LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì pháp môn niệm Phật.

Điều hành viên: binh, battinh

Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chương 3
NÓI RÕ VIỆC THÀNH ĐẠO CỦA TỔ HUỆ VIỄN

Sách Lễ Ký nói: "Tổ tiên không có điều hay mà khen ngợi, là lừa dối; có điều lành mà chẳng biết, là không rõ; biết mà chẳng lưu truyền, là bất nhân. Ba việc ấy là điều mà người quân tử lấy làm hổ thẹn".

Ôi! Đối với người học Phật chúng ta lẽ nào lại không như thế! Tổ sư Huệ Viễn đức hạnh quả vị sáng ngời, công đức rộng lớn. Kẻ ngu này hổ thẹn được dự vào giáo pháp của Ngài, là con cháu trong thời kỳ Liên tông suy vi sa sút, quê mùa dốt nát, ít học bất tài, chưa có thể tiếp nối tông phong thuở trước. Thật là phụ bạc ân đức từ bi của người xưa! Từng đọc Minh Giáo Ký, rất lấy làm hổ thẹn. Lại từng xem Thông Luận của Thiền sư Tú ở Thạch Thất có nói rằng: "Cách Khổng Tử một trăm năm có Mạnh Kha (Mạnh Tử). Khi đó, đạo của Khổng Tử gần như suy vi, Mạnh Kha nỗ lực thực hành đạo ấy, do vậy mà chấn khởi lại".

Phật giáo sang phương Đông, trải qua ba trăm năm có ngài Huệ Viễn. Khi ấy, người xuất gia dần dần thêm nhiều, nhưng chưa có sự thực hành riêng biệt, chưa chế định phép tắt và khuôn mẫu tốt đẹp, làm bậc tông sư trong thiên hạ như ngài Huệ Viễn, Phật đạo do đó bắt đầu chấn hưng. Bởi thế, từng bảo rằng, ngài Huệ Viễn có công lớn đối với Phật giáo, giống như Mạnh Tử trong nhà Nho. Ngài cùng với cao tăng triều sĩ đồng tu Tịnh độ, đạo đức vang đến tận tai vua, giáo pháp truyền khắp thiên hạ. Những người tu tập niệm Phật sau này, chẳng biết ngọn ngành của Tổ sư, mất đi nguồn dòng. Thấy những kẻ Xiển đề bạc phước ở đời ngụy soạn Lô Sơn Thành Đạo Ký, trao chuốt những ngôn từ dối trá, toàn là những lời nói vô căn cứ, dối gạt thiện tín, truyền khắp tai mắt mọi người, đến nay chẳng thể sửa đổi.

Tôi mới tham khảo Đại tạng, Hoằng Minh Tập, Cao Tăng Truyện. Xét tận tường chỗ chính yếu, lược nêu bảy việc để phá trừ mọi sự nghi hoặc. Người hiểu biết nên soi xét:

1. Ngài Huệ Viễn lễ Pháp sư Đạo An ở núi Thái Hành xuất gia, lại tuyên truyền bừa bãi rằng lễ Tôn giả Chiên Đàn làm thầy, đó là điều dối trá thứ nhất.

2. Bừa bãi cho rằng Đạo An là cháu của ngài Huệ Viễn, đó là điều dối trá thứ hai.

3. Ngài Huệ Viễn ba mươi năm không ra khỏi núi, chân không bước vào thế tục, lại bừa bãi nói rằng bị Bạch Trang cướp bắt, đó là điều dối trá thứ ba.

4. Vua nhà Tấn ba lần mời thỉnh, ngài Huệ Viễn lấy cớ bệnh từ chối không đến, lại bừa bãi nói rằng Ngài bán thân làm nô bộc cho Thôi tướng công, đó là điều dối trá thứ tư.

5. Cánh tay phải ngài Đạo An có vòng thịt, lại bừa bãi nói rằng là ngài Huệ Viễn, đó là điều dối trá thứ năm.

6. Khi lâm chung, dặn dò thi hài xương cốt đặt dưới cội tùng ở phía Tây Lô Sơn, xem nơi tháp Ngưng Tịch có thể làm chứng cứ. Thế mà bừa bãi nói rằng Ngài ngồi trên thuyền nhiều màu sắc lên trời Đâu Suất, đó là điều dối trá thứ sáu.

7. Pháp sư Đạo Sinh giảng kinh ở Hổ Khâu, chỉ đá phát thệ, đá bèn gật đầu. Thế mà nói bừa bãi đó là ngài Huệ Viễn, đây là điều dối trá thứ bảy.

Buồn thay! Những kẻ gian nịnh ở đời chẳng biết đạo đức chân thật của Tổ sư, chỉ nghe lời đồn, tô vẽ bừa bãi nhiều việc càn dở, truyền tiếng xấu đến đời sau, khắp nơi chê cười nhạo báng, khinh lờn đạo đức của bậc Thánh. Người hiểu biết thấy vậy chẳng xét nét nguyên do, há lại xem thường Tổ sư hay sao? Như thế, đâu chẳng phải là làm thân Phật ra máu, phạm tội ngũ nghịch ư?

Tôi từng thấy, vào niên hiệu Nguyên Gia đời Tống, Sư Tài Quán, Huệ Nghiêm và Tạ Linh Vận phiên dịch kinh Niết bàn thêm bớt từ ngữ, nhân đó mơ thấy vị thần quở trách rằng: "Dám đem tình phàm xem thường Thánh điển!". Sư Tài Quán sợ hãi mà ngưng lại.

Còn có ngài Huệ Lâm, do tài học nên được nhà vua quý mến, người thời ấy gọi Huệ Lâm là "Tể tướng áo đen". Ông tự trước tác Hắc Bạch Luận hủy báng Phật giáo, liền bị cảm bệnh dữ, da thịt thối rữa mà chết.

Ôi! Như thế viết bừa bãi truyện ký về Tổ sư, há lại không sợ rơi vào ba đường địa ngục sao?

Phàm những người đồng chí hướng với tôi, nên xét kỹ những việc thật về ngài Huệ Viễn từ gốc đến ngọn; nói rõ khắp nơi, làm cho đạo Tổ sáng ngời mới mong nỗi oan ức của bậc Thánh Hiền do đây được rửa sạch.
Chương 4
ĐẠI SƯ ĐÀM LOAN

Thuở nhỏ, nhân dạo núi Ngũ Đài, Đại sư Đàm Loan thấy thần tích linh dị, bèn phát tâm xuất gia. Sư nghiên cứu đầy đủ giáo pháp Đốn, Tiệm của ba thừa, khai mở Định, Tuệ. Sư thường bị bệnh, khi đi đến Phần Châu, chợt thấy mây che khắp cả, cửa trời mở toan, bậc thang dẫn đến sáu tầng trời cõi Dục(66) trên dưới trùng điệp. Sư vừa chớp mắt, bệnh liền được khỏi. Từ đó, khẩn thiết dụng tâm nơi Phật đạo, thường gắng sức như không kịp; dạy bảo cho những kẻ thế tục mê mờ, không phân biệt xa gần.

Lúc đầu, Sư thích thuật học của đạo Tiên, nghe Đào Ẩn Cư được pháp trường sinh, từ xa tìm đến. Đào Ẩn Cư trao cho mười quyển kinh Tiên. Sư rất vui mừng, cho rằng đạo thuật Thần Tiên là điều cần thiết.

Khi trở về, qua Lạc Dương, gặp Pháp sư Bồ Đề Lưu Chi, trong lòng tâm đắc bèn hỏi rằng:

- Trong đạo Phật có pháp trường sinh bất tử chăng?

Bồ Đề Lưu Chi cười đáp:

- Nói về trường sinh bất tử, thật ra chỉ có Phật pháp mà thôi!

Nói xong, lấy kinh Quán Vô Lượng Thọ trao cho và bảo:

- Tu học theo đây thì không còn luân chuyển trong sáu đường, thoát ly hẳn ba cõi. Sự thịnh suy thành bại, đường họa phước xuống lên, cũng không còn ràng buộc được. Nói về thọ lượng thì kiếp đá và cát sông Hằng cũng chẳng thể sánh bằng. Đây mới thật là pháp trường sinh của đức Phật vậy!

Ngài Đàm Loan nghe nói liền phát khởi lòng tin sâu chắc, bèn đốt kinh Tiên đã học, chuyên tu theo kinh Quán Vô Lượng Thọ. Từ đó, Ngài thông suốt nghĩa lý trong kinh ấy và tu ba phước nghiệp, quán tưởng chín phẩm. Dù lạnh nóng thay đổi, bệnh tật đến thân cũng không lười biếng bê trễ, giữ vững tâm ban đầu. Vua nước Ngụy mến trọng ý chí cao thượng, lại khen ngợi sự tu hành và giáo hóa mọi người, đạo nghiệp rộng lớn, ban hiệu cho Sư là Thần Loan, lại sắc chỉ cho Sư trụ trì chùa Đại Nghiêm ở Tinh Châu, chưa bao lâu dời về chùa Huyền Trung ở Phần Châu.

Một hôm, Sư đang trì tụng, có một vị tăng người Ấn Độ dáng vẻ phi phàm vào trong thất bảo:

- Ta là Long Thọ, ở nơi Tịnh độ, do ông có tâm hướng về Cực Lạc nên đến thăm viếng.

Sư thưa:

- Có việc gì xin Ngài chỉ dạy!

Ngài Long Thọ nói:
  • Đã qua, chẳng theo kịp
    Chưa đến, không thể tìm
    Hiện tại, nay ở đâu
    Ngựa khỏe khó kéo lại.
Nói xong liền biến mất.

Do thấy điều kỳ lạ nên Sư biết đã đến kỳ vãng sinh, liền tập hợp đệ tử mấy trăm người, răn dạy rằng:

- Bốn loài luân chuyển nhọc nhằn không có ngày dừng nghỉ. Nỗi khổ nơi địa ngục rất đáng kinh sợ, tịnh nghiệp nơi chín phẩm cần gắng tu!

Nói xong, bảo hàng đệ tử cao tiếng niệm Phật A Di Đà. Sư bèn hướng về phương Tây, nhắm mắt cúi lạy rồi thị tịch.

Lúc ấy, kẻ tăng người tục đều nghe tiếng nhạc rền vang giữa hư không, từ phương Tây vọng lại giây lâu mới dứt.
  • CHÚ THÍCH:
(66) Sáu tầng trời cõi Dục: chỉ cho sáu tầng trời cõi Dục. Đó là:
  • a. Tứ Đại Vương Thiên: cũng gọi Đại Vương Thiên, Tứ Vương Thiên. Có bốn vua trời là: Trì Quốc, Tăng Trưởng, Quảng Mục, Đa Văn và các Thiên chúng. Người ở cõi trời này cao bằng ¼ câu lô xá, sống năm trăm tuổi; một ngày đêm ở đây bằng năm chục năm ở trần gian.

    b. Tam Thập Tam Thiên: cũng gọi là Đao Lợi Thiên. Gồm ba mươi ba cõi trời: Trời Đế Thích ở giữa, bốn phương mỗi phương đều có tám cõi trời. Thân cao bằng ½ câu lô xá, sống một ngàn tuổi; một ngày đêm ở đây bằng một trăm năm ở nhân gian.

    c. Dạ Ma Thiên: cũng gọi Diệm Ma Thiên, Viêm Ma Thiên, Thời Phần Thiên. Đứng đầu cõi trời này là Tu Dạ Ma thiên, thân cao bằng ¾ của một câu lô xá, sống hai ngàn tuổi; một ngày đêm ở cõi trời này bằng hai trăm năm ở nhân gian.

    d. Đâu Suất Thiên: cũng gọi Đổ Sử Đa Thiên, Đâu Suất Đà Thiên, Hỷ Túc Thiên. Đứng đầu cõi trời này là vua trời San Đâu Suất Đà. Thân cao một câu lô xá, sống bốn ngàn tuổi; một ngày một đêm nơi này bằng bốn trăm năm ở nhân gian.

    e. Hóa Tự Tại Thiên: cũng gọi là Lạc Biến Hóa Thiên, Vô Kiêu Lạc Thiên, Vô Cống Lao Thiên, Ni Ma La Thiên. Đứng đầu cõi trời này là vua trời Thiện Hóa. Thân cao một câu lô xá ¼, sống tám ngàn tuổi; một ngày đêm ở cõi trời này bằng tám trăm năm ở nhân gian.

    f. Tha Hóa Tự Tại Thiên: cũng gọi Tha Hóa Tự Chuyển Thiên, Tha Hóa Lạc Thiên, Hóa Ứng Thanh Thiên, Ba La Ni Mật Thiên. Đứng đầu cõi trời này là vua trời Tự Tại. Thân cao một câu lô xá ½, sống mười sáu ngàn tuổi; một ngày đêm tại đầy bằng một ngàn sáu trăm năm ở nhân gian.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chương 5
ĐẠI SƯ TRÍ GIẢ

Sư húy Trí Khải, tự Đức An, họ Trần, quê ở Dĩnh Xuyên. Mẹ họ Từ, mộng thấy mây khói năm sắc bay quanh thân mà cảm mang thai Ngài. Đến khi đản sinh, trong nhà bỗng nhiên ánh sáng chiếu soi rạng ngời.

Sư sinh ra đã có tướng lạ: mày thanh tú, mắt dài sáng, mỗi tròng có hai con ngươi. Lúc còn nhỏ hễ gặp hình tượng Phật Bồ tát thì liền đảnh lễ, thấy chư tăng thì rất cung kính.

Năm mười tám tuổi, Sư nương theo Pháp sư Pháp Chữ ở chùa Quả Nguyện, tại Tương Châu xuất gia. Sư thường tụng kinh Pháp Hoa, kiêm thông luật tạng, tính ưa tu tập Thiền định. Về sau, lại nhắm hướng Bắc đến núi Đại Tô, lễ Thiền sư Huệ Tư làm thầy. Ngài Huệ Tư vừa nhìn thấy Sư, liền bảo:

- Ta với ông xưa kia đồng nghe kinh Pháp Hoa ở Linh Sơn, duyên xưa vẫn còn, nay lại gặp nhau!

Nhân đó, được Thiền sư truyền trao pháp tu Pháp Hoa Tam muội.

Sư tụng kinh trải qua hai mươi mốt ngày, đến phẩm Dược Vương Bổn Sự tới câu: "Đó là tinh tấn chân thật, đó gọi là cúng dường pháp chân thật...", thân tâm chợt rỗng rang, lặng lẽ vào định, soi sáng Pháp Hoa như mặt trời chiếu khắp vạn vật; thấu suốt tướng của các pháp như gió mát dạo giữa hư không. Sư đem chỗ chứng ngộ bạch với ngài Huệ Tư. Thiền sư ngợi khen, bảo:

- Chỉ riêng ông mới chứng, duy có ta mới biết! Cảnh mà ông chứng đó là tiền phương tiện của Pháp Hoa Tam muội. Ông được Tuyền Đà la ni, trong những người thuyết pháp ông là bậc nhất.

Về sau, Sư hoằng pháp ở Nghiệp Đô, các Pháp sư tài giỏi đương thời thảy đều khuất phục.

Sau, Sư vào núi Thiên Thai, hàng phục ma quân, tiến tu đạo hạnh. Khi hóa duyên đã mãn, Sư ở trước tượng Phật bằng đá lớn tại Tân Xương thị hiện có bệnh, bảo rằng nhập diệt. Đệ tử thưa hỏi:

- Ngài có được sinh về Tây Phương chăng?

Sư đáp:

- Các thầy bạn đều theo Bồ tát Quán Âm tới rước ta vãng sinh!

Đến tối, thị giả thấy có Phật đến, thân Phật to lớn gấp đôi tượng Phật đá lớn.

Lúc sắp lâm chung, Sư nói về các pháp môn, bảo đại chúng tụng kinh Vô Lượng Thọ và đề mục của kinh Quán Vô Lương Thọ. Sư bèn nhìn khắp đại chúng, chắp tay khen ngợi rằng:

- Bốn mươi tám nguyện trang nghiêm Tịnh độ, ao sen cây báu dễ vãng sinh mà ít kẻ nguyện cầu. Người tạo năm tội nghịch, mười điều ác tướng địa ngục hiện, một niệm cải hối còn được sinh về; huống là bậc huân tu giới định, nỗ lực thực hành đạo Thánh, tất công phu chẳng luống uổng vậy!

Nói xong, xướng danh Tam Bảo rồi điềm nhiên thị tịch.

Về sau, có vị tăng mong muốn biết Sư sinh về cõi nào, bèn nằm mộng thấy Ngài theo sau Bồ tát Quán Thế Âm thân sắc vàng chói, cao lớn mấy trượng, đi đến bảo rằng:

- Trí Giả đã sinh về Tây Phương! Ông đừng nên nghi ngờ nữa!
Chương 6
ĐẠI SƯ THIỆN ĐẠO
(Tổ thứ hai của Liên tông)
Niên hiệu Trinh Quán đời Đường, Đại sư Thiện Đạo chu du khắp nơi tìm hỏi đạo pháp, nhân thấy Thiền sư Đạo Xước ở Tây Hà thực hành những phương pháp sám hối Đại thừa và đạo tràng Tịnh độ cửu phẩm, giảng kinh Quán Vô Lượng Thọ, Sư rất vui mừng bảo:

- Đây mới thật là lối chính yếu đi vào cảnh Phật. Tu các hạnh nghiệp khác quanh co khó thành tựu, chỉ môn quán này mau thoát sinh tử. Nay ta đã được rồi vậy!

Từ đó, Ngài siêng năng tinh tấn không ngại khổ nhọc như cứu lửa cháy trên đầu. Về sau, đến kinh sư khuyến khích bốn chúng đệ tử(67) tu hành, không kể là kẻ sang người hèn, ngay cả bọn bán rượu thịt cũng cảm ngộ được.

Sư mỗi khi vào thất, quỳ chắp tay nhất tâm niệm Phật, nếu chưa đến lúc kiệt sức, quyết không chịu thôi nghỉ, thậm chí trời lạnh buốt cũng đổ mồ hôi. Tướng trạng ấy là bày tỏ lòng chí thành tinh tấn của Sư.

Lúc ra thất, diễn nói pháp môn Tịnh độ cho đại chúng, giáo hóa người tăng kẻ tục, làm cho họ phát tâm đạo tâm tu hạnh Tịnh độ, không khi nào không làm lợi ích cho mọi người. Hơn hai mươi năm không có chỗ ngủ nghỉ, chưa từng tạm thời nghỉ ngơi, trừ khi tắm gội, chưa từng cởi áo. Sư thực hành pháp Ban chu Tam muội, lễ Phật Phương Đẳng, chuyên lấy đó làm trách nhiệm của mình.

Sư giữ gìn giới hạnh không sai phạm một mảy may, chưa từng ngước mắt nhìn người nữ, tâm dứt hẳn nơi danh lợi, tránh xa những sự cười đùa. Dùng việc tu thân thanh tịnh làm sự cúng dường; đồ ăn, thức uống, tứ sự(68) không tự hưởng đều đem bố thí. Được thức ăn ngon đưa cho nhà trù để cúng dường đại chúng, chẳng dùng sữa lạc, đề hồ, phần mình chỉ dùng thức ăn đạm bạc.

Sư đem những tịnh tài được dâng tặng dùng để viết hơn mười vạn quyển kinh A Di Đà, vẽ hơn ba trăm bức Tịnh độ biến tướng; thấy chùa tháp hư hoại đều tu sửa lại, đốt đèn tiếp nối ánh sáng suốt năm chẳng dứt; ba y, bình bát chẳng sai khiến người khác mang rửa, trước sau không đổi thay.

Sư giáo hóa những người có duyên, thường tự đi một mình không đi chung với mọi người, sợ đi cùng với người khác bàn luận việc đời trở ngại cho việc tu hành của mình. Hoặc có người tìm kiếm lễ bái được nghe Ngài nói một ít pháp, hoặc có người được cùng dự đạo tràng, đích thân tiếp nhận lời dạy bảo; hoặc có người chưa từng thấy nghe, tìm kiếm giáo nghĩa; hoặc có người truyền trao lần lượt pháp môn Tịnh độ hoặc tụng kinh A Di Đà mười vạn biến, cho đến ba mươi vạn biến, niệm Phật A Di Đà mỗi ngày một vạn năm ngàn câu, cho đến mười vạn và được niệm Phật Tam muội, vãng sinh Tịnh độ đông không thể kể xiết.

Có người hỏi:

- Niệm Phật được vãng sinh chăng?

Ngài đáp:

- Tùy theo sự tinh tấn niệm Phật, chắc chắn ông sẽ được mãn nguyện.

Nói xong, Ngài tự niệm Nam mô A Di Đà Phật, liền có một tia sáng từ trong miệng phóng ra. Kế lại liên tiếp niệm từ mười cho đến một trăm câu, ánh sáng cũng thế.

Một hôm, Đại sư bỗng bảo mọi người:

- Thân này đáng chán, các khổ bức ngặt, tâm tư biến đổi không tạm dừng nghỉ.

Nói xong, leo lên cây liễu trước chùa, hướng về Tây nguyện rằng:

- Nguyện oai thần của Phật mau chóng tiếp dẫn con; Bồ tát Quán Âm Thế Chí cũng đến trợ giúp, khiến tâm con chẳng mất chánh niệm, chẳng sợ hãi, ở trong giáo pháp Phật Di Đà chẳng phát sinh mảy may lui sụt.

Nguyện xong, Ngài ở trên cây, đứng nghiêm trang thoát hóa.

Khi ấy, các sĩ đại phu ở kinh sư, thành kính tin tưởng thâu nhặt hài cốt an táng. Hoàng đế Cao Tông nghe nói Ngài niệm Phật phát ra ánh sáng, lại hay khi xả bỏ báo thân an lành đến như thế, nên ban một tấm biển sắc tặng hiệu chùa là Quang Minh Tự.

Lược truyện của ngài Tuân Thức ở chùa Thiên Trúc nói Hòa thượng Thiện Đạo là Phật A Di Đà hóa thân. Từ khi đến Trường An, nghe tiếng nước chảy, Hòa thượng bảo có thể dạy niệm Phật, bèn lập Ngũ Hội Giáo, khuyên bảo giáo hóa rộng rãi. Có người rất mực tin tưởng, thấy Hòa thượng niệm Phật, Phật từ trong miệng hiện ra. Sau ba năm, trong thành Trường An đều biết niệm Phật. Việc này thấy trong biệt truyện, về sau có Đại sư Pháp Chiếu là hậu thân của ngài Thiện Đạo, vào thời vua Đức Tông mở Ngũ Hội Giáo ở Tinh Châu dạy người niệm Phật. Nhà vua ở Trường An thường nghe phía Đông Bắc có tiếng niệm Phật. Vua sai sứ đi tìm, đến Đại Khang quả nhiên thấy ngài Pháp Chiếu dạy người niệm Phật. Vua bèn mời vào cung. Ngài bèn mở năm hội niệm Phật dạy mọi người trong cung tu hành, việc này có ghi rõ trong truyện ký.
  • CHÚ THÍCH:
(67) Bốn chúng đệ tử: chỉ cho bốn chúng đệ tử tạo thành giáo đoàn Phật giáo, tức Tỷ kheo, Tỷ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di hoặc chỉ riêng cho bốn chúng xuất gia là Tỷ kheo, Tỷ kheo ni, Sa di và Sa di ni.

(68) Tứ sự: dâng cúng bốn món cần thiết trong sinh hoạt hàng ngày lên Phật và Tăng, đó là y phục, thức ăn uống, ngọa cụ, thuốc men hoặc chỉ cho y phục, thức ăn uống, ngọa cụ, phòng xá.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chương 7
ĐẠI SƯ PHÁP CHIẾU

Niên hiệu Đại Lịch thứ hai đời nhà Đường (767), Ngài ở chùa Vân Phong tại Hành Châu huân tu từ bi, nhẫn nhục, giới hạnh, Thiền định, được mọi người đương thời quy kính.

Một buổi sáng nọ, vào lúc thanh trai, Sư thấy trong bát cháo nơi tăng đường hiện rõ bóng mây ngũ sắc. Trong mây hiện ra cảnh chùa, phía Đông Bắc của chùa có dãy núi lớn, chân núi có khe nước. Phía Bắc có khe nước lại có cửa ngõ bằng đá. Trong ngõ đá, khoảng năm dặm lại có một ngôi chùa, trên bảng vàng đề "Đại Thánh Trúc Lâm Tự". Tuy mắt Ngài thấy mà trong lòng còn ngờ là lúc ấy tinh thần không tỉnh sáng. Mấy hôm sau, khi thọ trai, Ngài lại thấy trong bát hiện mây ngũ sắc, trong mây hiện ra mấy cảnh chùa; không có núi rừng nhơ xấu, thuần là cõi sắc vàng; ao đài, lầu các cùng các thứ báu xen kẽ lẫn nhau, muôn vị Bồ tát ở trong đó. Trong ấy, cõi nước trang nghiêm của chư Phật, đủ mọi tướng thù thắng. Sư vui thích đem cảnh tượng này tìm hỏi, có hai vị tăng Gia Diên và Đàm Huy nói: "Sự biến hiện của chư Thánh không thể dùng phàm tình lường xét được, nhưng nếu luận về địa thế non sông, thì đó là cảnh Ngũ Đài Sơn".

Mùa hạ năm Đại Lịch thứ tư (769), Đại sư mở đạo tràng Ngũ Hội Niệm Phật ở chùa Hồ Đông tại Hành Châu. Ngày 02 tháng 06 năm ấy, mây lành ngũ sắc che khắp cả chùa. Trong mây hiện ra lầu các, trên lầu các có mấy vị tăng người Ấn Độ thân cao hơn một trượng, cầm tích trượng hành đạo. Lại thấy Phật A Di Đà và hai vị Bồ tát Quán Âm, Thế Chí thân tướng cao lớn khắp cả hư không. Lúc trời tối, ở ngoài đạo tràng, Sư gặp một cụ già bảo:

- Trước ông đã phát nguyện muốn đến thế giới kim sắc đảnh lễ Đại thánh Văn Thù, sao đến nay vẫn chưa thực hiện?

Ngài nói:

- Thời gian và đường sá khó khăn, biết làm thế nào?

Cụ già bảo:

- Chỉ cần đi ngay thì được, nào có gian nan gì!

Ngài chưa trả lời thì cụ già biến mất.

Do thấy sự lạ kỳ, nên lại phát nguyện:

- Nguyện đem thân này đến gặp Đại Thánh, dù cho có vào trong biển lửa sông băng cũng quyết không lui bước.

Ngày 13 tháng 08 năm ấy, Đại sư cùng mấy người đồng chí hướng, từ Nam Nhạc xuất phát, quả nhiên không gặp gian nan hiểm trở. Ngày mồng 05 tháng 04 năm Đại Lịch thứ 5 (770), đến huyện Ngũ Đài, từ xa trông thấy phía Nam của chùa có mấy luồng ánh sáng. Ngày mồng 06 đến chùa Phật Quang, in như những cảnh thấy trong bát, không sai khác chút nào. Đêm ấy, vào khoảng canh tư, lại có ánh sáng lạ từ phương Bắc chiếu đến. Ngài chẳng rõ mới hỏi:

- Đây là điềm gì? Lành hay dữ?

Vị tăng bảo:

- Đây là ánh sáng chẳng nghĩ bàn của Đại Thánh thâu nhiếp thân tâm ông, tại sao lại hỏi như thế?

Đại sư nghe rồi, liền đầy đủ oai nghi tiến bước đến chùa. Đến phía Đông Bắc của chùa khoảng năm dặm, quả nhiên có một dãy núi. Dưới chân núi có khe nước, phía Bắc khe có cửa cổng bằng đá. Nơi cửa có hai vị đồng tử, một vị xưng là Thiện Tài, vị kia xưng là Nan Đà. Hai vị dẫn Sư vào cửa, đi về phương Bắc khoảng năm dặm lại thấy một cổng vàng, phía trên có lầu các, bên cạnh lầu các lại có một ngôi chùa, cổng chùa có tấm biển vàng lớn đề: "Đại Thánh Trúc Lâm Tự".

Chu vi của chùa khoảng hai mươi dặm, hơn một trăm viện, mỗi viện đều có bảo tháp. Vàng ròng làm đất, đài hoa cây ngọc đầy khắp trong đó. Sư vào chùa, lên giảng đường, thấy Bồ tát Văn Thù bên Tây, ngài Phổ Hiền bên Đông. Hai vị đều ngồi tòa sư tử cao đẹp. Sư đến trước hai vị Bồ tát đảnh lễ, thưa rằng:

- Hàng phàm phu thời mạt pháp, hiểu biết cạn cợt, tuy có Phật tánh tâm địa mà không sao hiển lộ được. Chưa biết tu hành pháp môn nào là thiết yếu nhất? Cúi mong Đại Thánh giải trừ mối nghi ngờ cho con!

Bồ tát Văn Thù bảo:

- Lời ông hỏi hiện nay rất đúng lúc. Các môn tu hành, không gì hơn niệm Phật. Ta trong đời quá khứ nhờ niệm Phật mà được Nhất Thiết Chủng Trí. Tất cả các pháp Bát nhã Ba la mật đa, những môn Thiền định thậm thâm, cho đến biển Chánh Biến Tri của chư Phật đều từ niệm Phật mà sinh.

Pháp Chiếu lại hỏi:

- Nên niệm thế nào?

Ngài Văn Thù dạy:

- Về Phương Tây của thế giới này có Phật A Di Đà, nguyện lực của đức Phật ấy chẳng thể nghĩ bàn. Ông nên chuyên niệm danh hiệu của Ngài nối tiếp không gián đoạn, khi mạng chung chắc chắn được vãng sinh.

Nói xong, hai vị Bồ tát đồng đưa tay vàng xoa đầu Sư, rồi thọ ký:

- Do ông thực hành pháp niệm Phật chẳng thể nghĩ bàn, nên rốt cuộc chứng được đạo giác ngộ tột cùng. Nếu thiện nam tín nữ nào muốn mau giải thoát thì nên niệm Phật.

Khi ấy, hai vị Bồ tát cùng nói kệ. Ngài Pháp Chiếu nghe rồi càng thêm vui vẻ.

Bồ tát Văn Thù lại bảo:

- Ông có thể đi qua các viện đảnh lễ chư Bồ tát để được dạy bảo.

Sư theo lời dạy, lần lượt thỉnh vấn và được dạy bảo. Sau đó, đến vườn hoa thất bảo, rồi trở về chỗ Đại Thánh lễ tạ, được hai vị đồng tử Thiện Tài và Nan Đà khi trước đưa ra cửa. Sư lại đảnh lễ từ biệt, vừa ngẩng đầu lên thì người và cảnh đều biến mất.

Đến ngày 13, Sư cùng hơn năm mươi vị tăng đến hang Kim Cang Vô Trước, nơi của Đại Thánh. Bỗng thấy chỗ ấy rộng lớn trang nghiêm thanh tịnh, cung điện bằng lưu ly, Bồ tát Văn Thù, Phổ Hiền và khoảng một vạn vị Bồ tát, Phật Đà Ba Lợi cũng ở trong ấy. Ngài Pháp Chiếu được thấy, rồi theo đại chúng trở về chùa. Đêm ấy, vào lúc canh ba, ở lầu Tây viện Hoa Nghiêm lại thấy ven khe nước bên vách núi ở phía Đông chùa có ngọn đèn năm nhánh lớn hơn một thước (khoảng bốn tấc ta). Sư nói: "Nguyện chia làm một trăm ngọn đèn, để về một mặt". Đèn chia ra như nguyện, lại nguyện chia làm ngàn ngọn đuốc, đuốc cũng như vậy, hàng hàng đối nhau, ánh sáng mỗi mỗi giao nhau. Những điều kỳ lạ trong ánh sáng khắp cả núi rừng.

Ngài Pháp Chiếu lại đến hang Kim Cang, mong được thấy Đại Thánh. Đến canh ba, thấy một vị tăng người Ấn Độ tự xưng là Phật Đà Ba Lợi dẫn vào chùa. Đến ngày mồng một tháng chạp, Sư vào đạo tràng niệm Phật ở viện Hoa Nghiêm, nhớ lời hai vị Bồ tát Văn Thù, Phổ Hiền nói Ngài rốt cuộc chứng được đạo giác ngộ tột cùng, lại ghi nhận Ngài niệm Phật A Di Đà quyết định vãng sinh, do đó một lòng niệm Phật. Đang lúc niệm Phật, Sư bỗng thấy một vị tăng người Ấn Độ bước vào đạo tràng bảo:

- Đài hoa nơi Tịnh độ của ông đã hiện rồi. Ba năm sau hoa nở, ông sẽ vãng sinh. Song, ông được thấy các chùa Trúc Lâm, tại sao không nói cho mọi người được rõ?

Đại sư nghe rồi, nhớ lại những cảnh được thấy trước kia, bảo những người thợ điêu khắc trên đá, đồng thời ở chỗ được thấy Trúc Lâm Tự, đặc biệt xây dựng một ngôi chùa, lấy hiệu là Trúc Lâm. Công trình xây dựng chùa hoàn tất, Sư bảo:

- Việc của tôi đã xong, tôi đâu thể ngưng trệ ở lâu nơi đây.

Vài ngày sau, Sư bèn thị tịch.
Chương 8
ĐẠI SƯ THIẾU KHANG
(Tổ thứ năm của Liên tông)
Sư là người ở vùng núi Tiên Đô xứ Tấn Vân. Mẹ là La Thị, nhân dạo ở đỉnh Hồ Phong, được ngọc nữ trao cho hoa sen xanh, bảo rằng:

- Hoa này tốt lành, trao cho bà sẽ sinh quý tử.

Ngày sinh ra Sư, có ánh sáng xanh đầy khắp nhà, mùi thơm tợ hoa sen.

Năm 15 tuổi, Sư đọc năm bộ kinh như: Pháp Hoa, Lăng Nghiêm..., lại học tập nghiên cứu giới luật và nghe các bộ luận Hoa Nghiêm, Du Già.

Niên hiệu Trinh Nguyên năm đầu (785), Sư đến viếng chùa Bạch Mã ở Lạc Dương. Thấy chỗ để sách trong đại điện phóng quang, Sư lại tìm xem, thì ánh sáng ấy phát xuất từ tập văn Tây Phương Hóa Đạo của Hòa thượng Thiện Đạo, Sư liền khấn rằng:

- Nếu tôi có nhân duyên Tịnh độ, nguyện tập văn này phóng quang một lần nữa!

Chưa dứt lời, ánh sáng lại càng chiếu xa rực rỡ. Sư nói:

- Kiếp đá có thể mòn, nhưng nguyện của tôi không thay đổi.

Nhân đó, Sư đến Trường An, chiêm lễ di ảnh của Hòa thượng Thiện Đạo, thành tâm thiết lễ cúng dường. Đang khi lễ, bỗng thấy Đại sư Thiện Đạo hiện trên hư không bảo Ngài rằng:

- Ông y theo lời dạy của ta, làm lợi lạc cho chúng sinh, ngày kia công thành sẽ sinh về Cực Lạc!

Sư nghe rồi như có điều chứng đắc. Sau đó đi về phương Nam, đến chùa Quả Nguyện, ngang qua Giang Lăng, trên đường đi Sư gặp một vị tăng bảo:

- Ông muốn dạy người niệm Phật, nên qua xứ Tân Định.

Nói xong, bỗng biến mất.

Đến Mục Châu, thấy mọi người chưa được giáo hóa, Sư quyên tiền dẫn dụ trẻ con: "Ai niệm một câu A Di Đà Phật thì cho một đồng tiền". Trẻ con vì muốn được tiền nên niệm Phật rất nhiều. Sư lại bảo niệm Phật mười câu mới cho một đồng. Một năm như thế, lớn nhỏ sang hèn, mọi người gặp Sư đều niệm A Di Đà Phật! Do đây, người niệm Phật đầy khắp trên đường.

Năm thứ mười niên hiệu Trinh Nguyên (794), Sư thành lập đạo tràng Tịnh độ ở núi Ô Long, xây đàn tam cấp. Mọi người nhóm họp trưa tối hành đạo. Khi vào đạo tràng, Sư lên tòa bảo đệ tử nam nữ hướng về phương Tây to tiếng niệm A Di Đà Phật. Đại chúng thấy Sư niệm một câu Phật thì Phật từ miệng Ngài hiện ra, niệm liên tục mười câu thì Phật cũng hiện ra liên tiếp như xâu chuỗi. Đại sư bảo:

- Mọi người thấy Phật chăng? Nếu người thấy Phật chắc chắn vãng sinh Tịnh độ.

Nhưng cũng có kẻ lễ Phật mà chẳng thấy Phật.

Ngày 03 tháng 10 năm thứ 21 niên hiệu Trinh Nguyên (805), Sư dặn dò kẻ tăng người tục:

- Các vị nên phát tâm tinh tấn tu hành để vãng sinh Tịnh độ, đối với Diêm phù đề nên sinh lòng chán nản xa lìa. Giờ đây, thấy Phật mới thật sự là đệ tử của tôi!

Nói xong, Sư phóng mấy tia sáng lạ đẹp, rồi lặng lẽ thị tịch.

Đại chúng xây tháp Sư ở Đài Nham. Về sau, Thiền sư Đức Thiều ở Thiên Thai trùng tu lại. Người sau phần nhiều cho rằng, tháp ấy là tháp của ngài Thiện Đạo.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chương 9
ĐẠI SƯ TỈNH THƯỜNG
(Tổ thứ bảy của Liên tông)

Sư húy Tỉnh Thường, tự Tháo Vi, con nhà họ Nhan ở Tiền Đường.

Năm 17 tuổi, Sư xuất gia thọ giới Cụ túc, giới hạnh trang nghiêm, thông suốt Luận Đại Thừa Khởi Tín, tu tập pháp Chỉ Quán của tông Thiên Thai, tiếp nối di phong của ngài Huệ Viễn.

Đời Tống niên hiệu Thuần Hóa, Sư trụ trì chùa Chiêu Khánh ở Tây Hồ Hàng Châu, chuyên tu Tịnh nghiệp, kết Tịnh Hạnh xã. Tướng quốc Vương Văn Đán làm người đứng đầu trong hội. Những bậc sĩ đại phu tham dự hội đều gởi thi tụng, tự xưng là đệ tử Tịnh Hạnh. Sư bèn tự chích tay lấy máu hòa với mực chép phẩm Tịnh Hạnh trong kinh Hoa Nghiêm. Mỗi khi viết một chữ, lạy ba lạy, kinh hành ba vòng, niệm danh hiệu Phật ba lần. Khi hoàn thành khắc bản, in ra ngàn quyển phân chia cho ngàn người, lại dùng gỗ hương Chiên đàn điêu khắc tượng Phật Tỳ Lô Giá Na. Lúc tượng hoàn thành, Sư quỳ dưới đất chắp tay phát nguyện rằng:

- Con cùng với đại chúng một ngàn người, tám mươi Tỷ kheo, bắt đầu từ hôm nay phát tâm Bồ đề, cùng tận bờ mé vị lai thực hành hạnh Bồ tát. Nguyện hết thân nghiệp báo này được vãng sinh Cực Lạc.

Hàn lâm Thừa chỉ Tống Bạch soạn bia. Hàn lâm Học sĩ Tô Dị Giảng viết lời tựa phẩm Tịnh Hạnh. Trạng nguyên Tôn Hà viết tên những người tham dự Tịnh Hạnh xã lên mặt sau bia đá. Pháp sư Viên ở Cô Sơn viết về hạnh nghiệp của Sư, trong ấy dẫn lời tựa của Tô Dị Giảng: "Tôi sẽ trải tóc để Ngài bước lên, khoét thân thỉnh pháp còn không sân hận, huống gì học vấn cạn cợt, văn từ quê mùa, mà lại lẫn tiếc hay sao!". Lời văn bia của Tống Bạch ghi: "Sư ngưỡng mộ ngài Huệ Viễn, khởi phát Tịnh xã ở Lô Sơn, đổi Liên Hoa thành tên Tịnh Hạnh. Ngài Huệ Viễn ở vào thời suy đồi, những người Ngài kết bạn phân nửa là ẩn sĩ. Đại sư Tỉnh Thường ở thời thanh bình, kết giao phần nhiều là các bậc thiên tài đạo đức. So với thuở trước thì hàng danh sĩ hơn nhiều; lưu lại sự nghiệp đời sau thì có rường cột tiếp nối". Từ lời nói của hai vị ấy mà xét sự hưng thịnh ở thời đó, cũng có thể thấy được phần nào.

Sư thị tịch vào ngày 12 tháng giêng năm thứ tư niên hiệu Thiên Hy (1020), hưởng thọ sáu mươi hai tuổi.
Chương 10
THIỀN SƯ TỪ GIÁC

Sư húy là Tông Trách, hiệu Từ Giác, người ở Tương Dương. Cha mất sớm, mẹ là Trần thị, được người cậu nuôi dưỡng. Thuở nhỏ học Nho, chí tiết cao vời, học vấn uyên bác.

Năm hai mươi chín tuổi, lễ Thiền sư Tú ở Trường Lô Chân Châu xuất gia, tham cứu thông suốt lẽ huyền diệu, tỏ ngộ chánh pháp nhãn tạng của Như Lai.

Niên hiệu Nguyện Hựu đời Tống, Sư trụ trì chùa Trường Lô, rước mẹ về phụng dưỡng ở tịnh thất phía Đông phương trượng, khuyên bà xuống tóc. Ngoài việc dâng món ngon ngọt ra, Sư còn khuyên mẹ cố gắng trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà. Bà mẹ mỗi ngày chuyên cần tu hành trước sau bảy năm, lúc lâm chung quả nhiên không bệnh, an lành niệm Phật qua đời. Sư tự bảo, lòng báo đáp mẫu thân đã trọn vẹn, bèn trước tác Khuyến Hiếu Văn nêu gương một trăm hai mươi vị, soạn Vĩ Giang Tập, Tọa Thiền Châm để noi theo khuôn phép của Lô Sơn. Sư kiến lập Liên Hoa Thắng Hội, khuyên tất cả tăng tục đều tu niệm Phật, chỉ dạy quán tưởng, sau đó lập ra phép tắc cho người dự hội, mỗi ngày niệm Phật A Di Đà từ một trăm câu đến một ngàn câu, từ một ngàn đến một muôn câu, hồi hướng phát nguyện cầu sinh Tịnh độ. Niệm mười câu đánh một chữ thập, đến lúc mặt trời lặn thì tính đếm tất cả số câu Phật hiệu đã niệm trong ngày lấy đó làm công khóa.

Đêm nọ, Sư nằm mộng, thấy có một người khăn đen áo trắng, dáng vẻ thanh nhã, khoảng ba mươi tuổi, đến vòng tay thưa rằng:

- Tôi muốn vào hội Liên Hoa, xin Ngài ghi tên cho!

Thiền sư lấy sổ bộ ra, rồi hỏi:

- Hiền giả tên họ chi?

Đáp:

- Tôi tên Phổ Tuệ.

Khi thấy ghi xong, lại nói:

- Anh nhà cũng cầu xin ghi danh.

Hỏi:

- Xin cho biết tên họ của người anh đó!

Đáp:

- Anh tôi tên là Phổ Hiền.

Nói xong liền ẩn mất.

Tỉnh giấc, Sư đem điềm mộng ấy thuật lại với các bậc Tôn túc rồi bảo:

- Phẩm Ly Thế Gian trong kinh Hoa Nghiêm, có hai vị Bồ tát Phổ Hiền, Phổ Tuệ, giúp tuyên dương Phật pháp. Nay tôi lập Liên Hoa Thắng Hội cùng nguyện về Tây Phương, nên cảm hai vị Đại sĩ âm thầm tán trợ!

Nói xong, Ngài để tên hai vị Bồ tát vào hàng người đứng đầu trong hội. Từ đó, xa gần đều được cảm hóa.
Chương11
THIỀN SƯ DIÊN THỌ
Sư tên Diên Thọ, tự Xung Huyền, hiệu Bảo Nhất Tử, người ở Đơn Dương, con nhà họ Vương, lúc mới sinh ra đã có nhiều điềm lạ. Khi cha mẹ tranh cãi thì từ trên giường cao lăn xuống đất, cha mẹ liền thôi. Lớn lên, làm Nho sĩ.

Năm 16 tuổi, Sư dâng Tề Thiên Phú cho Ngô Việt Vương, mọi người khen ngợi là bậc kỳ tài. Sư muốn xuất gia, cha mẹ không cho, bèn lấy dao đâm vào tim, máu tuôn lai láng. Từ đó, Sư tuyệt dứt việc ăn mặn. Cuối cùng cũng toại chí.

Năm 34 tuổi, nương theo Thiền sư Thúy Nham ở chùa Long Sách xuống tóc, thọ giới Cụ túc. Buổi sáng Sư phục vụ đại chúng; ban đêm tu tập Thiền định. Nhân xem Luận Đại Trí Độ nói: " Khi Phật còn tại thế, có một ông lão cầu xin xuất gia. Xá Lợi Phất không cho. Đức Phật xét thấy người này kiếp xưa làm tiều phu bị cọp rượt đuổi, ông leo lên cây thất thinh niệm "Nam mô Phật". Do có điều lành nhỏ ấy, nên gặp Phật được độ, đắc quả A-la-hán”. Sư xét nghĩ, những chúng sinh bị nghiệp ràng buộc nơi thế gian chẳng thể giải thoát, chỉ có dùng pháp niệm Phật dễ dẫn dắt hóa độ, bèn in hình tháp Di Đà bốn mươi vạn bản, khuyên người lễ niệm.

Một hôm, khi đang kinh hành trong sám đường, bỗng thấy hoa sen trên tay tượng Bồ tát Phổ Hiền, nhân đó nghĩ về nguyện xưa, tiến thối chưa quyết định. Sư bèn làm hai lá thăm, một lá đề "Nhất tâm Thiền định", lá kia đề "Vạn thiện sinh Tịnh Độ". Đến nửa đêm, trong lòng thầm nguyện, trong hai con đường này, đường nào công hạnh được thành tựu thì phải bốc trúng bảy lần. Đến khi rút thăm, luôn bảy lần Sư đều bốc nhằm lá "Vạn thiện sinh Tịnh Độ". Từ đó, mỗi ngày Sư tụng kinh, lễ Phật, niệm Phật, thuyết giới, thí thực, phóng sinh, làm một trăm lẻ tám việc lợi ích, chưa lúc nào bê trễ. Việt Vương thỉnh Sư trụ trì chùa Tịnh Từ, ban hiệu là Thiền sư Trí Giác. Sư dung hội yếu nghĩa của ba tông, trước tác Tông Cảnh Lục một trăm quyển, Vạn Thiện Đồng Quy Tập, Thần Thê An Dưỡng Phú... gồm chín mươi bảy quyển, đều được lưu hành ở đời. Sư chí thành tha thiết chuyên đem pháp niệm Phật khuyên bảo mọi người đồng sinh Tịnh độ. Người đời khen ngợi là: "Mẫu mực của Tông môn, bậc siêu xuất trong Tịnh độ".

Lúc lâm chung, Sư dự biết ngày giờ, rất nhiều sự thù thắng. Khi trà tỳ, xá lợi vô số.

Có một vị tăng qua đời, nơi cõi U minh thấy phía bên trái trong điện, Diêm Vương đang cúng dường và ân cần lễ bái một bức họa hình vị tăng, bảo là: "Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ, đã vãng sinh Thượng phẩm nơi Tây Phương, nên tôi kính lễ!".
Chương 12
SÁM CHỦ TỪ VÂN

Sư húy Tuân Thức, tự Tri Bạch, họ Diệp, người ở huyện Lâm Hải tại Thai Châu, hiệu là Sám chủ Từ Vân. Mẹ Ngài cầu xin nơi Bồ tát Quán Âm mà sinh được Pháp sư.

Năm mười tám tuổi, đến cầu xin xuất gia với Hòa thượng Nghĩa Toàn ở núi Đông Dịch. Ban đầu ở chùa Thiền Lâm học tập giới luật, sau đó vào chùa Quốc Thanh, trước tượng Bồ tát Phổ Hiền đốt ngón tay, thệ nguyện tu tập giáo pháp tông Thiên Thai. Sư học vấn cao thâm, hành trì kham khổ, tiếng tăm vang khắp hai vùng Triết Đông, Tây; học tập rộng sâu về giáo quán, chuyên chí nơi Tịnh độ.

Sư từng kiết thất chín mươi ngày, tu hành pháp Ban Chu Tam muội, chuyên cần tinh tấn đến nỗi chân nứt, miệng ói máu, lấy cái chết làm kỳ hạn. Bỗng một hôm, Sư dường như nằm mộng, thấy Bồ tát Quán Âm mặc áo trắng hiện thân đưa tay vào miệng Sư kéo ra vài con lãi, đầu ngón tay của Bồ tát rịn nước cam lồ nhiễu vào miệng. Sư nghe trong mình khỏe khoắn, tâm thần an định. Từ đây, bệnh cũ liền khỏi. Sau đó, do công đức lễ sám, đỉnh đầu của Sư nhô cao hơn một tấc, hai tay dài quá gối, tiếng nói như chuông ngân, đều khác với trước kia. Mọi người ai cũng khen ngợi kính ngưỡng.

Sư xây dựng chùa Thiên Trúc mấy trăm gian. Ba lần trải qua nạn giặc, mỗi khi chùa bị đốt thì lửa tự tắt, đó là do nguyện lực kiên cố mà ra. Lúc Sư đang giáo hóa, người trong núi thấy ngôi sao lớn rơi xuống ngọn Linh Thứu. Sư hóa độ đệ tử được một trăm người, học trò một ngàn vị.

Lúc sắp lâm chung, Sư dâng hương chiêm ngưỡng Thánh tượng, dặn dò rằng:

- Chư Phật mười phương đồng trụ nơi chân thật. Xin các Ngài trụ nơi chân thật ấy mà nhận một nén hương này. Chư Phật chứng minh cho con vãng sinh An Dưỡng!

Có người hỏi chỗ về, Sư đáp về Tịnh độ Thường Tịch Quang.

Tối hôm ấy, Sư ngồi kiết già thị tịch, nhằm vào niên hiệu Thiên Thánh, hưởng thọ sáu mươi chín tuổi, hạ lạp năm mươi.

Sư có trước tác Vãng Sinh Tịnh Độ Quyết Nghi Hạnh Nguyện Nhị Môn và Tịnh Độ Sám Pháp, Kim Quang Minh Sám Nghi, Quán Âm Sám Nghi. Các bản ấy đều được lưu hành ở đời.

Tông phong và giáo nghĩa của tông Thiên Thai hưng thịnh nơi đất Ngô Việt, thật do đạo đức của Đại sư Từ Vân.

Xem trong Quyết Nghi Hạnh Nguyện Nhị Môn dẫn lời kinh nói: "Tìm khắp mười phương không có thừa nào khác, chỉ có một Phật thừa". Đó là nói về pháp môn Tịnh độ này chăng? Sám chủ tỏ ngộ cõi Thường Tịch Quang nơi bản tánh, đi vào cõi Phật thanh tịnh duy tâm. Lợi mình lợi người, Sự Lý vô ngại. Trước thuật mấy trăm thiên, mỗi khi phát ngôn đều lấy Tịnh độ làm tông chỉ hướng về. Xiển dương rộng rãi giáo lý của các kinh, giáo hóa khắp tất cả. Từ khi Sám văn lưu truyền ở đời, người vãng sinh Tịnh độ chẳng biết mấy ngàn muôn. Nối tiếp đạo pháp của tông Thiên Thai, tán dương sự giáo hóa về Tịnh độ trên đời chưa ai sánh kịp với Sư!


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chương 13
VÂN NGẠN BÁC

Công họ Văn, húy Ngạn Bác, làm Thái thú Lạc Dương, từng thiết lễ cúng dường trai tăng. Lúc qua chùa Long An, chiêm ngưỡng lễ bái Thánh tượng, chợt thấy tượng vỡ rơi xuống đất, tâm ông giảm bớt sự cung kính, chỉ nhìn rồi đi ra. Bên cạnh có vị tăng bảo:

- Sao không làm lễ?

Ông đáp:

- Tượng đã vỡ, tôi lấy gì để lễ?

Vị Tăng bảo:

- Bậc Tiên đức nói rằng:
  • Như đất đường quan
    Người ta lấy làm tượng.
    Bậc trí biết là đất
    Kẻ phàm bảo hình tượng.
    Về sau quan muốn đi
    Lại đem tượng lấp đường
    Tượng vốn chẳng sinh diệt
    Đường cũng không cũ mới.
Ông nghe rồi tỉnh ngộ. Từ đó, tâm mộ đạo rất mạnh mẽ, chuyên niệm Phật A Di Đà cầu sinh Tịnh độ. Sớm, chiều, tối, ngồi niệm Phật chưa từng bỏ phế, thường phát nguyện rằng: "Nguyện tôi thường tinh tấn, siêng tu mọi việc lành. Nguyện tôi rõ tâm tông, độ khắp cả muôn loài". Mỗi khi gặp mọi người đều khuyên niệm Phật, thệ nguyện kết duyên mười vạn người cùng sinh Tịnh độ.

Cư sĩ Như Như có bài tụng khen ngợi rằng:
  • Biết ông gan mật lớn như trời.
    Nguyện kết Tây Phương mười vạn duyên.
    Chẳng vì thân mình cầu kế sống.
    Mọi người cùng nhau bước lên thuyền.
Chương 14
PHÁP SƯ TÔNG ĐẢN
Sư họ Thân, người ở Lê Thành, Lộ Châu.

Từ thuở nhỏ, đã xuất gia vào ở trong viện Diên Tường tại quê nhà, lễ ngài Đạo Cung làm thầy.

Năm 16 tuổi, xuống tóc thọ giới Cụ túc. Thời thiếu niên, Sư đã thông suốt nghĩa lý của Phật giáo, được người đương thời khen ngợi. Lúc trưởng thành, Ngài đi khắp nơi học hỏi các bậc danh sư, mở rộng sự thấy biết.

Từ đó về sau, Sư đi giảng kinh khắp nơi, tiếng tăm vang dội. Trong năm mươi năm, lấy Đại tạng làm chỗ dạo chơi ngơi nghỉ, lấy Viên đốn làm môn đình. Trước Sư giảng các kinh Viên Giác, sau biên tập sớ giải các kinh Viên Giác, Quán Vô Lượng Thọ. Lúc tuổi già, Sư ở Đường Châu, Đặng Châu, Nhữ Châu, Dĩnh Châu, giảng kinh Quán Vô Lượng Thọ và khuyên người niệm Phật cầu sinh Tịnh độ. Khi ấy, thính chúng hội về đông như mây, tất cả đều tu Tịnh nghiệp. Sau, Sư về Trấn Thanh Đài ở Đường Châu, nguyện cầu sinh An Dưỡng, lấy niệm Phật quán tưởng làm việc thường ngày, nơi ba nghiệp, trong bốn oai nghi chưa từng lơ là bê trễ.

Ngày 27 tháng 04 năm thứ tư niên hiệu Chánh Hòa đời nhà Tống (Công nguyên 1114), Sư nằm mơ thấy Phật A Di Đà hiện thân bảo:

- Ông thuyết pháp thêm sáu ngày nữa sẽ được sinh về Tịnh Độ!

Thức giấc, Sư đem điềm ấy thuật lại cho đại chúng biết, bảo rằng:

- Tôi tu hành cầu sinh về cõi An Dưỡng, dường như được nhân duyên tương ưng. Vừa rồi, hóa Phật bảo tôi được vãng sinh Tịnh Độ, đâu dám không tin!

Hôm sau, tuy cảm thấy trong người không khỏe, nhưng vẫn không ngừng giảng kinh khai thị. Tới cuối đêm, mồng 04 tháng giêng năm thứ năm niên hiệu Chánh Hòa (1115), Sư biết thời khắc đã đến, đánh chuông nhóm chúng dạy rằng:

- Nhân duyên tan hợp, vốn tự có thời; duyên thù thắng của Tịnh Độ, chỉ dựa vào thời khắc. Xin đại chúng đồng niệm Phật, trợ giúp tôi vãng sinh!

Lại nói kệ rằng:
  • Thọ bảy mươi sáu tuổi
    Chỗ tứ đại chia lìa
    Lễ Di Đà Tịnh độ
    Thoát hẳn khổ ba cõi.
Nói xong, ngồi an nhiên thoát hóa. Lúc ấy, tiếng sấm liên tiếp nổ vang, mây trắng từ phương Tây kéo đến hiện ra che khắp mặt đất, ba ngày sau mới tan. Trước kia, Sư có một xâu chuỗi mã não, lúc lâm chung cuộn tròn trên tay, mọi người không thể lấy ra được. Những việc cảm ứng rất nhiều như các chỗ khác đã nói.
Chương 15
ĐẠI SƯ TỪ CHIẾU

Sư húy Tử Nguyên, hiệu Vạn Sự Hưu, con nhà họ Mao, quê ở Côn Sơn, Bình Giang. Mẹ là Sài Thị, mằm mơ thấy một đức Phật vào nhà, hôm sau sinh ra Sư, nhân đó đặt tên là Phật Lai.

Cha mẹ mất sớm, Sư đến chùa Diên Tường ở Bổn Châu, lễ Hòa thượng Chí Thông cầu xuất gia, đọc tụng tu tập kinh Pháp Hoa.

Năm mười chín tuổi, xuống tóc tu pháp Thiền Chỉ Quán. Một hôm, trong chánh định, nghe tiếng quạ kêu mà ngộ đạo, bèn nói bài tụng rằng:
  • Hơn hai mươi năm tìm trên giấy
    Tìm tới tìm lui mãi trầm ngâm
    Bỗng nghe tiếng quạ kêu vang vọng
    Mới hay từ trước dụng tâm lầm.
Từ đó, tâm muốn làm lợi ích cho mọi người càng thêm tha thiết, phát nguyện hóa độ rộng lớn. Mến mộ phong thái Bạch Liên Xã của Tổ Huệ Viễn ở Lô Sơn, Sư khuyến tấn mọi người quy y Tam Bảo, thọ trì năm giới, niệm Phật A Di Dà năm câu để chứng minh năm giới, kết tịnh duyên rộng khắp, muốn giúp cho người đời thanh tịnh Ngũ căn(69), để được Ngũ lực(70), ra khỏi Ngũ trược, nên rút tuyển những lời chính yếu trong Đại tạng, biên soạn thành quyển Liên Tông Thần Triêu Sám Nghi, thay thế chúng sinh trong pháp giới lễ Phật sám hối, cầu sinh Cực Lạc.

Về sau, Sư đến ven hồ Điện Sơn, lập ra Liên Tông Sám Đường, hướng dẫn hàng tăng tục đồng tu Tịnh nghiệp. Lại soạn thuật Viên Dung Tứ Độ Tam Quán Tuyển Phật Đồ, khai thị chỗ chính yếu của Liên tông.
Năm 46 tuổi, khi ở Giang Châu, Sư gặp những chướng ngại. Trong cảnh thuận nghịch chưa từng động niệm; tùy phương tiện khuyến hóa, bèn trở thành văn tụng gọi là Tây Hành Tập.

Năm thứ hai niên hiệu Càn Đạo (1166), Đại sư phụng chiếu thọ thánh Cao Tông, đến điện Đức Thọ diễn thuyết pháp môn Tịnh độ, được vua tứ hiệu Khuyến Tu Tịnh Nghiệp Liên Tông Đạo Sư Từ Chiếu Tông Chủ. Sư đến chùa Chiêu Khánh ở Tây Hồ, Tiền Đường, chúc tụng tạ ơn vua. Phật sự hoàn tất, trở về Bình Giang, từng phát thệ rằng: "Nguyện người khắp trên địa cầu, tất cả đều giác ngộ đạo mầu (Phổ Giác Diệu Đạo)". Thường lấy bốn chữ này làm định danh cho Liên tông, hướng dẫn dạy bảo mọi người chuyên niệm Di Đà, đồng sinh Tịnh độ. Từ đó, tông phong được chấn hưng mạnh mẽ. Sư biên tập Di Đà Tiết yếu, Pháp Hoa Bách Tâm, Chứng Đạo Ca, Phong Nguyệt Tập lưu hành ở đời.

Đến ngày 23 tháng 03, tại nhà cư sĩ Nghê Phổ Kiến ở Đạt Thành, Đại sư bảo các môn đồ rằng:

- Duyên giáo hóa của ta đã mãn, đến lúc phải đi rồi!

Nói xong, chắp tay từ biệt đại chúng, lặng lẽ thị tịch.

Đến ngày 27, sau khi làm lễ trà tỳ, được xá lợi vô số.

Tháp của Ngài được vua ban hiệu là Tối Thắng.
  • CHÚ THÍCH:
(69) Ngũ căn: năm căn vô đạo trong 37 phẩm trợ đạo.

Năm căn này là cội gốc sinh ra các căn lành, có tác dụng tăng thượng đối với việc dẹp trừ phiền não, dẫn vào Thánh đạo nên gọi chúng là căn. Năm căn gồm có:
  • a. Tín căn: tin lý Tứ đế, tin Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng).
    b. Tấn căn: tinh tấn căn, cần căn, dũng mãnh tu tập pháp lành.
    c. Niệm căn: nhớ nghĩ chánh pháp.
    d. Định căn: làm cho tâm dừng trụ ở một chỗ, không cho loạn động.
    e. Huệ căn: ở trong định khởi trí quán, biết rõ chân lý như thật.
(70) Ngũ lực: năm sức mạnh có thể phá trừ điều ác, duy trì sự tu hành để đạt đến giải thoát, được sinh ra từ sự tăng trưởng của năm căn, tức 5 lực trong 37 đạo phẩm.
  • a. Tín lực: thành kính đối với Tam Bảo, có thể phá trừ tất cả tà tín.
    b. Tinh tấn lực: tu bốn chánh cần có thể đoạn trừ các điều ác.
    c. Niệm lực: tu bốn niệm xứ để được chánh niệm.
    d. Định lực: chuyên tâm thiền định để đọan trừ phiền não do 6 căn gây ra.
    e. Huệ lực: quán Tứ niệm xứ thành tựu trí huệ, có khả năng đạt đến giải thoát.
Chương 16
DƯƠNG KIỆT

Cư sĩ húy là Kiệt, tự Thứ Công, người đời Tống ở quận Vô Vi, nên tự có đạo hiệu là Vô Vi Tử.

Lúc còn nhỏ, ông là người hùng tài tuấn kiệt. Thuở niên thiếu, thi đậu làm quan tới chức Thượng Thư Chủ Khách Lang, xem xét việc hình ngục ở hai vùng Triết Đông, Triết Tây, lại tôn sùng Phật pháp, tỏ ngộ yếu chỉ của Thiền tông. Các vị quơ gậy, hét vang trong tông Lâm Tế ở Giang Tây, ông còn cho là việc thường; mặt khác, lại xiển dương giáo lý Tịnh độ, dẫn dắt mọi người.

Khái quát lời luận bàn của ông rằng: "Căn tánh chúng sinh có chậm lụt và bén nhạy. Pháp môn gần gũi dễ hiểu, đơn giản dễ thực hành, chỉ có môn niệm Phật cầu sinh Tịnh độ mà thôi. Nếu có thể nhất tâm quán niệm, thâu nhiếp tâm tán loạn, nương nhờ nguyện lực của Phật Di Đà thì tiến thẳng lên cõi An Dưỡng, không còn lối nào khác, quyết chắc thành công. Bồ tát Long Thọ gọi là đạo dễ thực hành, vì nương vào sức mạnh của Phật".

Ông viết lời tựa trong quyển Thập Nghi Luận của ngài Thiên Thai và lời tựa cho quyển Tịnh Độ Trực Chỉ Quyết Nghi Tập của cư sĩ Vương Cổ, Pháp Bảo Tăng Giám, Di Đà Bảo Các Ký, An Lạc Quốc Tam Thập Tán, trình bày đầy đủ về yếu nghĩa của Tịnh độ. Thật là gương sáng của việc vãng sinh cho muôn đời!

Ông có trước tác Phụ Đạo Tập, chuyên nói về Phật thừa. Tô Đông Pha viết lời tựa, đại khái như vầy: "Dương Kiệt bẩm thọ tánh linh từ đời trước, tham vấn khắp các bậc thiện tri thức, thường gọi là người có đủ mắt Kim Cang, ông nhìn đâu cũng rõ được đạo".

Về già, ông làm Giám Ty Quận Thú, vẽ hình Phật Di Đà cao một trượng sáu, đem theo bên mình để quán niệm. Lúc sắp lâm chung, cảm Phật đến tiếp dẫn, ngồi ngay thẳng thoát hóa.

Có bài kệ từ tạ cõi đời rằng:
  • Sống vẫn không chi luyến
    Chết cũng không chi xả
    Giữa khoảng thái hư không
    Mặc chi hồ giả dã!
    Cõi Tây Phương Cực Lạc!
Trong niên hiệu Tuyên Hòa, có phu nhân Kinh Vương nằm mộng dạo chơi nơi cõi Tây Phương, thấy ông ngồi trên hoa sen, thế thì ông chắc chắn đã được vãng sinh rồi!

Các sĩ đại phu đời Tống ca ngợi, tán thán rất nhiều về Tịnh độ, nhưng vào chánh định tụ thì chỉ có hai người là Dương Kiệt và Vương Mẫn Trọng mà thôi!

Như vậy, đâu chẳng phải là trời muốn đạo này lâu dài, nên mới sinh ra ra người như thế ở đời đó sao!


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chương 17
VƯƠNG NHẬT HƯU

Quốc học tiến sĩ Vương Nhật Hưu, tự là Hư Trung, trí tuệ tư tu và lòng từ bi giáo hóa mọi người của ông đã được trình bày trong Hồ Tự Văn, nơi đây không cần phải nói lại. Ông là người ở Long Thơ, có trước tác Tịnh Độ Văn, nhân đó lấy hiệu là Cư sĩ Long Thơ. Văn ấy được lưu hành rộng rãi trong thiên hạ, người tu Tịnh nghiệp ai cũng xem đọc.

Trong niên hiệu Càn Đạo, ông Lý Ngạn Bậc ở Lư Lăng đau bệnh nguy ngập, đã chuẩn bị quan quách, bỗng mộng thấy một người thần thái thanh nhã, dáng vẻ nghiêm trang, dùng tay xoa bóp thân thể. Ngạn Bậc sợ hãi hỏi, vị ấy đáp rằng:

- Tôi là cư sĩ Long Thơ!

Nhân đó, Lý Ngạn Bậc nói về bệnh tình của mình. Nhật Hưu bảo:

- Khi thức dậy, dùng cháo trắng sẽ được lành bệnh.

Lại nói:

- Ông còn nhớ Hám Trọng Nhã đã dạy về lối tu thẳng tắt chăng?

Ngạn Bậc thưa:

- Tôi mỗi ngày niệm Phật không ngừng.

Sau khi thức dậy, ông bảo nấu cháo trắng ăn, quả nhiên bệnh thuyên giảm. Về sau, Lý Ngạn Bậc thấy bức chân dung của Vương Nhật Hưu giống tạc người mình đã gặp trong giấc mộng. Ngạn Bậc rất kính trọng, bảo rằng:

- Sinh tử cốt nhục!

Bèn sai con cháu học theo hạnh của ông.

Đêm ấy, cư sĩ Vương Nhật Hưu giảng dạy xong, như thường lễ niệm. Đến canh ba, ông bỗng to tiếng niệm A Di Đà Phật vài câu, bảo rằng:

- Đức Phật đến tiếp dẫn tôi!

Rồi đứng ngay thẳng mà hóa.

Đêm ấy, trong vùng có người mộng thấy hai vị mặc áo xanh dẫn ông đi về phương Tây.

Ba ngày trước đó, ông đi từ biệt khắp các thân hữu, khuyên họ tinh tấn tu Tịnh nghiệp, bảo rằng mình sắp đi xa, không còn gặp nhau nữa.

Ôi! Nếu tự mình chẳng thấu suốt đạo lý duy tâm bản tánh, thông đạt sự biến hóa của sinh tử thì đâu thể được như vậy! Có người nghi giấc mộng của Lý Ngạn Bậc là do ý tưởng mà thành. Bậc bảo rằng:

- Cư sĩ Nhật Hưu mách bảo dùng cháo trắng lành bệnh. Thế thì sao có thể là lừa dối được!

Khi ấy, Thừa tướng Ích Quốc Công Chu Tất Đại thấy kỳ tích của cư sĩ nên viết lời khen ngợi rằng: "Lo sợ mà không mong cầu, nhọc nhằn chẳng lo lắng. Xót xa tông phong sắp suy đồi, gom các điều lành về chung một dòng, dẫn dắt đi đến nguồn nhân nghĩa, chỉ dạy đạt được niềm vui tịch diệt. Người đời chỉ biết hữu tác, chẳng rõ chỗ vô vi của ông. Cho nên, nơi Trung đạo lặng lẽ mà đem chỗ giác ngộ chân thật chỉ bảo cho người".

Cư sĩ Lý Ngạn Bậc rất kính trọng nhưng không thể đáp đền ân đức, bèn in hình tượng và sự tích của ông để lưu truyền lâu xa. Từ đó, ở Lư Lăng, mọi nhà đều kính thờ.
Chương 18
VƯƠNG CỔ

Vương Cổ, tự Mẫn Trọng, người đời Tống, ở Đông Đô, từng nhậm chức Thượng thư Lễ bộ Thị lang, do làm Phát vận sứ nên ở Nghi Chân.

Ông bẩm tánh rất nhân hậu, khoan dung độ lượng, từ bi thương vật, hoằng truyền Phật giáo rộng rãi, xiển dương cội nguồn của sự giáo hóa. Trước kia, kinh đô là nơi hội tụ các bậc tôn túc ở tòng lâm, ông từng luận đạo với các vị ấy. Đến khi dạo ở Giang Tây thì cùng kết bạn với các Thiền sư Hoàng Long, Thúy Nham, Hối Đường và Dương Kỳ, khế ngộ sâu về tông chỉ thiền, lại thấu rõ sự thù thắng của pháp môn Tịnh độ, khảo cứu rộng rãi các kinh, suy nét sâu sắc về việc vãng sinh, thấu suốt kinh văn, tỏ rõ ý Phật. Ông bèn trước tác Trực Chỉ Tịnh Độ Quyết Nghi Tập ba quyển. Dương Kiệt viết lời tựa, được ghi lại trong bản truyện. Ông soạn tập bốn mươi tám nguyện trong kinh Vô Lượng Thọ, và chín phẩm vãng sinh trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, Luận Đại Thừa Khời Tín của Bồ tát Mã Minh, Tùy Ý Vãng Sinh Niệm Phật Tam muội Bảo Vương Luận của Quốc sư Huệ Trung đối đáp với vua Túc Tông, và các kinh luận trình bày đầy đủ về chỗ chính yếu của sự vãng sinh Tịnh độ. Sưu tập, trích lục rất đầy đủ, như xưng niệm Nam mô Thập Lục Vạn Ức Nhất Thập Nhất Vạn Ngũ Thiên Ngũ Bá Đồng Danh Đồng Hiệu A Di Đà Phật cũng trích ra từ trong Tạng kinh. Đến như chư Bồ tát luận về yếu nghĩa của pháp môn Tịnh độ, ông đều biên tập lại. Thường ngày, tâm tu hành quán niệm chưa từng gián đoạn ngơi nghỉ, tràng chuỗi không rời tay, đi đứng nằm ngồi thường lấy việc tu tịnh quán Tây Phương làm Phật sự.

Có vị tăng, thần thức dạo nơi Tịnh độ, thấy Thị lang Vương Cổ và đại phu Cát Phiền cùng ở Tịnh độ làm Phật sự. Đó chính là sự chứng nghiệm của việc vãng sinh cõi An Dưỡng.

Việc hoằng truyền lưu thông Tịnh độ, khai thị nghĩa lý trọng yếu, hỗ trợ Phật A Di Đà hóa độ khắp cả mọi người. Từ sau khi mười tám vị Hiền ở Lô Sơn tiếp nối đạo này, chỉ có Dương Kiệt và Vương Cổ nổi tiếng ở đương thời, lưu truyền đến mấy trăm đời.

Hoằng truyền lưu thông giáo pháp rộng lớn của Phật Di Dà, phổ độ nhiếp hóa hưng thịnh không cùng tận, thì bậc cao minh triều sĩ đời Tấn chỉ có hai vị này được vậy mà thôi. Như thế, mới có thể làm vẻ vang những bậc tiền hiền, kế thừa phong thái thuở xưa để lại.

Chư Tổ và các bậc tông sư đắc đạo ở trên, đều được trích lục từ trong Đại tạng, Cao Tăng Truyện, Vãng Sinh Truyện, Bảo Châu Tập. Như Tông chủ Từ Chiếu giáo hóa thịnh hành ở đời, vua tôi, tăng tục, đều quy hướng, người niệm Phật được đạo rất nhiều. Song, xem xong các truyện lục chẳng ghi chép đầy đủ, không có văn để khảo cứu. Nay tôi tìm tòi trong sự tích của Tông chủ Từ Chiếu thì thấy đã được biên tập. Ngoài ra, còn có tất cả những vị tại gia xuất gia niệm Phật được đạo, có đức hạnh tiếng tăm. Tôi chỉ chờ đợi các bậc Cao hiền dụng tâm tìm tòi cứu xét sách vở ghi chép sự thật, phát huy rộng rãi, sẽ bổ túc vào để ấn hành. Như thế, mới mong khỏi mai một đức hạnh của các bậc tu hành thuở trước, đồng thời cũng là làm vẻ vang cho pháp môn vậy.
ĐẠI SƯ THỪA VIỄN (Bổ Sung)
(Tổ thứ ba của Liên tông)

Đại sư Thừa Viễn, người đời Đường, nguyên quán từ đâu chưa rõ được xuất xứ.

Ban đầu, Sư theo học với Thiền sư Đường ở Thành Đô, kế lại học với Thiền sư Tản ở Tư Xuyên. Sau đến Kinh Châu, tham học với Pháp sư Chân ở chùa Ngọc Tuyền.

Pháp sư Chân bảo Ngài đến Hoành Sơn để ứng duyên hoằng hóa, người được giáo hóa đến cả muôn. Mới đến, Đại sư ở dưới gộp đá phía Tây Nam của non Hoành. Khi có thức ăn thừa của người để lại thì dùng, hôm nào không có thì ăn bùn đất. Khổ tu như thế đến nỗi mình gầy mặt nám, tự thân đi lượm củi về dùng.

Phàm giáo hóa người, Sư dạy họ ở nơi Trung đạo. Nếu gặp người có bệnh thì dạy pháp môn chuyên niệm Phật. Trên đường, trong hẻm, bên hang đá, hoặc suối khe, Sư đều có viết lời Phật dạy, ân cần dẫn dắt chỉ bảo tu hành. Mọi người lần lượt kẻ mang vải vóc, người đốn cây cối, khiêng đất đá, đến càng lúc càng đông, xây dựng thành cảnh chùa, đặt tên là chùa Di Đà. Ngoài những lúc xây dựng ra, Sư thường bố thí cho những người đói kém bệnh tật.

Ngày 19 tháng 07 năm thứ 18 niên hiệu Trinh Nguyên (820), Đại sư an lành thị tịch tại chùa, hưởng thọ chín mươi mốt tuổi.

Trước đó, có ngài Thích Pháp Chiếu ở Lô Sơn một hôm nhập định, thần thức dạo chơi nơi cõi Cực Lạc. Bên đức Phật, thấy một vị tăng mặc y rách đứng hầu, đức Phật bảo:

- Đây là Thừa Viễn ở Hoành Sơn đấy!

Sau khi xuất định, Pháp Chiếu đến Hoành Sơn tìm. Lúc gặp ngài Thừa Viễn, thấy quả đúng là vị tăng ấy, liền xin theo làm đệ tử.

Về sau, ngài Pháp Chiếu đi truyền giáo khắp thiên hạ, được vua Đại Tông nhà Đường phong làm Quốc sư. Ngài thuật lại đạo hạnh cao vời của thầy mình cho vua nghe, Thiên tử bèn xoay về phương Nam, hướng về phía Hoành Sơn đảnh lễ. Nhà vua xét thấy đạo đức của Đại sư Thừa Viễn chưa được mọi người tỏ rõ, nên mới truyền chỉ phong tặng chỗ ở của Sư là "Đạo Tràng Ban Chu. Vua lại truyền cho Liễu Tông Nguyên soạn bài ký sự khắc vào bia đá, dựng bên cổng trước chùa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

ĐẠI SƯ LIÊN TRÌ
(Tổ thứ tám của Liên tông)

Đại sư Châu Hoằng, tự Phật Huệ, hiệu Liên Trì, người đời Minh, con nhà họ Thẩm, ở xứ Nhân Hòa tại Hàng Châu. Năm mười bảy tuổi, Sư đỗ tú tài, nổi tiếng là người học hạnh kiêm toàn.

Láng giềng có bà lão mỗi ngày niệm Phật vài ngàn câu lấy làm thường khóa. Nhân lúc rỗi rảnh sang chơi, Sư hỏi duyên cớ, bà lão đáp:

- Lúc sinh tiền, ông nhà tôi chuyên lo niệm Phật, đến khi chết không đau bệnh chi, vui vẻ vòng tay cáo từ mọi người mà qua đời. Do đó, tôi biết công đức niệm Phật không thể nghĩ bàn!

Sư nghe nói cảm động, từ đó hằng để ý đến pháp môn Tịnh độ. Lại viết bốn chữ “Sinh tử sự đại” dán nơi vách đầu bàn để tự răn nhắc.

Năm ba mươi mốt tuổi, Sư xuất gia, rồi đi tham phỏng các bậc danh đức. Sau cùng đến tham học với các Thiền sư Tiếu Nham, Biến Dung, tham cứu câu "Niệm Phật là ai?", có chỗ tỉnh ngộ.

Năm thứ năm niên hiệu Long Khánh (Công nguyên 1571), Đại sư đi khất thực ngang qua đỉnh Vân Thê, thấy cảnh non nước cực kỳ u nhã, quyết ý cất am ở tu. Trong núi ấy có nhiều cọp, Sư hành pháp Du-già thí thực, từ đó các loài thú dữ không còn khuấy hại nữa. Mấy năm sau, gặp lúc nắng hạn lâu, cư dân quanh vùng đến am xin cầu mưa. Sư đáp:

- Tôi chỉ biết niệm Phật, không có tài chi khác!

Mọi người vẫn nài nỉ cố thỉnh, Đại sư cảm lòng thành của dân chúng, ra gõ mõ đi dọc theo bờ ruộng mà niệm Phật. Bước chân của Sư đi đến đâu, mưa lớn rơi theo đến đó. Nhân dân vui mừng kính đức, cùng nhau hợp sức xây cất điện chùa. Tăng chúng các nơi lần lượt nương về, không bao lâu, chỗ ấy thành cảnh tòng lâm.

Sư chủ trương Tịnh Độ, cật lực bác bỏ cuồng thiền. Bộ Phật Thuyết A Di Đà Kinh Sớ Sao do Đại sư trước tác, dung hòa cả Sự Lý, gồm nhiếp khắp ba căn, lời dẫn giải rất uyên áo.

Ông Tào Lỗ Xuyên gởi thơ đến Vân Thê, đại khái như sau: "Trong Phật pháp có ba tạng, mười hai phần giáo(71), đức Thế Tôn khi xưa đã giăng nhiều thứ lưới nơi bể sinh tử sâu rộng, để tùy phần vớt các loài cá nhân thiên lớn nhỏ đưa lên bờ Niết bàn. Nhưng nên nói lớn để gồm nhỏ, đâu thể nêu một mà bỏ nhiều! Gần đây, tôi nghe có người bảo: nhiều kiếp thành Phật, tức là Tiệm chớ không phải Đốn. Vả lại Tiệm giáo cũng là Phật dạy, chưa từng không đúng, song dùng Tiệm để bỏ Đốn giáo phải chăng thật đã sai lầm?

Tôn giả bên trong ẩn dấu sự tỏ ngộ viên đốn, ngoài thì hiển bày pháp môn Tịnh độ. Việc này chư Phật cũng có như thế, không nghi ngờ. Nhưng học chúng của Ngài gần đây chỉ trọng một đức A Di Đà mà bỏ hết mười lăm vì vương tử, muốn tôn một kinh Tịnh Độ mà bỏ hết ba tạng, mười hai phần giáo. Đó là điều kẻ hèn này không muốn nghe! Hiện nay, tuy nhằm thời mạt pháp, song con người há chỉ có độn tánh mà không lợi căn? Như đức Thích Tôn vì Ca Diếp, Kiều Trần Như thì nói pháp này; vì Thiện Tài, Long Nữ lại nói pháp khác. Trong kinh Lăng Nghiêm, hai mươi lăm vị Thánh đều chứng Viên Thông, Bồ tát Văn Thù khen ngợi chẳng đồng nhau. Như thế, chính là nói hôm qua định, hôm nay bất định. Còn bảo rằng, nói ngã là không thì lại chẳng phải không; nói ngã là có thì lại chẳng thật có. Thế nên, gọi là khéo léo không nắm chặt mãi một pháp môn, linh động uyển chuyển như trái hồ lô lăn trên mặt nước. Nếu như cắm cọc đóng đinh ở một chỗ, làm sao lợi ích hàng nhân thiên được? Rất mong Tôn giả vì đại chúng diễn thuyết về giáo lý Tịnh độ, khi gặp hàng lợi căn nên vì nói Thượng thừa, để họ ngộ lý viên dung không còn hạn chế ở một khía cạnh nào, khiến cho đại bàng cùng chim én đều được chỗ thích nghi. Như thế, đâu không phải là hoàn toàn tốt đẹp hay sao?

Kinh Hoa Nghiêm là Viên giáo Nhất thừa Vô thượng, là lời luận bàn cùng tột xứng hợp với bản tánh của Như Lai. Tôn giả lại đem kinh này sánh ngang với kinh Di Đà tợ hồ chưa thỏa đáng. Nhân đó mà có kẻ trước tác luận sớ đưa Tịnh Độ cao hơn Hoa Nghiêm, khiến cho màu tím sắc đỏ thành ra lẫn lộn! Mong Tôn giả vì người có căn cơ Tịnh độ thì nói Tịnh độ, người có căn cơ Hoa Nghiêm thì nói Hoa Nghiêm, đừng chê nhau cũng chớ lạm nhau, mới thật là lưu thông Phật pháp. Như thế, mới là cùng trình bày Ngũ giáo
(72), thâu nhiếp cả ba căn, cần gì nhất định phải khắc thuyền tìm gươm, nhân việc nhỏ mà mất việc lớn!".

Đại sư Liên Trì đáp:

- Kinh Hoa Nghiêm gồm đủ vô lượng môn; cầu sinh Tịnh độ là một trong vô lượng môn của Hoa Nghiêm. Theo căn cơ thời nay, nên do một môn Tịnh độ mà vào Hoa Nghiêm, không phải nêu Tịnh độ mà bỏ Hoa Nghiêm. Cư sĩ bảo trong thơ, do tôi đem kinh Di Đà sánh ngang với Hoa Nghiêm, nên mới có kẻ làm luận đưa Tịnh độ cao hơn Hoa Nghiêm. Xin hỏi bộ luận ấy do ai trước tác? Kinh Hoa Nghiêm như Thiên tử, có ai đem chư hầu, vua, đại thần, trăm quan mà đặt lên trên Thiên tử? Nhưng tôi cũng chưa từng đem kinh Di Đà sánh ngang với Hoa Nghiêm. Trong văn Sớ Sao của tôi chỉ nói: "Kinh Hoa Nghiêm là giáo lý viên mãn cùng cực, kinh Di Đà được một phần ít viên". Đó là bảo kinh Di Đà chỉ là quyến thuộc của Hoa Nghiêm, chẳng phải đồng hạng bậc.

Vả lại, trong thơ cư sĩ bảo rằng nên tùy căn cơ mà nói giáo lý, người có căn cơ Tịnh Độ thì nói Tịnh Độ, người có căn cơ Hoa Nghiêm thì nói Hoa Nghiêm. Ý ấy rất hay! Nhưng trong đó có hai nghĩa:

1. Ngàn căn cơ đều được dạy bảo, đó là việc lớn mà đức Như Lai ra đời; chẳng phải khả năng của kẻ hèn này. Thế nên, Lục Tổ ở Tào Khê chuyên hoằng truyền Thiền trực chỉ, đâu phải Ngài không thông các giáo pháp khác. Ngài Huệ Viễn công ở Lô Sơn riêng mở Bạch Liên Xã, há chỉ tiếp độ kẻ độn căn? Đến như năm tông: Vân Môn, Pháp Nhãn, Tào Động, Quy Ngưỡng, Lâm Tế, tuy đồng từ một nguồn mà ra, nhưng sự trao truyền và tiếp nhận của mỗi tông đều có phần sai khác. Sự lập bày riêng của chi phái môn đình cũng là lẽ tất nhiên, chẳng lấy chi làm lạ! Chư Tổ sư khi xưa đều như thế, huống nữa kẻ phàm thường này ư? Nếu vọng bắt chước theo người xưa, hôm qua định hôm nay bất định, tùy tiện không có sự truyền thừa của thầy, đổi thay lộn lạo chẳng chuyên nhất, mà gọi là lợi ích cho người nhưng thật ra làm cho người lầm lạc. Tại sao thế? Bởi Phật là đấng Pháp vương, đối với các pháp đều tự tại. Còn kẻ dân thường mà tiếm xưng Thiên tử là điều nguy hiểm, há chẳng nên kiêng dè ư?

2. Khi nói Hoa Nghiêm đã gồm Tịnh Độ, nói Tịnh Độ cũng thông với Hoa Nghiêm. Thế thì kẻ diễn Hoa Nghiêm tự nói Hoa Nghiêm, người nói Tịnh Độ tự diễn Tịnh Độ, vẫn đồng hành mà không trái nhau. Người thời nay chỉ biết Hoa Nghiêm rộng hơn Cực Lạc, nhưng không rõ đức Di Đà chính là Phật Tỳ Lô Giá Na. Ngài Long Thọ lấy kinh Hoa Nghiêm từ Long cung mà nguyện sinh Cực Lạc. Đức Phổ Hiền là Trưởng tử trên hội Hoa Nghiêm mà nguyện về An Dưỡng. Đức Văn Thù, Phổ Hiền đồng phụ tá Phật Tỳ Lô Giá Na, hiệu là Tam Thánh Hoa Nghiêm, cũng phát nguyện về cõi Liên Bang. Tất cả đều có chỗ y cứ rõ ràng, sáng tợ mặt trời, trăng sao.

Cư sĩ đề xướng Hoa Nghiêm, định truyền bá khắp bốn phương mà trái ngược với Văn Thù, Phổ Hiền, Long Thọ, đó là điều mà kẻ hèn này chưa hiểu, huống gì Trưởng giả Lý Thông Huyền đưa ra mười loại Tịnh độ. Cực Lạc tuy nói là quyền nghi, còn Hoa Nghiêm quyền thật dung thông, Sự Lý vô ngại, Sự Sự vô ngại. Thế nên, phòng dâm, nơi sát sinh, đều là đạo tràng thanh tịnh, huống chi cõi Cực Lạc bảy báu trang nghiêm.

Bà Tu Mật Đa, Vô Yểm Túc đều là diệu dụng của Cổ Phật thị hiện, huống là Phật Di Đà muôn đức đầy đủ. Cư sĩ dạo chơi nơi môn vô ngại Hoa Nghiêm mà ngại nơi Tịnh độ, đó là điều mà kẻ hèn này chưa hiểu!

Kẻ hèn này cùng với Tào cư sĩ đều là bạn chẳng trái ngược nhau nơi thế giới hoa tạng, mà cư sĩ lại chẳng hiểu rõ tâm ý nhỏ bé của tôi. Tôi còn muốn mời cư sĩ làm huynh đệ ở Liên Bang. Mong đừng xem tôi là người ngoài vậy!


Lỗ Xuyên lại gởi thơ rằng:

- Các kinh luận không liễu nghĩa lưu hành riêng biệt, còn như phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện và Luận Khởi Tín đều nói về Tịnh độ. Đó lẽ nào lại không có nguyên nhân? Song trong kinh Hoa Nghiêm chưa từng đề cập, thế thì Tịnh độ thứ mười mà Trưởng giả Lý Thông Huyền nêu ra lại càng tỏ rõ.

Kinh Pháp Hoa nói mười sáu vị vương tử có Phật Di Đà mà chưa từng xác định là bậc chí tôn duy nhất. Trong đó, khen ngợi công đức trì kinh, bên cạnh đó lại biện dẫn cõi An Lạc, thật ra là nói rõ nhân quả của người nữ.

Kinh Thủ Lăng Nghiêm, hai mươi lăm vị Thánh chứng Viên thông, Bồ tát Văn Thù hoàn toàn chẳng phân biệt cao thấp, chỉ nói phương tiện có nhiều môn, lại bảo rằng thuận nghịch đều là phương tiện, nhưng tiếp theo lại nói mau chậm chẳng đồng nhau. Thế thì ở nơi chỗ không có cao thấp sai biệt, cũng vẫn chỉ rõ chỗ quy hướng, nên phải đưa Phổ Môn lên tột bậc, chẳng suy tôn ngài Thế Chí, lại còn hạ thấp bảo rằng vô thường, bảo rằng sinh diệt.

Còn như các Đại sư Hiền Thủ, Thanh Lương cật lực nêu về năm giáo Tiểu, Thỉ, Chung, Đốn, Viên, mọi người đều cho rằng thỏa đáng mà chưa từng bình phẩm về Tịnh độ. Thiền tông thì lại càng quét sạch, như Thiền sư Tề Kỷ nói: "Duy có lối tắt tu hành, y như xưa lẩn quẩn, chỉ niệm Phật Di Đà, niệm được vẫn vô ích". Lại bảo rằng: "Y như trước bỏ cha trốn đi, lưu lạc tha hương, va Đông chạm Tây, khổ thay A Di Đà Phật!" Những lời nói ấy có người cho rằng quá hà khắc, song lẽ nào Ngài lại nói lời vô nghĩa, ắt là có đạo lý.

Bởi thế người thấu đạt thường nói: "Trải qua nhiều kiếp cần khổ tu hành, không bằng một niệm ngộ Vô sinh Pháp nhẫn". Lại nói: "Một niệm duyên khởi không sinh, vượt qua hàng quyền học ba thừa". Huống chi chẳng luận Tam thừa, Nhất thừa, chỉ cần không có ngã và ngã sở. Nay nói vãng sinh Tịnh độ, ta là người hay sinh, Cực Lạc là chỗ sinh về; người và cảnh còn phân biệt, sinh diệt rõ ràng, ưa thích và chán nản lăng xăng. Thật là nhiều vướng mắc không thể nói hết.

Nhìn lại trước nay, những người luận bàn về Tịnh độ ắt hẳn bảo rằng: "Hoa nở thấy Phật ngộ Vô sinh". Bởi vì phải đợi sau khi vãng sinh thấy đức Di Đà, mới theo Bồ tát Quán Âm hay Thế Chí, hoặc được Phật Di Đà chỉ dạy đạo lý tất cả pháp Vô sinh, khi ấy mới tỏ ngộ, phải chăng là chậm trễ xa vời?

Lại nói Hoa Nghiêm tánh hải hiện bày toàn thân, như trong thân người có tám muôn bốn ngàn lỗ chân lông, mà Phật Dược Sư ở phương Đông, Phật Di Đà ở phương Tây, mỗi vị đều ở trong một lỗ chân lông ấy, thuyết pháp độ chúng sinh. Nếu vứt bỏ toàn thân mà vào trong một lỗ chân lông nhỏ bé, đó không chỉ bỏ biển cả lấy bọt nước, giống như con ruồi lao vào mảnh giấy nơi cửa sổ tìm lối ra. Vậy thì nói thế nào? Trước kia trong thơ, kẻ hèn này có nói, vì người có căn cơ Tịnh độ nên nói Tịnh độ, với người có căn cơ Hoa Nghiêm thì nói Hoa Nghiêm. Tôi tự cho rằng thế là chẳng trái với pháp môn của chư Phật, cũng là vì tấm lòng chân thành của Tôn giả. Tôn giả lại muốn dẫn tôi vào thai sen, thì giống như người xưa nói: "Dẫn người vào mê lộ", lại giống như "bỏ vàng mà gánh cỏ".

Trong hội của Tôn giả, tín chúng từ Hàng Châu đến Tô Châu, vị nào cũng nôn nao cầu về chín phẩm. Nhân khi cùng nói chuyện, tôi vừa đề cập đến Thượng thừa thì họ đều sửng mắt kinh lòng và có người còn cười. Đó là lỗi của hàng đệ tử hay là lỗi của thầy? Đấng đại trượng phu khí lượng phải ngất trời, nên lấy việc độ chúng sinh làm cấp thiết. Nay Ngài đã là người ra ứng thế, mở pháp đường, lên giảng tọa, sao không đủ tác lược của bậc đại nhân, mà chỉ biết bắt chước cử chỉ của những ông già bà lão ăn chay ở đầu làng ngõ xóm? Nếu một mai bị bậc lanh lợi hỏi đến, người mắt sáng dồn ép, sẽ toan ẩn mình trên sao Bắc đẩu, hay trốn vào núi Thiết vi
(73) ư?

Phật pháp là việc lớn, không phải tầm thường. Mong Ngài nghĩ lại!


Đại sư Liên Trì lại gởi thơ đáp:

- Mấy điều huệ cố của cư sĩ, lời hay lẽ diệu, luận biện điệp trùng, thật là đáng ngợi khen, đáng ngưỡng vọng. Nhưng trộm nghĩ, lòng thương tôi tuy sâu, song tiếc đã lắm lời phí uổng!

Nếu cư sĩ quả muốn tuyên dương Thiền tông, hạ thấp Tịnh Độ, thì không cần nói chi nhiều. Sao chẳng bảo: "Chư Phật trong ba đời bị miệng ta nuốt mất hết cả. Một đức Phật còn chẳng lập, có ai là A Di Đà?". Lại, sao không bảo: "Nếu người biết được tâm, đại địa không tấc đất. Một tấc đất đã không, nơi nào là Cực Lạc?". Chỉ dùng hai lời ấy thôi, đủ gồm biết hết những điều cư sĩ muốn nói. Nay nghĩ nếu mỗi mỗi đều thù đáp e phạm lỗi đấu tranh. Nếu không trả lời, thì đạo pháp có tương quan, nên chẳng thể im lặng. Vậy xin tỏ bày tước lược như sau:

Trong thơ gởi đến nói, kinh chẳng liễu nghĩa mới bàn luận về Tịnh Độ, lại dẫn phẩm Hạnh Nguyện và Luận Khởi Tín. Khởi Tín hãy khoan chẳng nói đến, chỉ một phẩm Hạnh Nguyện mà thâu nhiếp toàn bộ kinh 80 quyển, từ xưa đến nay ai dám nghị luận là không liễu nghĩa. Cư sĩ đặc biệt tôn sùng Hoa Nghiêm mà lại bài xích phẩm Hạnh Nguyện là không liễu nghĩa, thì kinh Hoa Nghiêm cũng không liễu nghĩa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Cư sĩ dẫn kinh Pháp Hoa, nói sự vãng sinh Tịnh độ là nhân quả của người nữ. Thế thì việc Long nữ thành Phật cũng là nhân quả của người nữ ư? Bảo rằng Phật Di Đà là một trong mười sáu vì vương tử, vậy thì Phật Tỳ Lô Giá Na cũng chỉ là tầng thứ mười ba của hai mươi lớp thế giới hoa tạng. Cư sĩ đặc biệt tôn sùng Tỳ Lô Giá Na, tại sao lại không biết Tỳ Lô Giá Na và Phật A Di Đà là bình đẳng?

Lại dẫn kinh Lăng Nghiêm, bảo rằng chọn lấy Quán Âm bỏ lại Thế Chí. Nói đức Văn Thù bác niệm Phật là vô thường, sinh diệt, không viên thông. Thế tại sao ngài Kiều Trần Như tỏ ngộ hai chữ "khách trần" có thể gọi là suốt lý vô thường, hợp lẽ bất sinh bất diệt, lại chẳng được chọn là pháp viên thông? Nếu quả thật đức Quán Âm đỗ cao, ngài Thế Chí thi rớt, thì sao cư sĩ chẳng nghe biết điều thí dụ: "Cửa rồng chạm trán", là lời của kẻ quê mùa miền Đông dã ở nước Tề?

Trong thơ gởi lại bảo rằng, như Thiền sư Tề Kỷ đem bài kệ khuyên niệm Phật của người xưa theo câu mà chú thích.

Người xưa nói: "Duy có lối tắt tu hành", phụ chú rằng: "Y như xưa lẩn quẩn". Người xưa nói: "Chỉ niệm Phật Di Đà", phụ chú rằng: "Niệm được vẫn vô ích". Cư sĩ đã thông suốt pháp thiền, sao chẳng biết đó là các bậc tông sư trong tức thời vì người phá chấp mở trói, lại căn cứ theo văn tự hiểu thành sự thật mà chịu chết dưới câu nói như thế? Nếu quả vậy thì Cổ đức bảo: "Đạp trên đỉnh đầu Phật Tỳ Lô mà đi", như thế không chỉ Phật Di Đà vô ích mà Phật Tỳ Lô cũng chẳng làm được việc gì. Những lời nói trên trong các Ngữ lục, Truyện ký có đến trăm ngàn muôn ức. Lão già này, bốn mươi năm về trước cũng đã từng dùng đến để cho lời nói cao siêu xuất cách, câu văn mạnh mẽ hào hùng. Về sau, xét lại biết hổ thẹn, không còn dám theo lề lối cũ, nay chợt nghĩ đến hãy còn đỏ mặt. Như Thiền sư Tề Kỷ nói: "Người cầu sinh Tây Phương, như con bỏ cha trốn đi, lưu lạc tha phương, va Đông chạm Tây, khổ thay A Di Đà Phật!". Xin cũng dùng chuyển ngữ đối đáp: "Nay chính thật như con nhớ mẹ, trở lại quê xưa, bỏ Đông được Tây, vui thay A Di Đà Phật!". Thử đem cân lường câu nói này với lời ngài Tề Kỷ, cách nhau bao nhiêu?

Trong thơ lại dẫn lời Cổ nhân bảo: "Trải nhiều kiếp cần khổ tu hành, không bằng một niệm ngộ Vô sinh Pháp nhẫn?". Cư sĩ đã ngộ Vô sinh Pháp nhẫn chưa? Nếu chứng được thì không nên cho rằng: ta là người hay sinh, Tịnh độ là chỗ sinh về. Tại sao? Bởi tâm tức là Tịnh độ, ai là người hay sinh? Tịnh độ tức là tâm, đâu là chỗ được sinh? Vì không có thấy năng sở, cho nên trọn ngày sinh mà chưa từng vãng sinh. Đó mới là Vô sinh chân thật. Nếu cho không sinh về đâu mới là Vô sinh, thì rơi vào cái không đoạn diệt, chẳng phải ý chỉ Vô sinh.

Cư sĩ bảo: nếu đợi hoa nở thấy Phật mới ngộ Vô sinh là chậm trễ xa vời. Cư sĩ hiểu Thiền tông sao chẳng biết: từ mê được ngộ như tỉnh giấc mộng, như hoa sen nở. Người niệm Phật tùy theo căn cơ, có vị trong hiện đời đã kiến tánh, đó là hoa sen nở trong giây phút. Có kẻ sau khi vãng sinh mới kiến tánh. Đó là thời gian lâu dài hoa mới nở. Bởi căn cơ có lợi độn, công phu có trễ siêng, nên hoa nở mới có sớm muộn, đâu được cho rằng tất cả là chậm trễ xa vời.

Trong thơ gởi đến lại ví dụ thế giới hoa tạng như toàn thân, Tây Phương giống như lỗ chân lông. Người vãng sinh Tây Phương như đem toàn thân bỏ vào trong lỗ chân lông, là bỏ biển cả mà lấy bọt nước. Ví dụ lớn nhỏ ấy không sai. Song cư sĩ đã thông suốt tông Hoa Nghiêm, tại sao chỉ chấp nhận đem nhỏ vào lớn mà không chấp nhận từ lớn vào nhỏ? Huống chi lớn nhỏ vào nhau, chính là một Huyền môn trong mười Huyền môn của Hoa Nghiêm. Dù vô tận thế giới chẳng thể nói hết nơi cõi hoa tạng, vào trong một hoa sen ở thế giới Cực Lạc còn chẳng đầy một điểm nhỏ bé trong một cánh sen ấy, thế thì nào có ngại gì đem toàn thân vào trong một lỗ chân lông!

Trong thơ còn đề cập đến mấy vị tăng ở núi hoang nào đó, khi hỏi đến Thượng thừa đều sửng mắt kinh lòng! Cư sĩ khuyên tôi với căn cơ Hoa Nghiêm thì nói Hoa Nghiêm, với căn cơ Tịnh độ thì nói Tịnh độ. Nay những kẻ ấy thuộc về hàng độn căn chính nên giảng Tịnh độ, sao cư sĩ không tùy bệnh cho thuốc lại luận Thượng thừa với họ mà chi?

Cư sĩ lại bảo tôi đã ra ứng thế, mở pháp đường, lên giảng tọa, mà không đủ tác lược của bậc đại nhân, cử chỉ như ông già bà lão ở đầu làng ngõ xóm. Nếu một mai bị bậc lanh lợi hỏi đến, người sáng mắt dồn ép, sẽ toan ẩn mình trên sao Bắc đẩu, hay trốn vào núi Thiết vi. Lão già này chưa từng dám nhận lấy danh "ra ứng thế", nên tự không có tác lược của bậc đại nhân. Điều này hãy tạm gác qua, không cần bàn luận. Nhưng nếu chê người tu Tịnh độ giống hạng ông già bà lão ăn chay quê mùa, thì người xưa nói không phải chê kẻ ngu phu ngu phụ đó, mà thật ra chính là chê đức Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ vậy! Đâu riêng gì những vị Bồ tát ấy, mà chư Tổ như Huệ Viễn, Thiện Đạo, Thiên Thai, Vĩnh Minh, chư Bồ tát, chư Thiện tri thức, các vị danh nhân niệm Phật như Lưu Di Dân, Bạch Cư Dị, Liễu Tông Nguyên, Tô Đông Pha... các bậc đại quân tử ấy đều là kẻ quê mùa hay sao? Dù là hạng quê mùa nếu niệm Phật được vãng sinh, sẽ lên ngôi Bất thối chuyển, cũng đâu nên xem rẻ khinh chê? Vả lại, những ông già bà lão ăn chay niệm Phật thấp hèn vô trí, mà biết giữ theo quy củ của chính mình, cũng đáng khen ngợi họ. Còn hạng thông minh tài biện, vọng nói Bát nhã, ăn thịt no rồi, hôm sớm đến tìm chư tăng gạn thiền nói đạo, đó thật là ma! Người ngu quý nơi an phận ngu, tôi thành thật từng tự nghĩ: thà làm ông già bà lão ăn chay niệm Phật, chớ chẳng nên làm ma dân cùng ma nữ.

Đến như việc các ông già bà lão khi bị kẻ lanh lợi, người sáng mắt hỏi đến thì chẳng cần lên sao Bắc đẩu, trốn vào núi Thiết vi làm chi cao xa. Họ chỉ cần đặt giường nằm nơi cổ họng của kẻ lanh lợi, trải tòa ngồi trên đôi mắt của các vị thông suốt ấy. Làm như thế để chi? Để dạy chúng hãy tạm đóng môn Tam muội nơi cửa miệng, biết nhắm mắt hồi quang phản chiếu xét trở lại chính mình đó thôi! Cư sĩ tôn sùng Hoa Nghiêm mà cật lực chê bai Tịnh độ, lão già này chuyên tu Tịnh độ mà không ngừng khen ngợi Hoa Nghiêm. Trong khi tĩnh lặng, cư sĩ thử xét xem, việc này tại sao như thế?

Cư sĩ cho rằng việc tôi khuyên cư sĩ cầu sinh Tịnh độ là bỏ vàng gánh cỏ, là điên đảo, làm khuất nhục cư sĩ thái quá! Nhưng các thí dụ ấy còn chưa thân thiết. Nay lão già này xin đem thí dụ khác thay thế:

Có một lão nông dân chân thật gởi thiếp vào cửa vị phú Trưởng giả, mời đến nhà ở đồng ruộng của mình viếng cảnh. Mọi người nghe nói đều cười. Lão nông lại quét dọn đường sá sạch sẽ, đến mời thỉnh lần nữa. Người gác cửa nhà phú Trưởng giả cười bảo: "Chủ nhân lần trước không quở trách ông là may mắn lắm rồi. Ông định làm mặt dày hay sao?". Lão ông đáp: "Tôi thấy trong các nhà giàu, có kẻ làm giàu mà bất nhân. Có người ngoài giàu nhưng trong nghèo. Có kẻ chưa giàu sang tỏ ra kiêu mạn trước. Có người chỉ giữ kho, giữ sổ sách ở nhà giàu, tự cho mình là giàu. Vả lại cảnh giàu sang như Kim Cốc
(74), My Ổ(75) nay còn đâu? Tôi là một lão già ở đồng ruộng, an hưởng sự vui thái bình, nên quên phận thấp hèn của mình, mới làm như thế. Thôi từ nay cũng xin tự biết lỗi rồi!". Nói xong cùng nhau cười rộ mà chia tay.

Cả đời, Đại sư Liên Trì thường ngày tu tất cả hạnh lành để phụ trợ Tịnh nghiệp. Đương thời, giới đàn bị ngăn cấm đã lâu, Sư bảo người cầu giới chuẩn bị đầy đủ ba y, thọ giới ở trước tượng Phật. Sư chứng minh cho họ. Ngài lại còn thẩm định nghi Thủy Lục, hành Du Già Diệm Khẩu để cứu khổ U minh, mở ao phóng sinh, trước tác Văn Giới Sát, khiến người quy hóa làm lành rất nhiều.

Cuối tháng 06 năm thứ 40 niên hiệu Vạn Lịch (Công nguyên 1612), Đại sư vào thành từ biệt các đệ tử và những người cố cựu, nói: "Tôi sắp đi nơi khác!". Rồi trở về chùa thiết tiệc trà từ giã đại chúng. Mọi người không hiểu là duyên cớ gì. Đến chiều mồng 01 tháng 07, Sư vào Tăng đường bảo:

- Mai này tôi sẽ đi!

Qua chiều hôm sau, Đại sư vào phương trượng thị hiện có chút bệnh, nhắm mắt tĩnh tọa. Chư tăng, các đệ tử tại gia và những người cố cựu trong thành đều hội đến. Sư mở mắt nhìn mọi người, nói:

- Các vị nên chân thật niệm Phật, đừng làm điều chi khác lạ và chớ phá hoại quy củ của tôi!

Nói xong, hướng về Tây niệm Phật mà qua đời. Thọ được tám mươi mốt tuổi.
  • CHÚ THÍCH:
(71) Mười hai phần giáo: cũng gọi là Thập nhị phần giáo, Thập nhị phần Thánh giáo, Thập nhị phần kinh, chỉ cho mười hai loại kinh được phân biệt theo hình thức và nội dung giáo pháp của Phật.
  • a. Khế kinh (Sutra, Tu Đa la): cũng gọi là Trường hàng, tức thể văn xuôi, trực tiếp ghi chép giáo thuyết của đức Phật.

    b. Ứng tụng (Geya, Kỳ dạ): cũng gọi là Trùng tụng, tức phần kệ tụng giải thích lại cho rõ ràng những giáo thuyết mà Khế kinh đã nói.

    c. Ký biệt (Vyakarana, Hòa già la na): cũng gọi là Thọ ký, vốn là thể loại giải thích về giáo nghĩa. Đời sau đặc biệt chỉ cho những lời ấn chứng trước của Phật về các việc làm trong vị lai của các đệ tử.

    d. Phúng tụng (Gatha, Già đà): cũng gọi là Cô khởi, tức thể loại kệ tụng độc lập, trực tiếp ghi chép giáo thuyết của Phật, không lập lại ý nghĩa trong phần văn Trường hàng đã nói trước đó như vai trò của Ứng tụng.

    e. Tự thuyết (Udana, Ưu đà na): nghĩa là đức Phật không đợi người khác thưa hỏi mà Ngài tự khai thị giáo pháp.

    f. Nhân duyên (Nidana, Ni đà na): ghi chép nhân duyên thuyết pháp giáo hóa của Phật, như phẩm Tựa của các kinh.

    g. Thí dụ (Avadana, A ba đà na): dùng thí dụ để giảng nói pháp nghĩa.

    h. Bổn sự (Itivrttaka, Y đế viết đa già): thể loại ghi chép về hình trạng của Phật và các đệ tử ở đời quá khứ, ngoài Bổn sinh đàm. Hoặc các kinh mở đầu bằng câu: "Phật như thị thuyết" cũng thuộc thể loại này.

    i. Bổn sinh (Jataka, Xà đà già): thể loại ghi chép những hanh đại bi mà đức Phật tu hành trong các đời quá khứ.

    j. Phương quảng (Vaipulya, Tỳ phật lược): các kinh giảng nói giáo nghĩa sâu xa, rộng lớn.

    k. Hy pháp (Adbhuta-dharma, A phù đà đạt ma): cũng gọi là Vị tằng hữu pháp, tức thể loại kinh ghi chép những việc hiếm có của Phật và các đệ tử.

    l. Luận nghị (Upadesa, Ưu ba đề xá): thể loại kinh ghi chép việc đức Phật nghị luận về thể tính các pháp, phân biệt rõ ràng ý nghĩa.
(72) Ngũ giáo: năm loại giáo pháp phân chia Thánh giáo đức Phật nói trong một đời.
  • a. Năm giáo do ngài Hiền Thủ lập ra:
    • (a) Tiểu thừa giáo.
      (b) Đại thừa thỉ giáo.
      (c) Đại thừa chung giáo.
      (d) Đốn giáo.
      (e) Viên giáo.
    b. Năm giáo do ngài Tông Mật đời Đường lập ra:
    • (a) Nhân thiên giáo: giáo pháp nói về lý nhân quả nghiệp báo lành dữ trong ba đời, tu tứ thiền bát định.
      (b) Tiểu thừa giáo: giáo pháp nói về lý ngã không, tu quán trí vô ngã để dứt trừ các nghiệp tham… chứng được ngã không chân như.
      (c) Đại thừa pháp tướng giáo: giáo pháp tương đương với pháp thỉ giáo, tức giáo pháp nói về lý duy thức biến hiện, tu duy thức quán, lục độ, hàng phục phiền não chướng và sở tri chướng, chứng nhị không chân như.
      (d) Đại thừa pháp tính giáo: tương đương với không thỉ giáo. Giáo pháp nói về lý, tất cả đều không, quán không nghiệp chướng, không quả báo, không tu, không chứng. Dùng để phá trừ cái chấp về các pháp có tướng cố định.
      (e) Nhất thừa hiển tính giáo: nhờ phương tiện ẩn mật chỉ thẳng tự tâm tức là chân chánh bản giác, lìa các vọng tưởng chấp trước thì ngay trong tự thân thấy được trí huệ rộng lớn của Như Lai.
    c. Năm giáo do Tam tạng Ba Phả Mật Đa La vào đời Đường lập ra:
    • (a) Tứ đế giáo: nói về pháp Tứ đế, ngộ lý chân không Niết bàn, như kinh A hàm.
      (b) Vô tướng giáo: nói về pháp các pháp đều không, để ngộ lý không của Đại thừa, như kinh Bát nhã.
      (c) Quán hạnh giáo: nói về các pháp quán tâm, để hiển bày lý tu nhân hợp với quả, như kinh Hoa Nghiêm.
      (d) An lạc giáo: nói về bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh và thường, trụ, tịch, diệt, làm cho chúng sinh được an lạc, như kinh Niết bàn.
      (e) Thủ hộ giáo: nói về các việc giữ gìn chánh pháp... khiến chúng sinh hộ trì không mất, như kinh Đại Tập.
(73) Thiết Vi: Cũng gọi là Thiết Luân Vi Sơn, Luân Vi Sơn, Kim Cương Sơn, Kim Cương Vi Sơn

Thế giới quan Phật giáo lấy núi Tu Di làm trung tâm, xung quanh có tám núi và tám biển bao bọc. Lớp ngoài cùng, bên ngoài Hàm Hải được cấu tạo bằng sắt, cho nên gọi là Thiết Vi Sơn.

Có thuyết cho rằng Tam thiên thế giới Đại, Trung và Tiểu đều có núi Thiết Vi bao quanh. Theo Luận Đại Tỳ Bà Sa quyển 133: "Chính giữa thế giới này là núi Tu Di, do bốn thứ báu cấu tạo thành, xung quanh có bảy núi vàng từ Kiện Đạt La đến Ni Dân Đạt La bao bọc. Khoảng giữ mỗi núi đều có một biển. Biển thứ 8 là Hàm Hải (biển nước mặn) bao bọc xung quanh núi Ni Dân Đạt La và bốn châu nằm trong biển này. Bên ngoài Hàm Hải có núi lớn bao bọc như bức tường, nên gọi là Luân Vi. Lại vì được cấu tạo bằng sắt, nên cũng gọi là Thiết Vi".

(74) Kim Cốc viên: ở huyện Lạc Dương, tỉnh Hà Nam. Đời Tấn, nhà hào phú Thạch Sùng có người thiếp xinh đẹp tên là Lục Châu. Tôn Tú yêu cầu Thạch Sùng tặng cho người thiếp này, Thạch Sùng khước từ. Vì việc này, Thạch Sùng bị Tôn Tú dèm pha với Triệu Vương Luân và bị giết chết.

(75) My Ổ: Ổ tức là dinh thự. Năm thứ ba, niên hiệu Sơ Bình thời Đông Hán, Đổng Trác xây dựng dinh thự ở đất My, cao rộng bảy trượng, tương đương với thành Trường An. Trong dinh chứa đầy của cải, được gọi là dinh Vạn Tuế, người đời gọi là dinh My.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

ĐẠI SƯ THẬT HIỀN
(Tổ thứ chín của Liên tông)
Đại sư Thật Hiền, tự Tư Tề, hiệu Tĩnh Am, người đời Thanh, con nhà họ Thời ở Thường Thục. Từ thuở bé, Sư không ăn cá thịt. Sau khi xuất gia, tham cứu câu "Niệm Phật là ai?", được tỏ ngộ và nói: "Tôi đã tỉnh giấc mơ!".

Kế tiếp, Đại sư đóng cửa thất ba năm ở chùa Chân Tịch, ngày xem ba tạng kinh, đêm chuyên trì Phật hiệu. Mãn thất, Sư đến Mậu Sơn lễ xá lợi ở thápA Dục Vương. Nhằm ngày Phật Niết bàn, Sư họp nhiều hàng đạo tục sắm lễ cúng dường, rồi đốt ngón tay trước Phật, phát bốn mươi tám điều đại nguyện. Lúc ấy, cảm xá lợi phóng ánh sáng rực rỡ. Sư làm bài văn Khuyên Phát Tâm Bồ đề để khuyến khích bốn chúng, nhiều người đọc đều rơi lệ.

Lúc lớn tuổi, Sư về trụ trì chùa Tiên Lâm tại Hàng Châu. Năm thứ bảy niên hiệu Ung Chánh (1729), Đại sư lập Liên Xã, làm văn phát thệ giữa đại chúng, lấy trọn đời tinh tấn tu Tịnh nghiệp làm kỳ hạn. Sư chia nhật khóa làm hai mươi phần, mười phần trì danh, chín phần quán tưởng, một phần lễ sám. Có nhà tu Thiền hỏi về chỉ thú niệm Phật, Sư dùng lời kệ khai thị rằng:
  • Một câu A Di Đà
    Là việc đầu công án
    Không thương lượng chi khác
    Ngay đây liền quyết đoán
    Ví như đống lửa lớn
    Chạm đến liền cháy tan
    Lại như gươm Thái A
    Chạm đến liền đứt đoạn.
    Tám muôn tư pháp tạng
    Sáu chữ gồm nhiếp thâu
    Ngàn bảy trăm công án
    Một dao liền đứt hết.
    Mặc ai không thích nghe
    Ta tự tâm tâm niệm
    Xin chẳng cần nhiều lời
    Gắng một lòng không loạn!
Mồng 08 tháng chạp, năm thứ 11 niên hiệu Ung Chánh (1733), Sư bảo hàng đệ tử rằng:

- Tháng tư sang năm, ta sẽ đi xa!

Rồi đóng cửa thất, mỗi ngày niệm Phật mười muôn câu.

Sang năm, ngày 12 tháng tư, Sư bảo môn đồ rằng:

- Từ đầu tháng đến nay, ta đã hai phen thấy Tam Thánh Tây Phương, chắc là đến lúc vãng sinh!

Nói xong, liền viết kệ giã từ đại chúng.

Qua hôm sau, Sư không ăn uống, cứ nhắm mắt ngồi thẳng. Đến canh năm, tắm rửa thay y áo. Hôm ấy tức là ngày 14, gần giờ ngọ, Đại sư hướng về Tây ngồi yên lặng. Hàng đạo tục các nơi nghe tin hội về đông như chợ. Sư bỗng mở mắt nói:

- Tôi đi rồi trở lại ngay. Sinh tử là việc lớn, mỗi người nên cố gắng tịnh tâm niệm Phật!

Dặn dò xong, chắp tay xướng Hồng danh Phật rồi thị tịch. Thọ được bốn mươi chín tuổi.
THIÊN THỨ NĂM
CHÁNH TÍN NIỆM PHẬT

Tịnh Độ duy tâm cùng khắp mười phương, Di Đà tự tánh viên dung một trí. Ứng đối mầu nhiệm nơi cảnh âm thanh sắc tướng, sáng ngời trong khoảng mắt và tâm. Ngay đây bỏ vọng về chân, liền đó trái trần hợp giác.

Thuở xưa, Tỷ kheo Pháp Tạng phát thệ nguyện lớn, mở ra con đường nhiệm mầu Cực Lạc. Thế nên, đức Thế Tôn chỉ rõ Tây Phương, khai thị cõi nước nhiệm mầu cho bà Vi Đề Hy. Đó là pháp môn mà chư Phật hiện tướng lưỡi rộng dài trùm khắp đồng khen ngợi. Khi các kinh diệt hết chỉ còn kinh này, bởi do nơi tâm hỷ xả lợi sinh tăng trưởng, lòng từ bi ứng hóa lớn lao, nên về giáo lý thì phân ra chín phẩm, đây là riêng biệt mở ra môn phương tiện; về mặt quán thì nói rõ nhất tâm, thật là lối tắt trở về nguồn. Phàm Thánh dung hội, ví như lữ khách lang thang đã lâu được trở về quê hương; đạo cảm ứng qua lại, tợ trẻ thơ về bên từ mẫu. Không rõ đạo lý này thì chạm vào đâu cũng đều mê mờ, tin tưởng nghĩa lý trọn vẹn lời này, thì việc gì cũng thấu đạt.

Huống chi, đại nguyện từ quang thâu nhiếp, Phật lực khó nghĩ khó bàn; thuận nước xuôi thuyền chẳng nhọc nhằn tự lực, đẩy cửa rớt then cài lẽ nào lại do người khác? Có nguyện tất được tiếp dẫn, không căn cơ nào mà chẳng lợi ích; thuyền chở đá nặng mà được qua sông, ngọn lửa nơi địa ngục nhanh chóng tắt ngúm. Bồ tát, Thanh văn vãng sinh cõi kia vô lượng vô số, các bậc Hiền trước Thánh sau được đạo có thể nghiệm xét. Chim Anh vũ, Ca Lăng Tần Già còn diễn xướng pháp âm; những loài bò, bay, máy, cựa đều được nhờ ân đức từ bi giáo hóa.

Cảnh Thánh chẳng phải hư vô, lời Phật không hề giả dối. Tại sao lại trôi nổi nơi dòng sông ân ái, đắm chìm mà chẳng biết toan? Trong nhà lửa rực cháy đốt thiêu vẫn không kinh sợ? Đan dệt mạng lưới ngu si dày đặc, lưỡi gươm trí tuệ cùn lục đâu thể chém đứt; trồng gốc rễ nghi ngờ đã sâu, chỉ có niềm tin hời hợt làm sao mà nhổ sạch, bèn cam tâm bằng lòng trong ương họa tai nàn.

Lại phỉ báng cõi nước thanh tịnh, tham luyến cảnh giới não phiền, như bướm lao vào đèn, như tằm bị nung nấu, tự chịu tai ương cá chậu chim lồng mà cho là khoái lạc, đều bởi do thiện lực kém nghiệp lực mạnh, tín căn ít tội căn nhiều. Thế nên, ba cõi mịt mù, bốn loài(76) rối rắm, đều do tham sống mà mãi miết lăng xăng, nào ai biết trở về? Chúng sinh vì chạy theo nghiệp nên bối rối, chẳng mong cầu giải thoát. Sự sinh tử trong quá khứ như kiếp đá(77) khó tận cùng, vòng luân hồi ở vị lai như thành cải[/b](78)[/b] bao giờ mới hết? Nếu chẳng phải đời trước không có duyên lành, sao được gặp nhân duyên Tịnh độ?

Được cơ hội đánh trống mở cửa tù, hãy mau chóng chạy ra; gặp thuyền cứu nạn đắm chìm, sao còn nghi ngờ do dự? Nên kính thuận kinh văn, khéo theo Phật học, người không nghe không hiểu thật là đau đớn xót xa! Huống chi trong đời ngũ trược nhơ ác, lửa đốt khắp nơi, chỉ một mình đức Phật có năng lực cứu vãn!

Đã nghe diệu pháp, nên trồng nhân duyên thanh tịnh; một niệm tín thành ắt đã gây nhân vạn đức. Suy tư làm sao để bằng hàng tiên triết, trông mong tỏ ngộ đạo lý chân thường. Khuyên mọi người đều vâng theo lời dạy mà thực hành, hết lòng đảnh lễ tin nhận!
  • CHÚ THÍCH:
(76) Bốn loài: Chỉ cho bốn loại chúng sinh khác nhau của loài hữu tình trong sáu đường, thuộc ba cõi. Theo Luận Câu Xá quyển 8: Bốn loài gồm:
  • a. Noãn sinh: loài sinh ra từ trứng, như: gà, ngỗng, vịt, cá, rắn...

    b. Thai sinh: còn gọi là Phúc sinh. Các loài sinh ra từ thai mẹ như: người, voi, ngựa, bò, heo, dê, lừa...

    c. Thấp sinh: cũng gọi là Nhân duyên sinh hay Hàn nhiệt hòa hợp sinh. Các loài sinh ra từ những nơi ẩm thấp, có nước như: tôm, cá, muỗi, dòi bọ, mối, kiến...

    d. Hóa sinh: các loài hữu tình ở các cõi Trời, ở trong Địa ngục, Trung hữu... đều do nghiệp lực quá khứ mà hóa sinh.
Trong bốn loài thì loài Hóa sinh là nhiều nhất. Danh từ "Bốn loài" hay "Bốn loài chúng sinh" cũng được dùng để chỉ chung cho tất cả chúng sinh hữu tình. Theo đó thì "Tứ sinh Tam hữu" là chỉ cho bốn loài chúng sinh nói trên và ba cõi: Dục, Sắc và Vô Sắc.

(77) Kiếp đá: ví dụ cho thời gian rất lâu dài. Theo kinh Bồ tát Anh Lạc Bản Nghiệp ghi: "Dùng áo trời phất mòn hết tảng đá vuông bốn mươi dặm, gọi là Tiểu kiếp; phất hết tảng đá vuông tám mươi dặm, gọi là Trung kiếp; phất hết tảng đá vuông tám trăm dặm, gọi là A tăng kỳ kiếp".

(78) Thành cải: nói đủ là thành hạt cải. Lấy hạt cải ví dụ cho thời gian kiếp số lâu dài. kinh Tạp A Hàm, Luận Đại Trí Độ đều có ghi ví dụ như vậy: "Có một thành trì vuông rộng một do tuần, trong đó chứa đầy hạt cải, gọi là thành hạt cải. Có một người trường thọ, mỗi một trăm năm đến lấy một hạt cải, dù lấy hết hạt cải ấy, kiếp số cũng không hết".


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chương 1
ĐOẠN TRỪ NGHI NGỜ, PHÁT SINH LÒNG TIN

Trong kinh nói: "Được làm người là khó, sáu căn toàn vẹn là khó, sinh nơi trung tâm đất nước là khó, gặp Phật đạo là khó, phát khởi lòng tin là khó". Tôi từng luận bàn về sự khó khăn của việc phát khởi lòng tin: có nghi ngờ mà không đoạn trừ, sao phát sinh lòng tin được? Cho nên, kinh Kim Cang nói: "Lòng tin chân chánh rất là hiếm có". Kinh Pháp Hoa nói: "Do lòng tin mà được vào". Long Thơ Tịnh Độ nói: "Đức Phật là bậc Đại Y Vương, có thể cứu tất cả bệnh nhưng không thể cứu người mạng tận. Đức Phật có thể độ tất cả mọi người nhưng không thể độ người không có lòng tin". Bởi lòng tin là sự chân thành trong một niệm. Nếu tâm niệm người muốn bước đi thì chân theo đó mà đi, tâm niệm muốn ở lại thì thân theo đó mà ở lại. Đủ thấy, thân này theo tâm niệm hành động, nhưng có lúc tâm niệm muốn đi thân lại bị trói buộc. Khi sắc thân tan hoại thì chỉ có một niệm mà thôi, một miệm này muốn đến đâu thì đều đến được. Vì vậy, một niệm tín tâm niệm Phật cầu sinh Tịnh độ thì nhất định vãng sinh Tịnh độ. Huống chi đức Thế Tôn, chư đại Bồ tát còn có sức mạnh thệ nguyện tiếp dẫn vãng sinh.

Có người hỏi:

- Nay có người cả đời trì giới niệm Phật, lúc lâm chung không được sinh về Tịnh Độ là tại sao?

Đáp:

- Đó là do lòng tin không sâu, hạnh nguyện kém khuyết, lại chưa hề phát tâm Bồ đề rộng lớn và chưa từng dứt trừ tà hạnh của mười việc ác. Tuy nói tu hành, nhưng lời nói và việc làm chưa từng phù hợp; tuy nói niệm Phật, mà tịnh niệm chưa từng tiếp nối. Đã không có công phu chân thật, làm sao được quả báo Tịnh độ! Trong kinh Duy Ma nói: "Tùy theo tâm thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh". Kinh Pháp Bảo Đàn nói: "Trong tâm nếu không có niệm bất thiện, Tây Phương cách đây không xa. Nếu ôm lòng bất thiện niệm Phật cầu vãng sinh thì khó đến được. Không đoạn trừ tâm thập ác, Phật nào đến đón rước".

Lục Tổ vì thấy người đời không lo thanh tịnh tâm mình, miệng chỉ niệm danh hiệu Phật, tìm Phật ở ngoài tâm, vọng tưởng chấp trước, chẳng tự thanh tịnh tâm mình, lại tạo những điều ác. Đó gọi là tự làm mất Phật của chính mình, lại còn đi tìm cầu Phật nào khác. Vì vậy nên nói: "Mê tức là chúng sinh, ngộ tức là Phật". Chương Niệm Phật Viên Thông trong kinh Lăng nghiêm, Bồ tát Đại Thế Chí nói: "Nhớ Phật niệm Phật, hiện tại, tương lai nhất định thấy Phật". Vì nhớ niệm tức là tâm niệm, lòng tin thanh tịnh, Tín, Hạnh, Nguyện đầy đủ.

Kinh này còn nói: "Một căn đã về nguồn, sáu căn thành giải thoát; thập ác(79) hóa thành thập thiện(80), lục thức(81) hóa thành lục thần thông(82)". Cho nên, trong tâm chánh tín nghĩ nhớ niệm Phật, gọi là tịnh niệm tiếp nối thì Di Đà tự tánh hiện tiền. Bên đây cảm, bên kia ứng, lúc sắp mạng chung, sao lại không được thấy Phật mà vãng sinh Tịnh Độ?

Phàm người tu Tịnh nghiệp, nên tin lời Phật, làm theo hạnh Phật. Tâm niệm đã không trái ngược, nhân quả chắc chắn rõ ràng. Nếu nghe mà không tin, tin mà không thực hành, cũng như bánh vẽ không no được bụng đói. Tâm đã không tin thì phát sinh nghi ngờ phỉ báng, đã phát sinh nghi ngờ phỉ báng thì tự mờ mịt tâm mình, tự mờ mịt tâm mình thì càng thêm xa rời Tịnh độ. Do đó, cư sĩ Chu ở Hương Sơn viết lời tựa trong quyển Liên Tông Sám của ngài Từ Chiếu, nói rằng: "Bậc Đạo sư là nói vị giáo hóa có phương pháp để đạt đến giác ngộ, dạy người có đạo lý. Lấy lòng tin sâu làm lối vào, phá trừ sự chấp trước mê mờ của những kẻ Xiển Đề; chuyên niệm Phật làm môn thực hành khiến tâm không loạn động, thêm vào đó là lấy tâm nguyện Bồ đề làm căn bản độ thoát chúng sinh. Đủ ba điều ấy thì có thể lên Thượng phẩm Thượng sinh ở cõi Cực Lạc, dễ dàng đạt đến biển quả Tỳ Lô". Lại nói: "Việc này người người vốn đầy đủ, ai nấy đều thành tựu trọn vẹn. Nhưng vì không có ba chữ Tín, Nguyện, Hạnh, do đó đọa lạc trong luân hồi".

Than ôi! Phàm kẻ làm người chẳng luận phước đức, chẳng luận tôn quý, chẳng luận thông minh, chẳng luận tướng mạo, chỉ đầy đủ Tín, Nguyện, Hạnh thì chính là tư lương để vãng sinh Tịnh Độ. Tứ Liệu Giản nói: "Từ đây qua phương Tây, cách mười muôn ức cõi Phật có thế giới tên là Cực Lạc, đó là đứng về khía cạnh xa mà nói. Nếu một niệm tín tâm niệm Phật thì liền đến Tây Phương, đó là đứng về khía cạnh gần mà nói. Cho nên bảo rằng, cũng gần mà cũng xa, chỉ ở nơi lòng tin và tâm nguyện của người mà thôi. Tin thì không cách mảy tơ, nghi thì lưu chuyển trong sinh tử". Lại nói:
  • Từ đây qua Tây Phương
    Lộ trình xa mười vạn
    Tư lương nếu đầy đủ
    Lo gì không đến được.
Thế nên nói: "Lòng tin đứng đầu muôn điều lành, lòng tin là chủ của trăm hạnh". Kinh Hoa Nghiêm lấy Thập tín(83)làm điểm khởi đầu của sự thành Phật, kinh Pháp Hoa lấy chánh tín làm cửa để vào đạo, Ngũ căn lấy Tín căn làm đầu, Ngũ lực lấy Tín lực làm trước. Vì thế, chư Phật trong ba đời, chư đại Bồ tát, lịch đại Tổ sư tu các công hạnh, đầy đủ đại nguyện lực, vào cảnh giới Phật, thành tựu Bồ đề, chưa có ai không từ nơi chữ Tín này mà bước vào.

Pháp sư Đàm Loan gặp được kinh Quán Vô Lượng Thọ của ngài Lưu Chi trao cho, liền đốt kinh Tiên tu Tịnh nghiệp, lẽ nào không phải là do chữ Tín này? Bạch Cư Dị đi cũng niệm Di Đà, ngồi cũng niệm Di Đà, cũng chẳng ra ngoài chữ Tín này! Tô Đông Pha mang bức tượng Di Đà, lúc đi hay ngồi cũng đều mang theo bên mình nói là Tây Phương công cứ, thế thì cũng không ra ngoài chữ Tín này! Trương Thiện Hòa cả đời mổ trâu, khi lâm chung tự thấy tướng địa ngục hiện, nhưng gặp được vị tăng dạy niệm Phật A Di Đà. Ông niệm chưa được mười câu thì thấy Phật tiếp dẫn vãng sinh Tịnh độ, liền thoát khỏi địa ngục. Đó chẳng phải là do lòng tin mà được như thế hay sao?

Kinh Hoa Nghiêm nói: "Lòng tin là gốc của đạo, là mẹ sinh ra công đức. Lòng tin hay nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt ra khỏi các đường ma. Lòng tin có thể được vào chánh định. Lòng tin có thể thoát biển sinh tử. Lòng tin có thể thành tựu đạo giác ngộ của Phật".

Than ôi! Thời nay, người trì trai tin giữ giới mà không tin niệm Phật, tin thờ Phật mà không tin vãng sinh Tịnh độ. Như thế là tự làm mất lợi ích lớn, cần nên xét kỹ!

Trên đường Trời, Người lấy phước làm đầu; trong biển sinh tử, niệm Phật bậc nhất. Nay có người muốn được sự vui vẻ nơi cõi Trời, Người mà không chịu tu phước; muốn ra khỏi sinh tử nhưng lại không niệm Phật; ví như chim không cánh mà muốn bay, cây không gốc mà muốn sum suê tươi tốt, làm sao đạt được?

Nếu là bạn pháp với tôi, cần phải tin sâu lời chư Phật nói chân thật không giả dối. Phương pháp hay giải thoát đau khổ không gì bằng niệm Phật, chuyên tu Tịnh nghiệp mong ra khỏi luân hồi. Thời gian chẳng đợi người, thận trọng chớ nghi ngờ hối tiếc!

Như thế, thật đáng gọi là:
  • Thân này chẳng chịu đời này độ
    Lại đợi đời nào độ thân này!


    CHÚ THÍCH:
(79) Thập ác: Sát sinh, Trộm cắp, Tà dâm, Vọng ngữ, Lưỡng thiệt (nói lời gây ly gián, lời phá hoại), Ác khẩu (nói lời thô ác), Ỷ ngữ (là lời nói vô nghĩa, lời nói do tâm nhiễm phát ra), Tham dục (tham ái, tham thủ, xan tham), Sân khuể, Tà kiến (tức ngu si).

(80) Thập thiện:
  1. Không sát sinh;
  2. Không trộm cắp;
  3. Không tà hạnh;
  4. Không vọng ngữ;
  5. Không lưỡng thiệt;
  6. Không ác khẩu.
  7. Không ỷ ngữ.
  8. Không tham dục;
  9. Không sân nhuế;
  10. Không tà kiến.
(81) Lục thức (six sense of consciousness): sáu tri thức tức sáu sự hay biết:
  1. Nhãn thức: tri thức của mắt;
  2. Nhĩ thức: tri thức của tai;
  3. Tỷ thức: tri thức của mũi;
  4. Thiệt thức: tri thức của lưỡi;
  5. Thân thức: tri thức của thân
  6. Ý thức: tri thức của ý.
(82) Lục thần thông: sáu thứ diệu dụng tự tại vô ngại do Phật, Bồ tát nương vào sức định, tuệ mà thị hiện, đó là: Thần cảnh thông, Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông, Túc mạng thông và Lậu tận thông.
  • a. Thần cảnh thông (cũng gọi Thân thông, Thân như ý thông, Thần túc thân): năng lực hiện thân theo ý muốn một cách tự do vô ngại.

    b. Thiên nhãn thông: năng lực thấy rõ tướng khổ, vui, sống, chết của chúng sinh trong sáu đường và thấy tất cả các thứ hình sắc trong thế gian, không gì ngăn ngại.

    c. Thiên nhĩ thông: năng lực nghe được những tiếng nói khổ, vui, lo, mừng của chúng sinh trong sáu đường và tất cả loại âm thanh của thế gian.

    d. Tha tâm thông: năng lực biết được những điều mà chúng sinh trong sáu đường đang suy nghĩ.

    e. Túc mạng thông (cũng gọi Túc trụ thông): năng lực biết được vận mạng và những việc làm của chính mình và của chúng sinh trong sáu đường từ trăm nghìn muôn kiếp trước.

    f. Lậu tận thông: năng lực dứt hết Kiến hoặc và Tư hoặc trong ba cõi, không bị sống chết trói buộc trong ba cõi mà được thần thông lậu tận.
Ba năng lực: Thiên nhãn thông, Túc mạng thông và Lậu tận thông trên đây còn gọi là Tam minh.

(83) Thập tín: gọi đủ là Thập tín tâm, gọi tắt là Thập tâm, chỉ cho mười tâm mà Bồ tát của mười giai vị đầu tiên trong 52 giai vị tu hành. Mười tâm này thuộc Tín vị, có khả năng giúp cho hành giả thành tựu hạnh tín.Về tên gọi và thứ tự thì các kinh điển ghi có hơi khác nhau.

Theo phẩm Hiền Thánh Danh Tự trong kinh Bồ tát Anh Lạc Bản Nghiệp quyển thượng thì mười tâm là:
  • a. Tín tâm: nhất tâm quyết định, mong muốn thành tựu.
    b. Niệm tâm: thường tu 6 niệm: Phật, pháp, tăng, giới, thí và thiên.
    c. Tinh tấn tâm: nghe Bồ tát tạng, siêng năng tu tập thiện nghiệp không gián đoạn.
    d. Định tâm: tâm an trụ nơi sự và nghĩa, xa lìa tất cả hư ngụy, vọng tưởng phân biệt.
    e. Tuệ tâm: nghe Bồ tát tạng, tư duy quan sát, biết tất cả pháp vô ngã, vô nhân, tự tánh rỗng lặng.
    f. Giới tâm: thọ trì luật ghi thanh tịnh của Bồ tát, thân, khẩu, ý thanh tịnh, không phạm các lỗi; nếu có phạm thì sám hối trừ diệt.
    g. Hồi hướng tâm: đem các thiện căn đã tu được hồi hướng về Bồ đề, không nguyện sinh vào các cõi hữu lậu, hồi thí cho chúng sinh, không vì riêng mình; hồi hướng cầu chứng được thật tế, không chấp danh tướng.
    h. Hộ pháp tâm: phòng ngừa tâm mình, không khởi phiền não, lại tu năm hạnh: mặc hộ, niệm hộ, trí hộ, tức tâm hộ và tha hộ.
    i. Xả tâm: không tiếc thân mạng, tài vật; tất cả những gì có được đều buông bỏ.
    j. Nguyện tâm: thường tu các nguyện thanh tịnh.
Mười tâm được liệt kê trong phẩm Bồ tát Giáo Hóa Kinh Nhân Vương quyển thượng do ngài Cưu Ma La Thập dịch là: Tín tâm, Tinh tấn tâm, Niệm tâm, Tuệ tâm, Định tâm, Thí tâm, Giới tâm, Hộ tâm, Nguyện tâm và Hồi hướng tâm, cho đó là mười tâm của Thập chủng tính.

Kinh Phạm Võng quyển thượng thì nêu mười tâm là: Xả tâm, Giới tâm, Nhẫn tâm, Tấn tâm, Định tâm, Tuệ tâm, Nguyên tâm, Hộ tâm, Hỷ tâm, Định tâm, và cho đó là mười tâm phát thú trong Kiên tính nhẫn.

Kinh Lăng Nghiêm quyển 8 thì gọi đó là Thập tâm trụ, tức Tín tâm trụ, Niệm tâm trụ, Tinh tiến tâm trụ, Tuệ tâm trụ, Định tâm trụ, Bất thoái tâm trụ, Hộ pháp tâm trụ, Hồi hướng tâm trụ, Giới tâm trụ và Nguyện tâm trụ.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chương 2
KHUYÊN PHÁT LÒNG TIN

Phật A Di Đà là bậc tôn quý trong các đức Phật, cha lành của bốn loài chúng sinh. Người trở về tin tưởng thì tiêu diệt tội lỗi nhiều như cát sông Hằng, xưng niệm thì được phước vô lượng.

Muốn niệm Phật phải khởi lòng tin, nếu không có lòng tin thì chẳng được gì. Thế nên, Pháp sư Tăng Triệu nói: "Việc ấy đúng như vậy" là tướng trạng của niềm tin, bảo rằng "việc ấy không như vậy" là tướng trạng của sự không tin tưởng.

Lòng tin là bước quan trọng ban đầu để vào đạo, trí tuệ là chỗ huyền diệu sau cùng. Các kinh trước nói "như vầy" là chỉ cho lòng tin, sau cùng nói "vâng làm" là chỉ cho trí tuệ. Do đó, kinh A Di Đà nói: "Nếu có người tin ưa, nên phát nguyện sinh về cõi Cực Lạc". Đây là chỗ khuyên phát lòng tin của đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Kinh này còn nói: "Các ông nên tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức này". Đây là chỗ khuyên phát lòng tin của chư Phật khắp sáu phương.

Luận còn nói: "Nếu người trồng căn lành, nghi thì hoa không nở. Người lòng tin thanh tịnh, hoa nở được thấy Phật". Đây là chỗ khuyên phát lòng tin trong Luận Vãng Sinh.

Hơn nữa, tin thì lời nói thuận lý; thuận thì thành tựu đạo thầy trò. Kinh, không luận là nghĩa lý phong phú hay ước lược, nếu chẳng có lòng tin thì không thể lưu truyền. Đó là chỗ khuyên phát lòng tin của ngài Tăng Triệu.

Lại nói: "Pháp môn niệm Phật này, chẳng luận là tăng tục, nam nữ, sang hèn, nghèo giàu, chỉ cần có đủ niềm tin". Đây là chỗ khuyên phát lòng tin của Hòa thượng Đại Hạnh.

Hỏi:

- Đã nói rằng tin, vậy chưa biết tin những pháp gì?

Đáp:

- Tin nghĩa là tin theo, như trong kinh nói:
  • * Tin niệm Phật nhất định vãng sinh Tịnh độ.
    * Tin niệm Phật nhất định diệt trừ mọi tội lỗi
    * Tin niệm Phật nhất định được Phật hộ trì.
    * Tin niệm Phật nhất định được Phật chứng minh.
    * Tin niệm Phật, đến lúc mạng chung, nhất định được Phật đến tiếp dẫn.
    * Tin niệm Phật, bất luận là chúng sinh nào, hễ có cùng lòng tin đều được vãng sinh.
    * Tin niệm Phật vãng sinh Tịnh độ nhất định được vào bậc Bất thối.
    * Tin vãng sinh Tịnh độ nhất định không còn rơi vào ba đường Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh.
Cho nên, khuyên tin tưởng niệm Phật. Tiếp nhận pháp này, trì niệm danh hiệu này, chắc chắn vãng sinh Tịnh Độ. Vì thế, Hòa thượng Đại Hạnh dạy người niệm Phật, thấy "tâm chỉ tin Phật thì Phật liền biết, vì Ngài có thần thông biết được tâm người. Miệng chỉ xưng danh hiệu Phật thì Phật liền nghe, vì Ngài có thần thông nghe suốt tất cả. Thân chỉ lễ Phật thì Phật liền thấy, vì Ngài có thần thông thấy khắp mười phương". Do vậy, Hòa thượng Đại Hạnh đem pháp niệm Phật này khuyên mọi người phát sinh lòng tin.

Lại ví dụ, lòng tin cũng như việc trồng cây trái, rễ sâu nên gió thổi không lay động. Về sau, cây sẽ đơm bông kết trái, giúp người qua cơn đói khát. Người niệm Phật cũng như thế, do tin sâu mà được đến Tây Phương. Nếu không có lòng tin thì chẳng được gì, trong kinh nói: "Bồ tát Thập trụ84) vừa khởi lòng tin niệm Phật, về sau dù gặp ác duyên mất thân mạng, thà chết chớ không thối thất".

Kinh Duy Ma nói: "Tin sâu vững chắc giống như kim cương, pháp bảo soi khắp cả giống như mưa cam lồ".

Niệm Phật Tam Muội từ lòng tin sâu sắc mà phát sinh.
  • Anh xem Tịnh độ hằng sa Phật
    Đều là người chánh tín hiện nay.


    CHÚ THÍCH:
(84) Thập trụ: quá trình tu hành của Bồ tát được chia làm 52 giai vị, trong đó từ giai vị 11 đến 20 thuộc Trụ vị, gọi là Thập trụ, Đó là:
  • a. Sơ phát tâm trụ (cũng gọi là Ba Lam Kỳ Đâu Ba Bồ tát pháp trụ, Phát ý trụ): hàng thượng tiến, hàng thượng căn, dùng phương tiện chân chánh phát khởi tâm Thập tín, tin thờ Tam Bảo, thượng trụ trong tám vạn bốn nghìn Bát nhã Ba la mật, thọ trì tu tập tất cả hạnh, tất cả pháp môn, thường khởi tín tâm, không sinh tà kiến, không phạm Thập trọng, Ngũ nghịch, Bát đảo, không sinh vào nơi có tai nạn, thường gặp Phật pháp, học rộng, nhiều trí tuệ, cầu nhiều phương tiện, mới nhập không giới, trụ nơi giai vị không tính, đồng thời dùng không lý trí tâm tu tập giáo pháp của cổ Phật, trong tâm sinh ra tất cả công đức.

    b. Trị địa trụ (cũng gọi A Xà Phù Bồ tát pháp trụ, Trì địa trụ): thường theo tâm không, làm thanh tịnh tám vạn bốn nghìn pháp môn, tâm Bồ tát trong sáng, giống như tam lưu ly hiện vàng ròng, vì lấy diệu tâm mới phát làm địa để tu tập nên gọi là Trì địa trụ.

    c. Tu hành trụ (cũng gọi là Du A Xà Phù Bồ tát pháp trụ, Ứng hành trụ): trí tuệ của Phát tâm trụ và Trị địa trụ ở trước đều đã sáng tỏ, cho nên dạo khắp mười phương mà không bị ngăn ngại.

    d. Sinh quý trụ (cũng gọi Xà Ma Kỳ Bồ tát pháp trụ): nhờ diệu hạnh ở trước thầm hợp với diệu lý, đã sinh vào nhà Phật làm con bậc Pháp vương; tức hạnh đồng với Phật, chịu ảnh hưởng khí phần của Phật, như thân trung ấm tự tìm cha mẹ, cả hai thầm hợp, nhập vào chủng tánh Như Lai.

    e. Phương tiện cụ túc trụ (cũng gọi Ba Du Tam Bát Bồ tát pháp trụ, Tu thành trụ): tu tập vô lượng thiện căn, lợi mình, lợi người, đầy đủ phương tiện, tướng mạo vẹn toàn.

    f. Chánh tâm trụ (cũng gọi A Kỳ Tam Bát Bồ tát pháp trụ, Hành đăng trụ): thành tựu Bát nhã thứ sáu, cho nên, chẳng những chỉ có tướng mạo mà cả tâm cũng đồng với Phật.

    g. Bất thoái trụ (cũng gọi A Duy Diệu Trí Bồ tát pháp trụ, Bất thoái chuyển trụ): đã vào cảnh giới Vô sinh rốt ráo không, tâm thường tu hạnh không, vô tướng, vô nguyện, thân tâm hòa hợp, mỗi ngày một tăng trưởng.

    j. Đồng chân trụ (cũng gọi Cưu Ma La Phù đồng nam Bồ tát pháp trụ): từ khi phát tâm trở đi, trước sau không sụt lùi, không khởi tà ma phá hoại tâm Bồ đề, đến đây thì 10 thân linh tướng của Phật cùng lúc đầy đủ.

    g. Pháp vương tử trụ (cũng gọi Du La Xà Bồ tát pháp trụ, Liễu sinh trụ): từ Sơ phát tâm trụ đến Sinh quý trụ, gọi là nhập Thánh thai; từ Phương tiện cụ túc trụ đến Đồng chân trụ gọi là Trưởng dưỡng Thánh thai, đến Pháp vương tử trụ này thì hình tướng đã đầy đủ, liền ra khỏi thai, giống như từ trong giáo pháp của Phật vương sinh ra hiểu biết tiếp nối được ngôi vị của Phật.

    h. Quán đính trụ (cũng gọi A Duy Nhan Bồ tát pháp trụ, Bổ xứ trụ): Bồ tát đã là con của Phật, có khả năng gánh vác việc Phật, cho nên Phật đem nước trí tuệ rưới lên đầu (quán đính) Bồ tát, giống như việc quán đính lên ngôi của vị Vương tử dòng Sát Đế Lợi. Vị Bồ tát đã đến Quán đính trụ thì có ba tướng đặc biệt là:
    • (a) Độ chúng sinh: có khả năng tu hành thành tựu mười thứ trí, độ được các chúng sinh.
      (b) Vào được cảnh giới rất sâu xa mà tất cả chúng sinh cho đến hàng Bồ tát Pháp vương tử trụ cũng không thể tính lường được.
      (c) Học rộng mười thứ trí, rõ biết tất cả pháp.
Chương 3
KỆ CHÁNH TÍN VÃNG SINH CỦA SÁM CHỦ TỪ VÂN THỨC
  • Cúi lễ Tây Phương cõi An Lạc
    Di dà giáo chủ đại từ tôn
    Con nương tất cả các kinh điển
    Thành tựu lòng tin quyết vãng sinh.

    Người trụ Đại thừa tâm thanh tịnh
    Mười câu niệm Phật Vô Lượng Thọ
    Lâm chung thấy Phật quyết vãng sinh
    Kinh Đại Bảo Tích nói như thế.

    Tội ngũ nghịch lửa địa ngục hiện
    Gặp thiện tri thức phát tâm mạnh
    Mười câu niệm Phật liền vãng sinh
    Kinh Thập Lục Quán nói như thế.

    Nếu có người hoan hỷ ưa thích
    Cho đến mười niệm liền vãng sinh
    Nếu không như thế chẳng thành Phật
    Bốn mươi tám nguyện nói như thế.

    Nếu có người nghe danh chí tâm
    Một niệm hướng về liền vãng sinh
    Chỉ trừ ngũ nghịch chê chánh pháp
    Kinh Vô Lượng Thọ nói như thế.

    Lâm chung không thể quán và niệm
    Chỉ phát khởi ý biết có Phật
    Người này hơi dứt liền vãng sinh
    Kinh Đại Pháp Cổ nói như thế.

    Một ngày, một đêm, treo tràng phan
    Chuyên niệm vãng sinh tâm không dứt
    Trong mộng thấy Phật liền vãng sinh
    Kinh Vô Lượng Thọ nói như thế.

    Một ngày sớm tối xưng danh Phật
    Chuyên cần tinh tấn không dừng nghỉ
    Lần lượt khuyên nhau cùng vãng sinh
    Trong kinh Đại Bi nói như thế.

    Một ngày, hai ngày đến bảy ngày
    Chấp trì danh hiệu tâm không loạn
    Phật hiện trước mặt liền vãng sinh
    Kinh A Di Đà nói như thế.

    Nếu người nghe Phật A Di Đà
    Một ngày, hai ngày, hoặc hơn nữa
    Buộc niệm hiện tiền liền vãng sinh
    Trong kinh Ban Chu nói như thế.

    Một ngày, một đêm trong sáu thời
    Năm vóc lễ Phật, niệm không dứt
    Hiện thấy Phật ấy, liền vãng sinh
    Kinh Cổ Âm Vương nói như thế.

    Mười ngày, mười đêm trì trai giới
    Treo phan, bảo cái, đốt hương đèn
    Buộc niệm không dứt được vãng sinh
    Kinh Vô Lượng Thọ nói như thế.

    Nếu người chuyên niệm Phật một phương
    Hoặc đi, hoặc ngồi bốn chín ngày
    Tự thân thấy Phật liền vãng sinh
    Trong kinh Đại Tập nói như thế.

    Nếu người tự thệ thường kinh hành
    Trong chín mươi ngày không ngồi nằm
    Nơi chánh định thấy Phật Di Đà
    Trong kinh Phật Lập nói như thế.

    Nếu người ngồi thẳng hướng về Tây
    Suốt chín mươi ngày thường niệm Phật
    Được thành Tam muội sinh trước Phật
    Kinh Văn Thù Bát nhã noi thế.

    Tôi dẫn ít phần trong các kinh
    Những lời như thế vô cùng tận
    Nguyện người cùng nghe sinh chánh tín
    Lời Phật chân thật chẳng hư dối
    Phật đã nói rõ dễ vãng sinh
    Mong đều tin chắc không nghi hoặc.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chương 4
LỜI TỰA TỊNH ĐỘ THẬP NGHI LUẬN
CỦA ĐẠI SƯ TRÍ GIẢ Ở THIÊN THAI

Trí tuệ hàng Thanh văn không thể lường xét chỗ sâu xa của chư Phật, Bồ-tát hàng Thập địa chẳng thể cùng tận chỗ mầu nhiệm của quả vị tột cùng. Huống chi, hàng phàm phu không có mắt tuệ, rơi trong ba cõi, mê vọng sâu dày, cho Tịnh độ là sai lầm, niềm nghi ngờ khó chuyển đổi. Nghi ở nơi thân, biết rằng chưa diệt (kiến chấp) năm uẩn; nghi ở nơi tâm thì biết chưa trừ muôn điều mê lầm; nghi ở nơi hạnh, biết rằng chưa thực hành được Lục độ. Do hạnh còn trôi nổi đắm chìm chưa qua được bờ kia, nên mới mong những người đã qua cứu giúp. Ở nơi mình vẫn còn mê lầm, huống gì đối với người khác! Đây là điều lòng người khó tin, người tu kẻ tục đều nghi ngờ.

Đại sư Trí Giả đời Tùy, tâm thầm hợp với muôn vật, trí tuệ thấu suốt tất cả, nhân cơ hội phụ trợ giáo pháp, hiển bày nhiều điềm lạ. Do những điềm lạ ấy mà xét sự chứng đắc, chẳng biết chẳng hay Ngài là bậc Tam Hiền(85) chăng? Hàng Thập Thánh(86) chăng? Hay là bậc Ứng Chánh Đẳng Giác biến hóa thần diệu thật khó nghĩ bàn! Suy xét cũng chẳng biết được. Song, Đại sư đầy đủ chánh niệm thiền định tổng trì, hạnh nghiệp sáng ngời, không lãng quên cầu sinh Tịnh độ dù trong giây phút. Hiện nay, phát hiện trong những tác phẩm còn lại của Đại sư, có lẽ là Thập Nghi Luận. Nhưng sách này, xa thì y cứ trong các kinh, gần thì y cứ từ những bộ luận, chọn lựa ý để dẫn truyện. Không lìa kinh để làm cho được hoàn bị, chẳng trao chuốt ngôn từ để tăng thêm sự khéo léo. Xét từ đạt ý, có thể cùng tột nơi chín phẩm, như thế mới thấy chỗ dụng tâm của Đại sư. Thấy được tấm lòng của Ngài, vả chăng ở người có mối nghi ngờ về Tịnh độ. Gọi là trời cao không mây, ngàn sao lấp lánh, trật tự khác nhau, thứ lớp không đồng, sáng rỡ không gì che khuất.

Tôi được sách này, nhớ lại đức Thế Tôn nhọc nhằn khen ngợi Tịnh Độ, chư Phật xác nhận làm thành tựu lòng tin, hoặc hiện tướng lưỡi che khắp ba ngàn thế giới, hoặc âm thanh như sóng biển để diễn nói lời thanh tịnh.

Tôi tuy hiểu biết nông cạn, chẳng thể phát huy rực rỡ pháp môn này, nhưng đâu nỡ không lời! Thế nên, lược nêu ra vài điều ở trước sách này, để bày tỏ hết những điều ôm ấp trong lòng. Tuy từ thô lý cạn, chẳng đủ hưng khởi sự giáo hóa của Đại sư, nhưng nơi ý nghĩa chư Phật xác nhận làm thành tựu lòng tin, thì có chỗ trở về.
  • CHÚ THÍCH:
(85) Tam Hiền: ba giai vị tu hành các thiện căn để hàng phục phiền não, khiến tâm được điều hòa. Tam Hiền có Tiểu thừa và Đại thừa khác nhau.
  • Tam Hiền thuộc Tiểu thừa: giai vị tu các thiện căn hữu lậu (tức Thuận giải thoát phần), có ba giai vị:
    • a. Ngũ đình tâm quán vị: giai vị dùng Ngũ đình tâm quán để ngăn dứt năm món tham, sân, si, ngã kiến và tán loạn.
      b. Biệt tướng niệm trụ vị: giai vị quán các tự tướng: bất tịnh, khổ, vô thường, vô ngã thuộc thân, thọ, tâm, pháp; đồng thời quán các cộng tướng: vô thường, khổ, không, vô ngã.
      c. Tổng tướng niệm trụ vị: giai vị quán chung các cộng tướng: vô thường, khổ, không, vô ngã thuộc Tứ niệm trụ.
  • Tam Hiền thuộc Đại thừa: chỉ cho hàng Bồ tát trước Thập địa, giai vị này có ba lớp Thập tâm khác nhau:
    • a. Thập trụ: tâm hội lý, an trụ bất động. Thập trụ gồm: Phát tâm trụ, Trị địa trụ, Tu hành trụ, Sinh quý trụ, Cụ túc phương tiện trụ, Chính tâm trụ, Bất thoái trụ, Đồng chân trụ, Pháp vương tử trụ và Quán đảnh trụ.
      b. Thập hạnh: thực hành hạnh này thì sẽ tiến tới quả. Thập hạnh gồm: Hoan hỷ hạnh, Nhiêu ích hạnh, Vô vi nghịch hạnh, Vô khuất nhiễu hạnh, Vô si loạn hạnh, Thiện hiện hạnh, Vô trước hạnh, Nan đắc hạnh, Thiện pháp hạnh, Chân thật hạnh.
      c. Thập hồi hướng: hồi nhân hướng quả. Thập hồi hướng gồm: Cứu chư chúng sinh ly chúng sinh tướng hồi hướng, Bất hoại hồi hướng, Đẳng nhất thiết chư Phật hồi hướng, Chí nhất thiết hồi hướng, Vô tận công đức tạng hồi hướng, Nhập nhất thiết bình đẳng thiện căn hồi hướng, Đẳng tùy thuận nhất thiết chúng sinh hồi hướng, Chân như tướng hồi hướng, Vô phược vô trước giải thoát hồi hướng và Nhập pháp giới vô lượng hồi hướng.
(86) Thập Thánh: Nhân Vương Bát nhã Kinh Hiệp Sớ, quyển trung cho rằng Tam Hiền tức ba mươi tâm trước Thập địa, Thập Thánh tức hàng Bồ tát Thập địa. Vì hàng Bồ tát Thập địa đều đã đoạn hoặc, chứng được chánh tín.
Chương 5
LỜI TỰA TRỰC CHỈ TỊNH ĐỘ QUYẾT NGHI CỦA DƯƠNG KIỆT

Thánh nhân do đại nguyện từ Tịnh Độ đến, đến mà thật không có đến; phàm phu tin sâu sinh qua Tinh Độ, đi mà thật không có đi. Kia chẳng đến đây, đây chẳng qua kia mà Thánh phàm hội ngộ, hai bên đều được giao tiếp, là tại sao? Vì ánh sáng của Phật Di Đà như mặt trăng tròn đầy chiếu khắp mười phương, nước lắng trong thì trăng hiện toàn thể. Trăng chẳng phải đến với nước, nước dấy động vẩn đục thì trăng không hiện rõ, chớ chẳng phải trăng bỏ nước mà đi. Nước có trong, đục, động, tĩnh, nhưng trăng thì không lấy bỏ, đến, đi. Thế nên, trong kinh Hoa Nghiêm, Trưởng giả Giải Thoát nói: "Biết tất cả chư Phật giống như bóng, tâm mình giống như nước. Các đức Như Lai kia không đến đây, ta cũng không qua kia. Nếu ta muốn thấy Phật A Di Đà ở thế giới An Lạc tùy ý liền thấy".

Vì vậy nên biết, chúng sinh chuyên chú tâm niệm muốn thấy Phật A Di Đà thì liền được thấy, đó chính là lời chân thật xứng hợp với bản tánh, chẳng phải là giáo lý quyền biến.

Tịnh độ không có sự ham muốn nên chẳng phải là Dục giới. Cõi nước ấy ở trên mặt đất nên chẳng phải Sắc giới. Lúc hóa sinh có hình tướng nên chẳng phải là Vô sắc giới.

Tất cả chúng sinh chưa tỉnh ngộ chánh giác, ở trong giấc mộng lớn, thăng trầm nơi sáu nẻo chưa từng dừng nghỉ. Chư Thiên tuy vui sướng, nhưng lúc quả báo hết, tướng suy hao biểu hiện; A tu la sân hận chiến tranh hơn thua; Bàng sinh bay chạy, ăn nuốt, tàn sát lẫn nhau; Quỷ thần thì âm u đói khát bức bách; Địa ngục ở trong đêm dài tăm tối, thống khổ kêu gào. Được sinh làm người thì ta vốn là may mắn. Song, sinh già bệnh chết bao nhiêu nỗi khổ ràng buộc trói trăn, chỉ có Tịnh Độ là không còn khổ não.

Thai sen gởi hình chất nên không có nỗi khổ của sự sinh. Nóng, lạnh chẳng đổi dời nên không có nỗi khổ già suy. Thân thể chẳng có phần đoạn nên không có nỗi khổ bệnh tật. Thọ mạng vô lượng nên không có nỗi khổ về sự chết. Không cha mẹ, vợ con nên không có nỗi khổ thương yêu ly biệt. Các bậc Thượng thiện nhân cùng hội tụ nên không có nỗi khổ oán ghét mà gặp gỡ. Áo đẹp, cơm thơm, thọ dùng trân bảo, nên không có nỗi khổ mong cầu chẳng được. Thường quán chiếu bản tánh rỗng lặng nên không có nỗi khổ về thân năm uẩn. Từ bi tế độ loài hữu tình, muốn sinh đến nơi nào thì sinh, không trụ nơi vắng lặng, vì vậy chẳng phải là Nhị thừa. Trí tuệ chiếu soi sinh tử, được Bất thối chuyển, nên chẳng phải là phàm phu.

Ba cõi mênh mông ví như nơi bốn bề gò nỗng, hầm hố, chứa đầy dơ bẩn, khe vực cách trở lấy gì làm chiếc cầu? Lại có kẻ cuồng ở trong đó lạc đường, ác thú ma quỷ não hại vây quanh, đao binh nước lửa; hoặc gặp lúc bi thương đột ngột, sương gió sấm sét, bị hiếp đáp chèn ép, chẳng biết tìm nơi nào để được che chở; hoặc ẩm thực, y phục chưa đầy đủ, cam chịu những nỗi khổ ấy mà chẳng mong cầu an lạc.

Phật Thích Ca là bậc Đại Đạo sư, chỉ rõ cõi nước thanh tịnh tức là thế giới An Lạc. Phật Vô Lượng Thọ là bậc thầy nơi Tịnh độ. Các chúng sinh nếu sinh về cõi ấy thì không có những phiền não. Người không nghe biết về điều này, thật đáng xót thương! Cũng có những người thiện, phát ba thứ tâm mà không cầu vãng sinh, thật là đáng tiếc!
  • Thứ nhất: ta sẽ siêu Phật vượt Tổ, Tịnh độ đâu đáng để vãng sinh.
  • Thứ hai: nơi nơi đều là Tịnh độ, chẳng cần sinh về Tây Phương.
  • Thứ ba: Cực Lạc là cõi Thánh, bọn ta là kẻ phàm đâu thể sinh về đó được.
Nói về biển hạnh thì vô lượng, nhưng Bồ tát Phổ Hiền lại nguyện thấy Phật Di Đà. Cõi Phật tuy rỗng không mà ngài Duy Ma thường tu Tịnh độ. Như Lai khắp mười phương có lời khen ngợi bằng tướng lưỡi rộng dài. Bồ tát trong mười phương có tâm cùng vãng sinh Cực Lạc. Tự mình nên thử lường xét xem ai bằng với các bậc Thánh, mà bảo rằng Tịnh độ không đáng để sinh về. Tại sao lại tự lừa dối mình như thế?

Đến như Tổ sư Long Thọ trong kinh Lăng Già có lời thọ ký từ trước. Bồ tát Thế Thân là bậc Giáo Tông, viết nhiều luận sớ, còn có bài kệ cầu vãng sinh. Trong Thông Tán của ngài Từ Ân, đầu tiên khen ngợi mười điều thù thắng. Đại sư Trí Giả phân tích nghĩa lý, biện biệt rõ mười mối nghi ngờ. Các Ngài đều là bậc thượng triết mà còn tinh tấn đối với sự vãng sinh. Tại sao lại nói chẳng cần sinh về Tây Phương, tự ngạo mạn đến thế?

Xe lửa trong chốn địa ngục có thể tắt; thuyền chở đá nặng vẫn không chìm. Hiện hoa báo không ai hơn Trương Chung Quỳ, chỉ mười niệm được vượt lên cõi thù thắng. Vào địa ngục không ai nhanh hơn sư Hùng Tuấn, mà được sống lại rồi tu hành chứng được nhân vi diệu. Lỗi lầm của người đời chưa hẳn đến thế, mà nói rằng không thể vãng sinh. Tại sao lại tự vứt bỏ mình?

Kinh Ban Chu Tam muội nói: "Bồ tát Bạt Đà Hòa hỏi đức Phật: chúng sinh đời vị lai làm sao được thấy chư Phật ở mười phương? Đức Phật dạy họ niệm Phật A Di Đà thì liền thấy chư Phật trong mười phương".

Trong kinh Bảo Tích nói: "Chúng sinh ở phương khác nghe về danh hiệu của Như Lai Vô Lượng Thọ, cho đến phát một ý niệm tin tưởng thanh tịnh, hoan hỷ ưa thích, có bao nhiêu căn lành hồi hướng nguyện sinh về cõi kia, theo nguyện đều vãng sinh, được Bất thối chuyển".

Đây chính là lời Phật nói. Không tin lời Phật thì lời ai đáng tin? Không sinh về Tịnh Độ thì sinh về cõi nào? Như thế, là tự lừa dối, tự ngạo mạn, tự vứt bỏ tánh linh của chính mình, trôi vào trong vòng luân hồi sinh tử. Đó là lỗi của ai?

Bốn mươi tám nguyện đều vì cứu độ chúng sinh, mười sáu pháp quán đồng về chỗ buộc niệm. Một niệm tin tưởng ắt đã gieo giống trong ao báo; vun bồi các điều lành nhất định hóa sinh nơi kim địa.

Nếu như không có hối tiếc và nghi ngờ, tức thời sen nở được đạo giải thoát Tịnh Độ duy tâm, Di Đà tự tánh. Trong ánh sáng rộng lớn quyết không có ma sự.

Tịnh Độ Quyết Nghi Tập là do Thị Lang Vương Mẫn Trọng soạn, giải thích nghi ngờ, làm lối tắt dẫn đến lòng tin vững chắc. Yếu chỉ được ghi chép trong đây rất tường tận. Đó là lời dẫn đường đến cõi nước An Dưỡng. Nếu lên đến bờ kia, cố nhiên có thể quên thuyền, người muốn đến thì cần phải hỏi bến bờ. Chớ nên xem thường lời này!


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.2 khách