vậy? Vì tuy bảo trì giới, niệm Phật mà chẳng hề phát tâm nguyện sanh Tịnh Độ, như thế là đều chôn vùi năm tháng, tự mất sự lợi ích tốt lành. Nói chung, niệm Phật trước cần phải phát tâm; muốn vượt qua sanh tử, vãng sanh Tịnh Độ phải lấy đại nguyện làm chủ ý của chính mình. Thường phải niệm Phật, sớm chiều chuyên tâm lễ bái Di Đà, như chầu Đế vương hai thời không mất. Ngày càng thêm gần gũi, tâm và miệng tương ưng với Phật, cách Phật không xa. Miệng niệm tâm tưởng, tâm nguyện thấy Phật, phát nguyện sâu sắc, tin chắc chắn không nghi ngờ, tháng rộng năm dài,công phu thuần thục, tự nhiên tam muội thuần thục. Lúc sắp lâm chung, Phật Di Đà tiếp dẫn, Tịnh Độ hiện tiền. Lại nguyện trong hiện đời thường gặp bậc thiện tri thức, chẳng gặp thầy tà, không mê lầm tâm ta, chẳng phát sinh lười biếng".

Nếu niệm Phật như thế, tin sâu, phát nguyện, đó là đầy đủ cả ba điều tư lương Tín, Hạnh, Nguyện. Lúc lâm chung thấy Phật chẳng phải từ bên ngoài đến, đều là duy tâm hiển hiện, cũng như hạt giống trên đất gặp mùa xuân thì nẩy mầm, đâu phải từ bên ngoài, đều từ dưới đất mọc lên.

Nay, sự tu hành cũng vậy, niệm Phật đầy đủ Tín, Nguyện thì huân vào tâm tám thức(104), lúc lâm chung phát hiện Tịnh Độ Di Đà chẳng phải bên ngoài đến, đều từ tâm mình phát xuất.

Kệ rằng:
  • Muôn pháp từ tâm sanh
    Muôn pháp từ tâm diệt
    Đức Phật đại Sa môn
    Xưa đã từng tuyên thuyết.
    Trì giới không Tín, Nguyện
    Chẳng được sanh Tịnh Độ
    Chỉ được phước nhân thiên
    Phước hết luân hồi khổ
    Xoay vần khó thoát ra
    Xem kinh không mắt tuệ
    Chẳng rõ Phật thâm ý
    Đời sau được thông minh
    Tâm loạn khó thoát ly
    Sao bằng niệm Phật tốt
    Khỏi danh lợi bôn ba
    Đi ngồi hằng tịnh niệm
    Chính là A Di Đà
    Phát nguyện trì giới luật
    Hồ hướng sinh Lạc quốc
    Là hành trì phù hợp
    Ngàn người chẳng sót một
    Thuyết giáo có Thích Ca
    Nhiếp thọ, đức Di Đà
    Chư Phật đều hộ niệm
    Chư thiên khéo hộ trì
    Thấy người niệm Phật này
    Không cách xa đức Phật
    Sẽ ngồi nơi đạo tràng
    Chuyển bánh xe pháp lớn
    Độ khắp cả chúng sanh
    Ví như gái nhà nghèo
    Thai nghén vua Chuyển Luân
    Chư thiên thường mến hộ
    Gái nghèo chẳng biết mừng
    Trong bụng có con quý
    Nay người niệm Phật đây
    Ý cũng đồng như thế!
    Nhớ Phật thường niệm Phật
    Không lâu sẽ thành Phật
    Phật hộ niệm giữ gìn
    Người ấy chẳng tự biết
    Ta sẽ sanh Tịnh Độ
    Lại muốn ở đời sau
    Được sanh trong loài người
    Ví như nhà kẻ nghèo
    Dưới đất có kho báu
    Thần kho hằng giữ gìn
    Chẳng cho mất trân bảo
    Người nghèo không tự biết
    Trong nhà có châu báu
    Đi khắp nơi làm mướn
    Lo cơm áo khổ cầu!
    Nay người niệm Phật này
    Ý cũng đồng như thế!
    Chẳng biết người niệm Phật
    Đầy đủ tạng Như Lai
    Tự nói ta vô phần
    Lại muốn sanh cõi người
    Ví như nhà người bệnh
    Có trữ sẵn thuốc tiên
    Bệnh nhân không biết thuốc
    Làm sao được lành yên?
    Ngày đêm nằm trở trăn
    Đau nhức hằng khóc than
    Nay người niệm Phật này
    Ý cũng đồng như thế!
    Phải biết tâm niệm Phật
    Trừ bệnh tham, sân, si
    Hay làm đại lương y
    Hay làm kho báu lớn
    Hay thành đại Pháp vương
    Che chở và tế độ
    Cứu khổ khắp muôn loài
    Cho mình là phàm phu
    Không được sanh Tịnh Độ
    Chỉ giữ giới, trì trai
    Nguyện đời sau làm người
    Lần lượt gắng tiến tu
    Mới được sanh về Tây
    Thấy nhiều kẻ tu hành
    Thường nói như thế ấy
    Chẳng hợp nguyện Di Đà
    Không hợp kinh Tịnh Độ
    Tà kiến che mê lầm
    Cuối cùng khó thoát ra
    Đều do tâm mình ngăn
    Chẳng phải người chướng ngại
    Đời nay không vãng sanh
    Một lỡ thì trăm lầm
    Khuyên những người tu hành
    Tin lời Như Lai nói
    Lời Phật hằng chân thật
    Không một điểm dối hư
    Chỉ nên siêng tinh tấn
    Nhất tâm cầu Tịnh Độ
    Như gió thổi vào lửa
    Chẳng tốn nhiều công sức
    May mắn biết niệm Phật
    Nguyện vượt ra ba cõi
    Gặp báu chẳng chịu lấy
    Gặp cơm cam đói khổ
    Quê thay đại trượng phu
    Chẳng rõ lẽ chân thật
    Nay viết kệ khuyên bảo
    Xin lần lượt truyền nhau
    Thay tôi lưu thông rộng
    Làm sứ giả Như Lai
    Đó mới là con Phật
    Mới thật báo Phật ân
    Nguyện làm theo lời dạy
    Đồng sanh cõi Cực Lạc.


    CHÚ THÍCH:
(104): Tám thức: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức, Ý thức, Ma na thức, A lại gia thức.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chương 3
CẦU SANH TỊNH ĐỘ
CHỦ YẾU Ở SỰ PHÁT NGUYỆN
Trong Luận Đại Trí Độ quyển 8, hỏi rằng:

- Chư Bồ tát hạnh nghiệp thanh tịnh tự nhiên được quả báo thù thắng, cần gì phải lập thệ nguyện rồi sau đó mới thành tựu? Ví như nhà nông được hạt giống, lẽ nào lại chờ đợi nguyện cầu hay sao?

Đáp:

- Làm phước mà không nguyện thì không có điểm đến. Nguyện là kẻ dẫnđường có thể đưa đến thành tựu. Như lời Phật dạy: "Nếu người tu ít phước, ít giới không biết chánh nhângiải thoát, nghe nói về niềm vui của cõi người, cõi Trời, tâm thường mong cầu ưa thích. Sau khi mạng chung, người ấy sinh vào cõi Nhân, Thiên, đó là do nguyện lực dẫn dắt. Bồ tát cầu sanh về Tịnh Độ do nơi chí nguyện mạnh mẽ, sau đó mới được thành tựu". Vì thế nên biết, nhân nguyện lực kia mà được thọ hưởng quả báo thù thắng. Bậc Cao đức ngày xưa nói: quả Phật cao xa, muốn lên thì có thềm bậc; mây pháp chót vót, muốn đến phải dần dần. Tâm rộng lớn vừa phát thì đức huyền diệu soi sáng đến đời sau, thệ lớn lao vừa hưng khởi thì nguyện nhiệm mầu cùng khắp hư không. Một niệm ý chí phát khởi tức là hoa Linh thoại trong muôn kiếp, nửa khắc thành kính tức là cam lồ rưới khắp Đại thiên.

Luận Đại Trang Nghiêm nói: "Vãng sanh cõi Phật là việc lớn, nếu chỉ dùng công đức tu hành riêng lẻ thì không thể thành tựu, cần phải nhờ nguyện lực trợ giúp dẫn dắt mới làm nên. Do nguyện lực nên phước đức tăng trưởng, không mất không hoại sẽ sinh về cõi Phật, tùy nguyện được thấy Phật".

Kinh Hoa Nghiêm nói: "Mgười ấy lúc sắp mạng chung, khoảnh khắc sau cùng, tất cả các căn thảy đều tan hoại, tất cả thân thuộc thảy đều rời bỏ, tất cả uy thế thảy đều mất hết, cho đến voi, ngựa, xe cộ, kho tàng, của báu, tất cả đều không mang theo được. Chỉ có nguyện vương này là không bỏ rời, trong tất cả thời dẫn đường phía trước, trong khoảnh khắc liền được vãng sanh Cực Lạc".

Chương 4
NGHI THỨC PHÁT NGUYỆN TU HÀNH
CỦA HÒA THƯỢNG THIỆN ĐẠO
Khi quán tưởng và trước khi ngủ, người tu Tịnh Độ nên phát nguyện này. Hoặc ngồi hoặc đứng nhất tâm chắp tay, hướng mặt về phương Tây niệm mười câu A Di Đà Phật, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí và Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát, xong rồi phát nguyện rằng: "Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, chưa biết thân Phật, tướng hảo quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm, Thế Chí, các chúng Bồ tát, và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ".

Phát nguyện này rồi, nhất tâm chánh niệm, tùy ý quán tưởng. Hoặc phát nguyện trước lúc ngủ nghỉ, hoặc có quy định thời khóa phát nguyện thì liền được thấy Phật, hoặc khi ngủ được thấy. Chỉ cần chuyên chí, tự nhiên trọn vẹn sở nguyện.
Chương 5
VĂN PHÁT NGUYỀN CẦU SANH TỊNH ĐỘ CỦA BẠCH CƯ DỊ
Sách Ký ghi rằng: "Đức Phật Thích Ca nói, từ đây qua phương Tây cách mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc, vì thế giới ấy không có tám thứ khổ(105) và bốn đường ác[/b](106)[/b]. Cõi nước ấy gọi là Tịnh Độ, bởi không có tam độc, ngũ trược. Đức Phật ấy hiệu là A Di Đà vì tuổi thọ vô lượng, nguyện lực vô lực, công đức tướng hảo ánh sáng vô lượng".

Xét kỹ chúng sanh ở thế giới Ta bà này, không luận là hiền ngu, sang hèn, già trẻ, nếu ai khởi tâm hướng về Phật thì đều chắp tay hướng về Tây phương; ai sợ hãi khổ não nguy ách thì lúc mở miệng thốt lên đều niệm Phật A Di Đà trước tiên.. Hơn nữa, khi đúc tượng, nắn đất, khắc vào đá, thêu trên vải, cho đến trẻ con chơi đùa nhóm cát, vẽ trên nước, thường lấy Phật A Di Đà làm bậc thứ nhất. Vì sao lại như thế? Bởi vì đức Phật A Di Đà có thệ nguyện lớn đối với chúng sanh ở cõi này, chúng sanh ở cõi này có nhân duyên lớn với thế giới Cực Lạc. Điều đó đã rõ ràng, nếu không thì chư Phật ở các phương Đông, Tây, Nam, Bắc, từ quá khứ, hiện tại, vị lai rất nhiều, sao chỉ đặc biệt tôn kính Phật A Di Đà như thế?

Trung đại phu Thái phó Bạch Cư Dị ở đời Đường, lúc tuổi già bị bệnh tê liệt, bèn đem tiền của sai Đỗ Kính Tông dựa theo hai kinh A Di ĐàVô Lượng Thọ vẽ một bộ Tây Phương Thế Giới cao chín thước, rộng mười ba thước, Phật A Di Đà ngồi ở giữa, hai vị đại sĩ Quán Âm, Thế Chí hầu hai bên phải trái, người trời chiêm ngưỡng, quyến thuộc vây quanh, lầu đài kỹ nhạc, nước cây chim hoa, bảy báu(107) nghiêm sức, năm sắc(108) phô bày, sáng rực huy hoàng, công đức thành tựu. Đệ tử Bạch Cư Dị dâng hương, cúi đầu quỳ trước Phật, khởi lòng từ bi phát nguyện lớn: "Nguyện đem công đức này hồi hướng bố thí cho tất cả chúng sánh. Tất cả chúng sanh có người già như con, có chứng bệnh như con, nguyện lìa khổ được vui, diệt trừ việc ác, tu tập điều lành, chẳng ra khỏi Nam Thiệm Bộ Châu(109) liền thấy được Tây Phương Cực lạc, ánh sáng bạch hào rộng lớn, tùy theo tâm niệm mà cảm ứng ngay, sen xanh Thượng phẩm, tùy nguyện vãng sanh. Từ thân hiện tại này, cùng tận bờ mé vị lai thường được thân cận gần gũi cúng dường Phật".

Ông muốn trùng tuyên ý nghĩa này mà nói lời khen ngợi rằng:
  • Thế giới Cực Lạc cõi thanh tịnh
    Không mọi đường ác và các khổ
    Nguyện người già bệnh như thân con
    Đồng sanh cõi Phật Vô Lượng Thọ.


    CHÚ THÍCH:
(105) Tám thứ khổ:

a. Sanh khổ (nỗi khổ do sự sanh): Mẹ khổ vì mang nặng đẻ đau, con khổ vì trong thai bị thức ăn nóng lạnh, cảm xúc... của mẹ tác động, đến khi sanh ra lại bị chèn ép đau đớn thống khổ. Đó chính là một trong những nguyên nhân đèubị quên tiền kiếp khi chuyển thân cách ấm, vì quá khổ.

b. Già khổ (khổ do tuổi già): Dễ bị bệnh tật, sức yếu, năng lực làm việc, suy tư giảm, không còn hoặc giảm sáng suốt, thậm chí không thể giúp người mình muốn giúp và dễ làm gánh nặng cho gười khác.

c. Bệnh khổ (nỗi khổ khi mắc phải bệnh tật): Đau đớn, thống khổ, rên siết, không ai chia sẻ được, có khi các cảm giác thống siết này tồn tại rất lâu, lại có khi gây ra các di chứng tệ hại phải chịu về lâu dài.

d. Chết khổ (khổ vì đau đớn khi thời khắc phải chết đến nơi): Nỗi khổ khi tứ đại trong thân phân ly, như kinh nói là: "như con rùa bị lột mai, như con cua bị bỏ vào nồi nước sôi", không thể nào tả xiết. Lại, trong tám giờ sau khi chết, thần thức vẫn còn tồn lưu trong thân, nếu có người hay vật nào tác động đến thì dù nhẹ đến đâu cũng đau đớn không thể tả nỗi, dễ nổi tâm sân hận mà đọa lạc theo niệm đó. Lại, sau khi xuất ra khỏi thân thì trong trạng thái Trung ấm tồn tại lâu nhất là bốn mươi chín ngày, cứ cách bảy ngày phải chết một lần, cảm giác đau đớn, khổ não cũng như cũ, dễ theo nghiệp mà thọ sanh cảnh xấu, nên tử khổ có thể dẫn đến sanh khổ trong đời sau.

e. Khổ vì thương yêu chia lìa (ái biệt ly khổ): Khổ vì phải chia lìa người thân hay vật mình yêu thích, nên sanh tâm đau buồn luyến tiếc mà chìm đắm trong khổ não. Thông thường, khổ này nặng nhất khi sanh ly tử biệt với người thân.

f. Khổ vì oán thù gặp gỡ (oán tắng hội khổ): Khổ khi thù ghét nhau, khó chịu với nhau mà phải ở chung, ở gần, chịu đựng nhau.

f. Khổ vì mong cầu không được (cầu bất đắc khổ): Khổ vì mong cầu một điều gì đó mà không toại ý nên sanh tâm buồn bực, khổ não, đau buồn.

g. Khổ vì ngũ uẩn nung nấu (ngũ ấm xí thạnh khổ): Khổ vì ngũ ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) nung nấu chống trái nhau trong thân tâm, khiến ta phải chịu các loại phiền não và khổ đau. Thật ra, đây chính là nguyên nhân chính của tất cả các khổ trên, nhưng vì phải phân loại ra cho rõ nghĩa, dễ hình dung nên phải nói nhiều loại.

(106) Bốn đường ác: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và A tu la. Ác đạo là nơi khổ sở xấu xa mà chúng sanh sẽ sinh về sau khi tạo nghiệp.

(107) Bảy báu (The seven precious things): Bảy thứ báu:
  • a. Kim (vàng)
    b. Ngân (bạc).
    c. Lưu ly.
    d. Pha lê.
    e. Xa cừ.
    f. Trân châu.
    g. Mã não.
(108) Năm sắc: Cũng gọi là ngũ chính sắc, ngũ đại sắc, tức chỉ cho năm màu căn bản: xanh, vàng, đỏ, trắng và đen.

Tại Ấn Độ, chư tăng trong giáo đoàn không được dùng năm màu này làm màu của áo pháp vì cho rằng năm màu này là màu lòe loẹt, hoa mỹ. Nhưng màu sắc trang nghiêm cõi Tịnh Độ và mây năm sắc trong vật cầm tay của Bồ tát Quán Âm nghìn tay đều là năm màu này.

(109) Nam Thiệm Bộ Châu (Jambudvipa - có nghĩa là đất): Còn gọi là Nam Diêm Phù Đề. Diêm Phù Đề tức là tên của một loài cây ở Thiệm Bộ. Đề có nghĩa là châu. Nơi đất này có cây Thiệm Bộ, cho nên đem nó để đặt tên châu. Ở trong Diêm Hải, Nam Thiệm Bộ Châu nằm ở phía Nam núi Tu Di.

Tên của miền Nam của tứ đại châu, người ta nói nó hình tam giác, được gọi theo tên của một cái là Thiệm Bộ khổng lồ trên núi Tu Di, hay gọi theo tên loại vàng "thiệm bộ đàn" tìm thấy dưới gốc cây. Nó được chia ra làm bốn vùng:

- Nam Tượng Chủ: Từ Tuyết Sơn trở xuống phía Nam - South of Himalayas by the lord of elephants, because of their innumerable number of elephants.

- Bắc Mã Chủ: Từ Tuyết Sơn trở lên phía Bắc (vì có nhiều ngựa) - North of Himalayas by the lord of horses.

- Tây Bảo Chủ: Phía Tây của Tuyết Sơn (vì có nhiều châu báu) - West of Himalayas by theo lord of jewels.

- Đông Nhân Chủ: Phía Đông của Tuyết Sơn (vì có nhiều người ở) - [/i]East of Himalayas by the lord of men.[/i]
Chương 6
VĂN THÍ KINH PHÁT NGUYỆN TỊNH ĐỘ
CỦA PHÙNG TẾ XUYÊN
Văn ấy đại khái ghi rằng: "Một việc bố thí kinh của tôi mà có đủ hai sự bố thí. Dùng tiền của để in sách ấn tống, đó là tài thí, đem kinh để truyền bá, đó là pháp thí. Theo lời Phật nói, bố thí tiền của đời sau sẽ được quả báo phước đức nơi cõi Trời, Người; bố thí giáo pháp sẽ được thế trí biện thông(110). Đó là quả báo thế gian. Nên biết quả báo ấy đều là nhân trong luân hồi, cội gốc của đau khổ.

Thế nên, nay tôi phát nguyện: nguyện hồi hướng hai quả báo này, lúc sắp mạng chung trang nghiêm vãng sanh Tây phương Cực Lạc. Lấy hoa sen làm bào thai, gởi hình chất trong hoa, thấy Phật nghe pháp ngộ Vô sanh nhẫn, lên bậc Bất thối, vào vị Bồ tát, rồi trở lại trong thế giới ở khắp mười phương, nơi cõi đời ngũ trược, hiện thân khắp cả để làm Phật sự.

Đem nhân của hai sự bố thí tiền của và giáo pháp hôm nay, nguyện được Bồ tát Quán Thế Âm đày đủ đại từ đại bi, dạo chơi trong sáu nẻo, tùy loại hóa thân, nói các pháp mầu, khai phát cho người chưa ngộ, rời hẳn con đường đau khổ, khiến họ được trí tuệ, cùng với tất cả chúng sanh thảy đều thành Phật.

Đó là lời nguyện của tôi về việc bố thí kinh
".

Phùng Tế Xuyên bố thí kinh chẳng cầu sự giàu sang thông minh trên đường Trời, Người, mà đem công đức này hồi hướng về Tịnh Độ, nguyện thấy Phật A Di Đà. Thật đáng gọi là người Đại thừa trí thức cao minh, đạt sâu lý Phật. Than ôi! Thấy người trong Liên Xả trọn ngày niệm Phật chỉ cầu phước báo ở đời sau, há chẳng phải là sai lầm sao?

Tôi nguyện tất cả mọi người cùng sanh về Tịnh Độ, nên dẫn lời văn bố thí kinh phát nguyện Tịnh Độ của Phùng Tế Xuyên để làm khuôn phép cho mọi người. Nếu có tu phước niệm Phật, cho đến việc lành chừng bằng mảy tơ, thảy đều nên phát nguyện hồi hướng Tây phương, có chỗ hướng về thì lúc lâm chung quyết định vãng sanh Tịnh Độ.
  • CHÚ THÍCH:
(110) Thế trí biện thông: Trí thông minh sâu sắc về mặt thế tục của phàm phu, một trong tám nạn.

Người phàm phu chỉ ham mê học tập kinh sách ngoại đạo, không có khả năng tin nhận chánh pháp xuất thế, trở thành chướng nạn cho việc tin hiểu Phật đạo.

Cũng có người cho rằng thế trí biện thông là giàu kiến thức thế gian, giỏi biện luận, khéo xử thế.

Đại thừa Nghĩa chương, quyển 8 (Đại 44, 629 thượng) nói: "Vì thế trí biện thông chỉ làm tăng thêm điều ác cho nên gọi là nạn, tà kiến này trái với chánh đạo".


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

LIÊN TÔNG BẢO GIÁM
QUYỂN TÁM

THIÊN THỨ TÁM
CHÁNH QUYẾT VÃNG SANH/
Trong giáo lý Tịnh Độ, một môn vãng sanh được ghi chép đầy đủ nơi các kinh điển, sáng tỏ như mặt trời. Thật là phương pháp vào đạo của kẻ tu hành, là nơi gởi tinh thần của người niệm Phật.

Niệm mà vô niệm, niệm ấy tức niệm Di Đà, sinh mà vô sinh, sinh ấy tức sinh Tịnh Độ. Thế nên, các hàng Bồ tát đạo hạnh thâm sâu, các bậc Đại sư gương mẫu bao đời, công khanh nho sĩ, thường dân phụ nữ, đều dốc lòng tin tưởng đạo này, những người thệ nguyện tiến tu không tính kể. Ý họ là gì? Chỉ muốn vãng sanh Tịnh Độ, thấy Phật Di Đà mà thôi.

Nên biết, Phật vốn không thân, cũng không cõi nước, đó đều là do tâm chúng sanh thanh tịnh mà cảm nên. Trong kinh có nói: "Tâm này là Phật, tâm này làm Phật. Biển Chánh biến tri của chư Phật từ tâm tưởng mà phát sanh" Đại sư Trí Giả giải thích rằng: "Phật vốn là không, do tâm tịnh nên có. Bởi vì tâm chúng sanh thanh tịnh thì pháp thể hiện tiền, tâm chúng sanh ô nhiễm thì lưu chuyển trong đường đau khổ. Đó là lẽ thường, sao lại nghi ngờ? Từ nơi giáo lý chân thật trọn vẹn luận bàn về duy tâm vốn đầy đủ, hoặc đây hoặc kia, hoặc nhiễm hoặc tịnh, đều chẳng vượt ra một tâm niệm của ta. Tâm là cội nguồn tạo ra tội lỗi, cũng là căn bản của sự thành Phật. Bảo rằng, vừa có tâm nhỏ nhiệm đã đầy đủ ba ngàn đại thiện thế giới(111). Song, các pháp trong ba ngàn đại thiên thế giới đã đầy đủ mười pháp giới(112), mười như thì[/b](113)[/b], ba loại thế gian(114), hỗ trợ lẫn nhau, hiện bày đầy đủ. Thế thì bỏ nơi đây để tìm cầu cõi An dưỡng nào nữa?

Không chỉ duy tâm Tịnh Độ mà địa ngục cũng duy tâm. Còn nói rằng, y báo chánh báo của địa ngục A Tỳ hoàn toàn thú hướng nơi tự tâm của bậc Thánh, và cõi nước và Phật Tỳ Lô Giá Na chẳng ở ngoài một niệm của kẻ phàm phu. Vừa khởi kiến chấp ngộ mê liền vào đường tà, chẳng phân biệt sự khác nhau của nhiễm và tịnh mới trở về chánh đạo. Núi đao rừng kiếm đều là hoa đốm giữa hư không, ao báu sen vàng đều thành việc trong mộng. Thọ dụng như thế mới rõ chân tu, nếu chưa được vậy, nên y theo giáo lý quyền biến lần lần ra công tu tiến. Tin sâu Phật A Di Đà là bản tánh của ta, quý ở lúc lễ tụng sám niệm; đi, đứng, nằm, ngồi thường quán chiếu về ba pháp quán khế hợp nhất tâm; toàn trí biểu hiện cảnh, toàn cảnh tức là tâm. Nên biết y báo và chánh báo của Phật đều do tâm tạo, vốn đầy đủ nơi tâm, tin sâu Tịnh Độ Di Đà ảnh hiện sáng ngời mơi tâm mắt. Ví như chùi đồng thành gương, ắt phải nhờ ra công làm cho trần cấu sạch hết không còn, bản thể tròn sáng tự nhiên hiển hiện, tất cả hình sắc đều không ẩn dấu. Nên biết, nếu bảo hình bóng trong gương thật có, nhưng chẳng thể nắm bắt được, nếu bảo là không thì hình sắc rõ ràng có thể thấy. Gọi là: có mà không nhất định thật có, không mà chẳng nhất định là không; dẹp cả có lẫn không lặng lẽ hồn nhiên ấy là Trung đạo. Ý nghĩa này quả thật rộng lớn, là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.

Muốn chứng ngộ đạo quán chiếu nhiệm mầu duy tâm này, cần phải thấu rõ nơi nhân. Nên biết, nhân trùm biển quả, quả suốt nguồn nhân, xuyết suốt trước sau chẳng rời một niệm. Từ nhân đến quả chỉ ở nơi tâm ban đầu. Nếu có thể nơi đây khéo tu nhân như thế, thì lúc lâm chung quyết định được quả như thế. Do vậy, chuyên tâm niệm Phật là nhân, vãng sanh Tịnh Độ là quả. Ban đầu, từ nơi nghe mà phát khởi lòng tin, tin rồi tu trì, tích lũy công phu Tịnh nghiệp, tất được thành tựu trọn vẹn công phu. Khi thời tiết đến, nghĩa lý huyền diệu tỏ bày, xem cái chết chỉ là sự trở về. Như thế, lẽ nào lại không vui thích?

Vì vậy, ở đây nói thẳng về lời quyết định chân chánh vãng sanh (chánh quyết vãng sanh), chỉ rõ con đường đến nhà. Bây giờ tự tin không nghi ngờ, về sau ra cửa không lầm lạc. Như thế, lo gì chẳng được sanh về cõi An dưỡng, chắc chắn được thấy tự tánh Di Đà, cũng với các bậc Thánh Hiền đồng thành tựu tịnh hạnh, trải qua các địa vị đạt đến bậc cùng tột. Thật chỉ có đạo này thôi!"
  • CHÚ THÍCH:
(111) Tam thiên đại thiên thế giới: Thế giới tam thiên đại thiên, vũ trụ quan của người Ấn Độ thời xưa. Lấy núi Tu Di làm trung tâm, chung quanh có bốn đại châu và chín lớp núi, tám lớp biển gọi là một tiểu thế giới, là từ cõi Sơ thiền của cõi Sắc, đến lớp phong luân dưới đáy mặt đất. Trong đó bao gồm: mặt trời, mặt trăng, núi Tu Di, Tứ thiên vương, Tam thập Tam thiên, trời Dạ Ma, trời Đâu suất, trời Biến Hóa, trời Tha Hóa Tự Tại, trời Phạm Thế.... 1000 tiểu thế giới này hình thành một tiểu thiên thế giới, 1000 tiểu thiên thế giới hợp thành trung thiên thế giới, 1000 trung thiên thế giới hợp thành đại thiên thế giới, nên gọi là tam thiên đại thiên thế giới.

(112) Mười pháp giới: Tức địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A tu la, người trời, Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, Phật. Sáu hạng trước gọilà lục phàm, bốn hạng sau gọi tứ Thánh.

(113) Mười như thị: Tức mười như vậy, xuất phát từ phẩm Phương Tiện trong kinh Pháp Hoa. Theo Pháp Hoa Kinh Huyền Nghĩa của đại sư Trí Giả, không khác gọi là Như, không sai gọi là Thị. Bảo rằng mười pháp giới từ địa ngục đến pháp giới Phật đều đủ mười như vậy, là pháp nhân quả.
  • a. Tướng như vậy: Tướng là tướng mạo, căn cứ ở bên ngoài mà có thể phân biệt được, nghĩa là từ địa ngục đến pháp giới Phật, mỗi tướng mạo chẳng đồng.

    b. Tánh như vậy: Tánh là tánh phần, căn cứ ở bên trong tự phần chẳng đổi, nghĩa là từ địa ngục đến pháp giới Phật, tánh đều chẳng đồng nhau.

    c. Thể như vậy: Thể tức là thể chất, nghĩa là từ địa ngục cho đến pháp giới Phật đều lấy sắc thân làm thể chất.

    d. Lực như vậy: Lực là lực dụng, nghĩa là từ địa ngục đến pháp giới Phật đều có lực dụng công năng.

    e. Tác như vậy: Tác là tạo tác, nghĩa là từ địa ngục đến pháp giới Phật đều có thể vận hành tạo tác.

    f. Nhân như vậy: Nhân là tập nhân, nghĩa là từ địa ngục đến pháp giới Phật, nghiệp nhân thiện ác đều tự mình gieo trồng mà sanh, ttạp hợp tiếp nối chẳng dứt.

    g. Duyên như vậy: Duyên là duyên trợ giúp, nghĩa là từ địa ngục đến pháp giới Phật, đều có pháp duyên khởi trợ giúp thành tập nhân.

    h. Quả như vậy: Quả là tập quả, nghĩa là từ địa ngục đến pháp giới Phật đều do tập nhân tập hợp tiếp nối ở trước, tập quả thu được ở sau.

    i. Báo như vậy: Báo là quả báo, nghĩa là từ địa ngục đến pháp giới Phật, đều do tập nhân, tập quả mà cảm nên quả báo.

    j. Gốc ngọn như vậy: Nghĩa là tướng ban đầu là gốc, quả báo ở sau là ngọn, đều đồng thật tướng, một lý bình đẳng không hai.
(114) Ba loại thế gian:
  • a. Thế gian ngũ ấm: Sắc thân do năm ấm tạo thành.
    b. Thế gian chúng sanh: Tất cả chúng sanh có sanh mạng ở ngoài thân thể chúng ta.
    c. Thế gian quốc độ: Núi sông, quả đất mà chúng ta nương ở.
Chương 1
CHA MẸ LÂM CHUNG VÃNG SANH TỊNH ĐỘ
Người tin chắc Tịnh Độ, phát tâm niệm Phật là lúc gieo giống trong ao sen, người nhất tâm niệm Phật dùng mọi điều lành mà trang nghiêm, đó là lúc hoa sen ra khỏi nước. Công phu niệm Phật thành tựu, nhân duyên Tịnh Độ chín muồi, đó là lúc hoa nở thấy Phật.

Phật tử nhớ Phật, trước hết phải tôn thờ song thân, tận tâm hiếu thảo, không lãng quên ý niệm báo hiếu dù trong khoảnh khắc, luôn thuận theo tính tình của cha mẹ, xem xét sắc diện song thân trong khi phụng dưỡng, vừa thấy trái ý cha mẹ thì liền cố gắng điều hòa.

Lại nên nghĩ mạng sống của cha mẹ như đèn treo trước gió, phải đề phòng đến lúc vãng sanh. Đem tất cả duyên lành, việc tốt của cha mẹ tu hành cả đời và công đức trợ tu của mọi người tập hợp lại thành một lá sớ, thường thường đọc cho cha mẹ nghe để làm cho lòng hoan hỷ. Lại nên khuyên song thân khi ngồi, lúc nằm thường hướng về phương Tây, không quên Tịnh Độ. An trí tượng Phật A Di Đà ở phía Đông, khuyên bảo nhất tâm niệm Phật. Dâng hương, đánh khánh dẫn dắt mọi người đồng thanh hòa niệm, thường khiến cho câu niệm Phật tiếp nối không dứt, chớ để tình đời bi luyến làm mất chánh niệm. Đến lúc xả bỏ báo thân cũng cần phải chú ý. Nếu như vậy, tự nhiên được các bậc Thánh đến đón rước vãng sanh Tịnh Độ, trong hoa sen báu quyết định thành Phật.

Con hiếu thảo, hầu hạ phụng dưỡng cha mẹ chính là lúc này, không nên lười biếng. Đây là việc lớn của người con hiếu phụng sự song thân lúc sắp mạng chung. Lấy việc này làm hiếu thảo mới thật là chí hiếu.

Vả lại, từ xưa đến nay, người niệm Phật vãng sanh Tây phương rất nhiều, lược nêu vài điều để làm gương cho người niệm Phật: Quốc vương Ô Trường thấy Phật đến đón rước, hoàng hậu Tùy Văn nương hương lạ về Tây, bà Diệu Hạnh xin Phật đợi chờ, Tống thái tử hầu mẹ cũng vãng sanh.

Như thế, thật đáng gọi: "Một nhảy vào thẳng đất Như Lai".
Chương 2
BA ĐIỀU NGHI LÚC LÂM CHUNG
Trong Tịnh Độ Thập Môn, Tông chủ Từ Chiếu dạy rằng: "Người niệm Phật lúc sắp lâm chung, nếu có nghi ngờ ba điều thì không được vãng sanh Tịnh Độ:

- Nghi từ lúc tôi sanh ra đến giờ tạo nghiệp rất nặng, còn việc tu hành lại rất ít, e không được vãng sanh.

- Nghi tôi còn thiếu nợ người, hoặc có tâm nguyện chưa làm xong; tham, sân, si chưa dứt, e không được vãng sanh.

- Nghi tôi tuy niệm Phật Di Đà, nhưng lúc lâm chung e Phật không đến tiếp dẫn.

Có ba điều nghi này, do vì nghi ngờ nên tạo thành chướng ngại làm mất chánh niệm không được vãng sanh. Thế nên, người niệm Phật cần phảitin chắc ý chỉ rõ ràng trong kinh Phật, chớ sanh tâm nghi ngờ. Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: "Niệm một câu A Di Đà thì diệt trừ tội nặng của sự sanh tử trong tám mươi ức kiếp". Trên đạt được nhất tâm không loạn, dưới chỉ cần mười niệm được thành công. Phật A Di Đà tiếp dẫn về chín phẩm sen, lìa bỏ cõi đời ngũ trược. Nếu có thể tâm tâm không mờ tối, niệm niệm chẳng sai lầm thì nghi ngờ dứt hẳn, quyết đinh vãng sanh
".

Như thế, thật đáng gọi là:
  • Lộ trình mười vạn khảy tay đến
    Mảy may nghĩ ngợi cách ngàn non.
Chương 3
BỐN CỬA ẢI LÚC LÂM CHUNG
Trong Tịnh Độ Thập Môn, Tông chủ Từ Chiếu chỉ dạy về bốn cửa ải lúc lâm chung rằng:

- Một: phàm phu tuy có lòng tin niệm Phật, nhưng do nghiệp chướng xưa nặng nề, đáng lẽ phải đọa vào địa ngục; nay nhờ nương sức mạnh của Phật, nên chuyển quả báo nặng thành nhẹ, chỉ nằm trên giường bệnh. Nếu nhân bệnh khổ tỏ ngộ thân tâm vô thường giả dối sẽ được vãng sanh Tịnh Độ. Người vô trí không hiểu rõ việc này, lại nói ta nay niệm Phật mà mang bệnh khổ, trở lại phỉ báng Phật A Di Đà. Do một tâm niệm ác này nên vào thẳng nơi địa ngục. Đây là cửa ải thứ nhất.

- Hai: tuy giữ giới niệm Phật, song miệng tuy bàn Tịnh Độ nhưng ý lại lưu luyến chốn Ta bà, không cầu căn lành xuất thế. Vì yêu mên gia đình, mong mãi thịnh vượng, đến khi sắp lâm chung mắc bệnh, tham sống sợ chết, tin theo thầy tà, kêu thần gọi quỷ, đốt giấy tiền vàng mã, sát hại chúng sanh. Do tâm tà này nên Phật không nhiếp thọ bảo hộ, nhân đó trôi nổi rơi vào ba đường ác. Đó là cửa ải thứ hai.

- Ba: hoặc nhân uống thuốc phải dùng rượu thịt, hoặc bị thân tình nhiều lần khuyên bảo ép buộc. Người này không có lòng tin vững chắc, đánh mất căn lành, lúc lâm chung đi đến âm ty, mặc cho Diêm Vương phán định. Đây là cửa ải thứ ba.

- Bốn: lúc lâm chung suy nghĩ về sự nghiệp, bi trói buộc bởi tài sản, ái luyến quyến thuộc, tâm không buông bỏ được. Vì mất chánh niệm nên đọa vào đường quỷ, nương ở trong nhà, thường gây tai họa; hoặc làm chó giữ nhà, hoặc làm thân rắn để giữ gìn bảo hộ gia đình. Điều này rõ ràng như ban ngày. Đó là cửa ải thứ tư.

Thế nên, Dương Vô Vi nói: "Ái không nặng không sanh Ta bà, niệm không thiết không sanh Tịnh Độ". Lời nói ấy thật đúng thay! Người tu Tịnh Độ cần phái xét nét, chân thật tu hành, dẹp trừ điều giả dối. Tâm tư chuyên nhất lặng lẽ thì mỗi niệm đều là Di Đà, buông bỏ toàn thân, chỉ hay giữ chặt một niệm này liền có thể phá tan bốn cửa ải. Được vậy, đài sen Tịnh Độ quả thật chẳng xa xôi!


Như thế, thật đáng gọi là:
  • Một câu Di Đà không niệm khác
    Chẳng nhọc khảy tay đến Tây phương.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chương 4
LÂM CHUNG QUYẾT NGHI TOÁT YẾU
Người tu niệm Phật muốn sanh về Tịnh Độ, phải thường suy nghĩ thế gian tất cả đều vô thường, có thành tất có hoại, có sanh ắt cỏ tử.

Nếu không tận tai nghe pháp Phật thì bỏ thân, nhận thân xoay vần trong ba cõi, bốn lòai, sáu đường, không biết bao giờ được giải thoát. Nay ta có nhân duyên được nghe chánh pháp, được tu Tịnh nghiệp, nếu chỉ chuyên niệm Phật thì lúc xả bỏ báo thân này sẽ được vãng sanh Tịnh Độ, vào trong thai sen cảm nhận sự vui thích, thoát hẳn sanh tử, chẳng còn thối chuyển nơi đạo Bồ đề. Đó là việc mà bậc đại trượng phu có thể làm trong một đời.

Lúc vừa có bệnh tật, cần phải hướng về phía trước, thân tâm thản nghiên chớ nghi ngờ lo lắng, nên ngồi ngay ngắn hướng về phương Tây, chuyên tâm tưởng Phật A Di Đà, Bồ tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí và vô số vị hóa Phật hiện đang ở trước mặt, nhất tâm xưng niệm Nam Mô A Di Đà Phật, niệm mãi không ngừng. Đối với tất cả việc ở thế gian không nên nghĩ nhớ, không được tham luyến. Nếu tâm niệm ấy sanh khởi, chỉ cần gấp rút xưng danh hiệu Phật, trong mỗi niệm mỗi niệm diệt trừ tội lỗi nghiệp chướng.

Nếu người bệnh hôn mê không thể tự niệm thì người săn sóc bệnh nhân nên dùng phương tiện khéo léo khuyên bảo nhắc nhở. Dụng tâm trợ giúp như thế thì đến khi người ấy qua đời, chỉ một niệm này quyết định vãng sanh Tịnh Độ. Nếu mạng chưa hếtb tự nhiên sẽ được an lành, cẩn thận chớ vọng khởi tâm lưu luyến thế gian. Nếu phải sống tự nhiên được sống, nếu phải chết tự nhiên sẽ chết, chỉ cần được vãng sanh, nghi ngờ lo lắng mà chi! Nếu hiểu lý này, cũng như cởi bỏ áo xấu để mặc áo tốt, vừa bỏ thân phàm liền lên đất Phật. Thật là kỳ lạ thay! Vĩ đại thay! Cùng tột thay! Hoặc nghe thiên nhạc, hương mầu, hoặc thấy sen vàng tòa báu. Đó chính là cảnh Thánh hiện tiền, thận trọng chớ nghi ngờ là ma sự!

Trong kinh nói: "Người tu Tịnh nghiệp nương nguyện lực của Phật, lấy việc quán tưởng tướng hảo của Phật làm cảnh, giống như người ở gần Đế vương thì ai dám xâm phạm. Huống chi Phật A Di Đà có sức mạnh đại trí tuệ, có sức mạnh đại Tam muội, có sức mạnh đại oai thần, có sức mạnh lớn phá dẹp tà vạy, có sức mạnh lớn hàng phục quân ma, có sức mạnh thiên nhãn thấy xa, có ức mạnh thiên nhĩ nghe xa, có sức mạnh tha tâm thông soi thấu suốt, có sức mạnh ánh sáng chiếu khắp thâu nhận chúng sanh, có sức mạnh vô lượng công đức tối thắng chẳng thể nghĩ bàn. Như thế, lẽ nào chẳng thể hộ trì người tu niệm Phật, đến lúc lâm chung khiến không có ma chướng vãng sanh Tịnh Độ hay sao?"

Như thế, thật đáng gọi là:
  • Xương tan, thịt nát chưa đền xong
    Một câu thấu suốt siêu ngàn ức.
Chương 5
NGÀI TĂNG TẾ LÂM CHUNG
CHUYÊN TÂM QUÁN TƯỞNG TÂY PHƯƠNG
Đệ tử ngài Huệ Viễn là Tăng Tế. Lúc sắp lâm chung, được ngài trao cho ngọn đuốc, nói rằng:

- Ông nên quán tưởng Tây phương.

Tăng Tế cầm đuốc chuyên tâm quán tưởng tướng hảo Phật A Di Đà, nhiếp tâm không loạn động. Lại thỉnh chúng tăng tụng kinh Quán Vô Lượng Thọ. Đến canh năm, Tăng Tế trao đuốc cho Nguyên Bậc rồi nằm nghĩ. Khi tỉnh dậy bảo rằng:

- Tôi nằm mộng thấy Phật A Di Đà đưa tay tiếp dẫn. Tôi phải đi đây!

Nói xong nằm nghiêng bên phải mà vãng sanh.

Việc ấy nếu chẳng phải do sự huân tu Giới, Định, Tuệ thì làm sao có thể thản nhiên tự tại nơi bờ mé sanh tử?

Như thế, thật đáng gọi là:
  • Được lối liền đi không ngăn ngại
    Thong dong qua khỏi ải tử sanh.
Chương 6
VĂN LÂM CHUNG CHÁNH NIỆM VÃNG SANH
CỦA HÒA THƯỢNG THIỆN ĐẠO
Tri Quy Tử hỏi hòa thượng Thiện Đạo:

- Việc quan trọng ở đời không gì hơn sanh tử, một hơi thở ra mà không trở lại liền qua đời sau, một niệm sai lầm liền rơi vào luân hồi. Trước con đã được nghe dạy bảo pháp niệm Phật vãng sanh, nghĩa lý rất rõ ràng, nhưng lại e khi chết đến, tâm thức tán loạn, đồng thời cũng lo người khác làm loạn động chánh niệm mà quên mất nhân duyên Tịnh Độ. Cúi mong thầy chỉ dạy phương pháp thẳng tắt để thoát nỗi khổ trầm luân!

Sư đáp:

- Hỏi rất hay! Tất cả người mạng chung muốn vãng sanh Tịnh Độ, cần phải không được sợ chết. Thường nghĩ thân này nhiều đau khổ, bất tịnh, nghiệp ác trùng trùng xen tạp. Nếu được bỏ thân hình nhơ nhớp này, siêu sanh Tịnh Độ thì thọ hưởng vô lượng niềm vui, giải thoát con đường khổ đau sanh tử. Như vậy mới vừa ý, ví tợ cởi bỏ chiếc áo nhơ xấu thay vào y phục quý đẹp. Chỉ nên buông bỏ thân tâm, đừng sinh lòng lưu luyến.

Hễ gặp lúc có bệnh thì nghĩ nhớ về vô thường, một lòng đợi cái chết đến. Dặn dò người nhà, người lo bệnh và người tới lui thăm viếng rằng: "Khi đến chỗ tôi, nên niệm Phật cho tôi, không được nói chuyện tạp nhạp hàng ngày, việc tốt xấu trong nhà, cũng không nên dùng lời an ủi chúc lành. Đó đều là những lời vô ích giả dối".

Nếu bệnh nặng sắp chết, quyến thuộc không được khóc lóc rơi lệ và phát ra lời than thở áo não, hoặc loạn tâm thần mất đi chánh niệm, chỉ nên đồng thanh niệm Phật trợ giúp vãng sanh, đợi khi hơi ấm hết rồi mới có thể bi ai than khóc. Vừa có may may tâm luyến tiếc thế gian, liền trở thành chướng ngại chẳng được giải thoát. Nếu được người hiểu rõ Tịnh Độ, thường đến nhắc nhở thì rất là may mắn. Người y theo đây chắc chắn siêu sanh không nghi.

Lại hỏi:

- Tìm thầy uống thuốc có được không?

Đáp:

Tìm thầy uống thuốc ban đầu không ngại, nhưng thuốc chỉ có thể trị bệnh, không trị mệnh. Mệnh nếu hết thuốc làm được gì? Nếu giết hại sinh vật làm thuốc để cầu thân thể an ổn thì quyết định không được. Phần nhiều tôi thấy người đời nhân lúc bệnh nên trì trai mới được thuyên giảm. Còn việc trị bệnh mà làm rượu thịt, máu huyết để dùng thuốc, bệnh ấy sẽ càng thêm nặng. Thế nên biết, tin rằng Phật lực có thể cứu, rượu thịt chẳng ít gì.

Hỏi:

- Việc tế thần cầu phước thì thế nào?

Đáp:

- Mạng người lâu dài hay ngắn ngủi đều do nghiệp định, sao lại nhờ quỷ thần kéo dài được? Nếu mê hoặc tin theo tà, sát hại chúng sanh, cúng tế quỷ thần, chỉ tăng thêm tội lỗi nghiệp chướng, trở lại làm tổn thọ mà thôi. Sinh mạng nếu hết, ma quỷ làm được gì? Tự sợ hãi vô ích, đều không giúp được chi cả. Phải rất cẩn thận. Nên chép văn này dán phía trước người bệnh cho họ thường thấy, để đến khi lâm nguy khỏi quên mất chánh niệm.

Hỏi:

- Người bình thường chưa từng niệm Phật có dùng pháp này được không?

Đáp:

- Pháp này tăng tục, nam nữ, người chưa niệm Phật sử dụng đều được vãng sanh, quyết định không nghi. Tôi thấy người đời trong lúc bình thường, phần nhiều thường niệm Phật, lễ bái phát nguyện cầu sanh Tây phương rất chuyên cần, nhưng đến khi bệnh lại sợ chết, hoàn toàn chẳng nói gì về việc vãng sanh giải thoát, mãi đến khi hơi dứt mạng hết, thần thức đi vào cõi U minh mới đánh chuông niệm Phật. Như vậy, cũng giống như kẻ cướp ra khỏi nhà rồi mọi người mới hô to lên thì làm được việc gì?

Chết là việc trọng đại, tự mình cần phải gắng sức mới được. Nếu một niệm sai lầm, muôn kiếp chịu khổ, ai thay thế cho mình?

Nên xét kỹ điều đó! Nếu lúc rảng rang phải dùng pháp này tinh tấn niệm Phật, dốc sức thọ trì. Đó là việc lớn lúc lâm chung, có thể gọi là:
  • Một đường Tây phương rộng thênh thang
    Thẳng tắt về nhà không cần hỏi.
Chương 7
HÓA PHẬT ĐẾN ĐÓN RƯỚC

Trong Tông Cảnh Lục, có người hỏi rằng:

- Ngoài tâm không Phật, thấy Phật tức là tâm. Tại sao trong giáo lý nói có Hóa Phật đến đón rước sanh về Tịnh Độ?

Đáp:

- Phật pháp chân thật vốn không sanh diệt. Từ Phật chân thật phát khởi ra Hóa Phật để tiếp dẫn người mê. Vì Hóa Phật tức là Chân Phật nên Chân Phật và Hóa Phật vốn đồng nhất. Như thế thì không đến không đi, chỉ tùy theo tâm tưởng của chúng sanh mà ứng hóa. Vả lại, bản thể của Hóa Phật tức là Chân Phật nên nói không đến không đi. Từ Chân Phật lưu xuất Hóa Phật, do đó thị hiện có sự đi lại. Ở nơi tướng không đến mà đến, nơi tướng không thấy mà thấy. Không đến mà đến giống như bóng trăng chợt hiện, không thấy mà thấy dường như mây bỗng nổi lên.

Hỏi:

- Như trên nói thể Chân Phật lặng yên chẳng động, tướng Hóa Phật không đến mà đến. Vậy tức là ngoài tâm có Hóa Phật đến đón rước, như thế làm sao chứng tỏ tự tâm là Phật?

Đáp:

- Đó chính là sức mạnh công đức bản nguyện của Như Lai, nên làm cho những chúng sanh có duyên chuyên tâm tưởng niệm có thể khiến tự tâm thấy Phật đến đón, chẳng phải chư Phật thật sự sai Hóa thân đến tiếp dẫn. Chỉ là do có duyên, thời cơ thích hợp nên hay khiến tự tâm thấy Phật đến đón. Thế thì, thân Phật lắng yên thường lặng lẽ, không đến không đi, tâm thức của chúng sanh nương vào sức bản nguyện của Phật, một niệm biến hóa có đến có đi. Ví như bóng trong gương, tợ việc trong mộng. Bóng trong gương chẳng phải trong, chẳng phải ngoài; việc trong mộng chẳng phải có, chẳng phải không. Chỉ là tâm sinh, chẳng phải do Phật biến hóa.

Người tu hành có lòng tin chân thật chắc chắn, muốn vãng sanh thế giới Tây phương Cực Lạc, chuyên nhất ý niệm nắm chặt một câu A Di Đà Phật.
  • - Chỉ có một niệm này là Bổn sư của ta.
    - Chỉ một niệm này tức là Hóa Phật.
    - Chỉ một niệm này tức là dũng tướng phá tan địa ngục.
    - Chỉ một niệm này là bảo kiếm chém bầy tà.
    - Chỉ một niệm này là đèn sáng xua tan tăm tối.
    - Chỉ một niệm này là thuyền lớn vượt qua biển khổ.
    - Chỉ một niệm này là phương pháp hay thoát khỏi sanh tử.
    - Chỉ một niệm này là đường tắt ra khỏi ba cõi.
    - Chỉ một niệm này là bản tánh Di Đà.
    - Chỉ một niệm này thấu suốt Tịnh Độ duy tâm.
Chỉ cần nhớ một câu A Di Đà Phật này, ở nơi tâm niệm đừng bỏ mất. Niệm niệm thường hiện tiền, niệm niệm không rời tâm, rảnh rang cũng niệm như thễ, bận rộn cũng niệm như thế, an vui cũng niệm như thế, bệnh khổ cũng niệm như thế, lúc sống cũng niệm như thế, khi chết cũng niệm như thế. Được vậy thì một niệm rõ ràng không mờ tối, cần gì hỏi người tìm lối về?

Như thế, thật đáng gọi là:
  • Đi thuyền đều do người cầm lái
    Thấu đạt đồng dạo đường Niết bàn.
Chương 8
BÀI KỆ TÁN THÁN NIỆM PHẬT LÚC LÂM CHUNG
CỦA BỒ TÁT HIỀN THỦ
  • Phóng ánh sáng tên là thấy Phật
    Ánh sáng giác ngộ người sắp mất
    Khiến họ nghĩ nhớ, thấy Như Lai
    Khi mạng chung được sanh cõi Tịnh.
    Thấy người lâm chung khuyên niệm Phật
    Dạy tạo tượng Phật, bảo chiêm ngưỡng
    Khiến họ tin sâu nơi đức Phật
    Thế nên thành tựu ánh sáng này.
Sám chủ Từ Vân Thức ở chùa Thiên Trúc nói rằng: "Bốn câu trước khen ngợi đức Phật phóng ánh sáng. Người thấy ánh sáng này gọi là thấy Phật, có thể khiến họ lúc lâm chung vãng sanh Tịnh Độ. Bốn câu sau tán thán đức Phật tu nhân về ánh sáng này. Nhân ấy chỉ là khuyên bảo người sắp lâm chung niệm Phật, dạy họ an trí tượng Phật, khiến họ thấy rồi sanh khởi lòng tin, cho nên khi thành Phật được ánh sáng này và bảo dùng bài kệ khuyên khắp mọi người tin nhận".

Hễ gặp quyến thuộc và tất cả mọi người lúc sắp lâm chung, trước hết nên an trí tượng Phật ở trước giường, bảo họ nhìn và khuyên niệm Phật. Nếu như người bị đau khổ bức bách, hoặc trước kia không có lòng tin, chẳng chịu niệm Phật thì dùng đủ mọi phương tiện khuyên bảo họ xưng danh hiệu Phật cho đến mười niệm, ắt được diệt trừ trọng tội, sanh về Tịnh Độ của Phật. Một việc lợi ích này chẳng thể nghĩ bàn. Nếu khuyên được một người vãng sanh Tịnh Độ thì dù tự mình không tu hành rốt cuộc cũng sẽ được sanh về Tịnh Độ. Huống chi, sau này thành Phật, có thể phóng ánh sáng chiếu soi tất cả chúng sanh lúc lâm chung được thấy Phật.

Phần nhiều, người đời vì ân ái nên tụ họp lại khóc lóc, chẳng suy tư đến việc cứu độ, đó là ác tri thức. Khổ thay! Khổ thay! Vì ân ái buộc ràng mà rơi vào đường ác, không biết bao giờ giải thoát! Dù là cha mẹ hiền lành, con cháu hiếu thảo cũng chẳng biết làm sao? Lấy đó mà xét, mọi người cần phải cố gắng lên!

Như thế, thật đáng gọi là:
  • Nguyện khắp chúng sanh đang chìm đắm
    Mau qua cõi Phật Vô lượng Quang.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chương 9
TÌNH TƯỞNG NHIỀU ÍT, BÀN VỀ QUẢ BÁO CAO THẤP
Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói:

Phật bảo A Nan:

- Tất cả thế gian sống chết nối nhau, sống thuận theo thế gian, chết thì đổi sang dòng khác. Khi gần mạng chung, chưa hết hơi nóng, nghiệp thiện ác một đời đồng thời hiện ra.

- Thuần là tưởng thì liền bay lên, nhất định sanh về các cõi Trời, nếu bay lên trong tâm gồm có phước đức, trí tuệ cùng với tịnh nguyện, tự nhiên tâm được khai ngộ, thấy tất cả Tịnh Độ của chư Phật trong mười phương theo nguyện mà vãng sanh.

- Tình ít, tưởng nhiều, cất lên không xa thì làm phi tiên.

- Tình và tưởng bằng nhau, không bay lên không rơi xuống, sanh nơi nhân gian. Tưởng sáng suốt nên thông minh, tình u ám nên ngu độn. Tình nhiều, tưởng ít, đi vào các loại bàng sanh, nặng làm giống có lông, nhẹ làm loài có cánh.

- Bảy phần tình, ba phần tưởng, chìm xuống dưới thủy luân, sanh nơi hỏa tế, chịu khí phần của lửa dữ, thân làm ngạ quỷ, thường bị đốt cháy, vì nước có thể hại mình, nên trải trăm ngàn kiếp không ăn không uống.

- Chín phần tình, một phần tưởng, xuống thấu qua hỏa luân, nhẹ thì sanh vào địa ngục Hữu gián, nặng thì sanh vào địa ngục Vô gián.

- Thuần là tình thì chìm sâu vào địa ngục A Tỳ; nếu trong tâm chìm sâu nơi đó, lại có lỗi hủy báng Đại thừa, phá giới cấm của Phật, nói pháp lừa dối để tham cầu tín thí, lạm nhận cung kính, hoặc phạm ngũ nghịch, thập ác thì lại còn sanh vào địa ngục A Tỳ ở mười phương.
Chương 10
LÂM CHUNG TƯỚNG THIỆN ÁC CHIÊU CẢM QUẢ BÁO
Trong kinh Thủ Hộ Quốc Giới Chủ, đức Phật bảo:

- Nếu người sắp lâm chung, dự biết thời khắc, chánh niệm rõ ràng, tắm gội mặc áo, an lành qua đời, ánh sáng chiếu thân, thấy tướng hảo Phật, các điềm lành đều hiện ra, biết chắc người này quyết định vãng sanh Tịnh Độ.

- Nếu người niệm Phật trì giới không có tâm tinh tấn, lúc sắp mạng chung không có tướng lành, không có tướng ác. Địa phủ không thâu, An Dưỡng chẳng nhận, như ngủ mà đi. Người này lòng nghi ngờ chưa đoạn dứt nên sanh về Nghi Thành(115), thọ hưởng vui vẻ trong năm trăm năm, tu Tính, Nguyện thêm mới được về Tịnh Độ.

- Nếu người khởi tâm thương xót, chánh niệm hiện tiền, đốivới tài sản, vợ con tâm không luyến ái, đôi mắt trong sáng, ngẩng mặt mỉm cười, nghĩ tưởng thiên cung sẽ đến rước ta, tai nghe thiên nhạc, mắt thấy đồng tử cõi trời. Lúc bỏ báo thân này, nhất định sanh về Thiên giới.

- Nếu người sanh tâm nhu nhuyến, khởi tâm phước đức, thân không bệnh hoạn, nghĩ nhớ cha mẹ vợ con, đối với việc thiện ác tâm không lầm lẫn, tâm tư ngay thẳng, di chúc gia tài từ biệt mà đi. Người này nhất định sanh về cõi người.

- Nếu người giận dữ mà nhìn quyến thuộc, đưa tay nắm bắt hư không, tiểu tiện không hay, thân thường hôi thối, hai mắt đỏ hoe, thường nằm úp mặt, co về bên trái, toàn thân đau nhức. Hoặc thấy tướng ác, miệng không nói được, rên rỉ kêu gào, oan trái hiện ra, tâm thức tán loạn, mê hoặc điên đảo, toàn thân lạnh buốt, bàn tay nắm chặt, thân cứng như đá. Người này lúc mạng chung nhất định sanh về cõi Địa ngục.

- Nếu người hay liếm môi, thân nóng như lửa, thường lo đói khát, ưa nói về ăn uống, miệng há không ngậm lại, tham luyến tài sản, mạng sống dây dưa khó dứt, chết không nhắm mắt. Người này nhất định vào đường Ngạ quỷ.

- Nếu người thân mang bệnh nặng như ở trong mây mù, tâm hồn mê man tán loạn, sợ nghe danh hiệu Phật, ưa thích ăn mùi vị máu thịt, không chịu nghe lời khuyên bảo, ái luyến vợ con, tay chân co quắp, toàn thân xuất mồ hôi, nói lời thô ác, thường nuốt nước miếng. Tướng ấy hiện ra, nhất định đi vào đường súc sanh.
  • CHÚ THÍCH:
(115) Nghi Thành Nơi sanh về của các hành giả tu các công đức bằng tâm nghi hoặc trong các cõi Tịnh Độ của đức Phật A Di Đà. Hành giả dù được vãng sanh Tịnh Độ Cực Lạc, nhưng vẫn còn chưa hiểu thật tướng, nên đức Phật mới đáp ứng căn cơ của họ mà thị hiện cõi hóa sanh, đó là Nghi Thành.
Chương 11
KHUYÊN BẢO DỰ BỊ TU HÀNH
MƯỜI ĐIỀU LÂM CHUNG KHÔNG THỂ NIỆM PHẬT
Phàm phu nghiệp nặng, ai nấy cũng đều tham sống sợ chết. Nếu không dự bị công phu thì lúc lâm chung không thể khắc phục được để niệm Phật. Trong Thập Nghi Luận của đại sư Trí Giả nói: "Lúc sắp lâm chung, niệm Phật gọi là tâm sau cùng. Tâm này mạnh mẽ thì vừa niệm danh hiệu Phật, liền được vãng sanh Tịnh Độ".

Bởi lẽ lúc sắp chết, tâm ấy mạnh mẽ quyết định, cho nên hơn cả trăm năm gắng sức thực hành.

Có người hỏi rằng:

- Lúc sắp lâm chung, niệm Phật liền được vãng sanh, cần gì phải dự bị tu hành nghiệp thù thắng?

Đáp:

- Đời người thọ yểu, khó lường được mạng sống ngắn hay dài, hoặc ngay khi bệnh hoạn mà hôn mê, hoặc là đột ngột qua đời. Lúc còn sống chẳng làm việc lành ắt khó tránh khỏi tai ương ở đời sau. Vì thế, cần phải dự bị tu hành mọi việc lành, đó là biết phòng ngừa lo sợ lỗi lầm này.

Mười điều lúc lâm chung không thể khắc phục để niệm Phật:
  1. Chưa hẳn gặp bạn lành, nên chẳng ai khuyên niệm.
  2. Bệnh khổ bức bách thân thể, tâm thần hôn mê tán loạn.
  3. Trúng phong cứng họng, không thể xưng danh Phật.
  4. Cuồng loạn mất trí, không thể chú tâm tưởng niệm.
  5. Thoạt gặp tai nạn nước lửa, mất sự điềm tỉnh chí thành.
  6. Bỗng gặp cọp sói làm kinh hoàng hốt hoảng.
  7. Khi lâm chung bị bạn ác phá hoại đạo tâm.
  8. Ăn uống quá nhiều hôn mê đến chết.
  9. Bị trúng thương thoạt chết giữa quân trận.
  10. Từ trên cao té xuống mà mạng vong.
Vì thế nên biết, lúc lâm chung khó bảo đảm được tốt hay xấu, nên cần phải dự bị tu tập trước!

Như thế, thật đáng gọi là:
  • Lúc rảnh ra công, lúc gấp dùng
    Gặp việc tay chân khỏi phải loạn.
LIÊN TÔNG BẢO GIÁM
QUYỂN CHÍN

THIÊN THỨ CHÍN
CHÁNH BÁO NIỆM PHẬT
Nhân tu bạch nghiệp, quả cảm Tịnh bang. Hóa Phật dẫn lên đài vàng, Thánh hiền đón về Cực Lạc, vượt ra ba cõi, ra khỏi bốn dòng(116). Nghiệp hết trần tiêu, tình quên nghi dứt, chất gởi thai sen, thần dạo nơi cõi báu. Phụng thờ Phật A Di Đà làm Bổn sư, được cùng Quán Âm, Thế Chí làm bạn lành, biển chúng thanh tịnh đồng dự đại hội Liên Trì, chín phẩm thượng lưu đều nói về bản hạnh.

Năm phần hương thoang thoảng nơi người(117), ba đức(118) trang nghiêm thân tướng hảo. Gió nhẹ vi vu nghe mọi âm thanh diễn pháp; mưa hoa rơi nhẹ, thấy ánh sáng tợ lưới giăng. Thăm thẳm trời mây mà chẳng cách xa do có thần túc, y tơ áo lụa hứng đầy hoa đẹp cúng dường chư Phật khắp mười phương. Sớm yết kiến Từ dung, được pháp ấn mà trở về cõi nước; chiều dạo thế giới vàng kim, nghe kệ ngọc mà tiêu diêu tự tại. Sen lành vừa nở trừ diệt tai ương, tân học hóa sanh thành tựu bậc Bất thối, dứt hẳn nỗi khổ thô phù, Phật quả cũng chẳng còn xa xăm. Dạo chơi nơi rừng ngọc, tắm gội trong nước công đức. Lầu các bách thảo hoa lệ, bảy hàng cây báu trang nghiêm, phong cảnh đẹp tươi miên viễn. Đất bằng như lòng bàn tay, ẩm thực y phục tùy niệm mà đến, nhạc trời không tấu tự vang, thọ dụng tự nhiên xuất hiện. Vui vẻ khác xa nhân thế, gấp muôn ức lần chư Thiên, không sao sánh kịp.

Hằng hà sa chư Phật thảy đều khen ngợi. Thân đầy đủ tướng hảo ánh sáng, bước lên đường Thánh thềm hương, sống lâu vô lượng, bi nguyện vô cùng. Xả bỏ hai loại sanh tử(119), đã chẳng phải là thân quả báo nên được Bản tế(120) thường tỏ sáng, rời hẳn tướng đến đi.

Duyên mạnh mẽ, đức thù thắng, đều do tâm niệm Phật phát sinh; phước đầy đủ, thọ miên trường, hoàn toàn nhờ tịnh nhân cảm thành quả báo. Nên biết, Phật có nguyện nhiếp thọ chúng sanh, chúng sanh có nhân cảm ứng với Phật. Duyên thù thắng như thế được phát khởi từ Tín, Nguyện. Do quả mầu nhiệm này mà thành tựu y báo(121), chánh báo[/b](122)[/b] trang nghiêm. Hoặc tọa thiền, tụng niệm bên ao thất bảo, hoặc kinh hành từng bước trên đất vàng ròng, được no lòng bởi vị ngon thiền duyệt pháp hỷ; mặc thiên y từ bi hỷ xả, công đức bồi đắp tinh thần, tăng thêm từ bi trí tuệ, ung dung hành đạo, trưởng dưỡng thánh thai, vào cửa Vô sanh, liền lên ngôi vị Bồ tát, được A bệ bạt trí, tâm Bồ đề bất thồi.

Ở trong nhà đấng Pháp vương, đều nhận lời thọ ký của Như Lai, nghe pháp Đại thừa, đồng được khen ngợi là bậc Nhất sanh bổ xứ. Mỗi niệm mỗi niệm rỗng lặng, mỗi tâm mỗi tâm an tĩnh, được Tam muội chánh định, đủ sáu thứ thần thông, hiến cúng mười phương, qua lại vô ngại. Phân thân trong muôn ức cõi mà chẳng mất định tâm; rải nước pháp khắp ba ngàn Đại thiên thế giới, dắt chúng sanh ra khỏi nhà rực lửa, mình và người đều được lợi ích, hạnh nguyện tất vẹn toàn.

Như thế, thật đáng gọi là:
  • Sinh trăm ngàn tam muội đều duy tâm
    Công đức trang nghiêm về ta vậy.


    CHÚ THÍCH:
(116) Bốn dòng: Nguyên là Tứ lưu. Chúng sanh bị bốn dòng này khiến trôi nổi chẳng dừng nên gọi là lưu (dòng).
  • a. Kiến lưu: Tức kiến hoặc trong ba cõi. Nghĩa là ý căn đối với pháp trần sanh khởi kiến chấp phân biệt, do kiến hoặc này nên trôi nổi trong ba cõi không thể thoát ra,

    b. Dục Lưu: Dục là tư hoặc trong cõi Dục. Năm căn do tham ái năm trần nên gọi là tư hoặc, tức tham, sân, si, mạn. Do tư hoặc này nên trôi nổi trong cõi Dục không thể thoát ra.

    c. Hữu lưu: Hữu là nhân quả chẳng mất. Tư hoặc trong cõi Sắc và Vô sắc là tham lam, ngã mạn. Do tư hoặc này nên trôi nổi trong cõi Sắc và Vô sắc không thể thoát ra.

    d. Vô minh lưu: Không hiểu rõ nên gọi là vô minh, tức là si hoặc trong tư hoặc của ba cõi. Do vô minh này nên trôi nổi trong ba cõi không thể thoát ra.
(117) Năm phần hương: Năm phần hương ví dụ như năm phần pháp thân. Bậc Thánh vô học tự mình thành tựu năm pháp công đức, gọi là năm phần pháp thân. Đó là: Giới thân, Định thân, Huệ thân, Giải thoát thân, và Giải thoát tri kiến thân. Năm thân này được ví dụ như hương thơm, nên gọi là năm phần hương, tức là Giới hương, Định Định, Huệ hương, Giải thoát hương và Giải thoát tri kiến hương.

(118) Ba đức:
  • a. Tam đức: Chỉ cho ba đức của Đại Niết bàn: Pháp thân, Bát nhã và Giải thoát.

    Căn cứ theo Đại thừa Nghĩa Chương quyển 18, thì:
    • (a) Pháp thân: Chỉ cho chân như vốn có sẵn của tất cả hiện tượng tồn tại, hoặc chỉ cho thân được hoàn thành bằng pháp công đức.
      (b) Giải thoát: Tức cởi bỏ tất cả sự trói buộc của phiền não.
      (c) Bát nhã: Chỉ cho trí tuệ giác ngộ.
Sự quan hệ giữa ba đức này là ba tức một, một tức ba. Khi còn ở nhân vị thì gọi là Tam Phật tánh, khi đến quả vị thì gọi là Tam đức.

Đại Bát Niết Bàn Huyền Nghĩa, quyển thượng, phiên dịch từ "Ma Ha Bát Niết Bàn Na" là "Đại diệt độ" cho rằng "Đại" là Pháp thân, "Diệt" là Giải thoát, "Độ" là Bát nhã.

Ngoài ra, do nhân và quả đối nhau, nên Tam đức cũng có hai thứ thuận và nghịch khác nhau. Tam đức thuận là: Quả của Chánh nhân Phật tánh thành tựu đức của Pháp thân, quả của Liễu nhân Phật tánh thành tựu đức của Bát nhã, còn quả của duyên nhân Phật tánh là thành tựu đức của Giải thoát. Trái lại, nếu do chuyển "Khổ" mà thành tựu đức Pháp thân, do chuyển "Hoặc" mà thành tựu đức bát nhã và do chuển "Nghiệp" mà hoàn thành đức Giải thoát thì gọi là Nghịch Tam đức.

Theo tông Thiên Thai thì thuyết Tam đức đã xuất hiện trong các kinh trước kinh háp Hoa, nhưng Tam đức của Pháp Hoa Viên Giáo là phi tung phi hoành, phi tam phi nhất có thể nói khác hẳn với các thuyết trước. Đồng thời, Tam đức của Pháp Hoa Viên Giáo cũng có thể phối hợp với Tam Bồ đề, Tam Phật tánh, Tam Bảo, Tam đạo, Tam thức, Tam Bát nhã, Tam Đại thừa, Tam thân, Tam Niết bàn...

Ngoài ra, theo luận Nhiếp Đại thừa có thể chuyển năm uẩn thành ba đức, tức là có thể chuyển Sắc uẩn thành đức Pháp thân, chuyển ba uẩn Thọ, tưởng, Hành thành đức Giải thoát, và chuyển Thức uẩn thành đức Bát nhã.

b. Tam đức: Chỉ cho ba đức tướng của quả vị Phật là Trí đức, Đoạn đức và Ân đức.

Luận Phật Tánh quyển 2 giải thích Tam đức này như sau:
  • (a) Trí đức: Chỉ cho trí tuệ của Phật quán xét tất cả các pháp.
    (b) Đoạn đức: Chỉ cho đứt diệt trừ hết tất cả phiền não, hoặc nghiệp.
    (c) Ân đức: Đức do nguyện lực cứu độ chúng sanh mà ban ân huệ cho tất cả chúng sanh.
Ba đức trên đây phối với Pháp thân, Báo thân và Ứng thân, đồng thời, Trí đức và Đoạn đức có nội dung tự lợi, tự hành và tự giác, còn Ân đức thì mang nội dung lợi tha, hóa tha và giác tha.

Hoa Nghiêm Kinh Sớ quyển 12 (Đại 35, 589 hạ) nói: "Hạt giống Phật không dứt mất có tướng như thế nào? Là thành tựu Tam đức: cứu độ chúng sanh, thành tựu Ân đức; đoạn hẳn phiền não, thành tựu Đoạn đức; rõ biết các hạnh, thành tựu Trí đức".

(119) Hai loại sanh tử:
  • a. Phần đoạn sanh tử: Cũng gọi là Phần đạn tử, Hữu vi sanh tử, chỉ cho sự sanh tử của chúng sanh trong ba cõi, một trong hai loại sanh tử. Do tạo nghiệp khác nhau, nên chúng sanh chiêu cảm quả báo sanh tử trong ba cõi có thân tướng đẹp xấu, tuổi thọ dài ngắn không giống nhau, vì thế gọi là Phần đoạn sanh tử.

    Theo thuyết của các nhà Duy thức, thì Phần đoạn sanh tử lấy nghiệp thiện ác hữu lậu làm nhân trực tiếp và lấy Phiền não chướng làm nhân gián tiếp mà chiêu cảm quả Dị thục thô trong ba cõi. Vì thân mạng có dài ngắn, tùy theo năng lực của nhân duyên mà quyết định hạn lượng, cho nên gọi là Phần đoạn, cũng tức là sanh tử trong ba cõi và sáu đường.

    Đại Thừa Nghĩa Chương quyển tám chia Phần đoạn sanh tử làm hai loại: Ác đạo phần đoạn và Thiện đạo phần đoạn.
    • (a) Ác đạo phần đoạn: Chỉ cho quả báo trong ba cõi sáu đường, gồm ba bậc:

      * Sanh tử của phàm phu phải chịu, lấy ác nghiệp làm nhân, Tứ trụ địa làm duyên.
      * Sanh tử do Bồ tát Thập trụ phải chịu, lấy ác nghiệp làm nhân, Tứ trụ địa làm chánh duyên, bi nguyện là trợ duyên.
      * Sanh tử mà Bồ tát Sơ địa từ hàng chủng tánh trở lên phải chịu, lấy ác nghiệp làm nhân, bi nguyện là chánh duyên, Tứ trụ địa làm trợ duyên.

      (b) Thiện đạo phần đoạn cũng có ba bậc là:

      * Sanh tử của phàm phu, Nhị thừa cho đến Bồ tát Thập trụ phải chịu, lấy thiện nghiệp làm nhân, Tứ trụ địa làm duyên.
      * Sanh tử do Bồ tát chủng tánh phải chịu, lấy thiện nghiệp làm nhân, Tứ trụ địa làm chánh duyên, bi nguyên làm trợ duyên.
      * Sanh tử mà hàng Bồ tát Địa thượng phải chịu, lấy thiện nghiệp làm nhân, bi nguyện làm chánh duyên, Tứ trụ địa làm trợ duyên. Ngoài ra còn nói rõ thứ bậc của quả báo lúc chết.
    b. Biến dịch sanh tử: Sống chết thay đổi. Cũng gọi là Vô vi sanh tử, Bất tư nghị biến dịch sanh tử, Bất tư nghị bến dịch tử, Biến dịch tử. Một trong hai thứ sanh tử. Đối là với "Phần đoạn sanh tử", tức là các bậc A la hán, Bích chi Phật và Bồ tát đại lực, lấy "hữu phân biệt nghiệp" vô lậu làm nhân, lấy Vô minh trụ địa làm duyên mà cảm nhận được thân quả báo nhiệm mầu vượt ngoài ba cõi. Thân quả báo này là do sức bi nguyện vô lậu chuyển đổi thân Phần đoạn sanh tử thô nặng vốn có trước kia biến thành thân nhỏ nhiệm, không sắc hình, không hạn định tuổi thọ... nên gọi là Thân biến dịch. Thân này do sức định, sức nguyện giúp thành, diệudụng của nó khó lường được nên cũn ggọi là thân Bất tư nghị (thân không nghĩ bàn được). Lại nữa, vì thân này do ý nguyện đại bi mà thành, nên cũng gọi là thân ý thành, thân vô lậu, thân vượt ra ngoài ba cõi. Lại vì thân này đã do sức định vô lậu chuyển thành, hoàn toàn khác với thân phận trước kia, giống như biến hóa mà được nên cũng được gọi là thân biến hóa.

    Vì các bậc A la hán, Bích chi Phật và Bồ tát đại lực đã dứt bỏ hết phiền não hoặc chướng của bốn trụ địa, không còn thọ sanh thân Phần đoạn trong ba cõi nữa, mà thọ sanh thân Biến dịch ở ngoài ba cõi. Tuy nhiên sau đó, các vị ấy lại dùng thân biến dịch này trở lại trong ba cõi mà tu các hạnh Bồ tát trong thời gian dài để mong đạt đến Vô thượng Bồ đề.
(120) Bản tế: Lý thuyết tuyệt đối bình đẳng, cũng gọi là Niết bàn chân như.

(121) Y báo: Quả báo tuy theo quả báo chánh, là sự vật ngoài thân, tức những vật nương theo thân mạng của mình. Như nhà cửa, của cải, làng xóm, đất nước của mình. Như y báo của Phật Thích Ca là toàn cõi Ta bà với mọi vật trên cõi ấy. Còn y báo của Phật Di Đà là Cực Lạc thế giới với mọi thứ trân bảo.

(122) Chánh báo: Thân tâm của mình, do những duyên nghiệp từ trước nên sanh ra với tâm làm người, làm Tiên, làm Phật, làm Thần, làm quỷ, làm súc sanh. Như làm người thì có đủ thân thể, tay chân, mắt mũi. Làm Phật thì có đủ ba mươi hai tướng chánh, tám mươi tướng tốt phụ. Đó là chánh báo.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chương 1
CÔNG ĐỨC TRANG NGHIÊM

Chương Công Đức Bồ tát trong kinh Vô Lượng Thọ nói: "Người sanh về cõi nước kia, dung mạo thảy đều nhu hòa, tướng hảo đầy đủ, thiền định trí tuệ thông đạt vô ngại, thần thông oai đức thảy đều viên mãn, vào sâu trong pháp môn, đầy đủ Vô sanh pháp nhẫn, cứu xét thấu suốt rốt ráo kho tàng bí mật của chư Phật, điều phục các căn, thân tâm nhẹ nhàng, an nhiên tịch tĩnh vào nơi Niết bàn, thâm nhập trí tuệ chân chánh, không còn những tập khí dư thừa. Nương theo Phật tu hành Thất giác chi(123) và Bát Chánh Đạo(124). Tu tập Ngũ nhãn(125), chiếu soi Chân đế(126), thông đạt Tục đế(127). Biện tài tổng trì tự tại vô ngại, khéo hiểu vô biên phương tiện trong thế gian. Lời nói thành thật chắc chắn, thấu rõ nghĩa lý sâu xa, diễn thuyết chánh pháp hóa độ của loài hữu tình, quán xét khắp ba cõi đều rỗng không chẳng có gì, biết tất cả các pháp vô tướng, vô vi không lấy không bỏ, xa rời điên đảo, vững chắc không động như núi Tu Di.

Trí tuệ sáng suốt như mặt trời, rộng lớn như biển cả, phái sinh ra những bảo vật công đức. Trí tuệ mạnh mẽ như ngọn lửa hừng hực đốt cháy củi phiền não. Nhẫn nhục như đất bình đẳng với tất cả. Thanh tịnh như nước, rửa sạch mọi bụi dơ; như hư không vô biên vì tất cả chẳng chướng ngại, như hoa sen ra khỏi nước vì rời tất cả ô nhiễm, như tiếng sấm sét vì diễn nói pháp âm, như mây kéo mù mịt vì tuôn mưa pháp, như gió lay động cành cây vì nẩy mầm Bồ đề, như tiếng trâu chúa vì khác hẳn với tiếng của các loài trâu khác, như uy thế của voi chúa vì khó lường xét được, như ngựa giỏi chạy vì những vật được chuyên chở chẳng mất, như sư tử chúa vì không sợ sệt, như cây Ni Câu Luật
(128) vì tàng che rộng lớn, như hoa Ưu Bát La]/i](129) vì khó được gặp, như chày Kim cang phá vỡ núi tà, như thân Phạm vương vì sanh ra Phạm chúng, như chim Cánh vàng vì thắng Độc long, như chim muông trong hư không chẳng có dấu vết, như núi Tuyết vì chói sáng công đức thanh tịnh, như ngài Từ Thị(130) vì quán xét pháp giới bình đẳng.

Các vị ấy chuyên ưa thích cầu pháp, tâm không thấy đầy đủ và chán nản, thường muốn thuyết pháp rộng rãi, tâm chí không mệt mỏi, đánh trống pháp dựng cờ pháp, chiếu soi mặt trời trí tuệ, xua tan ngu si tăm tối.

Các vị ấy tu sáu pháp hòa kính
(131), thường làm vị thầy dẫn đường, làm ngọn đèn sáng cho thế gian, làm ruộng phước tối thắng an ổn quần sinh, thành tựu công đức thù thắng, ai cũng tôn trọng, cung kính cúng dường vô lượng chư Phật, thường học chư Phật cùng chung khen ngợi, tu tập rốt ráo các pháp Ba la mật của Bồ tát, xa rời địa vị Thanh văn, Duyên giác".

Đức Phật bảo A Nan:

- Các vị Bồ tát do niệm Phật nên thành tựu vô lượng công đức như thế. Ta chỉ nói sơ lược với ông, nếu nói rộng ra, dù trải qua ức kiếp cũng không cùng tận.

  • CHÚ THÍCH:
(123) Thất giác chi: Bảy Bồ đề phần, là nhóm thứ sáu trong ba mươi bảy Bồ đề phần, gồm có:
  • a. Trạch pháp: Phân tích, biết phân biệt đúng sai.
    b. Tinh tấn.
    c. Hỷ: Tâm hoan hỷ.
    d. Khinh an: Tâm thức khinh an, sảng khoái.
    e. Niệm: Tỉnh giác.
    f. Định: Sự tập trung lắng đọng.
    g. Xả: Lòng buông xả, không câu chấp.
(124) Bát chánh đạo: Là tám con đường chánh để giải thoát khỏi khổ, là chân lý cuối cùng của Tứ Diệu Đế Bát chánh đạo là một trong ba mươi bảy Bồ đề phần hay ba mươi bảy giác chi. Bát chánh đạo gồm có:
  • a. Chánh kiến: Gìn giữ một quan niệm xác đáng về Tứ Diệu Đế và giáo lý vô ngã.

    b. Chánh tư duy: Suy nghĩ hay có một mục đích đúng đắn, suy xét về ý nghĩa của bốn chân lý một cách không sai lầm.

    c. Chánh ngữ: Không nói dối hay không nói phù phiếm.

    d. Chánh nghiệp: Tránh phạm giới luật.

    e. Chánh mạng: Tránh các nghề nghiệp liên quan đến sát sanh (giết hại sinh vật) như đồ tể, thợ săn, buôn vũ khí, buôn thuốc phiện.

    f. Chánh tinh tấn: Phát triển nghiệp tốt, diệt trừ nghiệp xấu.

    g. Chánh niệm: Tỉnh giác trên ba phương diện thân, khẩu, ý.

    h. Chánh định: Tập trung tâm ý, đạt bốn định xuất thế gian.
(125) Ngũ nhãn: Chỉ cho năm loại mắt. Tức là:
  • a. Nhục nhãn: Mắt của người phàm tục.
    b. Thiên nhãn: Mắt của người ở cõi Sắc nhờ tu thiền định mà đạt được. Mắt này có khả năng thấy biết hết mọi thứ xa gần, trước sau, trong ngoài, trên dưới, ngày đêm...
    c. Tuệ nhãn: Mắt này có thể thấy rõ chân không vô tướng, tức là thấu suốt hét thảy hiện tượng đềulà không tướng, định tướng.
    d. Pháp nhãn: Mắt của Bồ tát. Mắt này thấy được tất cả các pháp môn.
    e. Phật nhãn: Mắt Phật. Mắt này có đủ công năng của cả bốn loại mắt trên, thấu suốt hết thảy mọi pháp, không có gì mà chẳng thấy biết.
Trong Thiên Thai tông cho rằng Nhục nhãn, Thiên nhãn, Tuệ nhãn, Pháp nhãn thuộc nhân vị. Phật nhãn thuộc quả vị. Lại tùy theo bốn giáo Tạng, Thông, Biệt, Viên mà nghĩa của ngũ nhãn đều khác. Mật giáo thì cho rằng ngũ nhãn không có hơn kém khác nhau, nhưng đặc biệt coi trọng Phật nhãn và Phật cách hóa Phật thân, gọi là Phật nhân tôn.

(126) Chân đế: Cũng gọi là Thắng nghĩa đến, Đệ nhất nghĩa đế. Chỉ cho chân lý xuất thế gian.

(127) Tục đế: Cũng gọi là Thế tục đế, Thế đế, chỉ cho chân lý thế gian.

(128) Ni câu luật: Tên khoa học là Jicus Indica. Một loại cây thuộc họ dâu, hình dạng giống cây dong, thường mọc ở Ấn Độ, Tích Lan, cao từ mười mét đến mười lăm mét. lá hình tròn đầu dài mà nhọn. Nhánh của nó rũ xuống tận gốc thảnhễ phụ, cành lá xum xuê nhưng hạt lại rất nhỏ, nên kinh điển Phật giáo thường dùng nó để dụ cho "Nhân" tuy nhỏ nhưng "quả" lại rất lớn.

(129) Hoa Ưu bát la: Còn gọi là Ô đàm bát la hoa, Ưu đàm ba hoa, Ổ đàm bát la hoa, Ưu đàm hoa, Uất đàm hoa.

Thực vật ẩn hoa thuộc họ cây dâu, sống dưới chân núi Hymalaya, cao nguyên Deccan và Sri Lanca. Thân cây cao hơn ba mét, lá có hai loại: Loại thứ nhất trơn và phẳng, loại thứ hai thô nhám, đều dài từ mươi đến mưới tám phân, đầu nhọn hơi dài. Có hoa đực hoa cái khác nhau. Loại có đài hoa lớn thì như nắm tay, còn loại nhỏ bằng ngón tay cái, kết thành chùm hơn mười hoa, mọc trên thân cây, tuy ăn được nhưng vị không ngon.

Theo Huệ Lâm Âm Nghĩa 8, loại hoa này do điềm lành chiêu cảm, là loại thiên hoa, thế gian không có. Nếu Như Lai hạ sanh thì nhờ năng lực đại phước đức của ngài mà chiêu cảm loại hoa này xuất hiện. Vì loại hoa này ít có, khó gặp, nên trong các kinh điển Phật giáo có rất nhiều chỗ dùng hoa này dụ cho việc khó gặp Phật ra đời. Như kinh Vô Lượng Thọ, thượng (Đại 22, 266 hạ) ghi: "Vô lượng ức kiếp khó gặp khó thấy, giống như linh thoại đúng thời mới xuất hiện". Vì loại hoa này ẩn trong đài hoa lõm hình cái bình, cho nên thường bị nhận lầm loại thực vật không có hoa, do đó mà sinh ra các truyền thuyết.

Ở Ấn Độ, từ thời Phệ Đà đến nay, người ta thường dùng lá thô của cây này để làm mộ ha mộc, tức là làm củi đốt khi cúng tế. Trong Phật giáo, cội Bồ đề thành đạo của bảy đức Phật quá khứ đều khác nhau. Ưu đàm ba la thụ là cây Bồ đề thành đạo của đức Phật năm Câu Na Hàm Mâu Ni Như Lai.

(130) Từ Thị: Người có lòng từ, hay Di Lặc, là cách phiên âm, cũng có tên khác là Vô Năng Thắng, phiên âm Hán Việt là A Đạt Đa, là một vị Bồ tát và cũng là vị Phật cuối cùng sẽ xuất hiện trên trái đất. Trong phật giáo Tây Tạng, Bồ tát Di Lặc được thờ cúng rất rộng rãi. Cõi giáo hóa của Bồ tát hiện nay là trời Đâu Sất. Theo kinh điển, Bồ tát Di Lặc sẽ đản sanh trong khoảng 30.000 năm nữa.

(131) Sáu pháp hòa kính (The six points of harmony or unity in a monastery or convent): Nếu viết đầy đủ là lục hòa kính, bao gồm:

  • a. Thân hòa đồng trụ (Body unity in form of worship): Cùng là người tu hành, cùng thờ Phật, nên tương kính nhau.
    b. Khẩu hòa vô tranh (Oral uinty in chanting): Cùng học và thi hành giáo pháp của đức Phật, nên nói hòa kính nhau.
    c. Ý hòa đồng duyệt (Mental unity i faith): Chung một tôn chỉ là giải thoát nên ý là một.
    d. Giới hòa đồng tu (Moral unity in observing the commandments): Cùng tu chung với nhau theo giới luật.
    e. Kiến hòa đồng giải (Doctrinal unity in views and explainations) Cùng một cách nhìn về thế giới và con người.
    f. Lợi hòa đồng quân (Economic unity in community of of goods, deeds, studies or charity): Được cúng dường mọi thực phẩm và vật dụng, cùng nhau thọ nhận.
Chương 2
TIẾN TU THÁNH QUẢ Ở TỊNH ĐỘ

Kinh Vô Lượng Thọ nói: "Những người niệm Phật sanh về Tịnh Độ rồi, liền vào trong ao thất bảo, tắm gội thân thể trong sạch, gột rửa tình lự, ai nấy đều ngồi trên hoa sen, tự nhiên gió nhẹ thổi đến, các hàng cây báu phát ra âm thanh vi diệu, rải các loại hoa quý báu, hương là ngào ngạt, đều làm Phật sự. Người nghe vui thích vô lượng, tự nhiên tâm khai mở, tiến bước trên con đường tu hành.

Có những người ở dưới đất giảng kinh, tụng kinh, thuyết kinh, truyền kinh, nghe kinh, đọc kinh, suy xét đạo lý, nhất tâm tọa thiền, đi kinh hành. Có người ở trên hư không giảng kinh, tụng kinh, thuyết kinh, truyền kinh, đọc kinh, suy xét đạo lý, nhất tâm tọa thiền, đi kinh hành.

Trong cõi Cực Lạc, các vị đệ tử Thanh văn đều phát tâm rộng lớn. Có vị chưa đắc quả Thánh, nhân đó mà đắc quả Thánh. Có vị chưa được bậc Bất thối chuyển, nhân đó bước lên bậc Bất thối chuyển. Tùy theo tư chất của mình mà ai nấy đều có sở đắc, đều rất vui vẻ thích ý, được du hý Tam muội, làm lợi ích cho các loài hữu tình. Do tâm niệm Phật kiên cố, xưng tán bản nguyện của Phật Di Đà, nên những Phật tử vãng sanh đều được xếp vào hạng này. Trí tuệ biện tài vô ngại, thần thông như ý, tợ đi thuyền thuận buồm xuôi gió, mau chứng Bồ đề, vượt qua muôn kiếp luân hồi, chư Thiên đều kính trọng
".

Tịnh nghiệp thù thắng, quả báo rộng lớn rõ ràng. Thế nên, nay tôi nhắn nhủ cùng những người đồng tu không nên quên việc này. Bò, bay, máy, cựa cũng đều có phần, bậc đại trượng phu phải nên gắng sức!

Chương 3
BA MƯƠI SỰ LỢI ÍCH CỦA TỊNH ĐỘ

Tịnh Độ Quần Nghi của Đại sư Hoài Cảm nói: "Người sanh về Tây phương có ba mươi điều lợi ích:
  1. Vãng sanh cõi Phật.
  2. Được niềm vui pháp lớn.
  3. Thân cận chư Phật.
  4. Trải qua mười phương cúng dường chư Phật.
  5. Tận tai nghe Phật thuyết pháp.
  6. Tư lương phước tuệ nhanh chóng tròn đầy.
  7. Mau chứng đạo Bồ đề.
  8. Các Trời, người cùng hội tụ một nơi.
  9. Không thối chuyển.
  10. Vô lượng hạnh nguyện tăng tiến.
  11. Chim Anh vũ, Xá lợi tuyên dương pháp âm.
  12. Gió thổi hàng cây tấu diễn thiên nhạc.
  13. Nước xoáy châu Ma Ni diễn thuyết pháp khổ, không.
  14. Tiếng nhạc tấu diễn âm thanh vi diệu.
  15. Bốn mươi tám nguyện của Phật nhiếp thọ.
  16. Thân sắc vàng ròng.
  17. Thân không xấu xa thấp hèn.
  18. Đầy đủ sáu thứ thần thông.
  19. Thường ở nơi chánh định tụ.
  20. Không có các điều bất thiện.
  21. Thọ mạng lâu dài.
  22. Y phục và ẩm thực tự nhiên hóa hiện.
  23. Chỉ thọ hưởng những điều vui.
  24. Được ba mươi hai tướng tốt(132).
  25. Thật không có người nữ.
  26. Không có Tiểu thừa.
  27. Lìa khỏi tám nạn.
  28. Được ba pháp nhẫn(133).
  29. Thân thường có ánh sáng.
  30. Thân được sức mạnh kiên cố như Kim cang.
Như thế thật đáng gọi là:
  • Khắp nơi đường Bồ đề
    Sáng ngời rừng công đức.


    CHÚ THÍCH:
(132) Ba mươi hai tướng tốt: Gồm có:
  1. Bàn chân bằng thẳng.
  2. Chỉ dưới bàn chân có tướng bánh xe ngàn căm.
  3. Ngón tay dài, trước đầu ngón tay nhỏ và nhọn.
  4. Tay, chân đều mềm dịu.
  5. Trong kẽ tay, kẽ chân có da mỏng như giăng lưới.
  6. Gót chân tròn đầy.
  7. Trên bàn chân nổi cao đầy đặn.
  8. Bắp vế tròn như bắp chuối.
  9. Khi đứng hai tay dài quá gối.
  10. Năm căn ẩn kín.
  11. Thân hình cao lớn và cân phân.
  12. Những lỗ chân lông thường ánh ra sắc xanh.
  13. Những lông trên mình uốn về bên phải.
  14. Thân thể sáng chói như vàng thắm.
  15. Quanh mình thường có hào quang chiếu ra.
  16. Da mỏng và mịn.
  17. Lòng bàn chân, bàn tay, hai vai và trên đảnh, bảy chỗ ấy đầy đặn.
  18. Hai nách đầy đặn.
  19. Thân thể oai nghiêm như sư tử.
  20. Thân thể vuông vắn ngay thẳng.
  21. Hai vai tròn trịa cân phân.
  22. Bốn mươi cái răng.
  23. Răng trắng trong đều nhau và khít.
  24. Bốn cái răng nanh lớn hơn.
  25. Gò má nổi cao như hai mép của sư tử.
  26. Nước miếng đủ chất thơm ngon.
  27. Cái lưỡi rộng dài, mềm mỏng, khi le ra đến chân tóc.
  28. Giọng nói thanh nhã nghe xa như giọng nói của đức Phạm thiên.
  29. Con mắt xanh biếc.
  30. Lông mi dài đẹp.
  31. Có chòm lông trắng thường chiếu sáng, mọc giữa hai chặn mày.
  32. Trên đỉnh đầu thịt nổi cao như một búi tóc.
(133) Tam pháp nhẫn: Cũng gọi là Tam nhẫn. Tam pháp nhẫn có ba loại nhẫn.

Nhẫn nghĩa là thể ngộ, nhận thức sự lý mà tâm được an.
  • a. Âm hưởng nhẫn: Cũng gọi là tùy thuận âm thanh nhẫn, Sinh nhẫn: lắng nghe giáo pháp mà tâm được an. Đây là giai vị Thập tín, nhờ nghe pháp âm mà liễu ngộ nên gọi là Âm hưởng nhẫn.

    b. Nhu thuận nhẫn: Cũng gọi là tư duy nhu thuận nhẫn, Nhu thuận pháp nhẫn: nhờ sự tư duy của chính mình mà được liễu ngộ và tùy thuận chân lý. Đây là giai vị Tam hiền, hàng phục các hoặc nghiệp, khiến sáu trần vô tánh không sanh ra được, cho nên gọi là Nhu thuận nhẫn.

    c. Vô sanh pháp nhẫn: Cũng gọi là tu tập vô sanh nhẫn, Vô sanh nhẫn: khế hợp chân lý, tức Thất địa trở lên, lìa tất cả các tướng mà chứng ngộ thực tướng.

    Trong Vô Lượng Thọ Kinh Ký quyển thượng, ngài Huyền Nhất đời Đường đem Tam nhẫn phối hợp với Tam tuệ: nhờ được nghe âm giáo mà có Âm hưởng nhẫn là Văn tuệ; nhờ tùy phần điều phục tâm mà có Nhu thuận nhẫn là Tư tuệ; nhờ quán xét chứng lý Vô sanh mà có Vô sanh nhận là Tu tuệ.

    Lại trong Vô Lượng Thọ Kinh Sao quyển 5, vị tăng người Nhật Bản là Liễu Huệ, có dẫn lời giải thích của ngài Nghĩa Tịch, người nước Tân La về Tam nhẫn như sau:

    • a. Ảnh hưởng nhẫn: Nếu nghe pháp chân thật mà không kinh nghi sợ hải, lại tin hiểu thọ trì, ưa thích thuận theo, tu tập an trụ, thì đó là Tùy thuận âm hưởng nhẫn bậc nhất. Đây là lời giải thích của phẩm Thập nhẫn

      b. Tùy thuận nhẫn: Bồ tát tùy thuận tịch tĩnh quán xét tất cả các pháp, bình đẳng chánh niệm, không trái nghịch các pháp, dùng tùy thuận vào sâu tất cả các pháp, dùng trực tâm thanh tịnh phân biệt các pháp, tu bình đẳng quán và thâm nhập đầy đủ, đó là thuận nhẫn thứ hai, gọi là Tùy thuận nhẫn.

      c. Vô sanh pháp nhẫn: Bồ tát không thấy có pháp sanh, không thấy có pháp diệt; nếu không sanh thì không diệt, không diệt thì không hết, không hết thì lìa cấu, lìa cấu thì không hoại, không hoại thì chẳng động, chẳng động thì vắng lặng, đó là Vô sanh pháp nhẫn.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chương 4
THÀNH PHẬT NƠI TỊNH ĐỘ

Từ định Kim Cang trở về sau thì nhân của Bồ tát được viên mãn. Trong đạo giải thoát, quả vị Như Lai tròn đầy, đầy đủ bốn vô lượng tâm, bốn biện tài vô ngại(134), mười tám pháp bất cộng(135), mười lực(136) của Nhị thừa hiện tiền, thuyết pháp không sợ sệt, dứt hết trần sa hoặc(137), thành tựu công đức vạn hành, đầy đủ mười hiệu(138), ba thân hiển bày trọn vẹn, viên mãn chín mươi bảy tướng đại nhân, phóng ra tám vạn bốn ngàn ánh sáng, bi trí dung thông, phước tuệ đầy đủ, thị hiện nơi mười cõi Báo độ139), hay tùy muôn loài mà hóa thân, bủa mây từ rộng lớn, rưới mưa pháp khắp cùng, chan hòa pháp giới chúng sanh đều tỏ ngộ bản tâm, đồng thành tựu đạo giác ngộ chân chánh.

Tuyển Phật nếu không có mắt như thế, tông phong sao được đến ngày nay!
  • CHÚ THÍCH:
(134) Bốn biện tài vô ngại: Sự thông suốt không có ngăn ngại trong việc giảng giải. Bốn pháp vô ngại giải ấy là:
  • a. háp vô ngại giải: Là sự diễn đạt thông suốt các pháp.
    b. Nghĩa vô ngại giải: Là các ý nghĩa được trình bày, giải thích một cách rộng rải, không sai lầm.
    c. Từ vô ngại giải: Là sự dùng từ để diễn đạt pháp rất thông suốt, không lẫn lộn.
    d. Biện vô ngại giải: Là sự thông suốt, lưu loát trong sự biện bác.
(135) Mười tám pháp bất cộng: Bồ tát cùng Thanh văn, Duyên giác không có, riêng Phật có mười tám pháp này:
  1. Thân không lỗi.
  2. Miệng không lỗi.
  3. Niệm không lỗi.
  4. Không có tâm tưởng khác.
  5. Không có tâm bất định.
  6. Không có tâm không biết.
  7. Sự muốn không giảm.
  8. Tinh tấn không giảm.
  9. Niệm không giảm.
  10. Huệ không giảm.
  11. Giải thoát không giảm.
  12. Giải thoát tri kiến không giảm.
  13. Tất cả thân nghiệp theo trí tuệ mà hành động.
  14. Tất cả khẩu nghiệp theo trí tuệ mà hành động.
  15. Tất cả ý nghiệp theo trí tuệ mà hành động.
  16. Trí tuệ biết đời vị lai không ngại.
  17. Trí tuệ biết đời quá khứ không ngại.
  18. Trí tuệ biết đời hiện tại không ngại.
(136) Mười lực: Chỉ cho mười trí lực của Như Lai.

(137) Trần sa hoặc: Lấy bụi cát để ví dụ sự mê lầm trong tâm của chúng sanh nhiều vô số. Cho nên Bồ tát phải học các pháp Phật nhiều như cát sông Hằng mới phá trừ được những mê lầm (hoặc) này.

(138) Mười hiệu: Mười danh hiệu của một vị Phật, thường được nhắc đến trong những bài Kinh, Luận:
  1. Như Lai: Người đã "đến như thế" hoặc "người đã đến từ cõi chân như".
  2. A la hán: Dịch nghĩa là Ứng cúng, người đáng được cúng dường, đáng được tôn kính.
  3. Chánh biến tri: Dịch theo âm là Tam miệu tam Phật đà, người hiểu biết đúng tất cả các pháp.
  4. Minh Hạnh Túc[/i]: Người có đủ trí tuệ và đức hạnh.
  5. Thiện Thệ: Người đã đi một cách tốt đẹp.
  6. Thế gian giải: Người đã thấu hiểu thế giới.
  7. Vô thượng sĩ: Đấng tối cao không ai vượt qua.
  8. Điều ngự đại trượng phu: Người đã điều chế được mình và nhân loại.
  9. Thiên, Nhân sư: Bậc thầy của cõi người và cõi trời.
  10. Phật, Thế Tôn: Bậc giác ngộ được thế gian tôn kính.
(139) Mười cõi Báo độ: Năm báo độ cộng với năm ứng độ thành mười độ. Báo độ là cõi nước (đất nước) do tự nghiệp của chúng sanh chiêu cảm, có năm loại khác nhau là Tịnh độ, Bất tịnh độ, Bất tịnh tịnh độ, Tịnh bất tịnh độ và Tạp độ. Vì Phật đã sách hết hoặc nghiệp cả trong lẫn ngoài ba cõi, nên không có cõi nước, nhưng Phật vào cõi nước quả báo của chúng sanh để hóa độ, cho nên gọi là ứng độ. Lại vì báo độ có năm loại nên ứng độ cũng theo đó mà có năm loại, cộng thành mười độ.
LIÊN TÔNG BẢO GIÁM
QUYỂN MƯỜI

THIÊN THỨ MƯỜI
CHÁNH LUẬN NIỆM PHẬT
Người vâng theo pháp niệm Phật, tức đã được nhờ ân đức của bậc Pháp vương. Làm sứ giả của Như Lai phải lấy việc phá tà hiển chánh, bài xích điều ác, khen ngợi việc lành, làm gương mẫu cho hậu học, làm mắt sáng cho muôn loài, đó là trách nhiệm của chính mình. Nếu chẳng thể lặng lẽ tự giữ gìn thì chỉ là người ngồi không hưởng lộc trong cửa Phật. Như thế, tuy có giảng thuyết, truyền trao nhưng cũng chẳng làm được gì. Đâu chẳng nghe, nhân lờ mới được cá, thể hội giáo lý rồi sau mới tu hành. Danh tướng và giáo lý chưa được chân chánh thì làm sao thực hành? Cho nên không thể không bàn luận. Do vậy, Khổng Tử làm chánh trị tức là làm ngay thẳng những điều không ngay thẳng; lời di giáo của Phật lúc nhập Niết Bàn, cấp thiết ở chỗ sửa đổi sai lầm.

Tôi từng xét, đức Thế Tôn diễn tả chỗ không hình tướng, nói bàn về chỗ không ngôn ngữ, để giúp chúng sanh trở về bản tánh. Do đó, Đốn giáo, Tiệm giáo, Đại thừa, Tiểu thừa tràn đầy nơi Hải Tạng ở Long cung, đều là ý chỉ phá tà hiển chánh, bài xích điều ác, khen ngợi việc lành. Tất cả chúng sanh khắp nơi vâng theo sự giáo hóa của ngài mà trở về bản tánh, nhiều không tính kể.

Trong đó chỉ riêng khen ngợi Tây phương, bảo rằng con đường tu hành thẳng tắt. Bởi lẽ, Phật A Di Đà có nguyện lực rộng lớn, thâu nhiếp chúng sanh nơi Ta bà dẫn về cõi Tịnh, khiến họ bỏ giả dối mà chứng nhập vào chỗ chân thật. Do đó, chư Phật cùng khen ngợi, Bồ tát đồng tuân theo; Tổ Huệ Viễn sáng lập Liên Xả cùng tu hành, vẻ đẹp nghìn xưa không phai mờ; ngài Từ Chiếu thì biên tập Sám Văn, vì thế sự giáo hóa chân chánh được lưu thông khắp mười phương. Con đường Tịnh Độ thật là rộng lớn thay! Lấy Phật A Di Đà tức là bản tánh làm thể, lấy Tịnh Độ tức là Duy tâm làm tông, lấy nhân từ tức là bỏ ác tu thiện làm dụng. Ba điều ấy vốn hiển bày sự báo ứng trong ba đời mà chế định ra. Nhất tâm rỗng lặng thấu suốt tột cùng đạo lý này, khiến cho người thấu rõ đạo lý, bỏ vọng tin việc này để trở về điều lành, lấy đây làm lời ích cho người trên kẻ dưới. Như thế, thật là trợ giúp giáo lý của Chu Công(140) và Khổng Tử, hỗ trợ cho việc giáo hóa của nhà vua, công ấy rất là to lớn. Nếu khiến cho một người có thể thực hành đạo này, rồi dạy bảo cả nhà, nhà lại dẫn dắt làng xóm, làng xóm lại truyền bá cả nước khiến đến vô cùng thì mọi người dân trong thiên hạ đều thấm nhuần đạo đức, dung hội tinh thần nơi thật tướng, không bao lâu sẽ tiến đến cảnh giới Phật, đâu chỉ trở thành thiện nhân quân tử rồi sao! Như thế, còn lo gì trung hiếu không tu tập, lễ nghĩa chẳng sáng tỏ? Lấy đó mà xét, há chẳng phải đạo của bậc Năng Nhân và đạo của Khổng Tử cùng làm trong ngoài hỗ trợ nhau để giáo hóa mọi người hay sao? Đến như các triều đại cũng vì tôn kính mà mở rộng giáo lý này. Thời tượng pháp phụng sự chẳng đúng người, mở rộng giáo lý thì tệ hại dối trá phát sinh; phụng sự chẳng đúng người thì sự thuần phát tiêu mất. Họ bèn lấy chùa to Phật lớn để khoe khoang xa xỉ, lấy tiếng tăm danh lợi no ấm đẻ làm tài năng. Chỉ lấy số nhiều làm quý thì những kẻ khiến đạo này bại hoại cũng không ít. Cho lời nói quái lạ là hay thì ắt làm mê lầm những người nghe rất nhiều; lần lượt họ noi theo, bèn trở thành thấp hèn. Ngày lại qua ngày, đỏ tía lẫn lộn, khiến cho vẻ đẹp thanh tịnh của nhân từ rộng lượng tiêu tan hết cả, do vậy mới có nhiều lời chê bai nhạo báng, những hạng người này như tầm ăn mọt khoét. Đó là lỗi lầm của những người tôn kính và phụng sự một cách sai trái, chẳng phải lỗi của giáo pháp. Người nay phần nhiều không xét nguyên do, thấy các đồ đệ không ra gì thì phẫn nộ đối với giáo pháp của bậc thiện nhân. Cũng nào có lạ gì, như vì Đan Chu mà trách tội vua Nghiêu, do Thương Quân mà trách lỗi vua Thuấn(141), uống thuốc quá độ rồi quy lỗi cho Thần Nông, bỏ lửa cháy lan trở lại trách người trao đuốc.

Kẻ ngu này là người chẳng xu nịnh, có học tập Phật đạo đôi phần, đã lãnh hội sơ lược ý chỉ, có tâm nâng đỡ sự suy tàn, chẳng dám riêng tư cho mình, chỉ vì lợi ích chung cho mọi người để cứu điều tệ hại.

Từng bảo rằng, sự lợi hại của giáo môn có bốn điều:

1. Sự truyền thọ của thầy không rõ ràng, tà pháp mạnh mẽ làm mất chỗ chân thật.

2. Không thực hành giới pháp, cương thường rối loạn mà phạm giới cấm.

3. Giáo lý chưa rõ, luận bàn sai lầm trái nghĩa làm mê hoặc mọi người.

4. Không tu hạnh nguyện, mê muội đi vào lối tà, rơi trong đường ma.

Do đó, sửa đổi tên gọi rối loạn, làm mù điếc kẻ hậu học, gây ra nhiều mối hại, thật đáng thương tâm! Từ đó, những kẻ lạm dụng, một truyền mười, mười truyền trăm, trăm truyền ngàn, lưu bố chất độc khắp cả đất nước, nhanh chóng như dùng ngựa truyền tin tức. Tại sao biết như thế? Vì thuyết chân chánh khó thực hành, thói tà vạy dễ tiêm nhiễm, đó là lẽ tự nhiên.

Than ôi! Đạo của Tổ sư đã không truyền từ lâu, mà muốn mọi người không mê lầm rất khó. Tôi tuy không minh mẫn, nhưng thật có tâm thương xót. Suy tư muốn phân tích nghĩa lý, chia chẻ rõ ràng, trình bày đầy đủ rộng rãi những điều đã nghe thuở trước, cát đứt tà ngụy, nối tiếp chánh chân, khai mở cho hàng hậu học. Nhưng hận vì không có trí tuệ biện tài, chỉ theo cái nhìn nhỏ hẹp. Do đó, nhất tâm trai giới, thành kính Tam Bảo, thưa hỏi tìm cầu đại giáo, tham khảo lời lẽ diệu huyền, theo khuôn phép để xác định chánh tông phá trừ các dị thuyết, gom lại viết thành chánh luận của pháp niệm Phật, chia chẻ chứng minh lời nói mẫu mực của Phật Tổ, tuyên cáo khắp các nơi đều bước lên con đường giác ngộ. Mong làm cho Thánh giáo bị ẩn lấp nay được sáng tỏ ra, chúng sanh tội lỗi trở lại được phước.

Có người khách đến hỏi:

- Tu hành để thấu rõ sự sanh tử của chính mình, cần gì luận bàn sự hay dở của người khác?

Tôi đáp:

- Lý không phải như thế! Đâu chẳng nghe Như Lai ra đời dùng pháp nào cũng vì lợi ích chúng sanh, Bồ tát nguyện tu hành, mảy may đâu vì chính mình. Phật tử biểu hiện đồng như ngoại đạo là vì phương tiện chuyển hóa tâm tà của người khác. Mười loại dân ma trong kinh Lăng Nghiêm đều do sự hiểu biết sai lầm. Mười loại nghiệp ma trong kinh Hoa Nghiêmlà để chỉ rõ con đường chân chánh.

Than ôi! Sự tu hành tà vạy đều từ cái thấy sai lầm, nên tự cam tâm nơi con đường nguy hiểm. Gặp cảnh giới này lẽ nào ngậm miệng không lời, nghĩ họ ngu si đâu nên ngồi nhìn sa đọa. Huống chi Thế Tôn từ bi phó chúc, lưu lại đại nguyện cứu tế khắp cả người mê; Bồ tát y theo chánh pháp tu hành, thị hiện đồng sự giáo hóa khiến họ thành Phật. Đó là hạnh nguyện căn bản, lại còn nghi ngờ gì nữa!

Nếu như thấy người lạc lối mà không chỉ dẫn con đường chân chánh thì lòng từ bi đặt để nơi nào? Gặp kẻ đắm chìm mà không lo nghĩ cứu vớt thì phương tiện ở nơi đâu?

Thuận theo chánh pháp, phá dẹp tà ma, đó là việc làm của bậc đại trí ?Vô thượng; điều phục chúng sanh vào nơi chánh đạo, đó là chỗ chư Phật giữ gìn. Thệ nguyện xả bỏ thân mạng, dựng lập tông chỉ chân chánh, quyết chẳng vì mình mà lãng quên lời di chúc của Phật. Chúng sanh tuy hết mà lòng từ bi càng thêm kiên cố, hư không dẫu tan nát, nguyện tôi vẫn không cùng. Nếu gặp bậc hiền có trí thức, tất có thể giúp hoằng truyên đạo này.

Như thế, thật đáng gọi là:
  • Đem thân tâm phụng sự thế giới
    Đó mới là đền đáp ân Phật.


    CHÚ THÍCH:
(140) Chu Công: Tên thật là Cơ Đán, thực chất là tước phong của Chu Vũ Vương (Cơ Phát) cho em trai mình là Cơ Đán, sau khi giúp nhà Chu (1122-156 trước Công nguyên) dành quyền thống trị Trung Hoa từ tay nhà Thương. Sau khi Chu Vũ Vương chết (sau một thời gian trị vì ngắn ngủi), Cơ Đán đã giúp cho con của Chu Vũ Vương là Chu Thành Vương xây dựng và phát triển nhà Chu thành một nước mạnh mẽ và có công xây dựng nền văn hóa Trung Hoa rực rỡ trong quá khứ. Công lao to lớn của Cơ Đán với sự phát triển văn hóa Trung Hoa khiến người ta gọi ông bằng chức vụ Chu Công (quên đi cái tên Cơ Đán), khiến nhiều người lầm tưởng Chu Công là tên thật của ông.

(141) Trong kinh Duy Ma Kinh Lược Sơ Thùy Dụ Ký nói: "Bậc Thánh như vua Nghiêu, vua Thuấn, Chu Công mà có con thấp hèn như Đan Chu, Thương Quân, bất nhân như Quản Thúc, Thái Húc. Lẽ nào Nghiêu, Thuấn, Chu Công lại dạy dỗ không đến nơi đến chốn hay sao?"
Chương 1
NÓI VỀ BẢN TÁNH CHÂN NHƯ
Bản tánh chân như là tâm thể chân thật không giả dối trước khi cha mẹ sinh ta, gọi là gương mặt xưa nay. Thiền tông gọi là chánh pháp nhãn tạng. Liên tông goi là bản tánh Di Đà, Khổng Tử gọi là Thiên lý, Kinh Dịch gọi là Thái cực. Tên tuy có khác nhưng thật ra đồng một bản tánh chân như. Tánh này rỗng rang mà sáng suốt, lặng lẽ mà nhiệm mầu, cùng chung cội gốc với trời đất vạn vật, trải qua muôn kiếp vẫn không tan hoại, thế giới vỡ nát nhưng bản tánh chẳng đổi dời.

Con người không thể nhận lấy bản tánh chân như này, lại bị buộc ràng nơi thể chất hòa hợp của đất, nước, gió, lửa, nên thọ nhận thân hình. Đã là máu thịt trược khí thì mờ mịt nơi tâm thể thanh tịnh bản nhiên, đến khi sanh ra lại bị ngũ dục lục trần làm si mê điên đảo, mê muội nơi tánh thiên chân(142) sẵn có. Do đó, đức Phật nói tám vạn bốn ngàn pháp môn đều là dẫn dắt mọi người bỏ vọng về chân. Song, pháp thẳng tắt dễ thực hành chỉ có một môn niệm Phật. Người tu pháp này, tâm không tán loạn, chánh định hiện tiền, đó là trở về bản tánh.

Nay, có một hạng người không cứu xét đạo lý, lại đem pháp tu dưỡng của đạo môn, mạo danh lạm xưng là Liên tông. Nói bừa khí là chủ nhân, dạy người chuyển tinh vận khí, lao nhọc gân cốt, dụng thân tâm một cách uổng phí, cam chịu đau khổ mà rốt cuộc chẳng được gì.

Tôi từng sem Trương Tử Dương nói về tinh, khí, thần của đạo môn, vốn là nguyên tình, nguyên khí, nguyên thần vốn có trước trời đất. Nguyên tình chẳng phải là tính của dâm dật, nguyên khi chẳng phải là khí nơi hô hấp, nguyên thần chẳng phải là thần nơi suy nghĩ. Kẻ ngu không hiểu rõ ý này gọi là chậu là chuông. Mắt đã không sáng thì lý chẳng thấu đạt, dụ dỗ những người có lòng tin, một mực tạo tác ở trên đãy da hôi thối, mê muội đối với Phật tánh chân thật, nói càn đó là tu hành. Thật đáng buồn thay!

Nay tôi tuyên cáo với tất cả những người đồng tu, cần phải nên chính chắn cứu xét mà niệm Phật để tỏ ngộ nguồn chân. Nếu như tự mình thấy tỏ tường thì mỗi pháp mỗi pháp hiện tiền, đó gọi là thấy tánh thành Phật. Một niệm sai lầm, cách xa như trời với đất.
  • CHÚ THÍCH:
142) Thiên chân: Chân lý tự nhiên không do tạo tác.

Chỉ Quán Phụ Hành Truyền Hoằng Thuyết, quyển I (Đại 46, 143 hạ) nói: "Lý chẳng phải tạo tác nên gọi là thiên chân".


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chương 2
PHÂN BIỆT RÕ THÂN TÂM CHÂN VỌNG
Nói về thân thì có Pháp thân, có Sắc thân. Truyền Đại sĩ nói rằng: "Trí tỏ rõ cảnh chân thật, cùng tận pháp làm thân nên gọi là Pháp thân. Thân do cha mẹ sanh ra, hư huyễn không thân nên gọi là Sắc thân".

Nói về tam thì có chân tâm, vọng tâm. Chân tâm sáng suốt nhiệm mầu, rỗng rang linh thông, nên goi là chân tâm. Theo cảnh sanh diệt, chợt có chợt không nên gọi là vọng tâm. Tổ sư khuyên niệm Phật Tam muội, ở trong chân tâm của chính mình lưu xuất một câu A Di Đà, mỗi niệm mỗi niệm quán chiếu, mỗi pháp mỗi pháp dung thông, như thế gọi là: "Nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, ở trong một niệm thành tựu Phổ Hiện Sắc thân Tam muội".

Thời nay, có một hạng người chẳng biết chân vọng, nhận lầm sắc thân là ta, lấy vọng niệm làm cứu cánh. Phần nhiều là hít thở xoa bóp, làm dáng làm vẻ mà hy vọng thành đạo, không phải là sai lầm lắm sao! Thật đáng gọi là bỏ vàng ròng, lượm ngòi gạch.

Nói chung, người học đạo cần phải phân biệt rõ thật giả,, cho nên trong Tông Cảnh Lục nói: "Tu đạo lấy tâm làm tông, cần phải xét nét chính chắn đạo lý cứu cánh. Từ mặt hữu tình giới, chân vọng dường như phân chia, không thể cho là đồng nhau. Có người lạm dụng Viên Giác, vàng và khoáng đều đốt thì mới phân biệt thật giả, cát và gọa đều nấu thì sống chín khác nhau. Tam thừa mộ đạo, cái thấy có khác, lầm nhận vọng tâm làm chân thật. Vì như nhận giạc làm con, bị cướp hết tài sản; cho mắt cá là ly châu, làm mê mờ mắt trí huệ. Bèn khiến cho những kẻ ngu si rơi vào trùng quan khó thoát, những người tà hiểm chìm đẳmtong dòng sống kiến chấp, đùa giỡn trong căn nhà cũ mục rực lửa, quên khổ đau, quên mệt mỏi; nằm mộng lớn trong đêm dài mà chẳng biết lúc tỉnh. Mê tâm mê tánh đều do chấp vào suy nghĩ phan duyên làm tâm mình, bỏ quên chân tâm mà dính mắc vào nơi thinh sắc. Đó là lỗi lầm của phàm phu và ngoại đạo.

Hoặc có những người học giáo pháp, học Thiền tông, chấp vào phương tiện của Phật, như mắc vào lưới không thể thoát ra được. Năm thừa(143) đối với Bốn cơ(144), vượt qua một niệm hiện giờ mà chạy xa ba a tăng kỳ, luống công nhọc nhằn trong Đại kiếp(145). Rời Bảo sở ngưng trệ mãi nơi Hóa thành, mệt mỏi trên con đường dài xa. Đó là lỗi lầm mê muội đi theo vọng tâm, không thấu suốt chân tâm.

Bài Phú về tâm của thiền sư Vĩnh Minh nói:
  • Tánh chẳng tạo tác, Lý thật dung thông
    Người thấu rõ, ngay nơi động mà tĩnh
    Kẻ mê muội cho Tây là Đông
    Mặc biển cạn non dời, cũng chưa phải sức lực vô vi
    Dẫu đi mây đạp nước, đều là thần thông hữu lậu
    Phân biệt ngọc, cần phải rõ chân
    Tìm kiếm châu, nước nên lóng lặng
    Nếu hướng ngoại cảnh để tìm tâm
    Nào biết hoa đốm là do mắt nhặm
    Thuận Pháp giới tánh, thuận chân như tâm.
Như thế thì nhanh chóng vào biển đại từ bi của Như Lai. So với những kẻ dính mắc hình tướng và tu hành trên đãy da hôi thối, lẽ nào có thể cùng bàn luận được?
  • CHÚ THÍCH:
(143) Năm thừa:
  • a. Nhân thừa: Tức lợi ích thiết thực ngay trong đời này và cả đời sau.
    b. Thiên thừa: Tức giáo pháp dạy chúng ta tu để được sanh về cõi trời.
    c. Thanh văn thừa.
    d. Duyên giác thừa: Hai giáo pháp này đều dạy chúng ta tu để giải thoát sanh tử.
    e. Bồ tát thừa: Tức giáo pháp dạy chúng ta tu vừa lợi mình vừa lợi người, cuối cùng đều đi đến giác ngộ giải thoát.
(144) Bốn cơ: Bốn căn cơ:
  • a. Cơ Trời, Người: Không làm điều ác, thực hành các việc lành.
    b. Cơ Nhị thừa: Chán ghét sanh tử, ưa cầu Niết Bàn.
    c. Cơ Bồ tát: Trước làm lợi ích mọi người, từ bi nhân ái.
    d. Cơ Phật: Đối với tất cả các pháp quán xét lý Trung đạo thật tướng, chấm dứt mọi mê lầm, vượt khỏi sanh tử.
(145) Đại kiếp: Vốn là đơn vị thời gian rất dài của Bà la môn giáo ở Ấn Độ thời xưa. Về sau, Phật giáo dùng theo và coi đó là thời gian không thể tính toán được bằng năm tháng.
Chương 3
BIỆN MINH TAM BẢO
Trong giáo lý nói:
  • Các đức Phật mười phương
    Những kinh điểm viên mãn
    Tăng Đại thừa Bồ tát
    Công đức khó nghĩ bàn!
1. Đồng thể Tam Bảo nghĩa là lý chân như tự tánh bản giác, gọi là Phật bảo; đức dụng khuôn phép tự tánh chân chánh, goi là Pháp bảo; hòa hợp không tranh cãi, tự tánh thanh tịnh, gọi là Tăng bảo.

2. Xuất thế gian Tam Bảo: Nghĩa là Pháp thân, Báo thân và Hóa thân, tùy loại ứng hiện đó là Phật bảo; giáo nghĩa Lục độ, Tứ đế, Duyên sinh đó là Pháp bảo; Bồ tát Thập địa(146), Tứ hướng(147), Ngũ quả(148) gọi là Tăng bảo.

3. Thế gian trụ trì Tam Bảo: Nghĩa là tranh vẽ, hình tượng Phật, gọi là Phật bảo; kinh sách giáo lý gọi là Pháp bảo; những người cạo tóc, mặc áo nhuộm, gọi là Tăng bảo. Người trở về nương tựa Tam Bảo thì chư Thiên hộ trì; người cúng dường Tam Bảo, được phước điền vô lượng.

Nay có những kẻ ngu không hiểu, ngụy soạn kinh Chân Tông Diệu Nghĩa, nói càn: tinh là Phật bảo, khí là pháp bảo, thần là tăng bảo. Lần lượt truyền trao học tập, đến nỗi khiến cho những người lành tin theo tà thuyết này chẳng còn tôn kính Tam Bảo. Thật đáng thương xót!

Nếu như không tôn kính Thế gian Tam Bảo ắt tự mê muội tâm mình, đã tự mê muội tâm mình thì quên mất bản tánh, làm sao đạt được Đồng thể và Xuất Thế gian Tam Bảo? Tự dối gạt mình còn có thể, lại đi dối gạt người khác, đó gọi là: làm lầm lạc con đường chân chánh của Người và Trời, làm mù tối đôi mắt của Nhân Thiên, mê muội đối với giáo lý nhân quả chân thật, khiến lu mờ nếp tinh thuần Định Tuệ. Sự tai hại lỗi lầm không gì hơn điều này!

Đức Phật nói: "Tất cả chúng sanh nếu không trở về nương tựa Tam Bảo thì muôn kiếp rơi vào đường ác". Huống chi, ngài Từ Chiếu biên tập từ nơi kinh điển soạn thành Sám nghi, khiến cho người học y theo nghĩa lý vi diệu sâu xa trong kinh điển Đại thừa. Từ thân này cho đến lúc thành Phật, vì chúng sanh trong pháp giới trở về nương tựa Phật thường trụ, trở về nương tựa Pháp thường trụ, trở về nương tựa Tăng thường trụ. Người tốt có lòng tin chân chánh đã được nghe, nghe rồi đọc tụng lễ bái, cố nhiên tự tôn kính, tự tin tưởng. Ngay nơi tâm kính tin này, bắt đầu có thể gần gũi nơi Phật đạo.

Nếu thấy tất cả các tượng Phật, nên khởi ý tưởng là Như Lai, thấy tất cả kinh giáo nên sinh ý tưởng khó gặp gỡ, thấy tất cả Tỳ kheo nên khởi ý tưởng là Tổ sư. Phải nên lễ bái cúng dường không được xem thường, dùng sự trang nghiêm của Phật mà trang nghiêm mình, như thế Nhất thể Tam Bảo duy tâm đầy đủ.

Nếu như chấp vào cái thấy thấp kém, chẳng rõ cội gốc, vọng tin theo tà giáo, làm nghi ngờ lầm lạc người sau, tất tự chuốc lấy trầm luân chìm mãi trong nẻo ác. Đó là lỗi của ai?
  • CHÚ THÍCH:
(146) Thập địa: Mười giai vị Bồ tát nói trong kinh Hoa Nghiêm:
  1. Hoan hỷ địa: Giai vị mới lên bậc Thánh, liền sanh tâm hoan hỷ.
  2. Ly cấu địa: Giai vị lìa bỏ tâm sai lầm, phá giới, phiền não cấu.
  3. Minh địa: Giai vị nhờ thiền định mà được ánh sáng trí tuệ, tu Tam huệ văn, tư, tu khiến cho chân lý dần sáng tỏ.
  4. Diệm địa: Giai vị lìa bỏ kiến giải phân biệt của ba địa trước, dùng lửa trí tuệ thiêu đốt củi phiền não, nhờ đó mà giác ngộ được bản thể trí tuệ.
  5. Nan thắng địa: Giai vị đã được chánh trí nên khó có thể siêu xuất được nữa.
  6. Hiện tiền địa: Giai vị nghe Bát nhã Ba la mật, hiện tiền sinh khởi đại trí.
  7. Viễn hành địa: Giai vị tu hạnh Vô tướng, tâm tác dụng xa lìa thế gian. Giai vị này trên không còn Bồ đề để cầu, dưới không cầu chúng sanh để cứu độ, do đó mà chìm đắm trong Vô tướng tịch diệt, có cái lo không thể tu hành. Đây gọi là nạn Thất địa trầm không.
  8. Bất động địa: Giai vị không ngừng sanh khởi trí tuệ Vô tướng tuyệt đối, không bị phiền não làm lay động.
  9. Thiện huệ địa: Bồ tát dùng năng lực vô ngại để thuyết pháp, hoàn thành hạnh lợi tha, là giai vị mà tác dụng trí tuệ được tự tại.
  10. Pháp văn địa: Giai vị được đại Pháp thân, có năng lực tự tại.
(147) Tứ hướng: Hướng nghĩa là đang tiến lên, hướng tới quả vị, gồm: Tu đà hoàn hướng, Tư đà hàm hướng, A na hàm hướng và A la hán hướng.

(148) Ngũ quả: Năm quả vị. Chỉ cho bốn quả hữu vi, sáu nhân sanh ra và một quả vô vi nhờ đạo lực mà chứng được. Đó là:
  • a. Quả đẳng lưu: cũng gọi là quả Y, quả Tập.
    b. Quả Dị thục: Cũng gọi là quả Báo.
    c. Quả ly hệ: Cũng gọi là quả Giải thoát.
    d. Quả Sĩ dụng: Cũng gọi là quả Sỉ phu, quả Công dụng.
    e. Quả Tăng thượng
Trong năm quả trên, quả Ly hệ thuộc về quả vô vi, bốn quả còn lại thuộc quả hữu vi.
Theo luận Câu Xá, trong bốn quả hữu vi thì quả Đẳng lưu là từ hai nhân Đồng loại và Biến hành trong sáu nhân mà sanh ra; quả Dị thục thì từ nhân Dị thục mà ra; quả Sĩ dụng từ hai nhân Câu hữu và Tướng ứng mà ra; quả Tăng thượng thì từ nhâh Năng tác mà ra, còn quả Ly hệ thì không do sáu nhân sinh ra, chỉ nhờ đạo lực mà chứng được Trạch diệt vô vi.

Nhưng luận Thành Duy Thức thì cho rằng năm quả là do mười nhân và bốn duyên sinh ra. Trong đó, quả Dị thục là do nhân dắt dẫn, nhân sinh khởi, nhân định dị, nhân đồng sự và nhân không trái nhau sinh ra; quả Đẳng lưu thì từ nhân dẫn dắt, nhân sinh khởi, nhân nhiếp thọ, nhân dẫn phát, nhân định dị, nhân đồng sự và nhân không trái nhau sinh ra; quả Ly hệ thì từ các nhân: nhiếp thọ, dẫn dắt, định dị, đồng sự và không trái nhau sinh ra; riêng quả Tăng thượng thì do cả mười nhân sinh ra; còn quả Sĩ dụng thì hoặc từ các nhân: quan đãi, nhiếp thọ, đồng sự, không trái nhau sinh ra hoặc do các nhân: quan đãi, dắt dẫn, sinh khởi, nhiếp thọ, dẫn phát, định đị, đồng sự và không trái nhau sinh ra.
Chương 4
BIỆN BIỆT THẤY NGHE HIỂU BIẾT
Bậc Cao đức ngày xưa nói: "Ở nơi thai gọi là thân, ở nơi đời gọi là người, ở nơi mắt gọi là thấy, ở nơi tai gọi là nghe, ở nơi mũi thì ngửi mùi, ở nơi lưỡi thì luận bàn, ở nơi tay thì nắm bắt, ở nơi chân thì đi chạy. Hiện khắp của bao trùm pháp giới, thâu nhiếp lại ở một vi trần. Người tỏ rõ thì biết là Phật tánh, kẻ không hiểu gọi là linh hồn".

Gần đây, có một hạng người ngu không biết nghĩa lý của Phật, ngầm ở trong pháp giới của ta chuyên lấy việc truyền thọ làm tông, nói càn nơi sáu căn thấy tánh, chỉ tứ đại sắc thân là thể Phật, tự lập ba mươi sáu quan, bảy mươi hai tín, ghép vào những việc quái dị, lừa dối làm mê hoặc người lành. Nói càn rằng: thịt bên này máy động thì ai đó sẽ đến, chỗ bên kia đau đớn thì việc gì đó đã xảy ra, nói rằng biết trước kiết hung họa phước. Người ngu nghe được cho là Phật pháp linh cảm, hết lòng tin tưởng, bố thí cúng dường, truyền bá lời nói tà mị này, ghi nhớ trong lòng chưa từng tạm bỏ.

Đâu biết rằng, tánh Phật chân thật thanh tịnh lặng yên, vì có thân hư vọng nên có vọng thức, che lấp bản tánh, chẳng thấy ánh sáng trí tuệ. Một niệm tâm rỗng không gọi là ngộ đạo, kinh Lăng Nghiêm nói: "Thấy biết mà lập thấy biết là cội gốc vô minh; thấy biết mà không lập thấy biết, đó là Niết bàn".

Vì thế, Tổ sư lập giáo chỉ lấy niệm Phật Tam muội làm chánh tông, chưa từng có mảy may pháp thật để ràng buộc người. Đâu ngờ, kẻ thế tục ngu mê chẳng rõ tông chỉ, bỏ trung hiếu không thực hành, trái nhân nghĩa không tu tập, giả danh Liên tông, thực hành những pháp khác biệt, tham cầu âm thầm cảm ứng, lấy việc kỳ quái để mê hoặc người. Thế nên, tạo thành những việc tà ma yêu mị, dựa vào thân người nhiễu loạn chánh tín, do đó đều bị ma nhiếp phục. Thật đáng buồn thay!

Người tu Tịnh nghiệp nên khéo léo xét suy chánh tà, lấy việc cứu xét tâm tánh làm bổn phận, phân biệt xác đáng, tin tưởng thành thật, nhớ Phật niệm Phật, nguyện sanh về Tịnh Độ, cẩn thận chớ mong cầu điều gì khác. Thiền sư Vĩnh Minh nói:
  • Chớ chọn lá cành, nên tìm cội gốc
    Bỗng nhiên vô minh chợt tan
    Lặng lẽ tình trần tự dứt.
Như thế, thật đáng gọi là:
  • Thẳng tận đầu nguồn tìm dấu Phật
    Chọn lá tìm cành ta chẳng kham.
Chương 5
PHÁ TRỪ VỌNG THUYẾT HỌA PHƯỚC
Chánh pháp của Phật Tổ lấy bản tánh Di Đà làm thể, lấyTín, Nguyện niệm Phật làm tông, lấy việc tự mình tu hành và giáo hóa mọi người làm dụng. Đó chính là lời nói khuôn phép của Phật Tổ, làm mẫu mực cho người sau.

Thường bảo rằng âm thanh là Phật sự, đốt đèn là đạo tràng, việc ấy vốn chỉ là pháp môn phương tiện để đưa Quyền trở về Thật. Gần đây, người học mê mờ bỏ mất tông chỉ, tham chấp sự tướng, chẳng tuân theo giáo lý, hướng ngoại làm càn, mắt tâm không sáng, cạnh tranh nhau xưng làm sư trưởng. Đây thật là việc tệ hại trong pháp môn, hoặc tìm quỷ khiếu giống như đồng bóng, hoặc xưng là Di Lặc hạ sanh, hoặc nói chư thiên dựa xác, hoặc trên ánh sáng của ngọn đuốc thấy thần thấy quỷ, hoặc ở trên khói hương đoán kiết đoán hung, làm mờ mịt ba ánh sáng, lừa dối thánh hiền, lường gạt xóm làng, mong cầu lợi dưỡng. Đến khi hỏi họ về hạnh nguyện chân thật thì ngậm miệng không lời, chẳng rõ cội gốc bản tánh Di Đà, cuồng loạn cả đời đều là dối trá, đã tự làm mê lầm chính mình, lại còn làm lầm người khác. Thật đáng buồn thay! Thế nên, kinh Lăng Nghiêm nói: "Này thiện nam tử! Do ứng theo tâm ái, khi ấy thiên ma được tiện lợi, phi tinh dựa vào người, bới móc lỗi người, không sợ lời chê bai, ưa nói trước việc họa phúc, đến lúc xảy ra không sai tơ hào. Những người ngu mê lầm cho là Bồ tát, gần gũi cúng dường. Những người này phá giới luật của Phật, âm thầm làm việc tham dục, đó gọi là tinh mị đã sống lâu nhiều kiếp. Quỷ thần có sức mạnh lớn lâu năm thành ma, não loạn người này. Người ấy chẳng biết ma dựa, lại cho rằng chứng Thánh, đến khi loài ma kia sanh tâm chán nản, bỏ thân thể họ đi, bấy giờ thầy và đệ tử đều bị luật pháp trừng trị. Ông nên cảnh giác trước để khỏi đọa vào luân hồi, mê hoặc không biết gì thì rơi vào địa ngục Vô gián".

Than ôi! Những người tốt mới phát tâm chẳng phân biệt thật giả, tin theo tà thuyết kia, chẳng lo gìn tâm tích đức, vọng tưởng cầu phước mà bị họ làm lầm lẫn. Tôi nghe rằng: "Gia đình tích lũy điều lành ắt có dư niềm vui, gia đình tích lũy điều ác thì có thừa tai họa". Thế nên, kiết hung họa phước do nơi lòng người, sao có thể xu nịnh để mong cầu giàu sang, cẩu thả tránh bừa tai họa? Thiền sư Vĩnh Minh nói:
  • Ác từ tâm khởi, tợ sắt rĩ tự hủy hoại mình
    Thiện từ tâm sanh, như châu phát sáng mà soi lại châu thể.
Do đó, tôi khuyên những người lành khởi tâm làm việc phải nên chọn đạo thực hành, chọn lễ để theo, chọn bạn giao du, chon nơi mà ở, chọn thầy tôn thờ, thận trọng giữ tâm, nơm nớp gìn tiết tháo, niệm niệm không mê mờ, chẳng sơ thất đối với lẽ tự nhiên để thực hành giáo pháp Tây phương, còn những việc xem đuốc bàn họa phước chớ nên tham dự!
Chương 6
BIỆN MINH VỀ CHẤP KHÔNG
Nói không là để phá trừ sự chấp trước vào cái có. Bậc đại giác Thế Tôn khai thị chánh pháp, muốn khiến cho tất cả mọi người biết rõ vạn pháp trong thế gian đều rỗng không, tự tỏ ngộ chân không của bản tánh.

Chân không là pháp giới của Như Lai, là bản tâm của chúng sanh. Không mà chẳng không, có mà chẳng có. Người ngộ được chỗ này, ở trong chỗ chẳng có mà vận dụng khó báu của nhà mình. Nếu dò xét thì vô cùng, sử dụng thì vô tận, gọi đó là đạo vi diệu Nhất thừa, chớ chẳng phải là không ngơ.

Nay, có một hạng người ngu khăng khăng nói không, bác không nhân quả. Mỗi bước thực hành đều ở nơi có, nhưng trên môi nói toàn là không. Lại bảo úong rượu, ăn thịt chẳng ngại Bồ đề; trộm cắp, hành dâm không chướng Bát nhã. Dọc ngang phóng túng, dong ruổi điên cuồng, chê bai Phật, hủy báng kinh, xem thường tất cả, bừa bãi không còn phép tắc. Lấy đó cho là tông thừa, khinh lờn Thánh hiền, tự xưng đắc đạo. Những người như thế đâu đâu cũng thấy; đó là điều mà ngài Huyền Giác gọi:
  • Đắm ngoan không, bác nhân quả
    Mờ mịt rối ren chuốc ương họa.
Kinh Lăng Nghiêm nói: "Nếu tâm dính mắc vào không thì có mà Đại Lực Không nhập vào tâm. Người ấy không biết đó là do ma dựa, miệng nói kinh pháp mà ngấm ngầm thực hành tham dục, hủy báng kinh điển hình tượng, làm mê lầm rối loạn mọi người, khiến ai nấy đều rơi vào đường tà. Khi loài ma sanhtâm chán nản thì bỏ thân thể gười ấy, bấygiờ thầyvà đệ tử đều bị pháp luật trừng trị. Lúc mạng chung, làm quyến thuộc của ma, khi nghiệp ma hết, đọa vào địa ngục Vô gián".

Than ôi! Cách Phật đã xa, diệu pháp không còn, dị đoan sinh khởi, trái ngược đại nghĩa, không vướng vào có thì mắc nơi không. Vướng vào có thì chấp danh tướng, dính hữu vi, bám chặt vật ngã, câu nệ kẻ oán người thân, bó buộc nơi giáo lý cạn cợt, đánh mất nghĩa cao sâu; mắc vào không thì mê muôi nhân quả, lẫn lộn thiện ác, dứt bỏ giới luật, trái ngược lễ nghĩa. Bởi vì chẳng rõ Trung đạo mới là điều thiện tột cùng.

Có người hỏi rằng:

- Sao gọi Trung đạo?

Đáp:

- Có cũng chẳng vướng, không cũng chẳng không. Không chẳng rời có, có chẳng rời không, oán thân bình đẳng, vật ngã ngang bằng, nhân quả rõ ràng, thiện ác minh bạch, giới luật được ứng dụng, lễ nghĩa được thực hành, thấu suốt giáo lý cạn cợt, tận cùng nghĩa lý cao sâu.

Trung đạo rộng lớn thay! Là tên gọi khiến vạn vật nhiệm mầu, là danh từ xứng hợp với bản tánh. Nếu thấu suốt lý này thì không rơi vào chỗ thiên lệch. Như thế, gọi là được chánh định niệm Phật.
Chương 7
BIỆN MINH TƯỚNG HỢP NHẤT
Kinh Kim Cang nói: "Như Lai nói tướng hợp nhất tức chẳng phải tướng hợp nhất, đó gọi là tướng hợp nhất".

Bởi người đời mê mờ tánh nhất chân, chạy theo trần cảnh, tức chẳng phải tướng hợp nhất. Người trí thấy rõ chân tâm chính mình, dứt bỏ trần lao, trở về tỉnh giác. Một tâm niệm giác cùng với pháp giới chân không của mười phương chư Phật hợp nhau, đó tức là nghĩa lý tướng hợp nhất. Thiền sư Huyền Giác nói: "Tánh ta cùng hợp với Như Lai". Phàm phu không rõ lý này, tham chấp sự tướng, tự mình vọng chấp chặt tình tâm ý thức cùng hợp với sơn hà đại địa, tường vách ngói gạch, mê mờ đối với chân không lý tánh, như thế tức sai lầm. Lục Tổ nói: "Tâm thấy được điều gì thì chẳng phải là tướng hợp nhất, tâm không thấy có được gì cả tức là tướng hợp nhất", chính là nói về lý này.

Nay, có những người ngu chẳng hiểu rõ Phật pháp, ở trong giáo pháp của ta nói càn: "Vợ chồng là tướng hợp nhất", thật là quá sai lầm! Bởi lẽ, tình cảm vừa sanh, trí tuệ bị ngăn cách; tư tưởng vừa biến hiện, bản thể đã sai khác,bị nghiệp chướng làm lụy, ương họa sâu dày, trái ngược nhân, mê muội quả, hiểu sai lầm Thánh điển, hủy báng làm ô nhục giáo môn. Tịnh nghiệp chánh tông đâu dung thuyết ấy! Người chân thật tu hành, cần giữ vững lòng tin chân chánh, chuyênniệm Phật A Di Đà, ở trong một niệm chẳng vướng vào tướng, nội tâm ngoại cảnh tỏ sáng nhất như, tự nhiên thầm phú hợp với chân lý. Cho nên, thiền sư Phật Quả Khắc Cần dạy chúng rằng: "Mọi người các ông chỉ trong hai mươi bốn giờ, trên chẳng thấy có chư Phật, dưới chẳng thấy có chúng sanh, bên ngoài chẳng thấy có sơn hà đại địa, bên trong chẳng có sự thấy nghe hiểu biết thiện ác, tốt xấu, nhồi thành một khối, mỗi mỗi nêu ra, không còn cái thấy khác". Đó tức là nghĩa lý tướng hợp nhất rõ ràng phân minh.
  • Nguyệt dù thành lửa, nhật thành băng
    Ma nào phá được chân giáo thuyết.
Đó chính là con đường lớn dẫn đến đạo, yếu quyết chân chánh để tỏ ngộ tông chỉ.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.26 khách