Bốn Mươi Tám Đại Nguyện Của Phật A Di Đà

Thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì pháp môn niệm Phật.

Điều hành viên: binh, battinh

Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Bốn Mươi Tám Đại Nguyện Của Phật A Di Đà

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

48dainguyen.jpg
48dainguyen.jpg (341.49 KiB) Đã xem 1090 lần
BỐN MƯƠI TÁM ĐẠI NGUYỆN
ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ
A DI ĐÀ PHẬT
48 ĐẠI NGUYỆN LƯỢC GIẢNG

Thích Kiến Chơn
Khảo Học và Cẩn Ghi
Đạo Tràng Tam Bảo
8239 International Blvd.
Oakland, CA. 94621
Ấn tặng
Phật lịch 2552 - 2008

LỜI NÓI ĐẦU
Pháp môn Tịnh Độ là Nhất thừa Liễu nghĩa, vạn thiện đồng qui, thích ứng khắp cả ba căn, thâu trọn phàm Thánh, thoát khỏi ba cõi theo chiều ngang (hoành siêu tam giới), nhanh chóng bước lên bốn cõi Tịnh Độ, cực viên, cực đốn, là Pháp môn Vi diệu chẳng thể nghĩ bàn.

Thập Tam Tổ của Tịnh Tông là ngài đại sư Ấn Quang đã nói:
  • "Bỏ đường tắt Tây Phương, chín cõi chúng sanh khó tròn nên quả Giác.
    Rời cửa mầu Tịnh Độ, mười phương chư Phật khôn độ khắp quần mê.
Vì pháp môn Trì Danh Niệm Phật rất viên mãn, thẳng chóng, là phương tiện rốt ráo nhất, siêu trực nhập, viên đốn cùng cực. Dùng biển nguyện Nhất thừa của A Di Đà Phật, sáu chữ Hồng Danh của quả Giác rốt ráo để làm cái tâm phát khởi cầu thành Phật quả cho chúng sanh trong thời ngũ trược ác thế này. Dùng Quả làm Nhân: Nhân Quả đồng thời, từ Quả khởi Tu, nên Tu cũng chính là Quả. Tâm tu cầu thành Phật chính là cái tâm thành Phật chẳng thể nghĩ bàn. Vì vậy, sách Di Đà Yếu Giải viết: "Một câu A Di Đà Phật chính là pháp để đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật trong đời ngũ trược, nay đem toàn thể Quả Giác này trao cho chúng sanh trược ác. Đó là cảnh giới sở hành của chư Phật, chỉ Phật với Phật mới hiểu cùng tận nổi, chẳng phải là điều cửu giới dùng tự lực tin hiểu được nổi".

Đủ thấy rằng: Kinh này (Đại Bổn và Tiểu Bổn A Di Đà) thật là lời giảng xứng tánh đến cùng cực của đấng Đại Từ Bi Phụ, là kho tàng bí mật của chư Phật đem phơi bày trọn vẹn ra hết. Vả lại Pháp môn Niệm Phật đây cũng chính là cách thức để giáo hóa chúng sanh về cái họ vốn sẵn có. Đúng như sách Yếu Giải đã nói, một câu Phật hiệu này chính là bổn giác lý tánh của chúng sanh. Nên biết: Cái tâm niệm Phật ngay hiện tại của ta chính là Quả Giác của Như Lai. Do đó, Quán Kinh dạy: "Tâm này là Phật". Tâm này Trì Danh thì chính là "Tâm này làm Phật". Vốn đã là Phật, nay lại làm Phật. Vì vậy, ngay lập tức là Phật: thẳng chóng thỏa đáng, phương tiện rốt ráo, kỳ đặc, thù thắng chẳng thể nghĩ bàn.

Thêm nữa, Kinh này thù thắng ở chỗ Khế Lý, Khế Cơ. Lý là thật tế lý thể, cũng tức là Chơn như Thật tướng, bổn tế chân thật. Khế lý là vì kinh này vốn trụ nơi chơn thật huệ để khai hóa hiển thị chơn thật tế cùng ban cái lợi chơn thật, thuần nhất chơn thật. Nên gọi là Khế Lý.

Về Khế Cơ, chỉ riêng mình Kinh này là thù thắng. Pháp môn Trì Danh của Kinh này thích hợp khắp cả ba căn, thâu trọn phàm Thánh. Rất thích hợp với kẻ thượng thượng căn, kẻ hạ hạ căn cũng có thể do Kinh này đắc độ. Trên thì như pháp thân Đại sĩ: Văn Thù, Phổ Hiền cũng đều phát nguyện vãng sanh. Dưới đến ngũ nghịch, thập ác lâm chung niệm Phật cũng đều tùy nguyện vãng sanh. Vượt ngang khỏi ba cõi, lên ngôi vị A Bệ Bạt Trí, chứng trọn vẹn bốn cõi Tinh Độ, do đó, chúng ta mới thấy phương tiện rốt ráo của Pháp môn Trì Danh Niệm Phật này thật là thích ứng với mọi căn cơ của chúng sanh.

Hơn nữa, Khế Cơ còn có nghĩa là khéo khế hợp với căn cơ của thời đại. Dù cho người mù chữ, dốt đặc cán mai cũng tu được; kẻ bận rộn đầu tắt mặt tối, một nắng hai sương cũng có thời gian để Trì Danh.

Như Lai rủ lòng từ riêng lưu lại Kinh này thêm một trăm năm nữa sau khi các Kinh khác đều bị diệt hết, đúng là ngụ ý: Kinh này phù hợp với xã hội hiện tại và tương lai.

Điểm mầu nhiệm của Tịnh Tông là: "Chẳng lìa Phật pháp mà hành thế pháp; chẳng bỏ thế pháp mà chứng Phật pháp".

Tóm một lời: Ước nguyện Bản Lược Giảng, Khảo học và Cẩn ghi này sẽ khế hợp với Thánh tâm, rộng giúp phát khởi niềm tín tâm chân thành cho toàn thể quý Phật tử của Đạo Tràng Tam Bảo, và quý đạo hữu xa gần mà kẻ sơ tâm học đạo này có duyên cùng tu tập, hễ ai nghe thấy đều vào được biển đại nguyện Nhất thừa của A Di Đà Phật.

Nếu có được phần công đức gì, chúng con xin được hồi hướng cho Hương linh thân phụ là Chơn Quang Tạ Thúc Tặng, vừa tạ thế [ngày 11 tháng 5, 2007 Dương lịch, tức 25 tháng 3 Âm lịch], và toàn thể thân bằng quyến thuộc kẻ quá vãng sớm được vãng sanh An Lạc Sát, người còn thân tâm thường an lạc, phát Bồ đề tâm, nhất hướng niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc quốc.
    • Xuất gia đệ tử Thích Kiến Chơn
      Mùa An Cư Kiết Hạ 2007, Phật lịch 2551.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bốn Mươi Tám Đại Nguyện Của Phật A Di Đà

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

KỆ TỤNG TRƯỚC KHI GIẢNG KINH
  • Ngã kim thanh tịnh tam nghiệp
    Chí tâm qui mạng:
    Di Đà Từ Tôn,
    Cập Liên Trì Thánh chúng,
    Tây Thiên, Đông Độ, Việt Nam,
    Lịch đại Tổ sư,
    Già lam Thánh chúng,
    Duy nguyện Tam Bảo thùy gia hộ
    Khải ngã chánh giác chuyển pháp luân,
    Kiến giả, văn giả giai tinh tấn,
    Đồng chứng Bất thoái chuyển
    Đảo giả từ hàng cứu đồng luân
    Nhất thế chúng sanh giai diệt độ
    Hoàn ngã bổn lai Pháp tánh thân,
    Cận kiến Di Đà Đại Từ Tôn.
    Nam Mô Pháp Giới Tạng Thân A Di Đà Phật
BỐN MƯƠI TÁM ĐẠI NGUYỆN
Của Đức Phật A Di Đà
  • Nguyện thứ nhất: Cõi nước không có ác đạo.
    Nguyện thứ hai: Chẳng đọa đường ác.
    Nguyện thứ ba: Thân đều như kim sắc.
    Nguyện thứ tư: Đủ ba mươi hai tướng hảo.
    Nguyện thứ năm: Thân không có sai khác.
    Nguyện thứ sáu: Đắc túc mạng thông.
    Nguyện thứ bảy: Đắc thiên nhãn thông.
    Nguyện thứ tám: Đắc thiên nhĩ thông.
    Nguyện thứ chín: Đắc tha tâm thông.
    Nguyện thứ mười: Đắc thần túc thông.
    Nguyện thứ mười một: Cúng dường khắp chư Phật.
    Nguyện thứ mười hai: Quyết định thành Chánh Giác.
    Nguyện thứ mười ba: Quang minh vô lượng.
    Nguyện thứ mười bốn: Quang minh soi đến được an vui.
    Nguyện thứ mười lăm: Thọ mạng vô lượng.
    Nguyện thứ mười sáu: Thanh văn vô số.
    Nguyện thứ mười bảy: Chư Phật khen ngợi.
    Nguyện thứ mười tám: Mười niệm ắt vãng sanh(*).
    Nguyện thứ mười chín: Nghe Hồng danh phát tâm(*).
    Nguyện thứ hai mươi: Lâm chung tiếp dẫn(*).
    Nguyện thứ hai mươi mốt: Sám hối được vãng sanh(*).
    Nguyện thứ hai mươi hai: Nước không có nữ nhân.
    Nguyện thứ hai mươi ba: Chán thân nữ, chuyển thân nam.
    Nguyện thứ hai mươi bốn: Liên hoa hóa sanh.
    Nguyện thứ hai mươi lăm: Trời người lễ kính.
    Nguyện thứ hai mươi sáu: Nghe Hồng danh được phước.
    Nguyện thứ hai mươi bảy: Tu hạnh thù thắng.
    Nguyện thứ hai mươi tám: Nước không sự bất thiện.
    Nguyện thứ hai mươi chín: Trụ chánh định tụ.
    Nguyện thứ ba mươi: Vui như lậu tận.
    Nguyện thứ ba mươi mốt: Chẳng tham chấp thân.
    Nguyện thứ ba mươi hai: Thân Na la diên.
    Nguyện thứ ba mươi ba: Quang minh, trí huệ biện tài.
    Nguyện thứ ba mươi bốn: Khéo bàn pháp yếu.
    Nguyện thứ ba mươi lăm: Nhất sanh bổ xứ.
    Nguyện thứ ba mươi sáu: Giáo hóa tùy ý.
    Nguyện thứ ba mươi bảy: Y thực tự đến.
    Nguyện thứ ba mươi tám: Ứng niệm thọ cúng.
    Nguyện thứ ba mươi chín: Trang nghiêm vô lượng.
    Nguyện thứ bốn mươi: Cây vô lượng sắc.
    Nguyện thứ bốn mươi mốt: Nơi cây hiện cõi Phật.
    Nguyện thứ bốn mươi hai: Chiếu tỏ mười phương.
    Nguyện thứ bốn mươi ba: Hương báu xông khắp.
    Nguyện thứ bốn mươi bốn: Phổ đẳng tam muội.
    Nguyện thứ bốn mươi lăm: Trong định cúng Phật.
    Nguyện thứ bốn mươi sáu: Đắc Đà la ni.
    Nguyện thứ bốn mươi bảy: Nghe danh đắc Nhẫn.
    Nguyện thứ bốn mươi tám: Chứng bất thoái trong hiện đời.
DẪN KHỞI:
Vào thời đức Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai trụ thế thuyết pháp, có một vị đại quốc vương tên là Thế Nhiêu Vương nghe Phật thuyết pháp, tâm liền khai ngộ, thấu suốt thật nghĩa, ngay lập tức phát vô thượng đại Bồ đề tâm, bỏ đất nước và ngôi vua, xuất gia trở thành Sa môn Pháp Tạng.

Trong sách Thám Huyền Ký, chữ Pháp có đến bốn nghĩa:
  • - Chứa đựng, bao gồm.
    - Tích chứa sâu sắc.
    - Sanh ra.
    - Vô tận.
Do chứa đựng hết thảy pháp nên gọi là Pháp Tạng, như Gia Tướng Sớ nói: "Do có thể tích lũy Phật pháp một cách sâu xa, nên gọi là Pháp Tạng". Lại có thể mở bày Pháp tạng của Phật nên gọi là Pháp Tạng.

[Kinh Pháp Hoa lại bảo đức Thích Ca cùng Phật A Di Đà trong vô lượng a tăng kỳ kiếp trước cùng là vương tử của Đại Thông Trí Thắng Như Lai].

Trước đức Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai, ngài Pháp Tạng Từ khưu phát bốn mươi tám Đại Nguyện Vương, đức Như Lai đáp ứng lời thỉnh nguyện của ngài Pháp Tạng, hiện cho Bồ Tát thấy cả hai trăm mười ức cõi Phật, Pháp Tạng do đó tuyển chọn những nguyện thù thắng nhất của chư Phật để kết thành nguyện thù thắng, siêng năng tu tập trong năm đại kiếp, bằng tư duy nhiếp thủ, nhiếp thọ cõi nước của ngài vượt trội xa cả hai trăm mười ức Phật sát ấy.

[Phụ vương của Pháp Tạng Tỳ khưu là Nguyệt Thượng Chuyển Luân Thánh Vương và Mẫu hoàng là Thù Thắng Diệu Nhan phu nhân].


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bốn Mươi Tám Đại Nguyện Của Phật A Di Đà

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

CHÁNH VĂN:
Pháp Tạng bạch ngôn: "Duy nguyện Thế Tôn đại từ thính sát, ngã nhược chứng đắc Vô thượng Bồ đề, thành Chánh giác dĩ, sở cư Phật sát, cụ túc vô lượng, bất khả tư nghị, công đức trang nghiêm. Vô hữu địa ngục, ngạ quỉ, cầm thú, quyên phi nhuyễn động chi loại. Sở hữu nhất thế chúng sanh, dĩ cập Diệm Ma La giới, tam ác đạo trung, lai sanh ngã sát, thọ ngã pháp hóa, tất thành A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề, bất phục cánh đọa ác thú. Đắc thị nguyện, nãi tác Phật, bất đắc thị nguyện, bất thủ Vô thượng Chánh giác.
  • [Quốc vô ác đạo, đệ nhất nguyện. Bất đọa ác thú, đệ nhị nguyện].
Ngã tác Phật thời, thập phương thế giới, sở hữu chúng sanh, linh sanh ngã sát, giai cụ tử ma chân kim sắc thân, tam thập nhị chúng, đại trượng phu tướng, đoan chánh tịnh khiết, tất đồng nhất loại. Nhược hình mạo sai biệt, hữu hảo xú giả, bất thủ Chánh giác.
  • [Thân tất đắc kim sắc, đệ tam nguyện. Tam thập nhị tướng, đệ tứ nguyện. Thân vô sai biệt, đệ ngũ nguyện].
Ngã tác Phật thời, sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, tự tri vô lượng kiếp thời túc mạng sở tác thiện ác, giai năng đỗng thị triệt thính, tri thập phương khứ lai hiện tại chi sự. Bất đắc thị nguyện, bất thủ Chánh giác.
  • [Túc mạng thông, đệ lục nguyện. Thiên nhãn thông, đệ thất nguyện. Thiên nhĩ thông, đệ bát nguyện].
Ngã tác Phật thời, sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đắc tha tâm trí thông. Nhược bất tất tri ức Na do tha bá thiên Phật sát, chúng sanh tâm niệm giả, bất thủ Chánh giác.
  • [Túc mạng thông, đệ cửu nguyện].
Ngã tác Phật thời, sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đắc thần thông tự tại, Ba La Mật Đa. Ư nhất niệm khoảnh, bất năng siêu quá ức Na do tha bá thiên Phật sát, chu biến tuần lịch cúng dường chư Phật giả, bất thủ Chánh giác.
  • [Thần túc thông, đệ thập nguyện. Biến cúng chư Phật, đệ thập nhất nguyện].
Ngã tác Phật thời, sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, viễn ly phân biệt, chư căn tịch tĩnh. Nhược bất quyết định thành Đẳng Chánh giác, chứng đại Niết Bàn, bất thủ Chánh giác.
  • [Quyết định thành Chánh giác, đệ thập nhị nguyện].
Ngã tác Phật thời, quang minh vô lượng, phổ chiếu thập phương, tuyệt thắng chư Phật, thắng vu nhật nguyệt chi minh, thiên vạn ức bội. Nhược hữu chúng sanh, kiến ngã quang minh, chiếu xúc kỳ thân, mạc bất an lạc, từ tâm tác thiện, lai sanh ngã quốc. Nhược bất thị, bất thủ Chánh giác.
  • [Quang minh vô lượng, đệ thập tam nguyện. Xúc quang an lạc, đệ thập tứ nguyện].
Ngã tác Phật thời, thọ mạng vô lượng, quốc trung Thanh văn, Thiên nhân vô số, thọ mạng diệc giai vô lượng, giả linh tam thiên, đại thiên thế giới chúng sanh, tất thành Duyên giác, ư bách thiên kiếp, tất cọng kế giảo, nhược năng tri kỳ lượng số giả, bất thủ Chánh giác.
  • [Thọ mạng vô lượng, đệ thập ngũ nguyện. Thanh văn vô số, đệ thập lục nguyện].
Ngã tác Phật thời, thập phương thế giới vô lượng sát trung, vô số chư Phật, nhược bất cọng xưng thán ngã danh, thuyết ngã công đức, quốc độ chi thiện giả, bất thủ Chánh giác.
  • [Chư Phật xưng tán, đệ thập thất nguyện].
Ngã tác Phật thời, thập phương chúng sanh, văn ngã danh hiệu, chí tâm tín nhạo, sở hữu thiện căn, tâm tâm hồi hướng, nguyện sanh ngã quốc, nãi chí thập niệm, nhược bất sanh giả, bất thủ Chánh giác. Duy trừ ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp.
  • [Thập niệm tất vãng sanh, đệ thập bát nguyện].
Ngã tác Phật thời, thập phương chúng sanh, văn ngã danh hiệu, phát Bồ đề tâm, tu chư công đức, phụng hành lục Ba la mật, kiên cố bất thoái. Phục dĩ thiện căn hồi hướng, nguyện sanh ngã quốc. Nhất tâm niệm ngã, trú dạ bất loạn. Lâm thọ chung thời, ngã dữ chư Bồ tát Thánh chúng nghinh hiện kỳ tiền, kinh tu du gian, tức sanh ngã sát, tác A Bệ Bạt Trí Bồ tát. Bất đắc thị nguyện, bất thủ Chánh giác.
  • [Văn danh phát nguyện, đệ thập cửu nguyện. Lâm chung tiếp dẫn, đệ nhị thập nguyện]
Ngã tác Phật thời, thập phương chúng sanh, văn ngã danh hiệu, hệ niệm ngã quốc, phát Bồ đề tâm, kiên cố bất thoái, thực chúng đức bổn, chí tâm hồi hướng, dục sanh Cực Lạc, vô bất toại giả. Nhược hữu túc ác, văn ngã danh tự, tức tự hối quá, vị đạo tác thiện, tiện trì kinh giới, nguyện sanh ngã sát, mạng chung bất phục cánh tam ác đạo, tức sanh ngã quốc. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh giác.
  • [Hối quá đắc sanh, nhị thập nhất nguyện].
Ngã tác Phật thời, quốc vô phụ nữ. Nhược hữu nữ nhân, văn ngã danh tự, đắc thanh tịnh tín, phát Bồ đề tâm, yểm hoạn nữ nhân, nguyện sanh ngã quốc. Mạng chung tức hóa nam tử, lai ngã sát độ. Thập phương thế giới chư chúng sanh loại, sanh ngã quốc giả, giai ư thất bảo trì liên hoa trung hóa sanh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh giác.
  • [Quốc vô nữ nhân, nhị thập nhị nguyện. Yểm nữ chuyển nam thân, nhị thập tam nguyện. Liên hoa hóa sanh, nhị thập tứ nguyện].
Ngã tác Phật thời, thập phương chúng sanh. văn ngã danh tự, hoan hỷ tín nhạo, lễ bái quy mạng. Dĩ thanh tịnh tâm, tu Bồ tát hạnh. Chư thiên thế nhân, mạc bất tri kính. Nhược văn ngã danh, thọ chung chi hậu, sanh tôn quý gia, chư căn vô khuyết, thường tu thù thắng phước hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh giác.
  • [Thiên nhân lễ kính, nhị thập ngũ nguyện. Văn danh đắc phước, nhị thập lục nguyện. Tu thù thắng hạnh, nhị thập thất nguyện].
Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư định tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương, sở thọ khoái lạc, du như lậu tận Tỳ Khưu. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh giác.
  • [Quốc vô bất thiện, nhị thập bát nguyện. Trụ Chánh định tụ, nhị thập cửu nguyện. Lạc như lậu tận, tam thập nguyện. Bất tham kế thân, tam thập nhất nguyện].
Ngã tác Phật thời, sanh ngã quốc giả, thiện căn vô lượng, giai đắc Kim Cang Na la diên thân, kiên cố chi lực, thân đảnh giai hữu quang minh chiếu diệu, thành tựu nhất thế trí huệ, hoạch đắc vô biên biện tài, thiện đàm chư pháp bí yếu, thuyết kinh hành đạo, ngữ như chung thinh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh giác.
  • [Na la diên thân, tam thập nhị nguyện. Quang minh huệ biện, tam thập tam nguyện. Thiện đàm pháp yếu, tam thập tứ nguyện].
Ngã tác Phật thời, nhược hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, cứu cánh tất chí nhất sanh bổ xứ. Trừ kỳ bổn nguyện, vị chúng sanh cố, bị hoàng thệ khải, giáo hóa nhất thế hữu tình, giai phát tín tâm, tu Bồ đề hạnh, hành Phổ Hiền đạo. Tuy sanh tha phương thế giới, vĩnh ly ác thú, hoặc nhạo thuyết pháp, hoặc nhạo thính pháp, hoặc hiện thần túc, tùy ý tu tập, vô bất viên mãn. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh giác.
  • [Nhất sanh bổ xứ, tam thập ngũ nguyện. Giáo hóa tùy ý, tam thập lục nguyện].
Ngã tác Phật thời, sanh ngã quốc giả sở tu ẩm thực, y phục, chúng chúng cúng cụ, tùy ý tức chí, vô bất mãn nguyện. Thập phương chư Phật ứng niệm thọ kỳ cúng dường. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh giác.
  • [Y thực tự chí, tam thập thất nguyện. Ứng niệm thọ cúng, tam thập bát nguyện].
Ngã tác Phật thời, quốc trung vạn vật, nghiêm tịnh, quang lệ, hình sắc thù đặc, cùng vi cực diệu, vô năng xứng lượng, kỳ chư chúng sanh, tuy cụ thiên nhãn, hữu năng hiện kỳ hình sắc, quang tướng, danh số, cập tổng tuyên thuyết giả, bất thủ Chánh giác.
  • [Trang nghiêm vô tận, tam thập cửu nguyện].
Ngã tác Phật thời, quốc trung vô lượng sắc thụ, cao hoặc bá thiên do tuần. Đạo tràng thụ cao, tứ bá vạn lý, chư Bồ tát trung, tuy hữu thiện căn liệt giả, diệc năng liễu tri, dục kiến chư Phật tịnh quốc trang nghiêm, tất ư bảo thụ gian kiến, du như minh kính, đổ kỳ diện tượng. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh giác.
  • [Vô lượng sắc thụ, tứ thập nguyện. Thụ hiện Phật sát, tứ thập nhất nguyện].
Ngã tác Phật thời, sở cư Phật sát, quảng bác nghiêm tịnh, quang oánh như kính, triệt chiếu thập phương vô lượng vô số, bất khả tư nghị, chư Phật thế giới, chúng sanh đổ giả, sanh hy hữu tâm. Nhược bất nhỉ giả, bất thủ Chánh giác.
  • [Triệt chiếu thập phương, tứ thập nhị nguyện].
Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện lâu quán, trì lưu hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thế vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hiệp thành, kỳ hương phổ huân thập phương thế giới, chúng sanh văn giả, giai tụ Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh giác.
  • [Bảo hương phổ huân, tứ thập tam nguyện].
Ngã tác Phật thời, thập phương Phật sát, chư Bồ tát chúng, văn ngã danh dĩ, giai tất đãi đắc thanh tịnh, giải thoát. Phổ đẳng tam muội, chư thâm tổng trì, trụ Tam ma địa, chí ư thành Phật, định trung thường cúng vô lượng vô biên nhất thế chư Phật, bất thất định ý. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh giác.
  • [Phổ đẳng Tam muội, tứ thập tứ nguyện. Định trung cúng Phật, tứ thập ngũ nguyện].
Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ tát chúng, văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch Đà la ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn, ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng bất thoái chuyển giả, bất thủ Chánh giác.
  • [Hoạch Đà la ni, tứ thập lục nguyện. Văn danh đắc nhẫn, tứ thập thất nguyện, Hiện chứng bất thoái, tứ thập bát nguyện].


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bốn Mươi Tám Đại Nguyện Của Phật A Di Đà

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

VIỆT VĂN
Nếu tôi chứng được Vô thượng Bồ đề, thành Chánh giác rồi, thì cõi nước tôi ở sẽ đầy đủ vô lượng công đức, trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn, không có địa ngục, ngạ quỷ, cầm thú, các loài ngọ nguậy, bay lượn, bò trườn. Tất cả hết thảy chúng sanh cho đến những kẻ từ trong cõi Diệm Ma La, trong ba đường ác, sanh sang cõi tôi, nhận pháp hóa của tôi ắt thành A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề, chẳng đọa vào đường ác nữa. Nguyện được như thế mới làm Phật. Chẳng thỏa nguyện ấy, chẳng giữ lấy ngộ Chánh giác.
  • [Nguyện thứ nhất: Cõi nước không có ác đạo. Nguyện thứ hai: Chẳng đọa đường ác].
Lúc tôi thành Phật, khiến cho tất cả chúng sanh trong mười phương thế giới sanh trong cõi nước tôi, đều được đầy đủ thân sắc vàng ròng, trau dồi sáng bóng, ba mươi hai tướng đại trượng phu đoan chánh, tịnh khiết, giống hệt như nhau. Nếu họ hình dáng sai khác, có xấu đẹp, thì chẳng giữ ngôi Chánh giác.
  • [Nguyện thứ ba: Được thân kim sắc. Nguyện thứ tư: Đủ ba mươi hai tương tốt. Nguyện thứ năm: Thân không có sai khác].
Lúc tôi thành Phật, tất cả chúng sanh, sanh về nước tôi tự biết các việc thiện ác đã làm trong vô lượng kiếp, đều trông thấy rõ ràng, nghe rành rẽ, biết được các việc trong quá khứ, hiện tại, vị lai suốt mười phương. Nếu chẳng được như vậy, chẳng giữ ngôi Chánh giác.
  • [Nguyện thứ sáu: Đắc Túc mạng thông. Nguyện thứ bảy: Đắc Thiên nhãn thông. Nguyện thứ tám: Đắc Thiên nhĩ thông].
Lúc tôi thành Phật, tất cả chúng sanh, sanh trong nước tôi đều đắc tha tâm trí thông. Nếu chẳng biết được hết tâm niệm của chúng sanh trong ức na do tha trăm ngàn cõi Phật, chẳng giữ lấy Chánh giác.
  • [Nguyện thứ chín: Đắc Tha tâm thông].
Lúc tôi thành Phật, tất cả chúng sanh, sanh trong nước tôi đều được thần thông tự tại, Ba la mật đa. Trong khoảng một niệm chẳng thể vượt qua ức na do tha trăm ngàn cõi Phật, đến khắp tất cả (các cõi ấy) cúng dường chư Phật, chẳng giữ lấy Chánh giác.
  • [Nguyện thứ mười: Đắc Thần túc thông. Nguyện thứ mười một: Cúng dường khắp chư Phật]
Lúc tôi thành Phật, tất cả chúng sanh, sanh trong nước tôi xa rời phân biệt, các căn tịch tĩnh. Nếu họ chẳng quyết định thành Chánh đẳng giác, chứng đại Niết Bàn, thì chẳng giữ lấy Chánh giác.
  • [Nguyện thứ mười hai: Quyết định thành Chánh giác].
Lúc tôi thành Phật, quang minh vô lượng chiếu khắp mười phương vượt xa chư Phật, hơn hẳn quang minh của nhật nguyệt ngàn vạn ức lần. Nếu có chúng sanh thấy quanh minh của tôi chiếu vào thân, không ai là chẳng an vui, từ tâm làm lành, sanh về cõi tôi. Nếu chẳng được vậy, chẳng giữ ngôi Chánh giác.
  • [Nguyện thứ mười ba: Quang minh vô lượng. Nguyện thứ mười bốn: Quang minh soi đến được an vui].
Lúc tôi thành Phật, thọ mạng vô lượng. Trong nước tôi, Thanh văn, Trời, người vô số, thọ mạng cũng đều vô lượng. Giả sử chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới đều thành Duyên giác, trong trăm ngàn kiếp cùng nhau tính toán mà biết nổi số lượng ấy thì chẳng giữ ngôi Chánh giác.
  • [Nguyện mười lăm: Thọ mạng vô lượng. Nguyện mười sáu: Thanh văn vô số].
Lúc tôi thành Phật, vô số chư Phật trong vô lượng cõi nước trong mười phương thế giới nếu chẳng cùng khen ngợi danh hiệu của tôi, thuật sự tốt lành của cõi nước và công đức của tôi thì chẳng giữ ngôi Chánh giác.
  • [Nguyện thứ mười bảy: Chư Phật đều khen ngợi].
Lúc tôi thành Phật, mười phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi rồi chí tâm tin ưa, tất cả thiện căn tâm tâm hồi hướng nguyện sanh cõi tôi, dẫu chỉ mười niệm, nếu chẳng được sanh thì chẳng giữ Chánh giác. Chỉ trừ kẻ ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp.
  • [Nguyện thứ mười tám: Mười niệm ắt vãng sanh].
Lúc tôi thành Phật, mười phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi liền phát Bồ đề tâm, tu các công đức, phụng hành sáu Ba la mật kiên cố bất thoái, lại đem các thiện căn hồi hướng nguyện sanh cõi tôi, nhất tâm niệm tôi, ngày đêm chẳng ngớt. Lúc lâm chung tôi cùng các Bồ tát chúng hiện đến đón trước mặt, trong khoảnh khắc liền sanh cõi nước tôi, thành bậc A bệ bạt trí Bồ tát. Chẳng thỏa nguyện này, chẳng giữ lấy ngôi Chánh giác.
  • [Nguyện thứ mười chín: Nghe tên phát tâm. Nguyện thứ hai mươi: Lâm chung tiếp dẫn]
Lúc tôi thành Phật, mười phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi, hệ niệm cõi tôi, phát Bồ đề tâm kiên cố bất thoái, gieo các cội đức, chí tâm hồi hướng muốn sanh về Cực Lạc thì không ai chẳng được toại nguyện. Nếu có nghiệp ác đời trước, nghe danh hiệu tôi liền tự hối lỗi, tu đạo làm lành, liền trì kinh giới, nguyện sanh cõi tôi, chết đi chẳng đọa vào tam ác đạo nữa, liền sanh trong cõi tôi. Nếu chẳng được vậy thì chẳng giữ lấy ngôi Chánh giác.
  • [Nguyện thứ hai mươi mốt: Sám hối được vãng sanh].
Lúc tôi thành Phật, nước không nữ nhân. Nếu có nữ nhân nghe danh hiệu tôi sanh lòng tin thanh tịnh, phát Bồ đề tâm, chán ngán thân nữ, nguyện sanh cõi nước tôi, chết đi liền hóa thành nam tử sanh về cõi tôi. Các loài chúng sanh trong mười phương thế giới sanh về cõi tôi đều hóa sanh trong hoa sen nơi ao bảy báu. Nếu chẳng được vậy chẳng giữ lấy ngôi Chánh giác.
  • [Nguyện thứ hai mươi hai: Nước không nữ nhân. Nguyện thứ hai mươi ba: Chán thân nữ chuyển thân nam, Nguyện thứ hai mươi bốn: Liên hoa hóa sanh].
Lúc tôi thành Phật, mười phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi hoan hỷ tin ưa, lễ bái, quy mạng, dùng tâm thanh tịnh tu Bồ tát hạnh. Chư Thiên, người đời đều cũng kính. Nếu nghe tên tôi, sau khi hết tuổi thọ sẽ sanh nhà tôn quý, các căn chẳng khuyết, thường tu phạm hành thù thắng. Nếu chẳng được thế chẳng giữ lấy ngôi Chánh giác.
  • [Nguyện thứ hai mươi lăm: Trời, người lễ kính. Nguyện thứ hai mươi sáu: Nghe hồng danh được phước. Nguyện thứ hai mươi bảy: Tu hạnh nguyện thù thắng].
Lúc tôi thành Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Định tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như Lậu tận Tỳ khưu. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng giữ ngôi Chánh giác.
  • [Nguyện thứ hai mươi tám: Nước không có sự bất thiện. Nguyện thứ hai mươi chín: Trụ Chánh định tụ. Nguyện thứ ba mươi: Vui như lậu tận. Nguyện thứ thứ ba mươi mốt: Chẳng tham chấp thân]
Lúc tôi thành Phật, người sanh trong nước tôi thiện căn vô lượng, đều được thân Kim Cang Na La Diên, sức kiên cố, thân và đảnh đều có quang minh chiếu rực, thành tựu hết thảy trí huệ, đạt được vô biên biện tài, khéo bày các pháp bí yếu, thuyết kinh, hành đạo tiếng vang như chuông. Nếu chẳng được vậy chẳng giữ ngôi Chánh giác.
  • [Nguyện thứ ba mươi hai: Được thân Na La Diên. Nguyện thứ ba mươi ba: Quang minh, trí huệ, biện tài. Nguyện thứ ba mươi bốn: Khéo bàn pháp yếu].
Lúc tôi thành Phật, tất cả chúng sanh, sanh trong nước tôi rốt ráo ắt đạt bậc Nhất sanh bổ xứ, ngoại trừ (những người có) bổn nguyện vì chúng sanh mà mặc giáp hoằng thệ, hóa đạo hết thảy hữu tình khiến chúng đều phát tín tâm, tu Bồ đề hạnh, hành Phổ Hiền đạo. Tuy sanh trong thế giới phương khác, nhưng vĩnh viễn thoát khỏi đường ác, hoặc thích thuyết pháp, hoặc thích nghe pháp, hoặc hiện thần túc, tùy ý tu tập không gì chẳng viên mãn. Nếu chẳng được vậy chẳng giữ ngôi Chánh giác.
  • [Nguyện thứ ba mươi lăm: Nhất sanh bổ xứ. Nguyện thứ ba mươi sáu: Giáo hóa tùy ý].
Lúc tôi thành Phật, người sanh trong nước tôi, tất cả thức ăn, y phục, các thứ vật cúng, nghĩ tới liền có, không điều gì chẳng được mãn nguyện. Mười phương chư Phật ứng niệm nhận lấy sự cúng dường của người ấy. Nếu chẳng được vậy chẳng giữ Chánh giác.
  • [Nguyện thứ ba mươi bảy: Y thực tự đến. Nguyện thứ ba mươi tám: Ứng niệm thọ cúng]
Lúc tôi thành Phật, vạn vật trong nước nghiêm tịnh, quang lệ, hình sắc thù đặc, cùng vi cực diệu, chẳng thể tính kể. Các chúng sanh tuy có thiên nhãn mà có thể phân biệt được hình sắc, quang tướng, danh số và nói tổng quát được (những sự trang nghiêm ấy), thì chẳng giữ Chánh giác.
  • [Nguyện thứ ba mươi chín: Trang nghiêm vô lượng].
Lúc tôi thành Phật, cây cối trong cõi nước có vô lượng màu hoặc cao đến trăm ngàn do tuần; cây đạo tràng cao bốn trăm vạn dặm. Trong các Bồ tát, dù kẻ thiện căn kém cỏi vẫn có thể biết rõ. Muốn thấy sự trang nghiêm nơi Tịnh Độ chư Phật thì đều thấy rõ nơi thân cây ấy như nơi gương sáng thấy rõ vẻ mặt. Nếu chẳng được vậy chẳng giữ lấy Chánh giác.
  • [Nguyện thứ bốn mươi: Cây vô lượng sắc. Nguyện thứ bốn mươi mốt: Nơi cây hiện cõi Phật]
Lúc tôi thành Phật, cõi Phật tôi ở rộng rãi nghiêm tịnh, sáng ngời như gương, chiếu tỏ mười phương vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn thế giới của chư Phật. Chúng sanh trông thấy sanh tâm hy hữu. Nếu chẳng được vậy chẳng giữ Chánh giác.
  • [Nguyện thứ bốn mươi hai: Chiếu tỏ mười phương].
Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu quán, ao chảy, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy chẳng giữ Chánh giác.
  • [Nguyện thứ bốn mươi ba: Hương báu xông khắp].
Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ tát trong các cõi nước mười phương nghe danh hiệu tôi xong ắt đều đạt được thanh tịnh, giải thoát. Phổ đẳng tam muội, các tổng trì sâu, trụ tam ma địa thậm chí thành Phật. Trong định thường cúng dường vô lượng vô biên hết thảy chư Phật, chẳng mất định ý. Nếu chẳng được vậy chẳng giữ Chánh giác.
  • [Nguyện thứ bốn mươi bốn: Phổ đẳng tam muội. Nguyện thứ bốn mươi lăm: Trong định cúng Phật].
Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc Đà la ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ tát hạnh, đầy đủ cội đức, ngay lập tức nếu chẳng đạt được một, hai hay ba thứ nhẫn, với các Phật pháp chẳng thể chứng ngay được bất thoái chuyển thì chẳng giữ Chánh giác.
  • [Nguyện thứ bốn mươi sáu: Đắc Đà la ni. Nguyện thứ bốn mươi bảy: Nghe hồng danh đắc Nhẫn. Nguyện thứ bốn mươi tám: Chứng bất thoái trong hiện đời].


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bốn Mươi Tám Đại Nguyện Của Phật A Di Đà

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

LƯỢC GIẢNG
Chánh Kinh:

Pháp Tạng bạch ngôn: "Duy nguyện Thế Tôn đại từ thính sát, ngã nhược chứng đắc Vô thượng Bồ đề, thành Chánh giác dĩ, sở cư Phật sát, cụ túc vô lượng, bất khả tư nghị, công đức trang nghiêm. Vô hữu địa ngục, ngạ quỉ, cầm thú, quyên phi nhuyễn động chi loại. Sở hữu nhất thế chúng sanh, dĩ cập Diệm Ma La giới, tam ác đạo trung, lai sanh ngã sát, thọ ngã pháp hóa, tất thành A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề, bất phục cánh đọa ác thú. Đắc thị nguyện, nãi tác Phật, bất đắc thị nguyện, bất thủ Vô thượng Chánh giác.

  • [Quốc vô ác đạo, đệ nhất nguyện. Bất đọa ác thú, đệ nhị nguyện].
Nếu tôi chứng được Vô thượng Bồ đề, thành Chánh giác rồi, thì cõi nước tôi ở sẽ đầy đủ vô lượng công đức, trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn, không có địa ngục, ngạ quỷ, cầm thú, các loài ngọ nguậy, bay lượn, bò trườn. Tất cả hết thảy chúng sanh cho đến những kẻ từ trong cõi Diệm Ma La, trong ba đường ác, sanh sang cõi tôi, nhận pháp hóa của tôi ắt thành A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề, chẳng đọa vào đường ác nữa. Nguyện được như thế mới làm Phật. Chẳng thỏa nguyện ấy, chẳng giữ lấy ngôi Chánh giác.
  • [Nguyện thứ nhất: Cõi nước không có ác đạo. Nguyện thứ hai: Chẳng đọa đường ác].
Giải:

Bốn câu đầu bao trùm các đại nguyện: Nguyện lúc tôi thành Phật, cõi nước tôi ngự có đầy đủ vô lượng (không thể dùng con số nào để biểu thị nổi) công đức thắng diệu, đầy đủ vô lượng thanh tịnh trang nghiêm, "đầy đủ" là chứa đựng trọn vẹn, không khiếm khuyết, thiếu sót. Những công đức trang nghiêm ấy không thể nghĩ bàn: siêu tình lý kiến, chẳng thể suy lường, phân biệt mà biết nổi được, chẳng thể dùng văn tự, ngôn ngữ diễn tả được nên gọi là "chẳng thể nghĩ bàn".

Vì vậy, bốn câu này được đặt ở đầu lời nguyện để biểu thị: không nguyện nào trong bốn mươi tám nguyện sẽ được trình bày dưới đây lại chẳng giống như vậy. Mỗi mỗi nguyện đều vì chúng sanh, mỗi mỗi nguyện đều hiển hiện bổn tâm diệu minh của Phật A Di Đà, mỗi mỗi sự tướng đều là thanh tịnh cú, đều là chân thật trí huệ vô vi Pháp thân.

Đoạn văn kế tiếp nối: Trong cõi nước tôi không có ba ác đạo: địa ngục, ngạ quỷ và bàng sanh.

"Địa ngục" là tiếng Hán, tiếng Phạn là na lạc ca (naraka), nê lê. Nê lê có bốn nghĩa:, chẳng vui sướng nổi, chẳng cứu vớt nổi, tối tăm và địa ngục. Theo Bà Sa Luận ghi thì: "Phía dưới Thiệm Bộ Châu năm trăm du thiên na có địa ngục. Du thiên na là do tuần, là cách người Thiên Trúc tính số dặm". Bản chú giải kinh Duy Ma của ngài Tăng Triệu ghi: "Thượng do tuần là sáu mươi dặm, trung do tuần là năm mươi dặm, hạ do tuần là bốn mươi dặm".

Chúng ta thường nói địa ngục là chỉ cái ngục ở dưới đất, nhưng thật ra địa ngục chẳng phải chỉ ở dưới đất, trên núi, hoặc bên bờ biển cả, hoặc trong đồng hoang, dưới cội cây, giữa không trung đều có địa ngục.

Theo kinh Lương Hoàng Sám, Phẩm số 8 nói về địa ngục: "Kinh nói, cái quãng hắc ám nhất, nằm giữa vòng núi Tu Di của Đại thiên thế giới, là cảnh giới địa ngục. Thành ngục bằng sắt, dọc ngang rộng đến một ngàn sáu trăm dặm. Trong thành có tám vạn bốn ngàn ngăn. Dưới thành là đất sắt, trên thành là lưới sắt. Lửa nung lên thì thành ấy trong ngoài đều đỏ rực. Lửa ở trên xông xuống sát đất, lửa ở dưới cũng xông lên sát trời. Trong địa ngục đó có nhiều ngục khác có những tên khác nhau biểu lộ những hình cụ và cực hình trong đó (xin xem kinh Lương Hoàng Sám). Nhưng đáng sợ nhất là dịa ngục A Tỳ.

Ngục ấy dọc ngang có ba mươi hai vạn dặm, bao quanh bởi bảy lớp thành sắt và bảy lớp lưới sắt. Trong có mười tám ngăn, ngăn nào cũng bao bọc bởi bảy lớp rừng đao. Trong bảy lớp thành lại có bảy lớp rừng kiếm. Dưới có mười tám ngăn, mỗi ngăn có tám vạn bốn ngàn lớp. Bốn góc có bốn con chó đồng, thân hình cao lớn một vạn sáu ngàn dặm, mắt như sấm chớp, nanh như cây kiếm, răng như núi đao, lưỡi như mũi sắt, lông phát lửa mạnh, khói rất hôi thối, thế gian này không có hơi thối nào sánh bằng.

Lại có mười tám ngục tốt, đầu như đầu La sát, miệng như miệng Dạ xoa, mắt có tám mươi bốn con, ria ra những viên sắt nóng, lớn và nhanh như xe chạy cả chục dặm. Nanh như câu sắt, vểnh lên cao một trăm sáu mươi dặm. Đầu nanh lóe lửa, đốt đỏ xe sắt dằng trước, làm cho mỗi vành của bánh xe ấy biến thành mười vạn đao lửa, kiếm kích sắt nhọn đều từ trong lửa ấy tuôn ra. Thác lửa như vậy thiêu đốt thành ngục A Tỳ làm cho thành ấy đỏ như đồng nung... Cực hình trong ngục A Tỳ có đến tám ngàn tỷ. Tất cả cực hình khốc liệt nhất trong các cực hình đều tập hợp ở đây...
".

Vì sao gọi là A Tỳ? Phật dạy tôn giả A Nan rằng:
  • - A là không, Tỳ là cản, cứu. A Tỳ là tội báo không thể cản trở hay cứu giúp.

    - A là thân mỗi tội nhân đầy cả địa ngục, không có chỗ hở, Tỳ là lòng các ngục tốt tàn nhẫn cực độ, không một chút động tâm.

    - A là rất nóng, Tỳ là rất khổ.

    - A là chịu khổ không có khoảng cách thời gian, Tỳ là chịu khổ không thể đứng yên một chỗ.

    - A là ngọn lửa rất lớn, Tỳ là sức nóng dữ dội: lửa nóng cháy đến tâm can thì gọi là A Tỳ địa ngục.
Tiện đây xin được nói thêm về Ngũ Nhân và Ngũ Quả của A Tỳ địa ngục để quý đạo hữu rộng đường tham cứu.

Ngũ Vô Gián Quả
  • 1. Thì vô gián
    2. Hình vô gián
    3. Thọ khổ vô gián.
    4. Thú quả vô gián.
    5. Mệnh vô gián.
Ngũ Vô Gián Nhân
  • 1. Bất hiếu với cha mẹ, hoặc giết hại cha mẹ.
    2. Suất Phật thân huyết:
    • a. Đập bể tượng Phật.
      b. Hủy báng Tam Bảo
      c. Bất kính Tôn kinh.
    3. Xâm tổn thường trú:
    • a. Xâm phạm tài sản của chùa.
      b. Điếm ô Tăng Ni.
      c. Sát hoặc hai Tăng Ni.
      d. Già lam nội tứ hành dâm dục.
    4. Ngụy tác Sa môn:
    • a. Tâm phi Sa môn.
      b. Phá dụng thường trú.
      c. Khi cuốn bạch y.
      d. Vi bội giới luật.
      e. Chủng chủng tạo ác.
    5. Thâu nhiếp thường trú.
NÓI RÕ VỀ NGŨ QUẢ VÔ GIÁN
1. Thì vô gián: Kẻ bị đọa địa ngục vô gián sẽ ở đó mãi đến nghìn muôn ức kiếp không lúc nào mong ra khỏi được.

2. Hình thể vô gián: Thân hình của tội nhân nằm trên một cái giường sắt nung đỏ, chung quanh đều có lửa phun, giường rộng hàng muôn dặm, thân hình của tội nhân nằm lên thấy đầy cả giường, một người cũng cảm đầy như vậy, mà nghìn người cũng đầy như vậy, không thấy chi trở ngại.

3. Thọ khổ vô gián: Tội nhân phải chịu hình phạt liên tục không ngừng nghỉ, hết cưa thì đến nấu dầu sôi v.v...; cầu tạm ngừng sự đau khổ chừng một niệm cũng không được.

4. Thú quả vô gián: Thú là đi đến để chịu hình phạt (quả báo) không luận trời, rồng, trai giái, già trẻ, sang hèn, kinh thượng, vua dân, hễ gây tội ác thì theo đó mà nhận lấy.

5. Mệnh vô gián: Một khi đã bị đọa vào địa ngục này, từ khi mới vào cho đến trăm ngàn kiếp, mỗi một ngày đêm tội nhân chịu sự sống chết muôn vạn lần. Vừa chết thì gió nghiệp thổi qua liền sống lại để chịu hình phạt tiếp tục, muốn cầu tạm ngừng chừng một niệm cũng không được; trừ khi tội nghiệp tiêu hết mới được thọ sanh. Do vì lẽ liên miên mãi nên gọi là vô gián. Một ngày một đêm ở địa ngục bằng một ngàn sáu vạn năm ở dương gian; một tiểu kiếp = 16 triệu 800 năm; một trung kiếp = 3 tiểu kiếp; một đại kiếp = 3 trung kiếp. Một ngày đêm ở A Tỳ địa ngục = 60 tiểu kiếp ở dương thế (60 tiểu kiếp = 1.008.000.000 năm), tội nhân ở A Tỳ địa ngục phải sống một đại kiếp.

Ngoài ra các khí cụ dùng để hành tội nhân nhiều vô kể, dù cho đến cả một kiếp cũng không thể nói cho hết được.

Tại sao bất kính Tôn kinh là phạm tội? Bởi vì kinh điển là Pháp bảo, là chư Phật Chơn Pháp thân. Chư Phật nhờ y vào pháp mà tu chứng thành Phật và được Pháp thân huệ mạng. Pháp Vi Phật Mẫu: Y pháp tu hành mà được chứng ngộ, được ra khỏi tam giới, thành Phật.

Tại sao xâm tổn của thường trú là tội nặng? Thường trú là các Tăng Ni ở luôn trong chùa, xâm là xâm phạm, tổn là tổn hại. Của thường trú là của do đàn na thí chủ cúng dường cho chư Tăng Ni dùng để làm phương tiện tu hành, mà mình lấy làm của riêng hay sử dụng một cách phí phạm thì đó là một trọng tội. (Đàn việt họ cúng dường phương tiện cho mình tu hành là họ muốn châm một chút dầu vào ngọn đèn chánh pháp, để cho chánh pháp mãi mãi trường tồn; do đó khi thọ của cúng dường, Tăng Ni phải tinh tấn tu hành để mà pháp thí lại cho đàn việt).

Khi cuốn bạch y: Là khinh khi, dối gạt hàng cư sĩ "giả trang thiền tướng cầu bỉ cung kính".

Điểm ố Tăng Ni: Là làm hại thanh danh của Tăng Ni, ô nhục Tăng Ni, vì Tăng Ni thường tu Phạm hạnh: Thanh tịnh hạnh: dứt trừ ái dục không còn dính mắc.

Già lam nội tứ hành dâm dục: Tứ ở đây là phóng tứ: buông lung, không kỷ cương, thích làm là làm, không kể sống chết. Làm chuyện nam nữ trong đất già lam.

Diêm vương xưa kia là vua Tỳ Sa chiến tranh với vua Duy Đà bị thua trận hoài nên phát lời thề làm Chúa ngục để trả thù, mười tám đại thần là mười tám vị chúa ngục, còn quân lính là ngưu đầu, mã diện... Diêm vương dưới quyền thống lãnh của Đa Văn Thiên vương phía Bắc [Trì Quốc (Đông), Quảng Mục (Tây), Tăng Trưởng (Nam), Đa Văn (Bắc)].

"Kinh Trường A Hàm nói, chỗ của Diêm vương ở là phía Nam Châu Diêm Phù, trong núi kim cang, cung điện dọc ngang đến sáu ngàn dặm. Kinh thuyết về địa ngục nói, cung điện ấy ở ngay trong địa ngục, rộng đến ba vạn dặm, dựng lên bằng đồng và sắt. Mỗi một ngày đêm, ba lần có cái vạc đồng cực lớn, trong chứa đầy đồng sôi, tự nhiên hiện ra trước mặt Diêm vương. Một ngục tốt to lớn nhất, vật ngã Diêm vương trên giường sắt nóng, dùng móc sắt vạch miệng ra, đổ đồng sôi vào, làm cho Diêm vương từ cổ suốt xuống đều cháy tất cả, mười tám đại thần, tức mười tám chúa ngục cũng bị cực hình như vậy".

Mười tám ngục ấy là:
  1. Ca Diên quản ngục Nê Lê.
  2. Khuất Tôn quản ngục Núi đao.
  3. Phất Thọ quản ngục Cát nóng.
  4. Phất Khúc quản ngục Phân sôi.
  5. Ca Thế quản ngục Tai đen.
  6. Hạp Sai quản ngục Xe lửa.
  7. Thang Vị quản ngục Vạc sôi.
  8. Thiết Ca quản ngục Giường sắt.
  9. Ác Sanh quản ngục Núi ép.
  10. Thân Ngâm quản ngục Băng lạnh.
  11. Tì Ca quản ngục Lột da.
  12. Diêu Đầu quản ngục Bàng sanh.
  13. Đề Bạc quản ngục Binh đao.
  14. Di Đại quản ngục Cối sắt.
  15. Duyệt Đầu quản ngục Sông tro.
  16. Xuyên Cốt quản ngục Roi sắt.
  17. Danh Thân quản ngục Dòi trùng.
  18. Quán Thân quản ngục Đồng sôi.
Những ngục như thế này còn có vô số địa ngục phụ thuộc khác nữa và mỗi ngục cũng có một viên chúa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bốn Mươi Tám Đại Nguyện Của Phật A Di Đà

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Nói chung thì địa ngục có ba loại:
  • a. Căn Bản địa ngục:
Tức là tám đại địa ngục và tám dịa ngục lạnh. Nói tám địa dịa ngục là so với tám địa ngục lạnh mà nói, chúng cũng gọi là tám địa ngục nóng. Phía dưới Thiệm Bộ Châu năm trăm do tuần có địa ngục tên là Đẳng Hoạt. Từ đấy, lần lượt tính xuống đến địa ngục thứ tám tên là Vô gián. Tám địa ngục ấy chồng lên nhau theo chiều dọc. Theo Luận Câu Xá cũng như Đại Luận, tám ngục đó là:
  • (1) Đẳng Hoạt địa ngục: Tội nhân ở đó bị đâm, chém, xay, giã, khổ quá chết đi, chợt có cơn gió lạnh thổi qua, thịt da sanh lại, sống lại như trước (nên có tên là Đẳng Hoạt: sống lại như trước).

    (2) Hắc Thằng địa ngục: Trước hết dùng những sợi dây đen trói chặt thân hình tội nhân, rồi mới cưa, chém.

    (3) Chúng Hợp địa ngục: Nhiều thứ hình cụ độc ác cùng xô đến ép thân.

    (4) Hiệu Khiếu địa ngục: Bị các khổ bức bách rú lên những tiếng đau đớn, than oán.

    (5) Đại Khiếu địa ngục: Bị khổ sở quá mức, vang tiếng kêu khóc ầm ỉ.

    (6) Viêm Nhiệt địa ngục: Lửa bốc từ trong thân cháy ra, ngọn lửa tỏa khắp, cái khổ vì nóng bức khó lòng chịu đựng nổi.

    (7) Đại Nhiệt địa ngục: Sức nóng dữ dội nhất nên gọi là Đại Nhiệt.

    (8) Vô Gián địa ngục: Chịu khổ không gián đoạn, không lúc nào ngớt.
Phía ngoài tám địa ngục trên lại có tám địa ngục lạnh:
  • (a) Ngạch Bộ Đà: Tàu dịch là Pháp (phồng rộp lên). Thân bị rét cóng nên thân thể sưng phồng lên.

    (b) Nê Lạt Bộ Đà: Thân bị rét quá mình mẩy bị nứt nẻ, vỡ ra.

    (c) A La La: Bị lạnh quá, răng khua lộp cộp, phát ra tiếng rên hừ hừ.

    (d) A Bà Bà: (cũng như trên).

    (e) Hổ Hổ Bà: (cũng như trên).

    (f) Ốt Bát La (Hoa sen xanh): Bị lạnh quá mức, mình mẩy nứt gẫy, da vênh lên như cánh sen xanh.

    (g) Bát Đặc Ma (Hoa sen đỏ): Thân thể gẫy nát (tươm máu) như hoa sen hồng.

    (h) Ma Ha Bát Đạc Ma (Hoa sen đỏ lớn): Thân thể gẫy nát như hoa sen đỏ lớn.

    b. Mười Sáu Du Tằng địa ngục:
Trong số tám đại địa ngục nói trên, mỗi địa ngục đều có bốn cửa. Ngoài mỗi cửa lại có bốn tầng ngục phụ mang tên:
  • - Đường Ôi Tằng: Tầng địa ngục nung vùi trong tro nóng.
    - Phẩn Tằng: Tầng ngục phân dơ.
    - Phong Nhận Đao Tằng: Tầng ngục đầy mũi gươm đao sắc nhọn.
    - Liệt Hà Tằng: Tầng ngục sông sôi sùng sục.
Tổng cộng là mười sáu tầng, gọi chung là mười sáu du tằng địa ngục. Tính ra, tám địa địa ngục có tất cả một trăm hai mươi tám địa ngục phụ, cũng gọi là cận biên địa ngục.
  • c. Cô Độc địa ngục:
Ở giữa núi, đồng hoang, cội cây, không trung. Loại này có vô số, chịu khổ vô lượng. Khổ quả trong địa ngục là nặng nề nhất, một ngày đến tám vạn bốn ngàn lần chết đi sống lại, trải qua vô lượng kiếp. Sách Phụ Hành Ký nói: "Tạo tội ngũ nghịch, thập ác nặng nhất thì chiêu cảm lấy [quả địa ngục].

Còn bọn ngục tốt đầu trâu thì tánh khí thật là hung tàn bạo ngược, không có một chút từ tâm hay trắc ẩn. Thấy tội nhân chịu cực hình của tội báo, chúng chỉ lo họ không đau đớn, không khốc liệt. Ai hỏi chúng, người ta chịu khổ như vậy là đáng xót thương, vậy mà tại sao anh vẫn độc ác mãi, không một chút động lòng? Chúng đáp: những kẻ tội ác chịu khổ như thế này đây là kẻ bất hiếu cha mẹ, phỉ báng Phật, phỉ báng Pháp, phỉ báng Tăng, nhục mạ lục thân, khinh Sư trưởng, hãm hại mọi người, nói thô ác, nói hai lưỡi, dua nịnh, ganh ghét, làm cho người khác cốt nhục phân ly, giận dữ, tàn sát, tham vọng, xảo trá, mưu sống phi chánh pháp, mưu cầu phi chánh pháp, kiến thức phi chánh pháp, nhác, phóng túng, kết oán gây thù. Những kẻ như vậy đến chịu khổ ở đây, mỗi khi được ra chúng tôi đã khuyên rằng, chốn này khổ lắm, không thể chịu nổi, anh đã được phóng thích thì đừng tạo nguyên nhân vào đây nữa. Ấy vậy mà tội nhân này có bao giờ hối cải. Mới được ra đã thấy trở vào. Luân hồi như vậy mà chúng không biết khổ. Chúng làm cho gân sức chúng tôi mệt nhọc vì chúng. Hết đời này đến kiếp khác, luôn luôn chúng tôi phải đụng đầu với chúng. Vì vậy mà với tội nhân này chúng tôi chúng tôi không còn chút từ tâm nào. Chúng tôi phải cố hành phạt cho khốc liệt là mong chúng biết khổ, để rồi biết xấu, biết hổ mà không còn trở lại. Nhưng, xem ra bọn này, khổ đến mấy, chúng cũng không bao giờ chịu tránh. Chúng thật không muốn lành lành, quay về đường hướng Niết Bàn. Chúng thật là vô tri, không biết tránh khổ cầu vui, không biết nhớ cái lý do tại sao sự thống khổ ở đây khốc liệt gấp mấy nhân gian. Như vậy làm sao chúng tôi còn có thể từ tâm, trắc ẩn đối với chúng?
" (Kinh Lương Hoàng Sám).

Theo sách Đại Thừa Nghĩa Chương, chữ "ngạ quỷ" được giảng như sau: "Do cầu nơi người khác nên gọi là ngạ quỷ. Lại thường đói khát nên gọi là ngạ; khủng khiếp, lắm điều sợ hãi nên gọi là quỷ".

Bà Sa Luận chép: "Quỷ là sợ, tức là khủng khiếp lắm điều sợ hãi. Quỷ cũng có nghĩa là uy vì có thể làm cho kẻ khác sợ cái uy của mình. Lại do mong cầu nên gọi là quỷ, tức là loài ngạ quỷ thường đi theo người khác, mong được thức ăn để duy trì tánh mạng". Luận còn viết thêm: "Có thuyết bảo chúng do đói khát dữ dội nên gọi là quỷ. Do chúng bo bo tích góp nên cảm cái nghiệp đói khát. Trong trăm ngàn năm chẳng được nghe đến cái tên của nước uống, huống hồ là được thấy hay là chạm được: Có thuyết bảo chúng bị xua đuổi nên gọi là quỷ, ở nơi nào cũng bị chư thiên xua đuổi.

Loài ngạ quỷ có mặt khắp mọi nơi. Kẻ nào có phước đức thì làm thần trong rừng núi, gò mả, miếu thờ. Kẻ không phước đức ở chỗ chẳng sạch, không có thức ăn, luôn bị đánh đập, chịu khổ vô lượng. Sách Phụ Hành Ký nói: "Hạ phẩm ngũ nghịch, thập ác cảm lấy [ngạ quỷ]".

Chữ "Bàng sanh" là các loài sanh vật thân hình nằm ngang. Tần Bà Sa Luận nói: "Thân hình chúng nằm ngang, nên đi cũng ngang. Hoặc do đi ngang nên thân hình cũng nằm ngang. Vì vậy, chúng được gọi là Bàng sanh". Bàng sanh có nghĩa là nằm ngang. Sách Hội Sớ nói: "Loài này có mặt ở khắp nơi: đeo lông, đội sừng, vảy, mai, lông mao, lông vũ, bốn chân, nhiều chân, sống dưới nước, trên mặt đất, bay trên không, ăn nuốt lẫn nhau, chịu khổ vô lượng". Sách Phụ Hành Ký bảo: "Tạo ngũ nghịch, thập ác bậc trung cảm lấy quả này".

"Ba đường ác" còn gọi là "tam ác thú" hay "tam đồ" là chỗ sanh về của hết thảy chúng sanh tạo nghiệp, nên gọi là "ác đạo". Ba đường: địa ngục, ngạ quỷ và bàng sanh. Phẩm Phương Tiện của kinh Pháp Hoa có câu: "Do nhân duyên các dục, đọa lạc tam ác đạo", nghĩa là: nếu chúng sanh trong tâm có ý niệm tham cầu dục lạc, ngoài nắm lấy dục cảnh làm duyên, thì do nhân duyên ấy khởi niệm tạo ác; cuối cùng sẽ đọa ác đạo.

"Nguyện chẳng có địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh" đó là nguyện cõi nước không có ác đạo. Nguyện này thật sự thể hiện đức Di Đà do tâm đại bi tha thiết nên ngay trong hai nguyện đầu đã chỉ mong chúng sanh không khổ. Cái khổ trong ác đạo là cái khổ nặng nề nhất.

"Nguyện chẳng đọa vào đường ác" hoặc còn gọi là "nguyện chẳng đọa vào đường ác lần nữa, nguyện này tiếp ý nguyện thứ nhất: cõi nước ta chẳng những không có ba đường ác mà thậm chí hết thảy chúng sanh từ trong cõi ác đạo sanh về cõi ta, nhận lãnh sự giáo hóa của Phật thì chẳng những chỉ vĩnh viễn chẳng bị sanh vào ác đạo lần nữa mà còn đều thành A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề.

Sách Pháp Hoa Huyền Táng giảng: "A là vô, nậu đa la: thượng, tam là chánh, miệu là đẳng, Bồ đề là giác; tức vô thượng chánh đẳng chánh giác". Đại Trí Độ Luận có câu: "Chỉ có trí huệ của Phật là A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề".

Chúng sanh trong ác đạo thiện căn kém cỏi, lại lắm túc nghiệp, được nhờ nguyện lực của Phật gia bị, nhiếp thọ vãng sanh, sanh sang cõi kia rồi thảy đều thành A bệ bạt trí và sẽ chứng Phật quả. Đây thật là Thánh nguyện vô thượng từ bi đến cùng cực của Di Đà Như Lai; chúng sanh từ trong đường ác mang theo nghiệp vãng sanh, vốn đầy dẫy ác nghiệp, đáng lẽ đọa ác đạo, nhưng nhờ Di Đà nguyện lực gia trì, nên vãng sanh Cực Lạc. Chẳng đọa tam đồ nữa nên bảo là: "chẳng đọa đường ác".

Chương này gồm có hai nguyện thù thắng:
  • 1. Chúng sanh trong đường ác cũng được vãng sanh Cực Lạc, chẳng bị đọa vào ác thú nữa, biểu thị Di Đà bi tâm vô tận, hóa độ không sót.

    2. Hễ được vãng sanh thảy đều thành A bệ bạt trí và sẽ đạt được quả Bồ đề.
Do vậy, ta thấy được tấm lòng của đức Từ phụ Di Đà Như Lai: niệm niệm đều nguyện chúng sanh thành Phật. Nguyện này đã thành tựu, đủ chứng tỏ trí huệ công đức, uy thần, lực dụng của Phật A Di Đà chẳng thể nghĩ bàn.

Cuối đoạn kinh trên có câu: "Nguyện được như thế mới làm Phật, chẳng thỏa nguyện này, chẳng giữ lấy ngôi Vô thượng Chánh giác", ý nói: nguyện này thành tựu, tôi (Pháp Tạng Bồ tát) mới thành Phật. Nếu nguyện này chẳng thành, tôi sẽ chẳng thành Phật.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bốn Mươi Tám Đại Nguyện Của Phật A Di Đà

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chánh Kinh:

Ngã tác Phật thời, thập phương thế giới, sở hữu chúng sanh, linh sanh ngã sát, giai cụ tử ma chân kim sắc thân, tam thập nhị chúng, đại trượng phu tướng, đoan chánh tịnh khiết, tất đồng nhất loại. Nhược hình mạo sai biệt, hữu hảo xú giả, bất thủ Chánh giác.

  • [Thân tất đắc kim sắc, đệ tam nguyện. Tam thập nhị tướng, đệ tứ nguyện. Thân vô sai biệt, đệ ngũ nguyện].
Lúc tôi thành Phật, khiến cho tất cả chúng sanh trong mười phương thế giới sanh trong cõi nước tôi, đều được đầy đủ thân sắc vàng ròng, trau dồi sáng bóng, ba mươi hai tướng đại trượng phu đoan chánh, tịnh khiết, giống hệt như nhau. Nếu họ hình dáng sai khác, có xấu đẹp, thì chẳng giữ ngôi Chánh giác.
  • [Nguyện thứ ba: Được thân kim sắc. Nguyện thứ tư: Đủ ba mươi hai tương tốt. Nguyện thứ năm: Thân không có sai khác].
Giải:

Chương này có ba nguyện:

Câu: "khiến cho tất cả chúng sanh trong mười phương thế giới sanh trong cõi nước tôi, đều được đầy đủ thân sắc vàng ròng" là nguyện thứ ba. Sanh về cõi ấy rồi, thân đều có màu như màu vàng ròng. Màu vàng ròng là màu nơi thân Như Lai. Đại sư Thiện Đạo nói: "Chư Phật muốn hiển thị tướng thường trụ bất biến nên hiện ra thân sắc hoàng kim". Đại sư Nhật Khê bảo: "Màu đỏ tiêu biểu cho Thật tướng".

Nay trong đại nguyện này, Phật muốn khiến hết thảy chúng sanh đã vãng sanh đều có thân tướng giống như thân Phật, đều có màu vàng ròng để hiển thị chúng sanh và Phật bất nhị, chơn thật bình đẳng. Vì vậy sách Hội Sớ viết: "Do đó, nguyện rằng nhân dân trong cõi tôi thuần một sắc vàng, chẳng có xấu, đẹp, ta và người đều bình đẳng, dứt tuyệt ý tưởng trái thuận". Thuyết của sách Hội Sớ đã trình bày rõ ý nghĩa của Trung Đạo Tướng.

"Ba mươi hai tướng đại trượng phu". Người trong cõi nước ấy đều có đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, đây là nguyện thứ tư. Ba mươi hai tướng đại trượng phu còn gọi là ba mươi hai tướng đại nhân. Chuyển Luân Thánh vương cũng có ba mươi hai tướng đại trượng phu này nhưng không bằng tướng của Phật. Trí Độ Luận quyển 88 nói Phật hiện ra ba mươi hai tướng đại nhân là vì "thuận theo quan niệm của người ở trong cõi Diêm Phù Đề". Thuyết này rất tuyệt, Phật vốn ly tướng lại hiện có tướng là thuận theo tập tục thế gian.

Sách Pháp Giới Thứ Đệ quyển Hạ nói: "Nơi thân ứng hóa của đức Như Lai thị hiện ba mươi hai tướng để biểu thị Pháp thân có đủ các đức viên mãn đến cùng cực, khiến cho người trông thấy yêu kính, biết Phật có đức hạnh thù thắng đáng tôn sùng, là bậc tôn quí trong Trời, người, là vua của chư Thánh". Theo Tam Tạng Pháp Số, quyển 48, ba mươi hai tướng:
  1. Bàn chân bằng phẳng, lòng bàn chân không có chỗ lõm xuống.
  2. Tướng bánh xe ngàn căm: dưới bàn chân có hình bánh xe.
  3. Ngón tay dài, thon nhọn.
  4. Chân tay mềm mại.
  5. Chân tay có màn lưới: giữa các ngón chân, tay có mạng lưới nối liền nhau như chân vịt.
  6. Gót chân đầy đặn không khuyết.
  7. Lưng bàn chân vun tròn: mu bàn chân cao đầy, tròn trịa.
  8. Bắp đùi nai chúa: đùi Phật tròn trịa, nuột nà như bắp đùi nai chúa.
  9. Tay dài quá gối.
  10. Mã âm tàng: Nam căn của Phật ẩn kín trong thân thể như âm ngựa.
  11. Thân to rộng: chiều cao của Phật bằng khoảng cách hai tay dang ra.
  12. Lỗ chân lông có sắc xanh, nơi mỗi lỗ chân lông có mọc một sơi lông sắc xanh, nhưng các sợi lông không có mọc loạn xị.
  13. Lông trên thân mướt đẹp: lông trên thân mọc xoáy về phía phải, hướng lên trên, mượt mà.
  14. Thân sắc vàng.
  15. Thường quang chiếu xa một trượng: thân Phật tỏa quang minh, mỗi phía đều xa đến một trượng.
  16. Da dẽ mềm mại, mượt mà.
  17. Bảy chỗ bằng phẳng: hai lòng bàn chân, hai lòng bàn tay, hai vai và đảnh đầu đều đầy đặn không khuyết hãm.
  18. Hai nách đầy đặn.
  19. Thân như sư tử: thân thể đầy đặn, đẹp uy nghi như sư tử chúa.
  20. Thân thể đoan trực (không cong vẹo).
  21. Hai vai tròn đầy.
  22. Bốn mươi cái răng.
  23. Răng trắng, khít, bằng phẳng.
  24. Bốn răng nanh lớn trắng sạch.
  25. Hai gò má tròn đầy như tướng gò má sư tử.
  26. Nước miếng có vị ngon ngọt nhất: trong cổ họng Phật thường có chất nước miếng khiến cho ăn vật gì cũng trở thành ngon thơm nhất.
  27. Lưỡi rộng dài: lưỡi to mà dài, mềm mại, khi thè ra che cả khuôn mặt đến tận mí tóc.
  28. Phạm âm vang sâu xa: Phạm nghĩa là thanh tịnh. Âm thanh của Phật nghe rất thanh tịnh và vang rất xa.
  29. Mắt có màu cám thanh: tròng con mắt có màu xanh biếc hơi pha sắc đỏ.
  30. Lông mi mắt đẹp như lông mi mắt trâu chúa.
  31. Giữa hai chân mày có tướng bạch hào (có một sợi lông trắng) uyển chuyển cuộn về bên phải thường phóng quang minh.
  32. Trên đảnh có nhục kế: nhục kế tiếng Phạn là Ô sắc nị (usuni), trên đảnh Phật có thịt gồ cao lên như hình búi tóc, còn gọi là Vô Kiến Đảnh Tướng, (từ nhục kế tỏa ra hào quang vô lượng ngay cả những vị thập địa Bồ tát chỉ thấy nổi được một phần, ngoài ra không ai thấy được tướng trạng của nhục kế nên gọi là "vô kiến đảnh tướng". Trong kinh Bảo Tích có ghi ngài Mục Kiền Liên ỷ sức thần thông by lên không trung vượt qua vô lượng thế giới để nhìn cho rõ đảnh tướng của Phật, nhưng ngài vẫn không thấy được).
Sư Vọng Tây viết: "Do bởi nguyện ấy, các chúng sanh đã vãng sanh đều đủ các tướng, chẳng cần tu mà tự được. Hỏi: Sau khi hoa nở hay là trước khi hoa nờ, thì đầy đủ các tướng? Đáp: Chẳng đợi khi hoa nở, hễ sanh về đấy ắt liền có".

Nguyện kế tiếp theo đó là nguyện: "Thân không có sai biệt". Nguyện này nói rõ người trong cõi Cực Lạc có cùng một hình dạng như nhau không hề sai khác. Vì thế, Đại sư Đàm Loan nói: "Do chẳng giống nhau nên thân có quí, hèn. Do thân có quí, hèn nên thị phi sanh khởi. Thị phi đã khởi thì chìm đắm mãi trong ba cõi. Vì vậy, Phật hưng khởi lòng đại bi, khởi lên nguyện bình đẳng". Đại sư đã chỉ rõ nguyên nhân Phật phát khởi nguyện này.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bốn Mươi Tám Đại Nguyện Của Phật A Di Đà

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chánh Kinh:

Ngã tác Phật thời, sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, tự tri vô lượng kiếp thời túc mạng sở tác thiện ác, giai năng đỗng thị triệt thính, tri thập phương khứ lai hiện tại chi sự. Bất đắc thị nguyện, bất thủ Chánh giác.

  • [Túc mạng thông, đệ lục nguyện. Thiên nhãn thông, đệ thất nguyện. Thiên nhĩ thông, đệ bát nguyện].
Lúc tôi thành Phật, tất cả chúng sanh, sanh về nước tôi tự biết các việc thiện ác đã làm trong vô lượng kiếp, đều trông thấy rõ ràng, nghe rành rẽ, biết được các việc trong quá khứ, hiện tại, vị lai suốt mười phương. Nếu chẳng được như vậy, chẳng giữ ngôi Chánh giác.
  • [Nguyện thứ sáu: Đắc Túc mạng thông. Nguyện thứ bảy: Đắc Thiên nhãn thông. Nguyện thứ tám: Đắc Thiên nhĩ thông].
Giải:

Thông là nói tắt chữ "thần thông". Thần dị đến cùng cực, chẳng lường nổi công hạnh thì gọi là "thần". Làm gì cũng chẳng bị bế tắc, tự tại vô ngại thì là "thông". Sáu thứ thần thông thường gọi là lục thông, gồm có:
  • 1. Túc mạng thông.
    2. Thiên nhãn thông.
    3. Thiên nhĩ thông.
    4. Tha tâm thông.
    5. Thần túc thông (thần cảnh thông).
    6. Lậu tận thông.
Chư thiên trong tam giới do quả báo nên đều tự nhiên chiêu cảm được năm thứ thần thông đầu, thậm chí quỷ thần, cũng có chút thần thông, nhưng chẳng được lậu tận thông, chỉ bậc Thánh mới chứng nổi lậu tận thông, vì phải đoạn sạch mọi phiền não mới là lậu tận (lậu: phiền não, vô minh; tận: dứt sạch, tận trừ).

Cần lưu ý một điều là chúng sanh nơi Cực Lạc chứng được những thần thông vượt xa những thứ thần thông do Thiền định phát sanh như trong các kinh luận khác nói. Ví dụ: phàm phu đạt được túc mạng thông thì không thể biết được việc quá khứ lâu hơn tám vạn kiếp. Trong kinh này lại nói đến vô lượng kiếp là do chúng sanh nơi Cực Lạc nương vào sức bổn nguyện của Phật Di Đà mà đạt được thần thông Đại thừa bất cọng, nên vượt xa phàm phu lẫn Tiểu thừa. Chúng sanh ở cõi Cực Lạc chẳng do tu tập mà chứng đắc, chẳng đợi phải tu mới có, mà tự nhiên được thành tựu do lấy sức bổn nguyện của Phật Di Đà làm tăng thượng duyên như sách Sự Tán bảo: "Tam minh tự nhiên nương Phật nguyện; chắp tay giây lát đắc thần thông, há nào phải dựa vào sức thiền hữu lậu?".

Hơn nữa, thần thông của chư Phật, Bồ tát và Nhị thừa cũng có nhiều điểm sai khác. Sách Bình Giải dựa trên Đại Thừa Nghĩa Chương nêu ra những điểm sau:

1. Rộng, hẹp chẳng giống nhau: như kinh Địa Trí nói Thanh văn thấu rõ hai ngàn cõi nước, Duyên giác thấu rõ sáu ngàn cõi nước, kinh đây bảo thấy trọn ức na do tha trăm ngàn cõi Phật, đủ thấy sự khác biệt rất lớn.

2. Nhiều, ít khác biệt: trong một tâm niệm, Nhị thừa chỉ có thể hóa hiện được một việc, chư Phật, Bồ tát có thể hóa hiện ra hết thảy hình dạng trong khắp mười phương thế giới, cùng một lúc có thể hiện thân trong năm đường.

3. Lớn, nhỏ sai khác: Nhị thừa hóa ra thân lớn chẳng vào trong thân nhỏ được, hóa thân nhỏ chẳng dung nổi thân lớn. Chư Phật, Bồ tát hiện thân to chật cả tam thiên thế giới, lại có thể đem thân ấy nhét vào trong một vi trần, hóa hiện thân nhỏ như mảy trần nhưng thân ấy chứa được hết thảy. Hơn nữa, với hết thảy sắc vật, Bồ tát có thể đem cái lớn bỏ vào trong cái nhỏ, dùng cái nhỏ đựng cái lớn. Nhị thừa không làm nổi như thế.

4. Nhanh, chậm sai khác: Nhị thừa muốn đến chỗ xa xôi, phải mất một thời gian mới tới vì chưa được như ý thông. Chư Phật, Bồ tát trong một niệm đến khắp mười phương thế giới do đã chứng được như ý thông.

5. Thật, giả sai khác: Tất cả các thứ do Nhị thừa hóa hiện chỉ là tương tự, chẳng thể thật sự dùng được. Chư Phật, Bồ tát hóa hiện ra thứ gì cũng đều có công dụng thật sự.

6. Việc làm sai khác: Chư Phật, Bồ tát hóa ra vô lượng người, khiến cho mỗi người đều có tâm, mỗi người làm một việc hoàn thành khác nhau. Nhị thừa chẳng thể làm nổi như vậy.

7. Hóa hiện sai khác: Chư Phật, Bồ tát chỉ hiện một thân mà mỗi người mỗi thấy khác nhau; chỉ nói ra một tiếng mà mỗi người nghe mỗi khác, an trụ một cõi mà hiện đủ mười phương. Nhị thừa không thể làm nổi (Thân bất vi an dưỡng, hội nhập Ta Bà. Biến thập phương sát, phân thân vô số ức. Chủng chủng phương tiện, độ thoát chúng sanh...).

8. Hóa các căn có công dụng sai khác: Như kinh Niết Bàn nói: "Chư Phật, Bồ tát dùng lẫn sáu căn" (lục căn hỗ tương, dùng căn này làm chuyên khác, như trong lỗ chân lông, tức thân căn, vang ra một bài kệ. Như vậy, chư Phật, Bồ tát đã dùng thân căn thay cho thiệt căn để nói kệ). Nhị thừa chẳng làm được như vậy.

9. Tự tại sai khác: Như kinh Niết Bàn nói: "Chư Phật, Bồ tát hễ làm việc gì thân tâm tự tại, chẳng vướng theo duyên. Dẫu thân hiện lớn, tâm chẳng lớn theo. Dẫu hiện thân nhỏ, tâm cũng chẳng nhỏ theo. Với hết thảy hỷ, ái v.v... đều như vậy" (ý nói thân hiện vẻ vui mừng, tâm không vui mừng; tâm làm như bất động chẳng chạy theo cảnh, trần, duyên...). Nhị thừa chẳng được như thế.

Câu: "tự biết các việc thiện ác đã làm trong túc mạng vô lượng kiếp" chính là nguyện thứ sáu "đắc Túc mạng thông". "Túc" là đời quá khứ, "mạng" là sanh mạng. Như vậy, "túc mạng" là nhiều kiếp sống trong quá khứ.

Sách Bình Giải giảng: "Việc đã đi vào quá khứ, gọi là Túc, pháp quá khứ tiếp nối thì gọi là Mạng. Hiểu rõ ràng những việc ấy không vướng mắc thì gọi là túc mạng thông".

Sách Hội Sớ cũng nói: "Biết kiếp trước của thân mình từ một, hai, ba cho đến trăm ngàn vạn đời và các việc đã làm, cũng có thể biết kiếp trước của chúng sanh trong lục đạo và việc họ đã làm thì gọi là túc mạng thông".

Nhị thừa biết được nhiều lắm là tám vạn kiếp, Bồ tát biết đến vô cực. Lời nguyện trong kinh này lại nói là túc mạng đến vô lượng kiếp chính là nói đến thần thông của Bồ tát.

Nguyện này gồm có hai ý nghĩa:

1. Như sư Trừng Hiến người Nhật nói: "Do chẳng biết túc mạng nên chẳng sốt sắng làm lành, chẳng sợ điều ác. Với muôn điều thiện trở nên lười biếng, tạo tác các ác cũng chi do không biết túc nghiệp. Vị La hán kia nhớ đến cái khổ trong Nê Lê mà toát mồ hôi lẫn máu. Ngài Phước Tăng thấy xương đời trước của mình liền chợt khai ngộ. Lại có kẻ chẳng biết người ấy là mẹ đẻ trong đời trước nên lấy làm vợ, chẳng biết là oan gia đời trước nên nuôi như con, chẳng biết là cha đời trước, nên đem nấu thành thức ăn ngon v.v... Đấy đều do mê muội túc sự, ham đắm cái nỗi vui trong đời, nay chợt nghe bổn nguyện đều sanh tâm nhàm chán vậy".

2. Như ngài Tịnh Chiếu nói: "Nếu biết được túc mạng thì chẳng tự cao. Nhớ nghĩ đến vô số công đức trong quá khứ nên chỉ nương theo thệ nguyện của Phật được sanh về cõi kia". Ngài Trừng Hiến cũng nói: "Vãng sanh cõi kia liền trước hết biết túc mạng, thật là thâm tạ Phật đức".

Như vậy, người cõi Cực Lạc cần phải có túc mạng trí thông là để biết được hạnh nghiệp của chúng sanh trong quá khứ để nhờ đó dẫn dụ họ, dùng đó để làm phương tiện hóa độ chúng sanh. Chúng sanh cõi Cực Lạc do túc mạng thông nên hết lòng cảm ngưỡng ân đức của Phật vậy.

Câu "thấy rõ ràng, nghe rành rẽ, biết được các việc trong quá khứ, hiện tại, vị lai suốt mười phương." (đỗng thị, triệt thính tri thâp phương khứ lai, hiện tại chi sự). "Đỗng" là sâu xa. "Triệt" là thông suốt, sáng tỏ. "Thập phương" là không gian, "khứ, lai, hiện tại" là thời gian. Trước chữ "khứ" là câu thừa tiếp của nguyện thứ sáu; sau chữ "khứ" là nguyện thứ bảy: đắc thiên nhãn thông và nguyện thứ tám: đắc thiên nhĩ thông.

Thiên nhãn thông còn gọi là thiên nhãn trí thông hoặc sanh tử trí thông. Thiên nhãn là con mắt cõi trời thấy được hết thảy hình sắc thô to, nhỏ nhặt, xa gần và tướng trạng sanh tử của chúng sanh trong tương lai. Trí Độ Luận quyển 5 có câu: "Thiên nhãn thấy được lục đạo chúng sanh, các vật trong tự địa và hạ địa (tự địa là cõi trời; các chốn A tu la, người, bàng sanh, ngạ quỷ và địa ngục là hạ địa) dù xa hay gần, các sắc dù thô hay tế, không thứ gì chẳng thấy rõ".

Sách Hội Sớ bảo: "Thiên nhãn thông thấy được các tướng, chết đây, sanh kia, khổ vui... của lục đạo chúng sanh, và thấy hết thảy các thứ hình sắc chướng nội, chướng ngoại, thế gian, xuất thế gian chẳng bị chướng ngại". Mắt thịt của phàm phu chỉ thấy được vật "chướng nội". Ví dụ: tường vây quanh là chướng. Phàm phu chỉ thấy được vật giữa các bức tường (chướng nội) chẳng biết được hết thảy vật ngoài tường (chướng ngoại).

Thiên nhãn của người cõi Cực Lạc vượt xa thiên nhãn của Nhị thừa và chư thiên. Đại sĩ Long Thọ nói: "Bậc tiểu Thanh văn trong hàng Nhị thừa nếu chẳng tác ý liền thấy được một ngàn cõi. Nếu tác ý thì thấy được hai ngàn cõi. Đại Thanh văn chẳng tác ý thấy được hai ngàn cõi, tác ý thấy ba ngàn cõi. Bậc tiểu Duyên giác chẳng tác ý thấy được hai ngàn, tác ý thấy ba ngàn. Bậc đại Duyên giác dù tác ý hay không cũng đều thấy được việc trong tam thiên đại thiên thế giới. Chư Phật, Bồ tát thấy được sự việc trong vô lượng thế giới".

Với nguyện thứ bảy bày:

Ngài Vọng Tây nói: "Do chúng sanh trong cõi nước (lục đạo) chẳng thấy các quả khổ nên chẳng sợ cái nhân tạo khổ, cũng do chẳng thấy các quả vui nên chẳng tu cái nhân sanh vui. Ngài Pháp Tạng thương xót bọn chúng sanh ấy nên chọn lựa cái nguyện này nhiếp thủ chúng nó". Sách Hội Sơ cũng bảo: "Mắt thịt mờ mịt, kém cỏi, chẳng thấy nổi vật bị che lấp bởi một tờ giấy. Chỉ tính cái vui trước mắt, chẳng thấy cái khổ dữ nơi địa ngục, nên chẳng dũng mãnh siêng tu; chẳng thấy được cái vui thù thắng nơi Tịnh Độ nên hờ hững tâm niệm ham cầu". Ngài Trừng Hiến lại nói: "Ôi chao thương thay! Chẳng thấy quả khổ nơi địa ngục, ngạ quỷ, chẳng thấy cha mẹ, sư trưởng thọ báo nên hờ hững cái tâm nhàm chán, biếng nghĩ việc báo ân". Vì vậy, ngài Vọng Tây bảo: "Việc trọng yếu thượng cầu hạ hóa, cái đạo chán khổ báo ân chỉ cốt ở thiên nhãn soi thấy mà thôi!"

Câu "nghe rõ ràng chuyện vị lai, hiện tại trong mười phương" chính là nguyện thứ tám, "đắc thiên nhĩ thông". Thiên nhĩ thông còn gọi là thiên nhĩ trí thông. "Thiên nhĩ" là tai của chư thiên trong tam giới, nghe được tiếng nói của hết thảy chúng sanh trong lục đạo và hết thảy âm thanh xa gần, lớn nhỏ. Sách Hội Sớ nói: "Thiên nhĩ thông là nghe được hết thảy tiếng nói, âm thanh, chướng nội, chướng ngoại, khổ, vui, lo, mừng... không chướng ngại".

Thiên nhĩ của chúng sanh ở cõi Cực Lạc vượt xa của hàng Nhị thừa, chẳng những nghe được khắp tất cả âm thanh trong mười phương, mà còn có thể nghe được vô lượng chư Phật thuyết pháp.

Ngài Trừng Hiến bảo: "Thần thông này rất quan trọng. Nghe được các tiếng khổ nơi địa ngục, tiếng đói khát của loài ngạ quỷ liền thêm lớn bi tâm. Nghe tiếng nhạc Càn Thát Bà (Càn thát bà là nhạc thần của Thiên Đế, gảy đàn lưu ly, tiếng vang vọng khắp tam thiên đại thiên thế giới), tiếng thần tiên tụng kinh. Nghe rồi thường thích chốn núi non tịch tĩnh; huống hồ là nghe chư Phật thuyết pháp, nghe xong đều thọ trì, nghe Bồ tát bàn bạc càng thêm khát ngưỡng!"


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bốn Mươi Tám Đại Nguyện Của Phật A Di Đà

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chánh Kinh:

Ngã tác Phật thời, sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đắc tha tâm trí thông. Nhược bất tất tri ức Na do tha bá thiên Phật sát, chúng sanh tâm niệm giả, bất thủ Chánh giác.

  • [Túc mạng thông, đệ cửu nguyện].
Lúc tôi thành Phật, tất cả chúng sanh, sanh trong nước tôi đều đức tha tâm trí thông. Nếu chẳng biết được hết tâm niệm của chúng sanh trong ức na do tha trăm ngàn cõi Phật, chẳng giữ lấy Chánh giác.
  • [Nguyện thứ chín: Đắc Tha tâm thông].
Giải:

Đây là nguyện thứ chín "đắc tha tâm thông". Tha tâm thông còn gọi là tha tâm trí thông. Tha tâm trí thông là cái trí biết được tâm niệm của người khác đang suy nghĩ gì như gương sáng hiện rõ muôn hình tượng.

Thâm ý của lời nguyện này như ngài Trừng Hiến nói: "Thế tục còn coi việc hiểu lòng người khác là quan trọng, huống hồ bậc xuất thế lợi lạc chúng sanh".

Sách Hội Sớ lại giảng: "Vì vậy nguyện rằng: Thánh chúng trong nước tôi chẳng cần phải tu trì mà tự hiểu tâm người khác, thuận theo ý thích tiếp độ, giáo hóa không trở ngại".

Sách Bình Giải bảo: "Nhị thừa chỉ hiểu được thô tâm của phàm phu và tiểu thánh, chẳng biết được tế tâm. Chư Phật và Bồ tát thấu hiểu tâm vi tế, thậm chí biết được cả Phật tâm. Bồ tát cõi An Dưỡng cũng giống như vậy". Trong các số Bồ tát vãng sanh cõi Cực Lạc, đa số các vị Bồ tát bậc thượng là Nhất sanh bổ xứ Bồ tát, họ lại được Di Đà hoằng nguyện gia trì nên biết được cả Phật tâm.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bốn Mươi Tám Đại Nguyện Của Phật A Di Đà

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chánh Kinh:

Ngã tác Phật thời, sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đắc thần thông tự tại, Ba La Mật Đa. Ư nhất niệm khoảnh, bất năng siêu quá ức Na do tha bá thiên Phật sát, chu biến luần lịch cúng dường chư Phật giả, bất thủ Chánh giác.

  • [Thần túc thông, đệ thập nguyện. Biến cúng chư Phật, đệ thập nhất nguyện].
Lúc tôi thành Phật, tất cả chúng sanh, sanh trong nước tôi đều được thần thông tự tại, Ba la mật đa. Trong khoảng một niệm chẳng thể vượt qua ức na do tha trăm ngàn cõi Phật, đến khắp tất cả (các cõi ấy) cúng dường chư Phật, chẳng giữ lấy Chánh giác.
  • [Nguyện thứ mười: Đắc Thần túc thông. Nguyện thứ mười một: Cúng dường khắp chư Phật].
Giải:

Đoạn kinh văn này nói đến hai nguyện là nguyện thứ mười "đắc thần túc thông" và nguyện thứ mười một "cúng dường khắp chư Phật". Trong câu "đến khắp tất cả cúng dường chư Phật", chữ "đến khắp" là nguyện thứ mười, "cúng dường" là nguyện thứ mười một.

"Ba la mật đa" hay "ba la mật" dịch là Sự Cứu Cánh, Đáo Bỉ Ngạn, Độ Vô Cực, hoặc chỉ dịch gọn là Độ. Đại hạnh của Bồ tát có thể hoàn thành trọn vẹn hết thảy tự hạnh và sự nghiệp hóa độ người khác, nên gọi là Sự Cứu Cánh. Bồ tát nương những đại hạnh ấy có thể từ bờ này sanh tử vượt đến bờ kia Niết Bàn, nên gọi là Đáo Bỉ Ngạn (ba la là bờ kia, mật đa là đến). Do đại hạnh ấy sẽ thâu đạt được sự sâu rộng của các pháp nên gọi là Độ Vô Cực.

Sanh về cõi bên kia liền đầy đủ thần thông điệu dụng tự tại vô ngại, có thể triệt để quán triệt hết thảy tự hạnh và sự nghiệp hóa độ người khác, nên bảo là "thần thông tự tại ba la mật đa".

Câu "Trong khoảng một niệm... vượt qua ức na do tha trăm ngàn cõi Phật" là diễn tả thần túc thông, còn gọi là thần túc trí thông, "na do tha" là ức (một vạn vạn).

Sách Hội Sớ giảng chữ "thần túc" (cũng gọi là như ý túc) như sau:

Thần túc thông có ba loại:
  • a. Vận thân hành: bay trên không giống như chim bay.

    b. Thắng giải thông: với chỗ xa xôi nhất, chỉ tác ý tư duy liền tới ngay đó.

    c. Ý thế thông: với chỗ xa xôi nhất, tâm vừa nghĩ đến, thân đã ở đấy.
Sách Đại Luận (Đại Trí Độ Luận) lại bảo: "Như ý thông" có ba thứ: Năng đáo, Chuyển biến, Thánh Như ý.

- Năng đáo lại có bốn thứ:
  • a. Thân bay được đến đó như chim không trở ngại.

    b. Biến xa thành gần: chẳng qua đó mà đến được nơi ấy.

    c. Biến mất chỗ này hiện ra chỗ kia.

    d. Trong một niệm đến ngay đó.
- Chuyển biến: Biến nhỏ thành lớn, biến lớn thành nhỏ, biến một thành nhiều, biến nhiều thành một. Với các vật đều chuyển biến được. Ngoại đạo biến hóa không lâu hơn bảy ngày, chư Phật và đệ tử chuyển biến tự tại, chẳng có gần xa.

- Thánh như ý: Ngay trong lục trần, có thể quán vật bất tịnh chẳng đáng ưa nhìn là tịnh, quán vật khải ái thanh tịnh thành vật bất tịnh. Chỉ Phật đắc pháp như ý này.

Câu "Trong khoảng một niệm" ý nói thời gian rất ngắn. Một sát na là một niệm. Theo Đại Luận: "trong khoảng khảy ngón tay có sáu mươi sát na", ta thấy rằng một niệm lâu bằng một phần sáu mươi (1/60) thời gian khảy ngón tay. Như vậy một niệm cực ngắn, nhanh.

Trong một khoảng thời gian ngắn như thế đã có thể "vượt qua ức na do tha trăm ngàn cõi Phật đi khắp tất cả" thì hiển nhiên, thần thông diệu dụng của người ở cõi Cực Lạc chẳng thể nghĩ bàn.

Câu "cúng dường chư Phật" ngụ ý: tuy phát khởi lên rất nhiều sự, nhưng chỉ trong khoảng một niệm đều viên mãn thành tựu được hết tất cả những sự việc ấy. Rõ ràng cõi nước Cực Lạc sự sự vô ngại, một tức là nhiều, nhiều tức là một, kéo dài, rút ngắn đồng thời, hạt cải dung nhập núi Tu Di, mười phương chẳng rời khỏi nơi mình đang trụ. Trong một niệm cúng dường trọn tất cả, ba đời nào khác một niệm, đương hạ tức thị (thuật ngữ thường dùng trong tông Thiên Thai, nghĩa là "ngay chính nơi đây chính là" diễn tả mọi pháp không ngoài tự tâm), thâu tóm trọn vẹn không sót. Vì vậy, ta có thể nói: Hoa Tạng nào khác Cực Lạc, Tịnh Độ chứa trọn sự huyền diệu.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bốn Mươi Tám Đại Nguyện Của Phật A Di Đà

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chánh Kinh:

Ngã tác Phật thời, sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, viễn ly phân biệt, chư căn tịch tĩnh. Nhược bất quyết định thành Đẳng Chánh giác, chứng đại Niết Bàn, bất thủ Chánh giác.

  • [Quyết định thành Chánh giác, đệ thập nhị nguyện].
Lúc tôi thành Phật, tất cả chúng sanh, sanh trong nước tôi xa rời phân biệt, các căn tịch tĩnh. Nếu họ chẳng quyết định thành Chánh đẳng giác, chứng đại Niết Bàn, thì chẳng giữ lấy Chánh giác.
  • [Nguyện thứ mười hai: Quyết định thành Chánh giác].
Giải:

Vãng sanh là quyết định sẽ thành Phật, điều này thể hiện thật rõ tâm nguyện Phật A Di Đà: chỉ dùng một Phật thừa để đưa trọn vô biên chúng sanh vào Niết Bàn rốt ráo. Đại sư Thiện Đạo đặt cho nguyện này bốn cái tên:
  • 1. Nguyện ắt đạt diệt độ.
    2. Nguyện chứng đại Niết Bàn.
    3. Nguyện vô thượng Niết Bàn.
    4. Trụ tướng chứng quả.
[Niết Bàn có bốn loại: Hữu dư y Niết Bàn, Vô dư y Niết Bàn, Tánh tịnh Niết Bàn và Vô trụ xứ Niết bàn.

- Hữu dư y Niết Bàn: Hàng Nhị thừa, trừ hết kiến tư hoặc và các phiền não ở trong đường tu của họ, nhưng mà báo thân của họ còn; dư là dư cái báo đó còn, còn nương tựa vào cái dư báo đó, chưa xả báo thân. Mặc dù các ngài ở trong đời nhưng không bị phiền não trói buộc (triền phược: trói buộc; đối lại với triền phược là giải thoát) như chúng ta; các ngài sống trong cõi Ta Bà uế độ này nhưng họ cảm thấy là Niết Bàn tự do tự tại.

Đến khi các ngài xả báo thân thì họ trở về với Vô dư y Niết Bàn (Y ở đây là nương tựa).

- Tánh tịnh Niết Bàn: Tất cả chúng sanh đều có tánh tịnh Niết Bàn, tức là bản thể (Bản thể thì vô tướng, vì vô tướng nên có đủ các tướng, như H2O). Nhưng bản thể này mặc dù ai cũng có nhưng vì bị vùi lấp bởi vô minh nên chưa trở về, khôi phục được.

- Vô trụ xứ Niết Bàn: Nghĩa là chỗ nào cũng là Niết Bàn được cả, đối với Phật bởi vì không còn phiền não, không còn vô minh cho nên đến đâu cũng là Niết Bàn cả. Còn hàng Bồ tát thì họ còn tiếp tục tu, các ngài hướng thượng cho đến Phật vị đâu có nhập Niết Bàn.

Chỉ có Phật mới có đủ bốn thứ Niết Bàn kể trên].

Sách Bình Giải ca tụng: "Cao Tổ (tức ngài Thiện Đạo) đặt tên các nguyện này đã hiển lộ tột cùng ý nghĩa lời nguyện vậy".

Trong bốn mươi tám nguyện, đại sư Thiện Đạo gọi năm nguyện: "Quyết định thành chánh giác (12)", "Quang Minh Vô lượng (13)", "Thọ Mạng vô lượng(15)", "Chư Phật khen ngợi(17)", và "Mười niệm được vãng sanh(18)" là chơn thật nguyện. Như vậy, nguyện này là tâm tủy của Di Đà hoằng thệ.

Bổn hoài của đức Phật chỉ là cốt sao khiến hết thảy chúng sanh quyết định thành Phật. Để thực hiện lời nguyện này, ngài lại có đại nguyện thù thắng "Mười niệm vãng sanh", chúng sanh chỉ việc nương theo đây mà tu. Thật là giản dị bậc nhất, là đường tắt cực viên, cực đốn. Niệm Phật được vãng sanh thì quyết định sẽ thành Phật. Pháp môn Trì Danh niệm Phật là pháp môn dễ hành.

Tổ Ấn Quang dạy: "Bỏ đường tắt Tây Phương, chín cõi chúng sanh khó tròn nên quả Giác. Rời cửa mầu Tịnh Độ, mười phương chư Phật khôn độ khắp quần mê".

Chữ "phân biệt" dùng trong lời nguyện này nghĩa là suy nghĩ, hiểu biết được sự và lý thì gọi là "phân biệt". Do lấy phân biệt hư vọng làm thể tánh, nên với pháp vô phân biệt lại sanh lòng phân biệt là ngã hay là pháp. Bởi vậy, phân biệt hư vọng gọi là "phân biệt hoặc". Đoạn được cái phân biệt hoặc ấy thì gọi là Vô phân biệt trí. Sách Duy Thức Thuật Ký, quyển 7 giảng: "Phân biệt là tâm tam giới hữu lậu, là tâm sở pháp, nó lấy phân biệt hư vọng làm tự thể" chữ "xa lìa phân biệt" trong lời nguyện có nghìa là rời bỏ, đoạn trừ phân biệt vọng hoặc, hiểu rõ "chơn chánh như chính là vạn pháp, vạn pháp chính là chơn như". [Tâm sở pháp: chỉ những pháp do tác dụng của tâm phát khởi ra. Theo Câu Xá Luận, tâm sở gồn có bốn mươi sáu thứ như: thọ tưởng, tư, xúc, dục, si, giải đãi, bất tín, hôn trầm, tham, sân, mạn, nghi...].

"Tịch tĩnh": Lìa phiền não là tịch, dứt khổ sở là tĩnh; tức là lý Niết Bàn. Sách Vãng Sanh Tập Yếu quyển thượng bảo: "Hết thảy các pháp vốn tịch tĩnh, chẳng có, chẳng không".

"Các căn" là sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Sáu căn này đồng qui về tịch tĩnh như kinh Hoa Nghiêm dạy: [/i]Quán pháp tịch tĩnh, lìa các si ám[/i]", chẳng sanh phân biệt, tự nhiên xa lìa si ám nên các căn tịch tĩnh.

Giảng rộng thêm tí nữa, đức Thế Tôn hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Tàu dịch Mâu Ni nghĩa là Tịch mặc hay tịch tĩnh. Thân, khẩu, ý tịch tĩnh nên gọi là Mâu Ni. Thân, khẩu, ý tịch tĩnh chính là ý nghĩa của câu "các căn tịch tĩnh". Do xa lìa phân biệt vọng hoặc, các căn tịch tĩnh nên khế nhập lý Niết Bàn.

Do đó, Kinh dạy tiếp: "Quyết định thành Đẳng Chánh giác, chứng đại Niết Bàn". "Đại chánh giác" nói cho đầy đủ là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

"Đại Niết Bàn" cũng là tên khác của Phật quả, dịch là Nhập diệt, nói đầy đủ là "Bát Niết Bàn". "Bát" có nghĩa là Viên, Tàu dịch Niết Bàn là Tịch. Do vậy, "bát Niết Bàn" dịch là "viên tịch".

Nghĩa lý đầy cả thế giới, đức nhiều như trần sa nên gọi là Viên.

Thể tột cùng chơn tánh, đoạn tuyệt được các vướng mắc vào hình tướng một cách vi diệu nên gọi là Tịch.

Trong Tâm Kinh Lược Sớ, Tổ Hiền Thủ giảng: "Không đức gì chẳng đủ nên bảo là Viên, không chướng gì chẳng hết nên gọi là Tịch".

Đại Niết Bàn là Niết Bàn của Đại thừa, gọi là Đại để phân biệt với Niết bàn của Tiểu Thừa. Niết Bàn của Đại thừa có đủ ba đức: Pháp thân, Bát Nhã và Giải thoát, đủ bốn nghĩa: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, lìa khỏi hai thứ sanh tử: phần đoạn và biến dịch. Đầy đủ vô biên thân trí.

Trong ba đức, Niết Bàn của Tiểu thừa chỉ có Giải thoát; trong bốn nghĩa chỉ có: Thường, Lạc, Tịnh, chỉ lìa được phần đoạn sanh tử, vẫn còn biến dịch sanh tử.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bốn Mươi Tám Đại Nguyện Của Phật A Di Đà

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chánh Kinh:

Ngã tác Phật thời, quang minh vô lượng, phổ chiếu thập phương, tuyệt thắng chư Phật, thắng vu nhật nguyệt chi minh, thiên vạn ức bội. Nhược hữu chúng sanh, kiến ngã quang minh, chiếu xúc kỳ thân, mạc bất an lạc, từ tâm tác thiện, lai sanh ngã quốc. Nhược bất thị, bất thủ Chánh giác.

  • [Quang minh vô lượng, đệ thập tam nguyện. Xúc quang an lạc, đệ thập tứ nguyện].
Lúc tôi thành Phật, quang minh vô lượng chiếu khắp mười phương vượt xa chư Phật, hơn hẳn quang minh của nhật nguyệt ngàn vạn ức lần. Nếu có chúng sanh thấy quanh minh của tôi chiếu vào thân, không ai là chẳng an vui, từ tâm làm lành, sanh về cõi tôi. Nếu chẳng được vậy, chẳng giữ ngôi Chánh giác.
  • [Nguyện thứ mười ba: Quang minh vô lượng. Nguyện thứ mười bốn: Quang minh soi đến được an vui].
Giải:

Đoạn kinh văn này gồm có hai nguyện: từ câu "ngàn vạn ức trở lên là nguyện thứ mười ba: "Quang minh vô lượng"; từ chữ "nếu có chúng sanh" trở đi là nguyện thứ mười bốn "Quang minh soi đến được an lạc".

Ngài Tịnh Anh bảo nguyện thứ mười ba và thứ mười lăm là những nguyện nhiếp Pháp thân, vì các nguyện này nhằm thành tựu Pháp thân.

Sách Bình Giải thì cho rằng hai nguyện ấy thể hiện các đức của Chơn Báo thân, và là cái gốc đại bi của phương tiện Pháp thân.

Thọ vô lượng là theo chiều dọc cùng tột của ba đời do Phật thân thường trụ nên chúng sanh có chỗ để nương tựa. Quang minh vô lượng là theo chiều ngang khắp cả mười phương, đức dụng trọn khắp nhiếp hóa vô tận. Vì vậy, Quang Minh và Thọ lượng là gốc của phương tiện đại bi, là thật đức của Báo thân. Như vậy, Phật A Di Đà thệ nguyện quang minh và thọ mạng vô lượng thật ra là chỉ để cho hết thảy chúng sanh đều có quang minh và thọ lượng (theo ngu ý của kẻ cẩn ghi này là để cho các vị A Bệ Bạt Trí đó có phương tiện tự lợi, lợi tha).

Sách Bình Giảng bảo: "Nếu xét về sở chứng của Phật thì bốn mươi tám nguyện đều qui về quang thọ Pháp thân", nghĩa là Y báo và Chánh báo của cõi Cực Lạc chỉ từ Pháp thân của Phật Di Đà hiện ra, cho nên bốn mươi tám nguyện hiển bày trọn vẹn Pháp thân.

"Xét về mặt độ sanh thì nguyện nào cũng vì chúng sanh, nên nói: bốn mươi tám nguyện nhiếp thọ chúng sanh, mỗi một thệ nguyện đều vì chúng sanh". Bốn mươi tám nguyện dung chứa lẫn nhau không thể nghĩ bàn.

Ngài Vọng Tây giảng: "Theo chiều ngang, do mười phương hư không vô biên nên quốc độ cũng vô biên. Do quốc độ vô biên nên chúng sanh cũng vô biên. Chúng sanh vô biên nên đại bi cũng vô biên. Đại bi vô biên nên quang minh cũng vô biên. Quang minh vô biên nên nhiếp thủ, tạo lợi ích cũng vô biên. Nói tóm lại, vì muốn làm lợi ích vô biên nên quang minh vô biên".

Câu "Vượt xa chư Phật, hơn hẳn quang minh của nhật nguyệt ngàn vạn ức lần": Phẩm Quang Minh Biến Chiếu của Kinh này có chép: "Quang minh của chư Phật chiếu xa hay gần là do đời trước khi cầu đạo, nguyện được công đức lớn nhay nhỏ sai khác. Lúc thành Phật, mỗi vị tự cảm được (quang minh) để biến chiếu tự tại, chẳng biết trước nổi. A Di Đà Phật quang minh thiện hảo, trổi hơn quang minh của mặt trời, mặt trăng ngàn vạn ức lần. Như vậy, Phật A Di Đà quang minh vượt xa chư Phật là do nguyện lực đời trước siêu tuyệt nên khi thành Phật tự nhiên được như vậy. Do đó, trong kinh còn dạy: "A Di Đà Phật uy thần quang minh cao quí bậc nhất, mười phương Như Lai chẳng sánh bằng".

Kinh Đại Pháp Cự Đà La Ni nói chư Phật có hai thứ quang minh: Thường quang và Phóng quang. Thường quang thì viên minh vô ngại, không lúc nào chẳng chiếu. Phóng quang là dùng ánh sáng để cảnh tỉnh người khác, tùy lúc mà chiếu: hoặc tỏa ra, hoặc thâu vào, tùy nghi tự tại. Quang minh nói trong lời nguyện đây là Thường quang.

Nguyện mười bốn thuật rõ quang minh của Phật đầy đủ diệu đức lợi ích chúng sanh. "Thấy quang minh của tôi chiếu chạm đến thân": hễ ai thấy được quang minh của Phật và được quang minh ấy chiếu vào thân thì "không ai chẳng được an vui, từ tâm làm lành sanh về cõi tôi". Phẩm Quang Minh Biến Chiếu của kinh này có nói: "Gặp được ánh sáng này, cấu diệt, thiện sanh, thân ý nhu nhuyễn. Nếu đang ở trong chốn tam đồ cực khổ mà được thấy quang minh này thì mọi sự khổ đều ngừng nghĩ, chết đi liền được giải thoát", đây chính là ý của câu: "không ai chẳng vui, từ tâm làm lành". (Quang minh chiếu thân, thủ ma ngã đầu, y phú ngã thể, túc chướng tự trừ, thiện căn tăng trưởng... và câu chuyện ông chồng ham dục, vợ dạy nghe tiếng kẻng đánh thì phải niệm Phật trước khi động phòng, khi chết trước khi bị tra khảo nghe tiếng đinh ba đụng vạc dầu sôi liền niệm Nam Mô A Di Đà Phật theo thói quen, dứt câu Phật hiệu, quang minh chiếu rọi, tất cả chúng sanh trong ngục đó liền được vãng sanh).

Sách Lễ Tán viết: "Di Đà Thế Tôn vốn phát thệ nguyện sâu nặng, dùng quang minh, danh hiệu nhiếp hóa mười phương", Lại như Quán Kinh nói: "Quang minh chiếu khắp chúng sanh niệm Phật trong mười phương thế giới, nhiếp thủ chẳng bỏ". Nói quang minh nhiếp thủ là nói về nguyện này. Gặp được ánh sáng ấy đều được vãng sanh nên bảo "Sanh về cõi tôi". Câu này hiển thị quang minh có lợi ích chẳng thể nghĩ bàn.

Do những điều trên, ta thấy rằng tuy quang minh là đức tướng nơi thân Phật, nhưng quang minh ấy thật ra là để lợi lạc chúng sanh.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.32 khách