NÓI RÕ VIỆC THÀNH ĐẠO CỦA TỔ HUỆ VIỄN
Sách Lễ Ký nói: "Tổ tiên không có điều hay mà khen ngợi, là lừa dối; có điều lành mà chẳng biết, là không rõ; biết mà chẳng lưu truyền, là bất nhân. Ba việc ấy là điều mà người quân tử lấy làm hổ thẹn".
Ôi! Đối với người học Phật chúng ta lẽ nào lại không như thế! Tổ sư Huệ Viễn đức hạnh quả vị sáng ngời, công đức rộng lớn. Kẻ ngu này hổ thẹn được dự vào giáo pháp của Ngài, là con cháu trong thời kỳ Liên tông suy vi sa sút, quê mùa dốt nát, ít học bất tài, chưa có thể tiếp nối tông phong thuở trước. Thật là phụ bạc ân đức từ bi của người xưa! Từng đọc Minh Giáo Ký, rất lấy làm hổ thẹn. Lại từng xem Thông Luận của Thiền sư Tú ở Thạch Thất có nói rằng: "Cách Khổng Tử một trăm năm có Mạnh Kha (Mạnh Tử). Khi đó, đạo của Khổng Tử gần như suy vi, Mạnh Kha nỗ lực thực hành đạo ấy, do vậy mà chấn khởi lại".
Phật giáo sang phương Đông, trải qua ba trăm năm có ngài Huệ Viễn. Khi ấy, người xuất gia dần dần thêm nhiều, nhưng chưa có sự thực hành riêng biệt, chưa chế định phép tắt và khuôn mẫu tốt đẹp, làm bậc tông sư trong thiên hạ như ngài Huệ Viễn, Phật đạo do đó bắt đầu chấn hưng. Bởi thế, từng bảo rằng, ngài Huệ Viễn có công lớn đối với Phật giáo, giống như Mạnh Tử trong nhà Nho. Ngài cùng với cao tăng triều sĩ đồng tu Tịnh độ, đạo đức vang đến tận tai vua, giáo pháp truyền khắp thiên hạ. Những người tu tập niệm Phật sau này, chẳng biết ngọn ngành của Tổ sư, mất đi nguồn dòng. Thấy những kẻ Xiển đề bạc phước ở đời ngụy soạn Lô Sơn Thành Đạo Ký, trao chuốt những ngôn từ dối trá, toàn là những lời nói vô căn cứ, dối gạt thiện tín, truyền khắp tai mắt mọi người, đến nay chẳng thể sửa đổi.
Tôi mới tham khảo Đại tạng, Hoằng Minh Tập, Cao Tăng Truyện. Xét tận tường chỗ chính yếu, lược nêu bảy việc để phá trừ mọi sự nghi hoặc. Người hiểu biết nên soi xét:
1. Ngài Huệ Viễn lễ Pháp sư Đạo An ở núi Thái Hành xuất gia, lại tuyên truyền bừa bãi rằng lễ Tôn giả Chiên Đàn làm thầy, đó là điều dối trá thứ nhất.
2. Bừa bãi cho rằng Đạo An là cháu của ngài Huệ Viễn, đó là điều dối trá thứ hai.
3. Ngài Huệ Viễn ba mươi năm không ra khỏi núi, chân không bước vào thế tục, lại bừa bãi nói rằng bị Bạch Trang cướp bắt, đó là điều dối trá thứ ba.
4. Vua nhà Tấn ba lần mời thỉnh, ngài Huệ Viễn lấy cớ bệnh từ chối không đến, lại bừa bãi nói rằng Ngài bán thân làm nô bộc cho Thôi tướng công, đó là điều dối trá thứ tư.
5. Cánh tay phải ngài Đạo An có vòng thịt, lại bừa bãi nói rằng là ngài Huệ Viễn, đó là điều dối trá thứ năm.
6. Khi lâm chung, dặn dò thi hài xương cốt đặt dưới cội tùng ở phía Tây Lô Sơn, xem nơi tháp Ngưng Tịch có thể làm chứng cứ. Thế mà bừa bãi nói rằng Ngài ngồi trên thuyền nhiều màu sắc lên trời Đâu Suất, đó là điều dối trá thứ sáu.
7. Pháp sư Đạo Sinh giảng kinh ở Hổ Khâu, chỉ đá phát thệ, đá bèn gật đầu. Thế mà nói bừa bãi đó là ngài Huệ Viễn, đây là điều dối trá thứ bảy.
Buồn thay! Những kẻ gian nịnh ở đời chẳng biết đạo đức chân thật của Tổ sư, chỉ nghe lời đồn, tô vẽ bừa bãi nhiều việc càn dở, truyền tiếng xấu đến đời sau, khắp nơi chê cười nhạo báng, khinh lờn đạo đức của bậc Thánh. Người hiểu biết thấy vậy chẳng xét nét nguyên do, há lại xem thường Tổ sư hay sao? Như thế, đâu chẳng phải là làm thân Phật ra máu, phạm tội ngũ nghịch ư?
Tôi từng thấy, vào niên hiệu Nguyên Gia đời Tống, Sư Tài Quán, Huệ Nghiêm và Tạ Linh Vận phiên dịch kinh Niết bàn thêm bớt từ ngữ, nhân đó mơ thấy vị thần quở trách rằng: "Dám đem tình phàm xem thường Thánh điển!". Sư Tài Quán sợ hãi mà ngưng lại.
Còn có ngài Huệ Lâm, do tài học nên được nhà vua quý mến, người thời ấy gọi Huệ Lâm là "Tể tướng áo đen". Ông tự trước tác Hắc Bạch Luận hủy báng Phật giáo, liền bị cảm bệnh dữ, da thịt thối rữa mà chết.
Ôi! Như thế viết bừa bãi truyện ký về Tổ sư, há lại không sợ rơi vào ba đường địa ngục sao?
Phàm những người đồng chí hướng với tôi, nên xét kỹ những việc thật về ngài Huệ Viễn từ gốc đến ngọn; nói rõ khắp nơi, làm cho đạo Tổ sáng ngời mới mong nỗi oan ức của bậc Thánh Hiền do đây được rửa sạch.
ĐẠI SƯ ĐÀM LOAN
Thuở nhỏ, nhân dạo núi Ngũ Đài, Đại sư Đàm Loan thấy thần tích linh dị, bèn phát tâm xuất gia. Sư nghiên cứu đầy đủ giáo pháp Đốn, Tiệm của ba thừa, khai mở Định, Tuệ. Sư thường bị bệnh, khi đi đến Phần Châu, chợt thấy mây che khắp cả, cửa trời mở toan, bậc thang dẫn đến sáu tầng trời cõi Dục(66) trên dưới trùng điệp. Sư vừa chớp mắt, bệnh liền được khỏi. Từ đó, khẩn thiết dụng tâm nơi Phật đạo, thường gắng sức như không kịp; dạy bảo cho những kẻ thế tục mê mờ, không phân biệt xa gần.
Lúc đầu, Sư thích thuật học của đạo Tiên, nghe Đào Ẩn Cư được pháp trường sinh, từ xa tìm đến. Đào Ẩn Cư trao cho mười quyển kinh Tiên. Sư rất vui mừng, cho rằng đạo thuật Thần Tiên là điều cần thiết.
Khi trở về, qua Lạc Dương, gặp Pháp sư Bồ Đề Lưu Chi, trong lòng tâm đắc bèn hỏi rằng:
- Trong đạo Phật có pháp trường sinh bất tử chăng?
Bồ Đề Lưu Chi cười đáp:
- Nói về trường sinh bất tử, thật ra chỉ có Phật pháp mà thôi!
Nói xong, lấy kinh Quán Vô Lượng Thọ trao cho và bảo:
- Tu học theo đây thì không còn luân chuyển trong sáu đường, thoát ly hẳn ba cõi. Sự thịnh suy thành bại, đường họa phước xuống lên, cũng không còn ràng buộc được. Nói về thọ lượng thì kiếp đá và cát sông Hằng cũng chẳng thể sánh bằng. Đây mới thật là pháp trường sinh của đức Phật vậy!
Ngài Đàm Loan nghe nói liền phát khởi lòng tin sâu chắc, bèn đốt kinh Tiên đã học, chuyên tu theo kinh Quán Vô Lượng Thọ. Từ đó, Ngài thông suốt nghĩa lý trong kinh ấy và tu ba phước nghiệp, quán tưởng chín phẩm. Dù lạnh nóng thay đổi, bệnh tật đến thân cũng không lười biếng bê trễ, giữ vững tâm ban đầu. Vua nước Ngụy mến trọng ý chí cao thượng, lại khen ngợi sự tu hành và giáo hóa mọi người, đạo nghiệp rộng lớn, ban hiệu cho Sư là Thần Loan, lại sắc chỉ cho Sư trụ trì chùa Đại Nghiêm ở Tinh Châu, chưa bao lâu dời về chùa Huyền Trung ở Phần Châu.
Một hôm, Sư đang trì tụng, có một vị tăng người Ấn Độ dáng vẻ phi phàm vào trong thất bảo:
- Ta là Long Thọ, ở nơi Tịnh độ, do ông có tâm hướng về Cực Lạc nên đến thăm viếng.
Sư thưa:
- Có việc gì xin Ngài chỉ dạy!
Ngài Long Thọ nói:
- Đã qua, chẳng theo kịp
Chưa đến, không thể tìm
Hiện tại, nay ở đâu
Ngựa khỏe khó kéo lại.
Do thấy điều kỳ lạ nên Sư biết đã đến kỳ vãng sinh, liền tập hợp đệ tử mấy trăm người, răn dạy rằng:
- Bốn loài luân chuyển nhọc nhằn không có ngày dừng nghỉ. Nỗi khổ nơi địa ngục rất đáng kinh sợ, tịnh nghiệp nơi chín phẩm cần gắng tu!
Nói xong, bảo hàng đệ tử cao tiếng niệm Phật A Di Đà. Sư bèn hướng về phương Tây, nhắm mắt cúi lạy rồi thị tịch.
Lúc ấy, kẻ tăng người tục đều nghe tiếng nhạc rền vang giữa hư không, từ phương Tây vọng lại giây lâu mới dứt.
- CHÚ THÍCH:
- a. Tứ Đại Vương Thiên: cũng gọi Đại Vương Thiên, Tứ Vương Thiên. Có bốn vua trời là: Trì Quốc, Tăng Trưởng, Quảng Mục, Đa Văn và các Thiên chúng. Người ở cõi trời này cao bằng ¼ câu lô xá, sống năm trăm tuổi; một ngày đêm ở đây bằng năm chục năm ở trần gian.
b. Tam Thập Tam Thiên: cũng gọi là Đao Lợi Thiên. Gồm ba mươi ba cõi trời: Trời Đế Thích ở giữa, bốn phương mỗi phương đều có tám cõi trời. Thân cao bằng ½ câu lô xá, sống một ngàn tuổi; một ngày đêm ở đây bằng một trăm năm ở nhân gian.
c. Dạ Ma Thiên: cũng gọi Diệm Ma Thiên, Viêm Ma Thiên, Thời Phần Thiên. Đứng đầu cõi trời này là Tu Dạ Ma thiên, thân cao bằng ¾ của một câu lô xá, sống hai ngàn tuổi; một ngày đêm ở cõi trời này bằng hai trăm năm ở nhân gian.
d. Đâu Suất Thiên: cũng gọi Đổ Sử Đa Thiên, Đâu Suất Đà Thiên, Hỷ Túc Thiên. Đứng đầu cõi trời này là vua trời San Đâu Suất Đà. Thân cao một câu lô xá, sống bốn ngàn tuổi; một ngày một đêm nơi này bằng bốn trăm năm ở nhân gian.
e. Hóa Tự Tại Thiên: cũng gọi là Lạc Biến Hóa Thiên, Vô Kiêu Lạc Thiên, Vô Cống Lao Thiên, Ni Ma La Thiên. Đứng đầu cõi trời này là vua trời Thiện Hóa. Thân cao một câu lô xá ¼, sống tám ngàn tuổi; một ngày đêm ở cõi trời này bằng tám trăm năm ở nhân gian.
f. Tha Hóa Tự Tại Thiên: cũng gọi Tha Hóa Tự Chuyển Thiên, Tha Hóa Lạc Thiên, Hóa Ứng Thanh Thiên, Ba La Ni Mật Thiên. Đứng đầu cõi trời này là vua trời Tự Tại. Thân cao một câu lô xá ½, sống mười sáu ngàn tuổi; một ngày đêm tại đầy bằng một ngàn sáu trăm năm ở nhân gian.