LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì pháp môn niệm Phật.

Điều hành viên: binh, battinh

Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

ltbg.jpg
ltbg.jpg (128.49 KiB) Đã xem 1938 lần
biatrong.jpg
biatrong.jpg (98.02 KiB) Đã xem 1938 lần
LIÊN TÔNG BẢO GIÁM
Đại Sư Ưu Đàm
Thích Minh Thành, dịch
Nhà xuất bản Phương Đông

LỜI NGỎ

Chúng sinh vốn sẵn đủ trí tuệ, đức tướng của Như Lai, nhưng vì mê lầm lãng quên tánh biết sáng suốt nơi chính mình, chạy theo vọng tưởng trần lao, gây tạo các thứ nghiệp nên luân hồi trong sáu nẻo. Làm nghiệp lành thì sinh nơi cõi A tu la, Người, Trời; gây nghiệp ác thì đọa vào Súc sinh, Ngạ quỷ, Địa ngục. Rốt cuộc, chỉ là khổ thôi!

Đức Phật từ bi vô hạn, xuất hiện nơi đời, chỉ dạy vô lượng pháp môn để cứu thoát chúng sinh đang chìm đắm trong biển khổ sinh tử mênh mông, đặt để lên bến bờ Niết bàn an vui giải thoát.

Pháp môn tuy nhiều nhưng tìm một pháp ổn thỏa, thẳng tắt, thích hợp mọi căn cơ thì không gì hơn niệm Phật. Trên từ hàng Bồ tát Đẳng giác, dưới đến kẻ phàm phu dẫy đầy phiền não, đều tin tưởng hướng về. Pháp tu này, người trí quyết tâm niệm Phật hiện đời vào sâu Tam muội, kẻ ngu chỉ cần mười niệm thành công về nơi chín phẩm.

Thế nên, bao đời chư vị Tổ sư, Cao tăng, Đại đức, trước tác soạn thuật, hoằng dương Tịnh Độ, sách luận rất nhiều, nhằm để nối tiếp tâm nguyện Phật, dẫn dắt muôn loài đồng về cõi Tịnh. Trong đó, quyển Liên Tông Bảo Giám do Đại sư Ưu Đàm soạn thuật được xem là chiếc thuyền lớn của việc xiển dương Tịnh nghiệp.

Sách này là chiếc gương quý báu soi sáng cho người niệm Phật, khiến ai nấy đều thấu rõ đường lối tu hành, nhận chân được giá trị lớn lao của pháp môn Tịnh Độ, phá tan mê lầm, bỏ tà về chánh, chống đỡ ngôi nhà Phật pháp trong lúc nguy nan, xua tan mây mù u ám, để mặt trời trí tuệ Phật soi sáng muôn nơi, chúng sinh đều thấm nhuần mưa pháp.

Tôi lúc mới vào đạo, đã xem qua Mấy Điệu Sen Thanh do Hòa Thượng Thiền Tâm phiên dịch nên biết được đại khái phần nào giá trị của bộ Liên Tông Bảo Giám. Vả lại, nhận thấy tài liệu về Tịnh Độ ở Việt Nam chưa nhiều, nơi lòng ấp ủ tâm nguyện mong muốn góp sức vào việc phiên dịch để phổ biến. Vào năm 2002, nhân lúc an cư tại trường Hạ chùa Bửu Liên (Quận Bình Thạnh), tôi gặp thầy Minh Thành, được biết thầy thông thạo về Hán cổ nên mong thầy phát tâm chuyển ngữ những bộ sách Tịnh Độ trong Hán tạng sang Việt văn. Từ đó, các huynh đệ đồng lòng góp sức, những dịch phẩm lần lượt ra đời. Đến khi có được trong tay bộ Liên Tông Bảo Giám bằng chữ Hán, chúng tôi quyết tâm phiên dịch sang tiếng Việt nhằm đem lại lợi ích rộng sâu cho người tu Tịnh nghiệp. Thời gian trải qua ba năm, lúc hoàn thành, tôi cầm bản thảo xem đi xem lại năm bảy lượt, nơi lòng dâng tràn niềm cảm xúc sâu xa khi đọc đến đoạn: "Đời vua Nguyên Thành Tông, xuất hiện nhóm người mạo danh Liên tông, làm điều tà vạy, bẻ cong chánh pháp, gây loạn trong nước. Triều đình ban chiếu chỉ nghiêm cấm Liên tông hoằng hóa. Đại sư Ưu Đàm đem hết tâm tư soạn thuật mười quyển Liên Tông Bảo Giám, kính cẩn tự phát tâm lập nguyện, y theo số chữ trong ấy, mỗi chữ lạy ba lạy, mỗi lạy tụng tâm chú Lăng Nghiêm một lần, xưng tôn hiệu Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát ba lần. Ngài tha thiết mong chư Phật xót thương gia hộ, khiến cho tà ma ngoại đạo quy y, chân thừa được lưu bố rộng rãi. Sau đó, Ngài đích thân lên kinh đô, vượt đường xa ngàn dặm, không ngại gian khổ, đem sách này dâng lên Hoàng đế. Nhà vua xem xong khen ngợi, bãi bỏ lệnh cũ, cho phép in ấn lưu hành rộng rãi".

Thật tôn kính biết bao! Đại sư Ưu Đàm ý chí ngất trời, dùng mắt tuệ viết nên sách này, tâm thành cùng cực, vì pháp quên cả thân mạng, quyền uy không khiếp phục, dốc sức mở bày chánh pháp, dẫn dắt mọi người đồng về nẻo giác. Với tâm này, nên Sư mới đạt thành chí nguyện như thế!

Chúng tôi chỉ mong những ai có duyên đọc qua, hoặc thấy hoặc nghe, bao người tu tập pháp môn Tịnh Độ đều là bạn sen thân thiết với chúng tôi, cùng nhau quyết tâm tu hành, dốc sức niệm Phật không thối chuyển, để đền đáp phần nào công ơn sâu nặng của Phật, Tổ.

Dịch phẩm hoàn thành dưới sự chứng minh của Hòa Thượng thượng Trí hạ Tịnh (viện chủ chùa Vạn Đức), sự tận tâm giúp đỡ của Đại Đức Thích Chân Tính (Trụ trì chùa Hoằng Pháp) cùng chư pháp hữu Đại Đức Tâm Huệ, Phật tử Tâm Hoa, Hoằng Trạng... biết bao tấm lòng vì sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh nên công việc sớm được thành tựu.

Trong khi phiên dịch, không sao tránh khỏi sai lầm sơ thất, mong chư tôn đức niệm tình chỉ dạy cho. Thành kính tri ân vô lượng!
  • Chùa Huệ Viễn, 14/10/2008
    Thích Pháp Đăng kính ghi


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

ĐẠI SƯ ƯU ĐÀM (? – 1330)

Đại sư Ưu Đàm, người đời Nguyên, họ Tưởng, quê ở Đơn Dương, gia thế thường thờ Phật. Mười lăm tuổi, Ngài xuất gia nơi chùa Đông Lâm ở Lô Sơn, tỉnh Giang Tây. Về sau, được mời trụ trì chùa Diệu Quả tại Đơn Dương.

Năm đầu thời Nam Tống (1127), ngài Từ Chiếu sùng mộ di phong Bạch Liên Xã(1) của Tổ Huệ Viễn, nên đề xướng thành lập một đoàn thể chuyên tu niệm Phật cho những người dân thường, gọi tên Bạch Liên Tông(2) (tên gọi khác của Tịnh Độ Tông). Nhưng vì đệ tử Ngài là Xà Lê Tiểu Mao bóp méo giáo lý, khiến cho cuối đời Tống, tông này bị cho là tà đạo.

Đến đời Nguyên, lại có một hội tên Bạch Liên do Đỗ Vạn Nhất ở huyện Đô Ấp, tỉnh Giang Nam thành lập, bị triều đình xem là loạn tặc nên đàn áp, đồng thời ngăn cấm không cho gọi tên Bạch Liên Hội và tất cả việc tà đạo làm rối loạn nước nhà. Đứng trước tình thế này, năm đầu niên hiệu Đại Đức (1305), đời vua Nguyên Thành Tông, Đại sư Ưu Đàm đem hết tâm tư soạn thuật mười quyển Liên Tông Bảo Giám, làm rõ giáo nghĩa chân thật của Liên tông do ngài Từ Chiếu đề xướng, đồng thời phá dẹp tà thuyết, tà hạnh của Bạch Liên Hội đương thời.

Năm đầu niên hiệu Chí Đại (1308), do Bạch Liên Đạo Nhân thuộc Bạch Liên Đường ở tỉnh Phước Kiến làm việc sai quấy, vua lại xuống chiếu bãi bỏ Liên tông. Đại sư Ưu Đàm đích thân đến kinh đô dâng sách này lên Hoàng Đế Nhân Tôn, cầu xin phục hưng giáo pháp Tịnh Độ. Vua xem xong bèn chuẩn y và cho phép in ấn lưu hành, dạy Ngài làm giáo chủ, ban cho hiệu Hổ Khê Tôn Giả.

Năm đầu niên hiệu Thuận Hóa (1330), Đại sư an tường ngồi niệm Phật vãng sinh.
  • Theo Mấy điệu Sen Thanh,
    Phật Quang Đại Từ Điển
  • CHÚ THÍCH:
(1) Bạch Liên Xã: nói đủ là Bạch Liên Hoa Xã, gọi tắt là Liên Xã, là đoàn thể niệm Phật do ngài Huệ Viễn đời Đông Tấn sáng lập, nay trở thành tên gọi chung cho các đoàn thể thuộc loại này. Năm Thái Nguyên thứ 9 (384), ngài Huệ Viễn đến Lô Sơn, ở chùa Đông Lâm tại Hổ Khê, tăng tục từ bốn phương quy tụ về đây cầu đạo. Niên hiệu Nguyên Hưng năm đầu (402), vào tháng bảy, Huệ Vĩnh, Huệ Trì, Đạo Sinh, Lưu Di Dân, Tôn Bính, Lôi Thứ Tông v.v... gồm 123 người, tụ họp lại tại chùa Đông Lâm, trước tượng Phật Vô Lượng Thọ trên đài Bát Nhã, kiến trai lập thệ, chuyên tu niệm Phật Tam Muội, nguyện cầu vãng sinh Tây Phương. Vì trong ao chùa trồng nhiều sen trắng, lại cũng vì đoàn thể nguyện cầu sinh cõi sen trắng, cho nên gọi là Bạch Liên Xã. Về sau, người đến theo tu mỗi ngày một nhiều, mở đầu sự hưng thịnh của Tịnh Độ giáo, đặc biệt được thịnh hành vào cuối đời Đường, đầu đời Tống. Mỗi khi kết hợp những người cùng chí hướng để dựng đạo tràng Tịnh độ, chuyên tu Tịnh nghiệp, thì lại lấy ngài Huệ Viễn làm vị thỉ tổ của Liên Xã, lấy kinh Ban Chu Tam Muội làm tư tưởng chủ yếu cho Liên Xã niệm Phật, lấy việc thấy Phật vãng sinh làm mục đích. Niên hiệu Chí Đại năm đầu (1308) đời Nguyên, Liên Xã bị cấm. Thời ấy, Ưu Đàm Phổ Độ (?-1330) ở chùa Đông Lâm, dâng mười quyển Lô Sơn Liên Tông Bảo Giám xiển minh ý chỉ của Liên tông, bèn được giải tỏa, đồng thời, chịu mệnh vua, Ưu Đàm làm giáo chủ. Về sau, trải qua các đời Minh, Thanh đến nay, vẫn còn có những người kết đoàn niệm Phật.

(2) Bạch Liên Tông: một phái thuộc tông Tịnh độ của Phật giáo Trung Quốc, do Mao Tử Nguyên sáng lập vào đầu năm Thiệu Hưng đời Cao Tông triều Nam Tống. Tử Nguyên còn gọi là Từ Chiếu Tử Nguyên, lúc đầu thờ ngài Tịnh Phạm ở chùa Diên Tường, Ngô Quận làm thầy, học giáo nghĩa Thiên Thai, tập thiền pháp chỉ quán. Nhân hâm mộ di phong lập Bạch Liên Xã của ngài Huệ Viễn đời Đông Tấn nên khuyên nhủ sĩ dân quy y Tam Bảo, giữ năm giới, niệm Phật A Di Đà năm tiếng để chứng năm giới, biên thành Liên Tông Thần Triêu Sám Nghi (nghi thức sám hối buổi sớm mai), thay cho pháp giới chúng sinh lễ Phật sám hối, cầu nguyện chúng sinh vãnh sinh Tịnh Độ. Sau đến Hồ Điển Sơn ở Bình Giang (nay ở phía Tây huyện Thanh Phố, tỉnh Giang Tô, phía Nam huyện Côn Sơn) sáng lập Bạch Liên Sám Đường, tự xưng là Bạch Liên Đạo Sư, tu Tịnh nghiệp, soạn Viên Dung Tứ Độ Tam Quán Tuyển Phật Đồ, đề xướng nghĩa mới bèn thành lập một phái. Thời đó, có người chê bai cho là Sư thờ ma, Sư mới dời đến Châu Giang (huyện Cửu Giang, tỉnh Giang Tây), song vẫn khuyến hóa xa gần, không hề mệt mỏi. Năm Kiến Đạo thứ hai (1166) đời Hiếu Tông nhà Nam Tống, Sư vân mệnh vua, vào điện Đức Thọ diễn thuyết về pháp môn Tịnh Độ, được ban hiệu là từ Chiếu Tông Chủ. Không bao lâu, Sư lại về Bình Giang, lấy Phổ Giác Diệu Đạo làm nên tông, chủ trương Thiền Tịnh nhất trí, Di Đà tức là bản tánh của chúng sinh, Tịnh Độ tức ở trong tâm chúng sinh, chỉ cần Tín, Nguyện niệm Phật thì dù chẳng dứt được phiền não, chưa bỏ duyên đời, không tu thiền định, sau khi mệnh chung cũng có thể được vãng sinh Tịnh Độ. Trước tác có: Di Đà Tiết Yếu, Pháp Hoa Bách Tâm, Kệ Ca Tứ Cú, Phật Niệm Ngũ Thanh, Chứng Đạo Ca, Phong Nguyệt Tập... một thời tông phong đại thịnh.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

LỜI TỰA

Trong pháp giới tánh chân thật, chúng sinh và chư Phật bình đẳng, không đồng không khác. Nơi tâm sáng suốt nhiệm mầu, ô nhiễm và thanh tịnh dung nhau, chẳng phải một, chẳng phải hai. Thế nên, mỗi hạt bụi đều là Tịnh Độ, phương khác và cõi này đồng là thế giới Cực Lạc; mỗi niệm đều là Di Đà, bò, bay, máy, cựa đồng là Pháp thân chư Phật. Nhưng vì tình cảm phát sinh nên trí tuệ bị ngăn cách, tư tưởng vừa biến hiện thì bản thể đã sai khác. Tâm theo sự dời đổi sinh trụ dị diệt, nên cảnh có cao thấp, hầm hố, gò nổng. Thế nên, cõi nước thanh tịnh hay thế giới cấu uế, đau khổ và an vui có khác biệt. Chúng sinh và chư Phật, phàm Thánh không đồng, nên dẫn đến sáu nẻo mịt mù, trôi lăn trong chín cõi. Bốn loài lũ lượt thăng trầm nơi ba đường, từ mê vào mê, từ khổ đến khổ, trải qua số kiếp nhiều như cát bụi cũng không có ngày giải thoát.

Do vậy, đức Phật mở môn phương tiện dạy về Niệm Phật Tam Muội, chỉ rõ Tịnh Độ làm nơi trở về. Bảo rằng Niệm Phật Tam Muội(3), Phật nghĩa là bậc Giác ngộ. Tự mình giác ngộ, lại giác ngộ cho người, thực hành hạnh giác ngộ viên mãn, nên gọi là Phật, ví như người ngủ tỉnh giấc, như hoa sen nở.

Vì muốn cho chúng sinh tự soi sáng lại mình, được tịnh niệm tiếp nối, lâu ngày thuần thục dứt trừ hết mọi mê lầm và nghiệp chướng. Một niệm không sinh thì đoạn dứt mé trước sau. Tỏ ngộ tánh giác này, thì bên trong không có tâm hay niệm, bên ngoài không có cảnh được niệm; năng sở đều quên, chúng sinh với Phật không hai, cho nên gọi là niệm Phật.

Tiếng Phạn Tam Muội, nghĩa là chánh định, là nhớ chuyên, tưởng lặng, thần trí sáng suốt nhiệm mầu.

Trong kinh nói: "Nếu có người niệm Phật, nên biết đó là hoa sen trắng trong loài người". Tổ sư Huệ Viễn thời Đông Tấn, nhân nghe Pháp sư Đạo An giảng kinh Bát Nhã mà hoát nhiên đại ngộ, vào trong vô lượng Tam Muội thâm sâu. Ngài đến Lô Sơn dạo cảnh và về sau ở lại đó, cùng với các cao tăng, triều sĩ kết duyên tu hành. Ngài từng nói: "Những tên gọi của Tam Muội trong giáo pháp có rất nhiều, nhưng công đức cao dễ tiến tu, niệm Phật đứng đầu". Nhân đó, đặt tên cho xã là Bạch Liên. Ngài Huệ Viễn bèn trước tác lời tựa của quyển Niệm Phật Tam Muội. Đây vốn là để xiển dương nghĩa lý này.

Đại sư Trí Giả ở Thiên Thai phân định giáo pháp, bảo rằng: "Kinh Quán Vô Lượng Thọ là giáo lý chân thật sau cùng của Đại thừa, dùng ba pháp quán lóng lặng tâm tư". Đây vốn là để hiển bày yếu chỉ của niệm Phật.

Tôn giả Pháp Chiếu lễ Bồ tát Văn Thù cầu chỉ dạy, vốn là để chỉ dạy pháp này.

Thiền sư Tỉnh Thường kết duyên tịnh hạnh. Tể tướng, công khanh quy hướng cùng tu hành, vốn là tu về đạo này.

Thiền sư Trường Lô Sách kết Liên Hoa Thắng Hội, cảm ứng hai vị Bồ tát Phổ Hiền và Phổ Tuệ vào hội. Đây vốn là để chứng minh đạo này.

Tông chủ Từ Chiếu do sức bản nguyện thị hiện nơi thế gian, phát tâm hóa độ rộng lớn, dẫn chúng sinh từ nơi quyền biến đi đến chỗ chân thật, tùy cơ giáo hóa. Đây vốn là muốn khiến cho các hạng căn cơ bén nhạy và chậm lụt đều tỏ ngộ đạo này. Ngài biên tập Bạch Liên Sám, mở ra họa đồ bốn cõi, lấy Tín, Nguyện, Hạnh làm tư lương, lấy Giới, Định, Tuệ làm chính yếu. Đây vốn là để thiết lập Chánh tông của pháp niệm Phật này.

Vua Tống Cao Tông đích thân đề xướng hai chữ Liên Xã. Đây vốn là tôn sùng pháp môn này.

Thiền sư Viên Ứng Nhật ở Đông Nham Thiền Tự được Hoàng Đế ban Thánh chỉ: "Trụ trì đạo tràng, sửa sang chùa chiền, biên tập truyện của các bậc Hiền, noi theo gương xưa chấn chỉnh lại giềng mối, bắc chiếc cầu đại pháp, gọi là Tông Viễn (noi theo Tổ sư Huệ Viễn), khai mở đạo Tổ". Mười tám năm ngoài việc đề xướng kinh pháp thiền, Ngài thường lấy pháp Niệm Phật Tam Muội chỉ dạy Người, Trời. Đến mùa thu, năm Nhâm Thìn (1292), niên hiệu Chí Nguyên đời Nguyên, nhận lời mời của Quảng Lợi Thiền Tự ở núi Dục Vương, phủ Khánh Nguyên, nhường đạo tràng Khai Tiên lại cho Thiền sư Duyệt Đường Ngân tiếp nối trụ trì.

Tháng giêng năm đầu niên hiệu Nguyên Trinh, lại có Thánh chỉ ra lệnh hộ trì giáo pháp ở Liên Tông Thiện Pháp Đường. Tháng giêng năm thứ hai (1295), niên hiệu Nguyên Trinh (1295) đời Nguyên, được nhà vua ban hiệu là Đại sư Thông Tuệ Chánh Tông Liên Xã, lại còn được ban tặng ca sa kim tuyến. Vào tháng mười, năm thứ năm, niên hiệu Đại Đức (1301) đời Nguyên, khâm phụng Thánh triều. Nhà vua ban ngự hương, phan vàng đến chùa.

Từ đời Tấn đến nay gần một ngàn năm, cảm ân đức này, phương xa cõi khác, hoặc hiền hoặc ngu đều theo sự giáo hóa, mọi người đồng lòng niệm Phật.

Ngưỡng chúc Hoàng Đế thánh thọ vạn an, thiên hạ thái bình, pháp luân thường chuyển, đất nước an lạc tợ thời vua Nghiêu, vua Thuấn. Ngay nơi cõi này trở thành thế giới Cực Lạc.

Ưu Đàm này lạm dự vào dòng họ Thích, mà không lợi ích cho Phật pháp. Từng thấy những người tu học theo Liên tông(4), nhưng chưa am tường tông chỉ của pháp niệm Phật, bỏ gốc theo ngọn, chấp tướng tu hành. Chánh nhân Tịnh nghiệp dường như mất hết, đều là những người ôm báu vật quên mất cố hương, trái với chân thật, hướng theo giả dối. Những người tu theo pháp này rất nhiều, người đủ chánh kiến chẳng có mấy ai, đến nỗi khiến cho những kẻ thượng mạn xem thường đạo Phật.

Thật đáng buồn thay! Cách xưa đã xa, người tu trong giáo pháp lâu dần sinh tệ. Chánh đạo càng suy yếu, tà pháp ngày thêm mạnh mẽ. Mọi người phần nhiều hiểu biết sai lầm, đi vào đường tà. Họ chẳng suy xét một môn Tịnh độ chính là đường tắt ra khỏi luân hồi. Pháp môn này thẳng như dây đàn, sáng tợ vầng nhật. Yếu chỉ ở nơi kinh sám, nếu không gặp minh sư chỉ dạy thì giống như đám người mù rờ voi. Ai nấy đều nói sai khác, từ tối vào nơi tối, mãi bị tà kiến ràng buộc. Thật đáng tiếc thay!

Hôm nay, may mắn gặp được nhà vua có tâm Phật, dùng chánh pháp sửa trị đời. Kịp lúc vua tôi gặp gỡ, Phật pháp được lưu thông. Đâu không dùng pháp môn Niệm Phật Tam muội của Tổ sư chỉ bảo Người, Trời, làm mắt sáng cho tương lai, khiến cho mọi người đồng ngộ nhập Tri kiến Phật. Tôi bèn chuyên tâm nơi Tịnh Độ, tìm xét chỗ xâu xa của giáo nghĩa Liên tông thuở trước, biên tập những lời thiết yếu gọi là Bảo Giám (chiếc gương quý báu), để soi sáng chân ngụy, gồm mười thiên:
  1. Chánh nhân niệm Phật: nghĩa là vào nhà ắt từ nơi cánh cửa.
  2. Chánh giáo: chỉ bảo pháp môn niệm Phật có tiệm, thiên, đốn, viên, khiến người tiến tu tùy theo căn cơ về nơi chí đạo.
  3. Chánh tông: khai thị về đạo lý chánh tâm Niệm Phật Tam muội, khiến cho người tu tập hiểu rõ tông chỉ, thấu suốt cội gốc.
  4. Chánh phái: vốn nói rõ chỗ gốc ngọn đắc đạo của Phật Tổ cùng các bậc tông sư, muốn giúp cho hàng hậu học biết có cội nguồn.
  5. Chánh tín.
  6. Chánh hạnh.
  7. Chánh nguyện: khiến cho mọi người tin chánh pháp, tu chánh hạnh, phát chánh nguyện cầu sinh về Tây Phương.
  8. Chánh quyết vãng sinh: vốn nói rõ con đường vãng sinh Tịnh độ lúc lâm chung.
  9. Chánh báo: trình bày rõ công đức trang nghiêm của Y báo, Chánh báo nơi Tịnh độ do tu hành đạt được.
  10. Chánh luận: dẫn những lời chân thành của chư Phật để phá dẹp sự chấp trước sai lầm tà vạy, khiến cho mọi người sửa ác làm lành.
Ở đây chẳng dám nói hỗ trợ tông phong, chỉ là giúp ích cho người chưa nghe mà thôi. Mong muốn người có tâm cong vạy trở nên ngay thẳng, đổi tà thành chánh, dứt trừ nghi ngờ, người mê được ngộ. Mọi người khắp trên thế gian trong một niệm đều được Niệm Phật Tam muội, cùng chứng ngộ Bồ đề. Như thế, chẳng phải là lợi ích rộng lớn lắm sao!

Xin người tu Tịnh nghiệp mở lòng từ bi xem thử một lần, thấy nghe tùy hỉ, tán thán phụ giúp lưu thông. Còn như một câu: "Khi Phật Tổ chưa ra đời" thì xin để mắt nhìn cao hơn!
    • Ngày Phật Di Đà đản sinh.
      Năm Ất Tỵ, niên hiệu Đại Đức thứ 9 (1305), ở Liên Tông Thiện Pháp Đường,
      Đông Lâm Thiền Tự tại Lô Sơn, Giang Châu
      Ưu Đàm kính ghi
    CHÚ THÍCH:
(3) Niệm Phật Tam Muội: Tam muội quán niệm đức của Phật hoặc xưng danh hiệu Phật, tức là loại thiền định lấy niệm Phật làm nội dung quán tưởng.

Niệm Phật Tam Muội được chia làm hai loại:
  • a. Nhân hành niệm Phật Tam Muội: Nhất tâm quán tưởng tướng hảo của Phật, hoặc nhất tâm quán tưởng thật tướng của pháp thân Phật, cả hai đều là quán tưởng niệm Phật. Trái lại, nhất tâm xưng niệm danh hiệu của Phật, thì gọi là xưng danh niệm Phật.

    b. Quả thành niệm Phật Tam Muội: Ba loại nhân hành nói trên được thành tựu, như trong thiền định được thấy thân Phật hiện tiền. Nhân hành niệm Phật Tam Muội là "tu", quả thành niệm Phật Tam Muội là "phát được".
(4) Liên tông: cũng gọi là Liên môn, tức là tông Tịnh Độ. Tông này bắt nguồn từ Bạch Liên Xã (hội sen trắng) do ngài Huệ Viễn sáng lập ở chùa Đông Lâm, Lô Sơn, Trung Quốc.

Bài tựa trong Liên Tông Bảo Giám của ngài Ưu Đàm Phổ Độ nói: "Tổ Huệ Viễn đời Đông Tấn đến Lô Sơn, kết duyên tu hành cùng với các vị cao tăng và danh sĩ triều đình. Ngài nói rằng có rất nhiều tên của Tam Muội trong các pháp môn, nhưng công hạnh cao mà dễ tiến thì chỉ có pháp môn niệm Phật là đứng đầu, vì thế, Ngài lập ra Bạch Liên Xã, chuyên niệm Phật cầu vãng sinh".

Hoa sen tượng trưng cho y báu của cõi Cực Lạc Tịnh độ, vì thế, tông Tịnh độ cũng còn có tên là Liên tông.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

LIÊN TÔNG BẢO GIÁM
QUYỂN MỘT

THIÊN THỨ NHẤT
CHÁNH NHÂN NIỆM PHẬT

Từng nghe: trong hằng hà sa số các đức Như Lai, thì Di Đà là bậc nhất. Mười phương vi trần cõi Phật, thế giới Cực Lạc chính là chốn trở về. Lý cùng tột vốn chỉ nơi tâm, nhưng môn ban đầu phải từ nơi nhân địa. Nên biết, cội cây to lớn phát sinh từ mầm chồi nhỏ bé, hành trình ngàn dặm bắt đầu từ một bước ban sơ. Nếu muốn vượt qua sinh tử, nên lấy Tịnh Độ làm phương hướng trở về; muốn chứng Niết bàn, phải lấy niệm Phật làm trọng yếu để tâm trở nên chân chánh. Xét kỹ thì tin sâu Cực Lạc thật là cánh cửa nhiệm mầu của sự giải thoát, Phật Di Đà thật là bậc cha lành của chúng sinh. Trước nói rõ về chỗ cứu cánh nên nhìn về quả để tu nhân; đi dần trên con đường diệu huyền là từ nhân đến qua. Thế nên biết, việc hội tụ các bậc Hiền để kết Liên Xã là có ý chỉ. Chuyên niệm Phật để khuyên người cốt làm hưng thịnh giáo pháp. Nhân trùm biển quả, quả suốt nguồn nhân; hình thẳng tất bóng ngay, âm thanh hòa tự nhiên tiếng vang thuận.

Bồ tát Thế Chí trình bày chỗ cốt yếu của sự chứng ngộ Viên thông. Đức Thế Tôn thì nói về nhân tu Tịnh nghiệp từ nơi nghe, tư duy, tu tập mà vào chánh định; nhờ nơi lòng tin, thực hành, phát nguyện mà vào cửa pháp giới. Do đó, một niệm hưng khởi muôn loài đều biết, lòng tin phát sinh thì chư Phật hiện tiền. Vừa xưng Hồng Danh, tức đã gieo giống nơi thai sen; mới phát tâm Bồ đề, liền nêu danh nơi Kim địa. Có duyên gặp gỡ, nên tự ngộ tự tu, còn như tin cạn chẳng thọ trì thì thật là sai lầm rất lớn! Thế nên nói, cùng tột của Nhất thừa là đạt đến Lạc bang; tu vạn hạnh vẹn toàn, chỉ có xưng niệm Phật hiệu là hơn hết. Nghiệp nặng nề trong tám mươi ức kiếp, rỗng thênh tan thành mây khói; phương trời xa xăm cả mười muôn ức cõi, trong khoảng chớp mắt đến ngay. Tưởng niệm chuyên chú, ngay nơi tâm quán tưởng thấy thân Phật, tâm cảnh dung thông, ngay nơi nhân thành tựu quả thù thắng.

Cõi Tịnh Uế trong mười phương, mở ra và cuốn lại đồng ở nơi đầu sợi lông. Một tánh bao dung mênh mông trùm khắp cả pháp giới. Thế nên, chư Phật và chúng sinh thông suốt lẫn nhau; Tịnh Độ và Uế Độ thầm dung hội, kia đây đều tu, Sự Lý vô ngại. Giống như thần châu hàm chứa mọi báu vật, giống như mạng lưới của Đế Thích phản chiếu qua lại muôn ngàn tia sáng. Tâm ta đã vậy, tâm chúng sinh cùng chư Phật cũng thế.

Nên biết, thần thức dạo nơi muôn ức cõi nước, nhưng thật ra sinh trong tâm của chính mình; tuy gởi chất nơi chín phẩm sen, mà đâu ra khỏi sát na khoảnh khắc. Do đó, bậc hiền Nhị thừa vừa xoay tâm trở lại, được đến Liên trì; phàm phu tạo tội Ngũ nghịch(5), chỉ trong mười niệm liền lên Bảo địa.

Than ôi! Chúng sinh tâm thức mờ mịt, nghiệp chướng nặng nề, tin ít nghi nhiều, chê Tịnh nghiệp là Quyền thừa, cười trì tụng là thô hạnh. Như thế, há chẳng phải là tham đắm trong nhà lửa, tự cam chịu muôn kiếp đắm chìm trong mê muội, trái nghịch Từ thân. Thật đau đớn xót xa, cả đời trôi suông vô ích!

Cần phải tin, nếu chẳng nhờ vào tha lực thì không sao dứt trừ nghiệp chướng mê lầm, không gặp tông này thì chẳng có đường vượt ra sinh tử. Thệ nguyện đồng như chư Phật, noi theo các bậc tiền nhân, khuyến tấn người sau, tôn sùng quý kính đạo này. Đã phát nguyện, nay phát nguyện, sẽ phát nguyện, mỗi việc như thế đều hướng về đức Phật A Di Đà. Hoặc sinh, nay sinh, hay đang sinh, trong từng niệm như thế đều quy hướng về nơi Tịnh Độ. Nếu muốn một đời xong việc thì hãy lưu tâm ở nơi đây. Trong tất cả thời, nghìn xe hợp lối; nơi bốn oai nghi, muôn việc lành đồng về, đều lên cánh cửa nhiệm mầu Cực Lạc, nhanh chóng thành tựu Niệm Phật Tam muội.
  • Một bước ban đầu cần tỏ rõ
    Đến thẳng Tây Phương không đường khác.


    CHÚ THÍCH:
(5) Ngũ nghịch: Cũng gọi là ngũ nghịch tội, chỉ cho năm tội cực ác trái với đạo lý.

Theo thuyết của Tiểu thừa thì năm tội nghịch là:
  • a. Hại mẹ: cũng gọi là giết mẹ.
    b. Hại cha: cũng gọi là giết cha.
    c. Hại A la hán: cũng gọi là giết A la hán.
    d. Ác tâm làm thân Phật ra máu cũng gọi là làm thân Phật ra máu.
    e. Phá Tăng cũng gọi là phá hòa hợp Tăng, đấu loạn Tăng chúng.
Trong năm tội trên đây, hai tội trước bỏ ruộng ân nghĩa, ba tội sau hủy hoại ruộng đức, vì thế gọi là năm tội nghịch, năm tội nặng. Vì hành vi của năm tội là nguyên nhân làm cho người vi phạm phải rơi vào địa ngục vô gián, nên cũng gọi là năm nghiệp vô gián, gọi tắt là năm vô gián, hoặc năm tội không cứu được.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chương 1
NHÂN ĐỊA CỦA PHẬT A DI ĐÀ
Kinh Cổ Âm Vương nói: "Trong kiếp quá khứ, có cõi nước tên là Diệu Hỷ, vua tên Kiều Thi Ca. Ông nội là quốc vương Thanh Thái, cha là Chuyển Luân Vương Nguyệt Thượng, mẹ là Thù Thắng Diệu Nhan, sinh ra ba người con. C0on trưởng tên Minh Nguyệt, người thứ hai tên Kiều Thi Ca, người thứ ba tên Đế Chúng. Lúc ấy, có đức Phật ra đời hiệu là Thế Tự Tại Vương, Kiều Thi Ca phát đạo tâm, xả bỏ ngôi vua, theo đức Phật xuất gia, hiệu là Tỷ kheo Pháp Tạng".

Trong kinh Vô Lượng Thọ lại nói: "Tỷ kheo Pháp Tạng ở chỗ Phật Thế Tự Tại Vương phát tâm cầu đạo Vô Thượng, tất cả người trong thế gian không ai sánh bằng. Lúc ấy, đức Phật hiển bày hai trăm mười ức cõi nước của chư Phật, xứng theo tâm nguyện của Tỷ kheo Pháp Tạng. Pháp Tạng cúi đầu lễ Phật, phát bốn mươi tám nguyện rộng lớn, nếu không được như thế, thệ chẳng thành Phật. Bấy giờ, quả đất chấn động, trời mưa diệu hoa, trong hư không đồng thinh tán thán rằng: "Ngài chắc chắn sẽ thành Phật".
BỐN MƯƠI TÁM ĐẠI NGUYỆN CỦA PHẬT A DI ĐÀ
Hán dịch: Pháp sư Khương Tăng Khải
Việt dịch: Tỷ kheo Thích Trí Tịnh
1. Giả sử khi tôi được thành Phật, trong cõi nước của tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

2. Giả sử khi tôi được thành Phật, mà hàng Trời, Người trong cõi nước tôi, sau khi mạng chung còn đọa vào ba ác đạo, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

3. Giả sử khi tôi được thành Phật, tất cả thân thể của hàng Trời, Người trong cõi nước tôi, chẳng thuần sắc vàng ròng cả, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

4. Giả sử khi tôi được thành Phật, mà hình sắc của hàng Trời, Người trong cõi nước tôi có tốt xấu không đồng nhau, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

5. Giả sử khi tôi được thành Phật, hàng Trời Người trong nước tôi chẳng biết Túc mạng, ít nhất là biết những việc trong trăm nghìn ức vô số kiếp, tôi nguyện chẳng chứng lấy quả Chánh Giác.

6. Giả sử khi tôi được thành Phật, hàng Trời, Người trong cõi nước tôi chẳng được Thiên nhãn, ít nhất là thấy trăm nghìn ức vô số cõi nước của chư Phật, tôi nguyện chẳng chứng lấy quả Chánh Giác.

7. Giả sử khi tôi được thành Phật, hàng Trời, Người trong cõi nước tôi chẳng được Thiên nhĩ, ít nhất là nghe lời nói khắp của trăm ngàn ức vô số đức Phật mà chẳng thọ trì trọn vẹn được, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

8. Giả sử khi tôi được thành Phật, hàng Trời, Người trong cõi nước tôi chẳng được Tha tâm trí, ít nhất là rõ biết tâm niệm của chúng sinh trong nghìn ức vô số cõi nước của chư Phật, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

9. Giả sử khi tôi được thành Phật, hàng Trời, Người trong cõi nước tôi chẳng được Thần túc thông, trong khoảng một niệm, ít nhất chẳng vượt qua được trăm nghìn ức vô số cõi nước của chư Phật, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

10. Giả sử khi tôi được thành Phật, nếu hàng Trời, Người trong cõi nước tôi còn sinh lòng tham chấp nơi thân mình, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

11. Giả sử khi tôi được thành Phật, hàng Trời, Người trong cõi nước tôi chẳng trụ trong dòng chánh định mãi đến lúc thành Phật, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

12. Giả sử khi tôi được thành Phật, ánh sáng của tôi còn có hạn lượng, ít nhất chẳng chiếu thấu trăm nghìn ức vô số cõi nước của chư Phật, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

13. Giả sử khi tôi được thành Phật, thọ mạng của tôi còn có hạn lượng, ít nhất là trăm nghìn ức vô số kiếp, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

14. Giả sử khi tôi được thành Phật, có người tính đếm biết được số của hàng Thanh văn trong cõi nước tôi, hoặc giả nhẫn đến tất cả chúng sinh trong cõi Tam thiên Đại thiên đều thành bậc Duyên giác, cùng nhau đồng tính đếm trong trăm nghìn kiếp mà biết được số Thanh văn đó, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

15. Giả sử khi tôi được thành Phật, thọ mạng của hàng Trời, Người trong cõi nước tôi không có hạn lượng, trừ khi họ có bổn nguyện riêng, dài ngắn tự tại theo ý muốn, nếu không được vậy, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

16. Giả sử khi tôi được thành Phật, hàng Trời, Người trong cõi nước tôi nhẫn đến nghe có tên bất thiện, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

17. Giả sử khi tôi được thành Phật, các đức Phật trong vô lượng thế giới ở mười phương không đều ngợi khen xưng danh hiệu tôi, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

18. Giả sử khi tôi được thành Phật, chúng sinh ở mười phương chí tâm tín nhạo muốn sinh về cõi nước tôi, nhẫn đến trong mười niệm, nếu chẳng được vãng sinh, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác, chỉ trừ người phạm tội ngũ nghịch và chê bai chánh pháp.

19. Giả sử khi tôi được thành Phật, chúng sinh ở mười phương phát Bồ đề tâm tu các công đức, chí tâm phát nguyện muốn sinh về cõi nước tôi, đến lúc người đó mạng chung, nếu tôi chẳng cùng với đại chúng vây quanh hiện ra nơi trước người đó, tôi nguyện chẳng chứng lấy quả Chánh Giác.

20. Giả sử khi tôi được thành Phật, chúng sinh ở mười phương nghe danh hiệu của tôi, để tâm nơi nước của tôi, vun trồng cội công đức chí tâm hồi hướng muốn sinh về cõi nước của tôi, nếu không được quả toại, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

21. Giả sử khi tôi được thành Phật, hàng Trời, Người trong cõi nước tôi chẳng đều thành tựu đầy đủ 32 tướng đại nhân, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

22. Giả sử khi tôi được thành Phật, các hàng Bồ tát ở cõi Phật phương khác sinh về cõi nước tôi, rốt ráo chắc đến bậc Nhất sinh Bổ xứ, trừ những vị có bổn nguyện, muốn tự tại hóa độ, vì chúng sinh mà mặc giáp hoằng thệ, chứa nhóm cội công đức, độ thoát mọi loài, đi qua cõi nước của chư Phật tu hạnh Bồ tát, cúng dường các đức Phật Như Lai ở mười phương, khai hóa hằng sa vô lượng chúng sinh làm cho trụ vào đạo Vô thượng Chánh nhân, vượt ngoài hạnh tu tuần thứ theo địa vị của hạng tầm thường, hiện tiền tu tập đức của Phổ Hiền. Nếu chẳng được như thế, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

23. Giả sử khi tôi được thành Phật, Bồ tát trong cõi nước tôi nương thần lực của Phật mà đi cúng dường các đức Như Lai, chừng trong khoảng một bữa ăn mà chẳng có thể đến khắp vô số vô lượng ức Na do tha cõi nước của chư Phật, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

24. Giả sử khi tôi được thành Phật, Bồ tát trong cõi nước tôi, ở trước chư Phật hiện cội công đức của mình, bao nhiêu những đồ muốn dùng để cúng dường chư Phật, nếu chẳng có đúng như ý muốn đó, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

25. Giả sử khi tôi được thành Phật, Bồ tát trong cõi nước tôi không thể diễn nói Nhất thiết trí, tôi nguyện chẳng chứng lấy quả Chánh Giác.

26. Giả sử khi tôi được thành Phật, Bồ tát trong cõi nước tôi không được thân Kim Cang bền chắc, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

27. Giả sử khi tôi được thành Phật, trong cõi nước tôi những hàng Trời, Người, tất cả muôn vật đều đẹp đẽ trong sạch sáng rỡ, hình sắc lạ thường, rất nhiệm, rất mầu, không ai có thể cân lường được. Những chúng sinh kia nhẫn đến người được Thiên nhãn mà có thể biện biết rõ ràng danh số của những vật trên đó, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

28. Giả sử khi tôi được thành Phật, hàng Bồ tát trong cõi nước tôi nhẫn đến những vị công đức kém ít mà không thấy biết được Đạo Tràng Thọ cao bốn trăm muôn dặm, vô lượng màu sắc, vô lượng ánh sáng, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

29. Giả sử khi tôi được thành Phật, nếu Bồ tát trong cõi nước tôi đọc kinh pháp, phúng tụng pháp, phúng tụng thọ trì, giảng thuyết mà không được trí huệ biện tài, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

30. Giả sử khi tôi được thành Phật, trí huệ biện tài của Bồ tát trong cõi nước tôi nếu có người hạn lượng được đó, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

31. Giả sử khi tôi được thành Phật, cõi nước của tôi thanh tịnh, thảy đều soi thấy tất cả vô lượng vô số bất khả tư nghị cõi nước của chư Phật mười phương, dường như gương sáng soi thấy rõ bóng mặt, nếu không được như thế, tôi nguyện không chứng quả Chánh Giác.

32. Giả sử khi tôi được thành Phật, trong cõi nước tôi, từ mặt đất lên đến hư không, những cung điện, lầu đài, ao nước, cây hoa... Tất cả muôn vật đều do vô lượng chất báu đẹp cùng trăm nghìn thứ hương thơm hiệp chung lại làm thành, nghiêm sức tốt lạ, hơn hẳn hàng Trời. Mùi thơm của những vật ấy xông khắp cả cõi nước ở mười phương, Bồ tát nào ngửi được hơi hương ấy thời đều tu hạnh của Phật. Nếu không được như thế, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

33. Giả sử khi tôi được thành Phật, những loài chúng sinh trong vô lượng bất khả tư nghì cõi nước của chư Phật ở mười phương, được ánh sáng của tôi chiếu đến thân, thời thân tâm của chúng sinh ấy hòa dịu hơn hẳng hàng Trời, Người. Nếu không được như thế, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

34. Giả sử khi tôi được thành Phật, những loài chúng sinh trong vô lượng bất khả tư nghị cõi nước chư Phật ở mười phương nghe danh tự của tôi, mà chẳng được các món tổng trì(6) sâu mầu cùng Vô sinh Pháp nhẫn(7) của Bồ tát, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

35. Giả sử khi tôi được thành Phật, những người nữ trong vô lượng bất khả tư nghị cõi nước của chư Phật ở mười phương nghe danh tự của tôi, mà vui mừng tin mến phát Bồ đề tâm nhàm ghét thân gái, nếu sau khi mạng chung còn thọ thân gái trở lại, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

36. Giả sử khi tôi được thành Phật, hàng Bồ tát trong vô lượng bất khả tư nghị cõi nước của chư Phật ở mười phương nghe danh tự của tôi, thời sau khi mạng chung vẫn thường tu hạnh thanh tịnh đến lúc thành Phật đạo. Nếu không được như thế, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

37. Giả sử khi tôi được thành Phật, các hàng Trời, Người nhân dân trong vô lượng bất khả tư nghị cõi nước của chư Phật ở mười phương nghe danh hiệu của tôi, năm vóc gieo xuống đất, cúi đầu lễ lạy, vui mừng tin mến, tu hạnh Bồ tát thời các hàng Trời, Người đều kính trọng đó. Nếu không như thế, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

38. Giả sử khi tôi được thành Phật, hàng Trời, Người trong cõi nước tôi muốn được y phục, thời những y phục tốt đẹp đúng pháp như đức Phật ngợi khen liền tùy niệm tự nhiên hiện đến trên thân, nếu còn phải cần may, vá, đập, nhuộm... tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

39. Giả sử khi tôi được thành Phật, hàng Trời, Người trong cõi nước tôi hưởng thọ sự vui sướng không bằng bậc Lậu Tận Tỷ kheo, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

40. Giả sử khi tôi được thành Phật, Bồ tát trong cõi nước tôi, tùy ý muốn thấy vô lượng cõi Phật nghiêm tịnh ở mười phương, tức thời ở trong cây báu thảy đều soi thấy rõ ràng đúng như ý muốn chẳng khác gương sáng soi thấy bóng mặt. Nếu không như thế, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

41. Giả sử khi tôi được thành Phật, các hàng Bồ tát ở cõi nước phương khác nghe danh tự của tôi, mãi đến lúc thành Phật, nếu các căn thiếu xấu chẳng đầy đủ, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

42. Giả sử khi tôi được thành Phật, các hàng Bồ tát ở cõi nước phương khác nghe danh tự của tôi, thảy đều chứng được "Chánh định thanh tịnh giải thoát". Trụ trong chánh định đó, trong khoảng móng niệm liền cúng dường khắp vô lượng bất khả tư nghị của đức Phật Thế Tôn, mà vẫn không sao mất tâm chánh định. Nếu không như thế, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

43. Giả sử khi tôi được thành Phật, các hàng Bồ tát ở cõi nước phương khác nghe danh tự của tôi, sau khi mạng chung sinh vào nhà tôn quý. Nếu không như thế, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

44. Giả sử khi tôi được thành Phật, các hàng Bồ tát ở cõi nước phương khác nghe danh tự của tôi, vui mừng hớn hở, tu hạnh Bồtát đầy đủ cội công đức. Nếu không như thế, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

45. Giả sử khi tôi được thành Phật, hàng Bồ tát ở cõi nước phương khác nghe danh tự của tôi, thảy đều chứng được "Chánh định Phổ đẳng". Trụ trong chánh định đó, mãi đến lúc thành Phật, thường thấy tất cả vô lượng bất khả tư nghị các đức Phật. Nếu không như thế, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

46. Giả sử khi tôi được thành Phật, Bồ tát trong cõi nước tôi tùy ý muốn nghe pháp chi, thời tự nhiên liền được nghe pháp đó. Nếu không như thế, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

47. Giả sử khi tôi được thành Phật, hàng Bồ tát ở cõi nước phương khác nghe danh tự của tôi, chẳng liền được bậc Bất thối chuyển, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.

48. Giả sử khi tôi được thành Phật, hàng Bồ tát ở cõi nước phương khác nghe danh tự của tôi, mà chẳng liền chứng được bậc Âm hưởng nhẫn, Nhu thuận nhẫn và Vô sinh Pháp nhẫn, cùng ở nơi pháp của chư Phật mà chẳng liền được bậc Bất thối chuyển(8), tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
  • CHÚ THÍCH:
(6) Tổng trì: Sức niệm tuệ có khả năng thâu tóm, ghi nhớ vô lượng Phật pháp, không để quên mất.

(7) Vô sinh pháp nhẫn: Một trong ba nhẫn, nhẫn thứ tư trong năm nhẫn nói trong kinh Nhân Vương, tức quản lý không sinh không diệt của các pháp, nhận kỹ lý ấy, an trụ tâm bất động.

(8) Bất thối chuyển: Không thối chuyển, chỉ cho sự tu hành không lui sụt cho tới khi thành Phật. Còn thối chuyển là chỉ cho sự lui sụt, rơi vào đường ác hoặc Nhị thừa địa (hàng Thanh văn, Duyên giác).

Bất thối vị còn gọi là Bất thối chuyển địa. Trong giai vị Tứ thiện căn của Hữu Bộ, đến Nhẫn vị thì không còn rơi vào đường ác, được xếp vào Bất thối vị.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chương 2
NHÂN ĐỊA, BẢN NGUYỆN CỦA PHẬT THÍCH CA VÀ PHẬT A DI ĐÀ

Kinh Bi Hoa nói: "Trong kiếp thuở xưa có vua Chuyển Luân tên là Vô Tránh Niệm và vị đại thần là Bảo Hải làm thiện tri thức, cùng ở chỗ Phật Bảo Tạng phát tâm Bồ đề. Vua Vô Tránh Niệm phát nguyện rằng: "Tôi tu Đại thừa cầu lấy Tịnh độ, chung quy chẳng nguyện ở nơi Uế độ thành tựu đạo giác ngộ Chân Chánh Vô Thượng. Trong thế giới tôi, chúng sinh không có những điều khổ não, nếu tôi không được cõi Phật như thế thì chẳng thành Chánh Giác".

Nay quả đã viên mãn, thành Phật hiệu là A Di Đà, cho nên hiện bày ra cõi Tịnh Độ.

Còn đại thần Bảo Hải nguyện ở nơi Uế độ giáo hóa thuần thục mọi chúng sinh, nay quả đã viên mãn, thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni, ở trong thế giới ác trược này thành tựu quả vị giác ngộ của Phật.
CHƯƠNG 3
ĐỨC PHẬT NÓI VỀ CHÁNH NHÂN TỊNH NGHIỆP CHO THÁNH HẬU VI ĐỀ HY

Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: "Bấy giờ, bà Vi Đề Hy kêu khóc hướng về đức Phật bạch rằng:

- Bạch đức Thế Tôn! Cúi mong Ngài nói rộng những cõi nào không còn lo buồn cho con nghe, con sẽ sinh qua đó. Con không ưa thích cõi Diêm phù đề(9) ác trược này nữa!

Bấy giờ, đức Thế Tôn phóng ánh sáng giữa chặng mày, chiếu khắp vô lượng thế giới trong mười phương, các cõi nước của chư Phật đều hiện trong đó. Lúc ấy, bà Vi Đề Hy thấy rồi liền bạch Phật rằng:

- Các cõi Phật ấy tuy là thanh tịnh đều có ánh sáng, nhưng nay con chỉ ưa thích sinh về thế giới Cực Lạc, chỗ của Phật A Di Đà. Cúi mong đức Thế Tôn dạy con tư duy, dạy con chánh định!

Đức Phật bảo bà Vi Đề Hy:

- Phật A Di Đà cách đây không xa. Bà nên nghĩ nhớ suy xét kỹ, quán tưởng về cõi ấy. Nay Ta nói rộng rãi cho bà nghe, cũng để khiến cho những kẻ phàm phu đời vị lai tu tập Tịnh nghiệp được sinh về Tây Phương cõi nước Cực Lạc.

Người muốn sinh về nước ấy, nên tu ba việc phước:

  • - Một: Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, tâm từ bi không sát hại, tu mười điều lành.
    - Hai: Thọ trì Tam quy, đầy đủ các giới, không phạm oai nghi.
    - Ba: Phát tâm Bồ đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa, khuyến tấn người tu hành.
Ba việc như thế, gọi là chánh nhân của Tịnh nghiệp.

Đức Phật bảo A Nan và bà Vi Đề Hy lắng nghe:

- Các vị hãy khéo nhớ nghĩ những điều ấy!
"
  • 1. Hiếu dưỡng cha mẹ:
Niệm Phật là chỗ cốt yếu của các pháp, hiếu dưỡng là hạnh đứng đầu trong trăm hạnh. Tâm hiếu tức là tâm Phật, hạnh hiếu tức là hạnh Phật. Muốn được đạo đồng với chư Phật, trước phải hiếu dưỡng song thân. Thế nên, Thiền sư Sách nói: "Một chữ hiếu là cánh cửa của mọi sự huyền diệu. Những lời Phật dạy lấy hiếu làm tông chỉ, kinh Phật nói lấy hiếu làm giới. Trong lời nói không mờ tối thì miệng phát ra ánh sáng giới, ngay đó rõ ràng nhanh chóng khai mở tâm địa".

Nói về hiếu, có hiếu của tại gia, có hiếu của xuất gia.

Hiếu tại gia là được cha mẹ thương yêu, vui mừng mà không lãng quên bổn phận làm con; bị cha mẹ ghét bỏ, phải sống lao nhọc mà không hề oán hận. Luôn thuận theo sắc diện của song thân để làm tròn việc phụng dưỡng.

Đạo hiếu của người xuất gia là cắt đứt ân ái, từ giã song thân để cứu xét đạo huyền vi phù hợp bản tánh, thâm nhập lý vô vi, trên đền đáp ân cùng cực, tiến bước trên con đường giải thoát. Đây là lối tắt báo đáp ân đức của mẹ cha, chẳng những đời vị lai được lợi ích mà ngay trong hiện tại cũng được thành công.

Thế nên, đức Như Lai nửa đêm vượt thành, đạo quả viên mãn trên non Tuyết. Ngài Huệ Năng dùng bạch kim gởi gắm mẹ mà nối pháp ở Huỳnh Mai. Nhưng vì pháp mà đoạn dứt thâm ân, ắt cần phải nghĩ suy báo đức. Do đó, đức Thế Tôn về thăm Phụ vương ở thành Ca Tỳ La Vệ, lên trời Đao Lợi thuyết pháp cho mẫu thân.

Còn như cha mẹ nghèo thiếu không nơi nương tựa, theo lý phải nên tự mình hầu hạ. Vì thế, ngài Tất Lăng Già Bà Ta hàng ngày đi khất thực để phụng dưỡng mẹ già. Đại sư Hoằng Nhẫn dựng lập Dưỡng Mẫu Đường. Ngài Trần Mục Châu đan hài nuôi mẹ. Pháp sư Lãng gánh cha mẹ mà đi du học khắp nơi.

Vậy thì, người xuất gia lấy pháp vị làm thức ăn ngon ngọt, nhưng cũng không quên đem dâng hiến cho song thân; lấy Phật sự làm việc chuyên cần, nhưng không bỏ sót lễ nghi của nhân thế. Không chỉ cha mẹ một đời, mà cha mẹ nhiều đời đều báo đáp được. Không chỉ cha mẹ một thân này, mà cha mẹ khắp trong pháp giới đều được độ thoát, đồng lên bờ giác. Đạo hiếu người xuất gia lợi ích rộng lớn thay!

Nếu như nhân duyên chưa đủ, cha mẹ không cho phép thì nên ở tại nhà làm tròn đạo hiếu, siêng năng tu tập nhân xuất thế. Nếu có thể ở ngay nơi thế tục mà thực hành đạo chân thật thì vẫn có con đường để thành Phật. Chỉ mong được trở lại như lúc trẻ thơ, để khi cha mẹ nghiêm khắc, được quỳ dưới gối nhằm báo đáp sự nhọc nhằn chăm sóc của song thân.

Do đạo hiếu mà dẫn đến chỗ Nhất thừa viên mãn, liền khiến cho Bồ tát tại gia đạt được sự hiểu biết và tu hành không nghi ngờ. Hàng Cao nhân xuất tục, nhân ở đây có thể soi xét.

Nếu có người chỉ hạn cuộc ở việc phụng sự Phật pháp, không thể làm tròn việc phụng sự song thân, xem nơi đây ắt sẽ cảm xúc trong lòng, có thể khắc phục để vẹn toàn đạo hiếu.

Than ôi! Thời gian dễ trôi qua, cha mẹ khó quên lãng. Còn song thân ở nhà cũng như chư Phật tại thế; dùng hạnh hiếu để báo đáp ân đức của song thân, hoàn thành trọn vẹn công phu niệm Phật. Thế nên biết, cha mẹ vui vẻ thì chư Phật vui vẻ, tâm này thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh.

Như thế, thật đáng gọi là:
  • Vẻ quê không núi non cách trở
    Ánh trăng xuyên nước đẹp vô ngần.


    2. Phụng sự sư trưởng:
Bậc Cao đức ngày xưa nói: "Sinh ra ta là cha mẹ, làm thành tựu cho ta là thầy bạn". Thế nên, thầy là bậc Đạo sư sáng suốt trong đường mê, là ngọn đèn trí tuệ trong căn nhà tăm tối, là thuyền từ trong biển khổ, là mắt sáng của Trời, người. Ân sâu hơn cả cha mẹ, đức nặng sánh tợ đất trời. Cho nên, đệ tử thờ thầy chẳng dám xem thường. Đâu chẳng thấy: đức Phật bỏ thân mạng để cầu nửa bài kệ; Tổ Huệ Khả chặt cánh tay để hỏi pháp an tâm, lấy thân làm tòa để thờ thầy; Lục Tổ buộc đá vào hông để giã gạo, vác gạo nuôi chúng mà tiếp nối Tổ vị; Bồ tát Thường Đề bán tim gan học Bát nhã, gieo mình vào lửa để chứng Bồ đề. Vậy mà người xưa rất lấy làm vui mừng, vì cảm thấy may mắn. Như thế, sao lại có thể không cố gắng thờ thầy để học đạo hay sao?

Nên biết, tìm thầy để thoát sinh tử phải cầu chánh kiến, tham thiền hỏi đạo chớ nương tà tông. Cần phải hiểu rõ nguyên do tội phước, phân biệt kỹ sự lợi hại của chánh tà. Chánh thì thành Phật, tà thì thành ma. Ban đầu chẳng gặp bậc tác gia, đến già chỉ thành vô dụng. Bởi thế, đức Như Lai biết thầy sai lầm mà bỏ đi; ngài Phu Tử chọn người lành để theo. Xem các bậc Thánh xưa đã thế, tại sao người nay lại chẳng làm theo như vậy?

Huống chi, hiện nay là thời mạt pháp, có nhiều thầy tà, phàm muốn tu hành nhất định chớ nên gần gũi. Chỉ giữ chánh niệm, rốt cuộc sẽ gặp minh sư. Muốn tỏ ngộ việc lớn, phải nên thận trọng đừng cho là dễ dàng.

Vì thế, đệ tử phụng sự thầy tức đồng với phụng sự Phật. Điều này có thể gọi là:
  • Tứ sự cúng dường chẳng nhọc lao
    Vạn lượng vàng ròng cũng tiêu được.


    3. Tâm từ bi không sát hại:
Bốn loài chúng sinh: noãn (sinh ra từ trứng), thai (bào thai), thấp (ẩm thấp), hóa (biến hóa), chim muôn, cá, trùng... đều là chư Phật ở vị lai, hoặc là cha mẹ nhiều đời trong quá khứ của chúng ta. Chúng đều biết kêu gào sợ chết, tha thiết tham sống, tránh khổ tìm vui, thì tâm ấy đều như nhau; biết tìm nơi an ổn mà dưỡng thân mạng, thì lý này muôn loài vốn chung đồng. Tại sao nghe tiếng kêu thương của chúng mà nỡ lôi lên dao bén? Thấy chúng mắt đẫm lệ mà vẫn kéo lôi đến chỗ mất mạng tan thân? Hoặc giăng lưới trên núi rừng, hay đốt lửa cháy khắp nơi khói bay mù mịt, làm chim ưng bay nhanh như điện xẹt để tranh nhau tìm lối thoát thân, ngựa giỏi lấn chen phóng nhanh sợ hãi. Vượn nhìn mũi tên kinh hồn; nhạn thấy chiếc cung khiếp vía. Nỗi đau đớn vỡ đầu rơi óc khó mà chống cự, sự thống khổ thấu tận tim gan biết làm sao để cấm ngăn? Huống chi, chúng cùng bẩm thọ Ngũ hành(10), đều bao hàm Tứ tượng(11), đồng thấm nhuần tánh Phật, cùng có tâm thần sáng suốt. Tại sao lại giết hại chúng, chất thịt như núi, nấu nướng để cung cấp cho miệng và bụng của mình?

Nung đốt tim gan của chúng mà đâu biết rằng đoạn mạng chúng sinh cũng là làm cho thân Phật chảy máu; ăn thịt súc vật chính là nhai nuốt thân thể của cha mẹ mình! Ấy là gây tạo lỗi lầm sát hại thâm sâu, đoạn dứt chủng tánh từ bi. Hiện đời phước thọ âm thầm tiêu giảm, sau khi chết trầm luân nơi núi dao, rừng kiếm, trở lại làm gà, heo, cá, thỏ lần lượt hoàn trả nợ cũ. Đến như giết hại, cắt xẻo, nấu nướng... nhân quả cũng giống như nhau.

Xét kỹ việc ăn thịt thật đáng rùng rợn, dù bán hay đổi ở lò sát sinh, cũng khó tránh khỏi trọng tội. Bồ tát thà tan xương quyết không ăn thịt chúng sinh. Thế nên, thỏ trắng thiêu thân mà tiên nhân chẳng đoái hoài. Đối với cỏ cây còn không nhổ, thì thịt lẽ nào lại cho nếm. Rời xa nhà bếp, vì có lời dạy không nỡ nghe tiếng kêu than. Nuôi lớn súc vật rồi đem đi bán cũng đồng với tội lỗi miệng giết tâm ăn. Cho nên, Đại Thánh từ bi mới chế giới dứt hẳn sát sinh. Ân của đức Phật thật là to lớn! Người tu Tịnh độ cần phải giữ gìn!

Như thế, thật đáng gọi là:
  • Không tham đắm hương vị,
    Mới là rồng trong xanh.


    CHÚ THÍCH:
(9) Diêm phù đề: Cõi nước có trồng nhiều cây Diêm phù và sản xuất ra vàng Diêm phù đàn.

Theo phẩm Diêm Phù Đề trong Trường A Hàm 18, kinh Đại Lâu Thán 1, kinh Khởi Thế 1, kinh Khởi Thế Nhân Bản 1, cõi này phía Nam hẹp, phía Bắc rộng, chu vi khoảng 14.000km, khuôn mặt người cũng giống như địa hình ở đây. Lại phía Đông ao A Nâu Đạt (S: Anavatapha) có sông Hằng (S: Ganga), từ miệng bò sinh ra, theo 500 sông chảy vào biển Đông; phía Nam có sông Sindhu, từ miệng sư tử sinh ra, theo 500 nhánh chảy vào biển Nam; phía Tây có sông Vaksu Bà Xoa, từ miệng ngựa sinh ra, theo 500 nhánh chảy vào biển Tây; phía Bắc có sông Tư Ký (S: Sīta), từ miệng voi sinh ra, theo 500 nhánh chảy vào biển Bắc.

Theo Câu Xá luận 11, trong bốn đại châu lớn, chỉ có châu này có tòa kim cương, tất cả Bồ tát sắp thành chánh giác đều ngồi tòa này.

Theo trên thì có thể biết Diêm Phù Đề vốn chỉ cho Ấn Độ, về sau chỉ chung cho thế giới nhân gian.

(10) Ngũ hành: Trong triết học cổ Trung Hoa, tất cả vạn vật đều phát sinh từ năm nguyên tố cơ bản và luôn luôn trải qua năm trạng thái được gọi là: Mộc, Hỏa, Thổ, Kim và Thủy. Năm trạng thái này gọi là ngũ hành.

(11) Tứ tượng: Tứ tượng hay Tứ thánh thú, là một khái niệm hình tượng bộ bốn trong khoa học thiên văn, triết học, phong thủy... phương Đông.

Tứ tượng là bốn thánh thú trong các chòm sao Trung Hoa cổ đại:
  • a. Thanh Long của phương Đông.
    b. Chu Tước của phương Nam.
    c. Bạch Hổ của phương Tây.
    d. Huyền Vũ của phương Bắc.
Mỗi thánh thú cai quản một phương và tượng trưng cho một mùa, chúng có những đặc điểm, nguồn gốc riêng. Chúng được miêu tả đầy sinh động trong thần thoại và trí tưởng tượng của người Trung Hoa, và cả trong Manga và Anime của Nhật.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 4. Tu mười điều lành:
Chỗ cốt yếu huyền diệu của Đại thừa, vốn không rời Nhất tâm. Muốn được chánh nhân của Tịnh nghiệp, cần phải tu mười điều lành trước tiên. Đoạn dứt bảy tội nặng của thân và miệng, thì bảy hạnh được thành tựu; diệt trừ hết gốc rễ Tam độc (tham, sân, si) của ý thức, thì Tam học (Giới, Định, Huệ) tự nhiên đầy đủ.

Theo kinh Di Đà, người cầu sinh Tịnh độ cần phải tu tập mười điều lành này. Trong kinh Hoa Nghiêm, chỉ có hàng Bồ tát Ly cấu địa mới có thể tự thân chứng đắc. Còn từ cõi Người, Trời cho đến cõi Hữu Đảnh đều lấy mười điều lành này làm duyên để thọ sinh. Hàng Thanh văn cho đến Phật thừa cũng lấy mười điều lành làm căn bản vào đạo. Nếu không tuân theo sự chế định của đức Phật, sẽ dễ rơi vào ba đường ác tối tăm, dù cho được thân người cũng bị hai loại quả báo ác. Không tu thì là mười điều bất thiện, vâng giữ tức là pháp môn mười giới. Đây quả thật là nền tảng của Tịnh Độ.
  • 5. Thọ trì Tam quy:
Đức Phật là bậc Đạo sư của ba cõi, giáo pháp là mắt sáng của muôn loài. Tăng là Thượng sĩ lục hòa, đều là ruộng phước chân thật thanh tịnh. Trái ngược với đây thì trở thành tà vạy, thuận theo đó thì trở thành chân chánh. Công đức thần thông chẳng ai sánh bằng, sức mạnh Thánh nhân khó mà suy xét. Giải trừ khổ não như cái trống có thoa thuốc thì các mũi tên bắn vào đều rơi xuống; vượt thoát tai nạn như song kiếm đột phá vòng vây. Biến khổ làm vui trong khoảng sát na, đổi phàm thành Thánh chỉ trong khoảnh khắc. Thế nên, thấy tướng xe lửa hiện ra, nếu biết quy y liền được trong mát; sắp đến Địa ngục, nếu xưng niệm danh hiệu Phật thảy đều lìa khổ. Ngài Phổ Minh và chư vương tránh khỏi tai nạn là bởi do công phu của định Không. Đế Thích đánh lui oai thế của Đảnh Sinh là từ sức mạnh của Bát nhã.

Thế nên, Phật tử có lòng tin quy y Tam Bảo chân thật từ bi, dùng hương hoa cúng dường nơi Phật và tăng, đọc tụng lưu thông pháp bảo. Tập hợp những điều thiện lợi này mà hướng về Bồ đề, nguyện cho khắp tất cả chúng sinh đồng sinh Tịnh độ. Đâu không nghe nói: Tần Già, Anh vũ xưng niệm danh hiệu Phật được về Tây Phương; chư Thiên, Đế Vương quy kính Tam Bảo thệ cầu Thánh đạo. Mọi chúng sinh đều có thể trên cầu quả vị Phật, dưới thoát khỏi nỗi khổ luân hồi.

Như thế, thật đáng gọi là:
  • Thiền là Đại Quy, thơ là Phát
    Thiên tử Đại Đường chỉ ba người.


    6. Đầy đủ các giới:
Đã phát được tâm Bồ đề, nên tu hạnh Bồ tát. Ban đầu thọ Tam quy, kế giữ năm giới, dần dần tu mười pháp lành, viên mãn Tam tụ luật nghi(12). Căn cơ thuần thục thì giữ gìn trọn vẹn, nếu căn cơ chưa thuần thì thọ trì từng phần. Mỗi năm có Tam thiện, mỗi tháng có Lục trai(13), nếu như thấy năm giới khó thực hành thì hãy trừ bỏ rượu thịt. Mười điều ác(14) dễ phạm, nên giữ một giới không sát sinh. Bụi nhỏ tích lũy thành núi non, sương rơi cũng thêm cho dòng nước. Một giọt rơi xuống vực, rốt cuộc cũng trở về biển cả mênh mông.

Thế nên, kinh Niết Bàn nói: "Lúc đức Phật còn ở đời thì lấy Phật làm thầy, sau khi đức Phật diệt độ thì lấy giới làm thầy". Kinh Phạm Võng nói: "Giới như trăng trong sáng, cũng như châu anh lạc. Chúng Bồ tát nhiều như cát bụi đều do giới này thành tựu đạo giác ngộ chân chánh". Vì thế, rồng không có tâm phạm sát; sói còn có ý trì trai. Tỷ kheo khổ hạnh tiết tháo đến nỗi bị buộc cỏ mà chẳng dám đi; bảo hộ con ngỗng mà phải đổ máu hồng; Cư sĩ bị bệnh duyên mà hoàn toàn không uống rượu ăn thịt. Thế nên biết, nói về cội gốc của các điều lành, thì năm giới đứng đầu. Bậc vương giả theo đó để trị quốc, người quân tử phụng hành để lập thân; không thể rời xa lúc vội vàng, không thể phế bỏ dù trong khoảnh khắc.

Đạo Phật gọi là Ngũ giới, Nho giáo gọi là Ngũ thường(15). Ở nơi trời là Ngũ tinh(16), ở nơi đất là Ngũ nhạc(17), ở nơi người là Ngũ tạng(18), ở nơi xứ sở là Ngũ phương(19). Nói rộng ra thì không chỗ nào mà chẳng thâu nhiếp; quán xét cả trên dưới không gì có thể thêm vào. Do đó, trong Pháp Uyển Châu Lâm nói: "Điều thế tục ưa chuộng là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín; chỗ ý thức tham lam nương vào là sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu".

Đạo và đời tuy trái ngược nhau, nhưng về mặt Tiệm giáo (tu hành) thì chung đồng không khác. Trong chánh pháp dạy, bắt đầu ở nơi nhân. Đó tức là ở nơi pháp thật chỉ sự việc nói thẳng, không nhờ vào ngôn từ hoa mỹ, nương vào danh tự mà biểu hiện ý nghĩa. Tu nhân như thế, không mong quả mà chứng quả; từ chỗ này vào đạo, không muốn vui mà được vui. Hiện nay, thấy người trì giới không sát hại, chẳng cầu nhân mà nhân tỏa sáng; giữ giới không trộm cắp, chẳng hân hoan nghĩa mà nghĩa phô bày. Người không tà dâm, chẳng mong lễ mà lễ được lập. Người không nói dối, chẳng mộ tín mà tín tự vang xa. Người không uống rượu, chẳng thực hành trí mà trí sáng tỏ. Năm giới này không chỉ tự kềm chế mình, ngăn ngừa sai quấy, mà còn trợ giúp nước nhà phát triển sự giáo hóa. Muốn tu thành tựu tịnh hạnh, cần phải nghiêm túc giữ gìn giới luật.

Như thế, thật đáng gọi là:
  • Vạn thiện hòa dung đồng cõi Phật
    Vui tươi hớn hở thuở thái bình.


    7. Phát tâm Bồ đề:
Quả Phật Vô Thượng gọi là Bồ đề, nếu phát tâm này, chắc chắn thành Phật. Pháp môn Tịnh Hạnh nói: "Người tu Tịnh độ, cần phải khéo phát tâm. Nếu vì mình chán nản Ngũ trược(20), ưa thích Cửu phẩm(21) thì trái với tâm Bồ đề. Đó là hạnh Thanh văn không nên phát khởi. Nếu vì chúng sinh mà phát tâm đại bi cầu vãng sinh Cực Lạc, mong nhanh chóng thành tựu đạo lực thần thông để trải qua mười phương cứu độ tất cả chúng sinh, khiến họ cùng thành Phật thì thuận với tâm Bồ đề. Đó là hạnh Bồ tát cần nên phát khởi". Nay, khuyên hàng cao lưu tu hành Tịnh nghiệp, phàm muốn lợi mình, lợi người cần phải phát tâm lập chí. Nên ở trước Tam Bảo dâng hương hiến hoa, chí tâm phát nguyện:

  • Nam mô Phật.
    Nam mô Pháp.
    Nam mô Tăng.
Đệ tử là....... hôm nay phát tâm rộng lớn này, chẳng vì mong cầu phước báo Trời, Người, Thanh văn, Duyên giác; cho đến chư vị Bồ tát hàng Quyền thừa, chỉ y theo tối thượng thừa mà phát tâm Bồ đề.

Cúi mong cho con cùng với cha mẹ hiện đời, cha mẹ nhiều đời, cùng chúng sinh khắp trong pháp giới, tất cả kẻ oán người thân đồng sinh về Tịnh độ, đều được Bất thối chuyển nơi đạo giác ngộ Chân Chánh Vô Thượng
.

Nói ba lần như trên. Luôn luôn phát khởi tâm này, mỗi ngày nên thường thực hành như thế.

Thuở xưa, đồng tử Thiện Tài do phát tâm Bồ đề nên chứng quả trong một đời; Long nữ tám tuổi mà được thành Phật. Ở nơi Địa ngục phát tâm này, liền nhanh chóng vượt lên hàng Thập địa(22). Sa di(23) biết phát tâm thì đã hơn hẳn hàng Nhị thừa(24).

Như thế, thật đáng gọi là:
  • Một khí hồi nguyên vận,
    Vạn vật thấm nhuần ân.


    CHÚ THÍCH:
(12) Tam tụ luật nghi: Ba tụ giới pháp của Đại thừa Bồ tát. Tụ nghĩa là chủng loại. Vì ba tụ pháp giới này vô cấu thanh tịnh, hàm nhiếp các giới Đại thừa, viên dung vô ngại nên gọi là Tam tụ tịnh giới. Tam tụ viên giới. Tam tụ tinh giới gồm:
  • a. Nhiếp luật nghi giới: Pháp môn chỉ ác, đoạn dứt tất cả điều ác, hàm nhiếp các luật nghi, là giới của bảy chúng thọ trì, tùy theo tại gia, xuất gia khác nhau mà có chia ra các giới điều năm giới, tám giới, mười giới, cụ túc giới... cũng có thể quy thành ba loại chung là biệt giải thoát giới, định cộng giới và đạo cộng giới. Giới này là nhân của pháp thân. Pháp thân vốn tự thanh tịnh nhưng bị các điều xấu ác che đạy, nên không hiển được, nay lìa các đường ác thì công đức thành tựu hiện tiền.

    b. Nhiếp thiện pháp giới: nghĩa là tu tập tất cả các pháp lành. Đây là pháp môn tu thiện, là luật nghi giới mà Bồ tát tu hành, hồi hướng các điều thiện do tu thân, khẩu, ý về Vô Thượng Bồ đề, như thường siêng năng tinh tấn, cúng dường Tam Bảo, tâm không buông lung, giữ gìn các giác quan và thực hành sáu Ba la mật... nếu phạm tội thì như pháp sám hối, nuôi lớn các pháp lành. Đây là nhân của báo thân, có công năng dứt ác tu thiện, cho nên trở thành duyên của báo thân Phật.

    c. Nhiếp chúng sinh giới: tức dùng từ tâm nhiếp thọ, làm lợi ích tất cả chúng sinh, đây là pháp môn lợi sinh. Kinh Bồ tát Địa Trì 4 nêu mười một loại như sau:
    • - Cùng làm bạn với những việc nhiêu ích mà chúng sinh đã thực hành.
      - Cùng làm bạn với các khổ bệnh đã sinh hoặc chưa sinh của chúng sinh và những người săn sóc bệnh.
      - Nói pháp thế gian, xuất thế gian cho các chúng sinh nghe hoặc dùng các phương tiện khiến họ được trí huệ.
      - Biết ân báo ân.
      - Có khả năng cứu giúp các sự sợ hãi của chúng sinh. Nếu họ bị tai nạn như người thân qua đời, mất mát tài vật thì Bồ tát khai giải khiến họ hết lo buồn.
      - Thấy có chúng sinh nghèo nàn khốn khổ thì cấp cho những vật cần dùng.
      - Đức hạnh đầy đủ, nhận y chỉ đúng pháp, nuôi chúng đúng pháp.
      - Trước nói lời an ủi, thường tới lui thăm nom, cấp cho thức ăn uống, nói lời lành của thế gian, làm mọi việc chẳng vì mình mà vì chúng sinh.
      - Xưng dương khen ngợi người có thật đức.
      - Dùng từ tâm quở trách người có lỗi xấu, chiết phục đuổi phạt khiến họ hối cải.
      - Dùng năng lực thần thông thị hiện ác đạo, khiến các chúng sinh ấy chán sợ điều ác, vâng tu theo Phật pháp, hoan hỷ tin ưa, sinh tâm hy hữu.
Ba tụ tịnh giới này là giới chung của tăng, tục Đại thừa nhưng tăng chúng Đại thừa ban đầu thọ nhiếp luật nghi giới (thọ 250 giới) gọi là biệt thọ; sau lại tổng thọ 3 tụ tịnh giới, gọi là thông thọ.

(13) Lục trai: Sáu ngày trai giới thanh tịnh trong mỗi tháng: mùng 8, 14, 15, 23, 29, 30.

Vào sáu ngày này, chúng tăng phải nhóm họp một chỗ để Bố tát thuyết giới, còn hai chúng tại gia thọ trì bát quan trai giới một ngày một đêm. Tương truyền ngày xưa tại Ấn Độ, quỷ thần thường hãm hại người vào sáu ngày này, cho nên ở dân gian có phong tục tắm gội, nhịn ăn vào những ngày này. Về sau, Phật giáo cũng tiếp tục theo phong tục đó, đồng thời cho rằng vào 6 ngày này có Tứ Thiên vương xuống thế gian xem xét việc thiện ác

(14) Mười điều ác: Sát sinh, Trộm cắp, Tà dâm, Vọng ngữ, Lưỡng thiệt (nói lời gây ly gián, lời phá hoại), Ác khẩu (nói lời thô ác), Ỷ ngữ (là lời nói vô nghĩa, lời nói do tâm nhiễm phát ra), Tham dục (tham ái, tham thủ, xan tham), Sân khuể, Tà kiến (tức ngu si).

(15) Ngũ thường: Năm điều phải hàng có trong khi ở đời, gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
  • a. Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật.
    b. Nghĩa: Cư xử với mọ người công bìnhtheo lẽ phải.
    c. Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người.
    d. Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai.
    e. Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy.
16) Ngũ tinh: Sao Thủy, sao Kim, sao Hỏa, sao Thổ và sao Mộc.

(17) Ngũ nhạc: Theo thần thoại Trung Quốc, ngũ nhạc có nguồn gốc từ thân thể và đầu của Bàn Cổ, vị thần đầu tiên sáng tạo ra thế giới. Do vị trí ở phía Đông của mình nên Thái Sơn được gắn liền với mặt trời mọc, là biểu tượng cho sự ra đời và hồi sinh. Cũng vì cách diễn giải này, nó thông thương được nhắc đến như là ngọn núi linh thiêng nhất.

Ngũ nhạc được sắp xếp theo bốn hướng chính và trung tâm của vùng đất Trung Hoa cổ đại. Các rặng núi trong nhóm này bao gồm:
  • a. Hướng Bắc: Hằng Sơn, thuộc tỉnh Sơn Tây.
    b. Hướng Nam: Hành Sơn, thuộc tỉnh Hồ Nam.
    c. Hướng Đông: Thái Sơn, thuộc tỉnh Sơn Đông.
    d. Hướng Tây: Hoa Sơn, thuộc tỉnh Thiểm Tây.
    e. Trung tâm: Tung Sơn, thuộc tỉnh Hà Nam.
(18) Ngũ tạng: Tâm, can, tỳ, phế, thận.

(19) Ngũ phương: Chỉ cho năm phương Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung ương.

(20) Ngũ trược: Năm thứ cặn đục khởi lên trong kiếp giảm. Theo thuyết của kinh Bi Hoa, quyển 5, Pháp Uyển Châu Lâm, quyển 98, ngũ trược chỉ cho:
  • a. Kiếp trược: Vào thời kiếp giảm. lúc tuổi thọ con người rút ngắn lại còn ba mươi tuổi thì nạn đói kém xảy ra, lúc giảm còn hai mươi tuổi thì nạn bệnh tật xảy ra; lúc giảm còn mươi tuổi thì nạn chiến tranh xảy ra, tất cả chúng sinh trong thế giới đều bị hại.

    b. Kiến trược: Chánh pháp đã diệt, tượng pháp dần dần khởi, tà pháp bắt đầu sinh, tà kiến tăng mạnh, làm cho con người không tu tập pháp lành.

    c. Phiền não trược: Chúng sinh nhiều ái dục, tham lam bỏn sẻn, thích đấu tranh dua mịnh, dối trá, tiếp nhận tà pháp, nên tâm thần bị não loạn.

    d. Chúng sinh trược: Chúng sinh phần nhiều độc ác, không hiếu kính cha mẹ, người lớn tuổi, không sợ quả báo ác, không tạo công đức, không tu huệ thí, không giữ gìn trai giới.

    e. Mạng trược: Thời xưa con người thọ tám vạn tuổi, đời nay do ác nghiệp tăng trưởng nên tuổi thọ giảm dần, người trăm tuổi rất hiếm.
Trong năm trược thì Kiếp trược là Tổng, bốn trược còn lại là Biệt. Trong bốn trược thì Kiếp trược và Phiền não trược làm tự thể mà tạo thành Chúng sinh trược và Mạng trược.

(21) Cửu phẩm: Chín bậc: Thượng thượng, Thượng trung, Thượng Hạ; Trung thượng, Trung trung, Trung hạ; và Hạ thượng, hạ trung, Hạ hạ. Thuật ngữ thường dùng là cửu phẩm vãng sanh, Cửu phẩm Tịnh Độ, Cửu phẩm đại y, Cửu phẩm hoặc.

(22) Thập địa: Cũng gọi là Thập trụ, chỉ cho mười địa vị.

Thập địa chung cho Tam thừa: thuyết này có xuất xứ từ kinh Đại Phẩm Bát Nhã, quyển 6, 17. Vì Thập địa này chung cho cả Tam thừa, nên gọi là Tam thừa công Thập địa, hoặc Cộng Thập địa, Cộng địa. Tông Thiên Thai gọi là Thông giáo Thập địa. Trong Pháp Hoa Huyền Nghĩa, quyển 4 Hạ]/i], và Ma Ha Chỉ Quán, quyển 6 Thượng, ngài Trí Khải giải thích ý nghĩa của Thập địa này như sau:
  • a. Can Tuệ địa: Cũng gọi là Quá Duyệt Tịnh địa, Tịch Nhiên Tạp Kiến Hiện Nhâp địa, Siêu Tịnh Quán Địa, Kiến Tịnh địa, Tịnh Quán địa, nghĩa là địa vị này chỉ có tuệ chứ chưa có định, tương đương với giai vị của Tam hiền của Thanh văn và giai vị của Bồ tát từ sơ phát tâm cho đến trước khi được thuận nhẫn.

    b. Tánh địa: Cũng gọi là Chủng Tánh địa, Chủng địa, tức địa vị tương đương với giai vị Tứ thiện căn của Thanh văn và giai vị Thuận nhẫn của Bồ tát, tuy đắm trước thật tướng các pháp, nhưng không sinh tà kiến, đầy đủ trí huệ và thiền định.

    c. Bát Nhân địa: Cũng gọi là Đệ Bát địa, Bát địa. Nhân nghĩa là nhẫn, tương đương với mười lăm tâm kiến đạo của Thanh văn và Vô sinh Pháp nhẫn của Bồ tát.

    d. Kiến địa: Cũng gọi là Cụ Kiến địa, tương đương với quả Tu đà hoàn của Thanh văn và địa vị A Bệ Bạt Trí (Bất thối chuyển) của Bồ tát.

    e. Bạc địa: Cũng gọi là Nhu Nhuyến địa, Vi Dục địa, tức là giai vị đã đoạn trừ một phẩm trong chín phẩm tu hoặc (phiền não) ở cõi Dục, tức quả Tu đà hoàn hoặc Tư đà hàm; cũng chỉ cho địa vị Bồ tát đã đoạn trừ phiền não, nhưng vẫn còn các tập khí mỏng (bạc), tức địa vị từ A Bệ Bạt Trí trở lên cho đến trước quả Phật.

    f. Ly Dục địa: Cũng gọi là Ly Tham địa, Diệt Dâm Nộ Si địa, tức giai vị Thanh văn diệt hết phiền não ở cõi Dục, được quả A na hàm và địa vị Bồ tát lìa dục, được năm thần thông.

    g. Dĩ Tác địa: Cũng gọi là Sở Tác Biện địa, Dĩ Biện địa, tức địa vị Thanh văn được Tận trí, Vô sinh trí, chứng đắc A la hán quả, hoặc Bồ tát thành tựu Phật địa.

    h. Bích Chi Phật địa: Duyên giác quán xét mười hai nhân duyên mà thành đạo.

    i. Bồ Tát địa: Chỉ cho các địa vị từ Can Tuệ địa cho đến Ly Dục địa đã nói ở trên, hoặc chỉ cho Hoan Hỷ địa cho đến Pháp Vân địa (từ sơ phát tâm ho đến Kim cang Tam muội) sẽ nói ở sau, tức địa vị Bồ tát từ sơ phát tâm cho đến khi thành đạo.

    j. Phật địa: Chỉ cho địa vị hoàn toàn đầy đủ các pháp của chư Phật như Nhất Thiết Chủng Trí.
Theo Luận Đại Trí Độ, quyển 75, thì hàng Bồ tát Tam thừa cộng vị này nương vào trí vô lậu, đoạn trừ hết nghi hoặc mà khai ngộ, như ngọn đèn tâm được thắp lên không nhất định là ngọn lửa đầu tiên hay ngọn lửa sau cùng, sự đoạn hoặc của hàng Thập địa cũng thế, không cố định ở bất cứ một địa nào, mà là mỗi địa đều đưa đến quả Phật, vì thế mà ví dụ Thập địa như việc đốt đèn.

(23) Sa Di: Người nam xuất gia trong tăng đoàn Phật giáo, đã thọ mười giới, chưa thọ cụ túc giới.

Sa Di cựu dịch là "tức từ". "Tức" là chấm dứt, quyết tâm chấm dứt kiếp số hệ lụy và khổ đau. "Từ" là thương yêu mọi người và mọi loài bằng trái tim của vị Bồ tát, không vướng mắc, không phân biệt. Tân dịch là "cần sách" nghĩa là chuyên cần và luôn luôn được nhắc nhở. Sa Di cũng có nghĩa là "cầu tịch" (theo ngài Nghĩa Tịnh), nghĩa là mong cầu đạt đến quả vị Niết bàn, chấm dứt mọi vọng tưởng phiền não.

Theo luật Ma Ha Tăng Kỳ 29, căn cứ vào tuổi tác thì Sa Di được chia làm ba loại:

  • a. Khu ô Sa Di từ bẩy tuổi đến mười ba tuổi, đã có thể đuổi chim qua trên sân khi phơi lúa gạo.

    b. Ứng pháp Sa Di từ mười bốn đến mười chín tuổi, có khả năng làm những việc khó nhọc, hầu thầy và có khả năng tu tập, ngồi thiền, tụng kinh.

    c. Danh tự Sa Di: tuổi đã quá hai mươi nhưng chưa thọ cụ túc giới, vẫn còn là Sa Di.
Trong Tăng đoàn Phật giáo, vị Sa Di đầu tiên là La Hầu La. Đến đời sau, gọi Sa Di thọ trì mười giới là Pháp đồng Sa Di, còn người cạo tóc nhưng chưa thọ mười giới gọi là Hình đồng Sa Di. Ngoài ra, Nhật Bản có danh từ "Tại gia Sa Di" là chỉ cho người tu hành xuất gia mà có vợ con.

(24) Nhị thừa: Hai cổ xe, vì dụ giáo pháp của đức Phật có công năng vận chuyển chúng sinh đến quả vị giác ngộ giải thoát. Giáo pháp có hai loại nên gọi là Nhị thừa.

  • a. Đại thừa và Tiểu thừa: Giáo pháp đức Phật nói trong một đời được chia thành Đại thừa và Tiểu thừa khác nhau. Tiểu thừa là giáo pháp Phật nói cho hàng Thanh văn, Duyên giác; còn Đại thừa là giáo pháp Phật nói cho hàng Bồ tát.

    b. Thanh văn thừa và Duyên giác thừa:

    - Thanh văn thừa: Trực tiếp nghe đức Phật nói pháp, nương vào lý Tứ Đế mà giác ngộ.
    - Duyên giác thừa: Không trực tiếp nghe đức Phật nói pháp, chỉ tự mình quán xét lý mười hai nhân duyên mà được giác ngộ.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

VĂN KHUYÊN PHÁT TÂM BỒ ĐỀ
ĐẠI SƯ THẬT HIỀN SOẠN

(Phần bổ sung)

Thật Hiền tôi, một sư tăng phàm phu, hư hèn ngu muội, dập đầu lạy khóc, rớm máu quanh mi, van xin đại chúng hiện tiền, cùng tín hữu nam nữ mai hậu, cúi xin quý vị xót thương, ghé tai nghe xét.

Từng nghe: cửa yếu vào đạo lấy sự phát tâm làm đầu, việc cấp thiết tu hành lấy sự lập nguyện làm trước. Nguyện có lập thì chúng sinh mới độ nổi, tâm có phát thì đạo mới tựu thành. Nếu tâm rộng lớn không phát, nguyện kiên cố không lập, dù trải qua trăm kiếp ngàn đời, vẫn cứ quanh quẩn trong vòng luân hồi mãi mãi. Dù có gia công tu hành, cũng chỉ nhọc công vô ích, đắng cay vẫn hoàn đắng cay.

Cho nên, kinh Hoa Nghiêm nói: "Quên mất tâm Bồ đề mà tu hành các thiện pháp, gọi là việc làm của ma". Quên mất còn như thế, huống nữa là chưa phát? Cho nên biết rằng, muốn học đạo Như Lai, trước hết phải phát nguyện Bồ đề, không thể trì hoãn, chần chờ được.

Nhưng tâm nguyện có nhiều tướng trạng khác nhau, nếu không trình bày biết đâu mà hướng tới? Nay vì đại chúng, xin nói tóm lược. Tướng trạng của tâm nguyện có tám, đó là: tà, chánh, chân, ngụy, đại, tiểu, thiên, viên.

Ở đời, có người sau khi vào chùa tu, nhưng chẳng xét tâm mình, chỉ chuyên lo những việc bên ngoài: hoặc cầu sướng thân, hoặc ham nổi tiếng, hoặc ưa thích dục lạc thế gian, hoặc cầu mong quả vui mai hậu. Phát tâm như thế, đích thật là tà.

Danh lợi không ham, quả vui chẳng thiết, chỉ mong giải thoát, đạt đạo Bồ đề. Phát tâm như thế, được gọi là chánh.

Niệm niệm liên tục, trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh. Nghe Phật đạo cao siêu, không sinh sầu lo thoái chí; thấy chúng sinh khó độ, không sinh mệt mỏi sờn lòng. Như trèo núi cao muôn trượng, quyết lên thấu đỉnh; như leo tháp lớn chín tầng, phải leo tận nóc. Phát tâm như thế, được gọi là chân.

Có tội không sám hối, có lỗi không dứt trừ. Ngoài sạch trong dơ, trước siêng sau trễ. Tâm tuy tốt đấy, nhưng phần lớn bị danh lợi xen lẫn. Pháp tuy hay đấy, nhưng oan uổng vì bị vọng nghiệp nhuốm bẩn. Phát tâm như thế, đích thị là ngụy.

Cõi chúng sinh hết, nguyện tôi mới hết; đạo Bồ đề thành, nguyện tôi mới mãn. Phát tâm như thế, được gọi là đại.

Xem ba cõi như lao ngục, nhìn sinh tử tợ oan gia, chỉ mong tự độ, không muốn độ người. Phát tâm như thế, chính là tiểu.

Ngoài tâm nếu thấy có chúng sinh cần độ, có Phật đạo mong thành, công phu không xả, thấy biết không tan. Phát tâm như thế, chính là thiên.

Nếu biết tự tánh là chúng sinh, nên nguyện độ thoát. Tự tánh là Phật đạo, nên nguyện tu hành. Không có pháp nào ngoài tâm riêng có. Đem tâm hư không mà phát nguyện hư không, tu hạnh hư không, chứng quả hư không. Cũng không có tướng hư không, có thể đắc chứng. Phát tâm như thế, được gọi là viên.

Biết được tám tướng khác nhau trên đây là biết cứu xét. Biết cứu xét là biết lấy bỏ. Biết lấy bỏ là biết phát tâm. Cứu xét như thế nào? Đem tâm mình ra để cứu xét, so với tám tướng nói trên để biết tâm mình là chánh, là tà, là chân, là ngụy, là đại, là tiểu, là thiên hay viên. Lấy bỏ thế nào? Bỏ tà, bỏ ngụy, bỏ tiểu, bỏ thiên. Lấy chánh, lấy chân, lấy đại, lấy viên. Phát tâm như thế mới gọi chân chánh phát tâm Bồ đề.

Tâm Bồ đề này là pháp lành hàng đầu trong các pháp lành. Phát khởi được tâm ấy hẳn phải có nhân duyên. Tóm gọn có mười nhân duyên phát khởi.
  1. Nhớ nghĩ ơn nặng của Phật.
  2. Nhớ nghĩ công ơn cha mẹ.
  3. Nhớ nghĩ công ơn sư trưởng.
  4. Nhớ nghĩ công ơn thí chủ.
  5. Nhớ nghĩ công ơn chúng sinh.
  6. Nhớ nghĩ khổ đau sinh tử.
  7. Tôn trọng tánh linh của mình.
  8. Sám hối nghiệp chướng đã gây.
  9. Nguyện cầu vãng sinh Tịnh độ.
  10. Làm cho chánh pháp tồn tại lâu dài.
1. Thế nào là nhớ nghĩ ơn nặng của Phật?

Đức Thế Tôn Thích Ca Như Lai chúng ta khi mới phát tâm, vì tất cả chúng sinh tu Bồ tát đạo, trải vô lượng kiếp, nếm đủ mọi điều cay đắng gian lao. Khi ta tạo nghiệp, đức Phật rất xót thương, tìm cách giáo hóa, nhưng ta ngu si, chẳng chịu nghe theo. Ta đọa Địa ngục, Phật lại càng thương, muốn thay chịu khổ, nhưng ta nghiệp nặng, không phương cứu vớt. Ta sinh cõi Người, Phật dùng phương tiện, giúp trồng căn lành. Đời đời kiếp kiếp, Ngài luôn theo dõi từng tâm niệm, cứu vớt chúng sinh không lúc nào bỏ sót. Khi Phật xuất thế, ta còn chìm đắm, nay được làm người thì Phật đã diệt. Tội lỗi chi khiến ta sinh vào thời mạt pháp, phước đức nào mà ta được dự vào hàng ngũ xuất gia? Nghiệp chướng chi khiến ta không được thấy thân vàng của Phật, may mắn nào xui ta được thấy xá-lợi như vậy? Suy nghĩ như thế thì mới rõ lẽ: giả sử quá khứ không trồng thiện căn, làm sao hôm nay có thể được nghe Phật pháp?

Không nghe Phật pháp, làm sao biết mình thường thọ nhận ân của Phật? Ân đức ấy non sâu khó sánh. Trừ phi tự mình phát tâm rộng lớn, hành đạo Bồ tát, xây dựng đạo tràng, cứu độ chúng sinh; còn không thì dù cho thịt nát xương tan, cũng khó mà đền đáp xứng đáng. Đó là nhân duyên thứ nhất của sự phát tâm Bồ đề.

2. Thế nào là nhớ nghĩ công ơn cha mẹ?

Thương thay cha mẹ, sinh ta nhọc nhằn! Mười tháng cưu mang, ba năm bú mớm. Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn; ngậm đắng nuốt cay, ngọt bùi chẳng tưởng. Khổ công nhường ấy, ta mới thành người. Hy vọng về sau, tiếp nối gia phong, lo phần tế tự. Vậy mà, nay ta lại đi xuất gia, lạm xưng Thích tử, nhục hiệu Sa môn. Ngọt bùi không cung cấp, giỗ chạp chẳng lo toan. Lúc còn sống ta đã không chu toàn được miếng cơm manh áo, khi chết rồi ta lại chẳng đủ sức tiếp dẫn giác linh. Đối với thế gian là kẻ sống thừa, về mặt xuất thế cũng chẳng ích chi. Hai đường đều mất, tội nặng khó thoát. Suy nghĩ như thế, chỉ còn một cách là thường hành Phật đạo trong trăm kiếp ngàn đời, để cha mẹ nhiều kiếp đều được siêu thăng, không những cha mẹ một người mà cha mẹ của tất cả đều được cứu vớt. Đó là nhân duyên thứ hai của sự phát tâm Bồ đề.

3. Thế nào là nhớ nghĩ công ơn sư trưởng?

Cha mẹ tuy sinh ta, nuôi ta khôn lớn, nhưng nếu không có sư trưởng thế gian thì lễ nghĩa không biết; không có sư trưởng xuất thế gian thì Phật pháp không hay. Không biết lễ nghĩa thì có khác chi cầm thú, không tin Phật pháp ắt đồng với người phàm. Ngày nay, chúng ta có biết sơ qua ít nhiều về Phật pháp, lễ nghĩa cũng biết tạm đủ. Thân phủ ca sa, mình đượm giới phẩm. Công ơn lớn ấy chính nhờ sư trưởng mà có.

Nếu cầu quả nhỏ, chỉ được lợi mình. Nay theo Đại thừa, nguyện đem lợi lạc đến khắp quần sinh, thì sư trưởng thế gian và sư trưởng xuất thế, cả hai đều được lợi ích, do ta cúng hiến. Đó là nhân duyên thứ ba của sự phát tâm Bồ đề.

4. Thế nào là nhớ nghĩ công ơn thí chủ?

Chúng ta ngày nay, đồ vật dùng hằng ngày chẳng phải do ta tự cấp. Cháo cơm ba bữa, quần áo bốn mùa, thuốc men trị bệnh, chi phí linh tinh… hết thảy đều do sức lực của kẻ khác làm ra, mang đến cho ta chi dùng. Họ thì dốc sức cày cấy, bụng chẳng đủ no; ta thì ngồi không an hưởng, mà lòng vẫn còn chưa thỏa. Họ thì đan dệt không ngừng tay, suốt đời gian khổ; ta thì may mặc đến thừa mứa, đâu biết tiếc thương. Họ thì nhà tranh vách lá, nghèo khó suốt đời; ta thì sân rộng nhà dài, thong thả quanh năm. Đem sức lao nhọc của họ để cung cấp cho sự sống an nhàn của ta, lòng sao yên được? Lấy cái lợi của người để bồi dưỡng thân ta sung sướng, như vậy xét theo lý, thì có thuận không? Nếu chẳng phải mình vận dụng hai đức bi trí, trang nghiêm hai quả phước tuệ để tín thí nương nhờ ơn đức, chúng sinh thọ nhận ân sủng, thì dù gạo chỉ một hạt, vải chỉ một ô, mà mình đã thọ cúng trước kia, đến nay đều phải trả đủ, không thì ác báo khó trốn. Đó là nhân duyên thứ tư của sự phát tâm Bồđề.

5. Thế nào là nhớ nghĩ công ơn chúng sinh?

Ta với chúng sinh, từ bao kiếp trước, hết đời nọ qua đời kia, từng làm cha mẹ của nhau. Ơn nghĩa qua lại, nhiều lớp nhiều tầng. Nay vì cách đời, cho nên hôn mê không nhận ra nhau. Cứ lý ấy mà suy, thì sao không biết đền đáp! Nay là loài mang lông đội sừng, biết đâu xưa kia không là con ta? Nay là loài bò, bay, máy, cựa, biết đâu xưa kia chẳng phải là cha mẹ ta? Thường thấy bao người, khi trẻ lìa xa gia đình, lúc lớn trở về dung mạo đổi khác không thể nhận ra. Huống nữa cha mẹ đời trước của ta, ngày nay kẻ thì họ Trương, người thì họ Vương, làm sao nhớ được? Họ đang gào thét trong Địa ngục, hoặc đang ngất ngư trong chốn Ngạ quỷ. Khổ đau ai biết, đói khát kêu ai? Ta tuy không thấy không nghe, nhưng họ thì luôn cầu xin cứu vớt. Nếu chẳng phải kinh điển thì không chỗ nào có thể nói rành việc ấy, nếu chẳng phải đức Phật thì không ai tả rõ cảnh này. Hạng người tà kiến không sao biết nổi! Bồ tát nhìn sâu kiến, thấy toàn là cha mẹ quá khứ và chư Phật vị lai, cho nên thường nhớ cách giúp đỡ để báo đền ơn chúng. Đó là nhân duyên thứ năm của sự phát tâm Bồ đề.

6. Thế nào là nhớ nghĩ khổ đau sinh tử?

Ta cùng chúng sinh từ bao kiếp trước, sinh tử quẩn quanh, chưa hề thoát khỏi. Khi ở cõi Trời, lúc sinh cõi Người. Nơi kia chốn nọ, ra vào muôn lối, lên xuống nửa giây. Thoáng chốc làm Trời, thoáng chốc làm Người, thoáng chốc chui vào Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh. Cổng đen sáng ra chiều vào, hang sắt mới khép đã mở. Leo lên núi dao thì không còn mảnh da nguyên vẹn; vịn vào kiếm bén thì da thịt đều bị rách tan. Hoàn sắt nóng không trừ được đói, nuốt vào rồi gan ruột nát tan; nước đồng sôi không giải được khát, uống vào rồi xương thịt chín nhừ. Cưa bén xả thây, đứt xong liền nối; gió nghiệp thổi vào mặt, chết rồi lại sinh. Trong thành rực lửa, thảm thê tiếng thét rú lên; trên bàn xào nướng, tê tái tiếng gào vang vọng. Băng giá đông lại thì thân hình xanh như sen xanh kết nhụy, máu thịt rửa ra thì mình mẩy đỏ tựa sen hồng trổ hoa. Trong chốn Địa ngục, một đêm chết sống kể vạn lần; một buổi thọ hình chốn U minh so với nhân gian thì lâu tròn thế kỷ. Bao phen lính ngục ra tay nhọc mệt, nào ai chịu tin lời Diêm chúa răn khuyên. Lúc thọ hình mới kêu van khổ, nhưng dù hối cũng chẳng kịp nữa. Khi thoát rồi thì vội quên ngay, vẫn nghiệp cũ lại gây như trước. Xua heo vào lò mổ, nào ngờ cha mình sắp rã thây. Ăn thịt con mà không biết, ăn thịt cha mà chẳng hay, vua Văn Vương còn như thế thì phàm phu cũng thế thôi. Năm xưa ân ái, nay thành oan gia; thuở trước oán cừu, nay thành ruột thịt. Đời trước là mẹ, mà nay là vợ; thuở xưa là cha, nay lại là chồng. Lấy Trí túc mạng mà soi, thật đáng hổ thẹn biết mấy; dùng Thiên nhãn mà nhìn, thấy đáng chán, đáng cười biết bao! Trong bụng đầy phẩn, mười tháng rúc chui, hết còn chịu nổi; qua đường ngập máu, một phen lộn ngược sinh ra, đáng thương biết mấy! Nhỏ dại biết chi, kia đây chẳng rõ, lớn khôn dần hiểu, tham dục bèn sinh. Loáng thoáng mới đó, già đau đã tới, chẳng mấy chốc cơn vô thường lại đến tìm. Gió lửa trong lúc giao tranh, thần thức tơi bời rối loạn. Khí huyết bên trong vơi cạn, xương thịt bên ngoài teo khô. Không một kẽ chân lông nào không bị kim đâm, không một nơi khiếu huyệt nào không bị dao cắt. Rùa già đem nấu, lột được vỏ ra, e rằng còn dễ; thần thức sắp đi, phải lìa khỏi xác, khó gấp bội phần! Tâm không thường làm chủ, giống kẻ lái buôn khắp nơi rong ruổi; thân không hình cố định, khác nào phòng ốc nay đổi mai thay. Chỉ như mảy bụi ở trong ba ngàn cõi, thân nọ quay cuồng, nhấp nhô như sóng bốn biển, qua lại vô tận vô cùng, nước mắt ly biệt trào dâng kể sao cho xiết! Xương chồng chất vượt quá núi cao, thịt chứa nhóm nhiều hơn đất dày. Giả sử không được nghe lời Phật dạy, việc như thế ai thấy ai nghe. Không được xem kinh Phật, thì lý đó ai hay ai biết? Vậy mà có kẻ vẫn tham luyến như xưa, si mê không bỏ. Chỉ e ngàn đời muôn kiếp, một lầm trăm lẫn, dây dưa trăm kiếp. Thân người khó được mà dễ mất, vận may dễ qua mà khó tìm. Âm cảnh mờ mịt, ly biệt dài lâu. Ác báo ba đường, rồi phải tự chịu. Khổ không thể nói, ai chịu thay cho? Nhân nói đến đây, thật cảm thấy trong lòng lạnh lùng đau xót. Cho nên, phải dứt dòng sinh tử, thoát biển ái dục, mình người cùng thoát, bờ giác cùng lên. Công lao muôn kiếp, chính được bắt đầu từ buổi hôm nay. Đó là nhân duyên thứ sáu của sự phát tâm Bồ đề.

7. Thế nào là tôn trọng tánh linh của mình?

Tâm của chúng ta trong hiện tiền, so với đức Thế Tôn Thích Ca không hai không khác. Thế thì, vì sao Thế Tôn đã thành Chánh Giác từ vô lượng kiếp, còn chúng ta thì vẫn điên đảo hôn mê làm phàm phu? Lại nữa, Thế Tôn có đủ vô lượng thần thông trí tuệ, công đức trang nghiêm; còn chúng ta chỉ có vô lượng phiền não, nghiệp chướng, sinh tử buộc chặt? Tâm tánh chỉ một, do mê ngộ nên cách xa như trời vực. Cứ im lặng mà suy ngẫm lại xem, há chẳng thấy đáng xấu hổ sao? Ví như ngọc báu vô giá rơi xuống bùn nhơ, thì cũng xem giống như là ngói gạch, chẳng còn quý báu. Cho nên, phải dùng vô lượng thiện pháp để đối trị vô lượng phiền não. Có gia công tu đức, thì tánh đức mới sáng ra. Như ngọc báu được lau chùi, đem treo lên phướn cao thì tỏa ánh sáng rực chiếu, soi khắp tất cả. Thế mới đáng gọi là không phụ sự giáo hóa của Phật, chẳng phụ tánh linh của mình. Đó là nhân duyên thứ bảy của sự phát tâm Bồ đề.

8. Thế nào là sám hối nghiệp chướng?

Kinh dạy: "Phạm một giới nhỏ, bị đoạ Địa ngục lâu bằng năm trăm tuổi thọ của cõi trời Tứ thiên vương". Cát La tội nhỏ mà còn như thế, huống nữa tội nặng thì quả báo lớn thật là khó nói? Trong nếp sống hàng ngày, một cử chỉ, một hành động của chúng ta thường trái với luật Phật! Khi ăn, lúc uống phạm giới bao phen! Kể cả các điều vi phạm, chỉ trong một ngày cũng đã vô lượng, huống nữa trọn đời nhiều kiếp, tội lỗi gây ra thì khó mà nói hết! Chỉ lấy riêng Ngũ giới mà nói, cứ mười người giữ đã hết chín người phạm. Phát lộ thì ít, che dấu thì nhiều. Ngũ giới là giới tại gia còn không giữ nổi; huống nữa các giới Sa di, Tỷ kheo, Bồ tát, thôi khỏi bàn đến! Hỏi đến danh nghĩa thì tự xưng ta là Tỷ kheo; nhưng xét về thực chất, thì chưa xứng để làm một Phật tử! Há chẳng đáng hổ thẹn sao? Nên biết rằng, giới Phật không thọ thì thôi, đã thọ rồi thì không được hủy phạm; không phạm thì thôi, đã phạm rồi thì khó tránh sa đọa. Nếu không vì xót thương mình, thương người, mà lệ rơi theo tiếng thiết tha, thân quỳ lạy thảm thiết, cùng với chúng sinh cầu xin sám hối, thì dù ngàn đời muôn kiếp ác báo khó bề tránh khỏi. Đó là nhân duyên thứ tám của sự phát tâm Bồ đề.

9. Thế nào là cầu sinh Tịnh độ?

Tu hành ở cõi này rất khó tiến đạo, nhưng được vãng sinh cõi kia thì việc thành Phật lại dễ dàng. Vì dễ dàng nên một đời có thể đạt được; vì quá khó cho nên muôn kiếp chưa chắc tựu thành. Vì vậy, Thánh Hiền đời trước, các vị đều thú hướng về đây; ngàn kinh muôn luận, chỗ nào cũng giải bày nghĩa này. Việc tu hành trong đời mạt pháp không còn pháp nào hơn được pháp ấy. Song, kinh nói rằng: "Ít căn lành khó được vãng sinh, nhiều phước đức mới về cõi Tịnh". Nói phước đức dày, không chi bằng chấp trì danh hiệu; nói điều lành nhiều, phát tâm rộng lớn chiếm ưu tiên. Cho nên, chấp trì danh hiệu trong chốc lát, hơn hẳn công đức bố thí cả trăm năm; vừa phát được tâm Bồ đề rộng lớn, liền vượt trội công đức tu hành trong nhiều kiếp. Bởi vậy, niệm Phật là mong ước làm Phật, nếu tâm lớn không phát thì niệm cũng chẳng ích chi. Phát tâm là nhằm mục đích tu hành, nếu Tịnh độ không sinh thì tuy có phát tâm, nhưng cũng dễ thối chuyển. Thế thì gieo giống Bồ đề, phải cày bằng lưỡi cày niệm Phật, đạo quả tự nhiên tăng trưởng. Cỡi thuyền đại nguyện, vào được biển lớn Tịnh độ, quyết định vãng sinh Tây Phương. Đó là nhân duyên thứ chín của sự phát tâm Bồ đề.

10. Thế nào là làm cho chánh pháp tồn tại lâu dài?

Thế Tôn từ vô lượng kiếp, vì tất cả chúng ta mà tu đạo Bồ đề. Ngài làm được việc khó làm, nhẫn được điều khó nhẫn. Cho nên, khi nhân quả tròn đủ, Ngài mới thành Phật. Sau khi thành Phật, giáo hóa hoàn tất, Ngài vào Niết bàn. Nay thời chánh pháp đã qua, thời tượng pháp đã hết; dù Phật và pháp vẫn còn đó, mà không có người tu hành. Tà chánh chẳng phân, phải trái lẫn lộn. Tranh đua nhân ngã, toàn phường lợi danh. Ngước mắt nhìn quanh, mọi người đều như vậy, chẳng ai thoát khỏi. Mịt mù chẳng biết Phật là ai? Pháp là gì? Tăng nghĩa ra sao? Suy tàn đến thế, không thốt nên lời! Nhưng mỗi khi nghĩ đến những việc ấy, thì bất giác lệ tuôn. Ta là Phật tử mà không thể đền đáp công ơn Phật? Trong vô ích cho mình, ngoài chẳng lợi cho người. Sống vô ích cho đời, chết vô ích cho hậu thế. Trời tuy cao không che nổi ta, đất tuy dày không chở nổi ta. Người mang tội nặng, không phải ta thì là ai? Do đó, lòng đau không thể chịu nổi, toan tính cũng chẳng đề xuất được kế gì. Bỗng nhiên, vụt quên rằng mình quê mùa, chợt phát tâm trí rộng lớn. Tuy chưa thể kéo mạt vận trở lại ngay trong lúc này, nhưng quyết định phải hộ trì được chánh pháp mai sau. Cho nên, cùng các Thiện hữu dắt nhau đến đạo tràng, soạn thuật sám pháp, lập pháp hội này. Phát bốn mươi tám đại nguyện, nguyện nào cũng nhằm hóa độ chúng sinh, cầu trăm ngàn kiếp thâm tâm, tâm nào cũng hướng đến chỗ làm Phật. Kể từ hôm nay cho đến tận cùng đời vị lai, thề hết thân này, thề quyết phải sinh về An Dưỡng. Sau khi lên xong chín phẩm, trở lại Ta Bà(25), khiến cho mặt trời Phật pháp sẽ được sáng lại, cửa vào chánh pháp phải được mở toang. Tăng chúng thanh tịnh ở cõi này, nhân dân được độ khắp tất cả. Kiếp vận nhờ đó kéo dài, chánh pháp do đây bền vững. Đây là tâm nguyện chân thành, từng được thiết tha ấp ủ! Đó là nhân duyên thứ mười của sự phát tâm Bồ đề.

Như vậy, mười duyên đã biết, tám tướng đã rõ. Thú hướng có lối, khai phát có nơi. Chúng ta đã được làm người, được ở đất có văn hóa, sáu căn không thiếu, cơ thể mạnh khỏe, đầy đủ tín tâm, may mắn không gặp ma chướng. Huống nữa còn được xuất gia, thọ giới Cụ túc, được gặp đạo tràng, được nghe Phật pháp, được tu sám pháp, được gặp bạn lành, được đủ duyên may. Như thế, nếu hôm nay không chịu phát tâm rộng lớn thì đợi đến bao giờ?

Cúi xin đại chúng xót thương cho tấm lòng thành ngu muội của tôi, thương tiếc xét cho cái chí nguyện khổ sở của tôi, để cùng nhau cùng lập nguyện ấy, cùng phát tâm này. Ai chưa phát thì nay phát, ai phát rồi thì nên tăng trưởng, ai tăng trưởng rồi thì nay cứ tiếp tục. Đừng thấy khó mà sợ hãi lùi bước, đừng cho dễ mà khinh thường, đừng ham mau mà không giữ được bền lâu, đừng lười nhác mà mất lòng dõng mãnh, đừng rụt rè mà giảm khí thế đang lên, đừng vì chần chờ mà hẹn nay, hẹn mai. Đừng tự cho mình ngu mà buông thả tất cả, đừng vì căn cơ chậm lụt mà mặc cảm rằng mình không được dự phần. Ví như trồng cây, trồng lâu thì rễ lần càng ăn sâu. Lại ví như mài dao, mài hoài thì dao cùn cũng phải bén. Đâu nên vì cạn mà không trồng, để mặc cho cây khô héo; hay vì cùn mà không mài, để mặc cho dao sét rỉ, thành vật vô dụng. Lại nữa, nếu bảo tu là khổ, đâu biết lười biếng lại khổ hơn. Tu chỉ nhọc nhất thời mà an vui vĩnh viễn, lười biếng thì tạm thong thả một đời mà chịu khổ muôn kiếp. Huống nữa, lấy pháp môn Tịnh độ làm tàu thuyền, thì lo gì thối chuyển; lại thêm có trí tuệ vô sinh làm sức đẩy, thì ngại gì gian nan. Nên biết, tội nhân ở Địa ngục còn phát tâm Bồ đề từ kiếp trước; nay được làm người lại là Phật tử, sao không lập đại nguyện ngay trong đời này?

Vì hôn mê từ bao kiếp trước, nên những gì qua rồi không thể cản ngăn. Nhưng ngày nay đã tỉnh ngộ, thì những gì sắp đến còn có thể đón bắt. Còn nếu mê mà chưa tỉnh đương nhiên là việc đáng thương, nhưng biết mà không làm mới thật là điều đáng tiếc. Nếu sợ cái khổ Địa ngục thì tự sinh khởi tinh tấn, nếu nghĩ cái chết gần kề thì sẽ không còn lười nhác.

Lại nữa, phải lấy Phật pháp làm roi giục, lấy bạn lành làm tay dắt. Vội mấy cũng không rời, trọn đời luôn bám chặt. Như vậy, không còn lo gì thối chuyển nữa. Chớ bảo rằng một niệm chẳng đi đến đâu, đừng cho rằng nguyện suông chẳng ích gì. Tâm chân thì việc thật, nguyện rộng lớn thì tâm hạnh sâu xa. Hư không chẳng có rộng lớn, tâm vương mới là rộng lớn; kim cương chẳng bền chắc, chỉ nguyện lực mới bền chắc.

Nếu đại chúng thật tâm, không vứt bỏ lời tôi, thì xin nguyện cùng làm quyến thuộc Bồ đề, bạn lành Tịnh độ. Nguyện cùng sinh Tịnh độ, cùng thấy Di Đà, cùng độ chúng sinh, cùng thành Chánh Giác.

Biết đâu, ba mươi hai tướng tốt và trăm phước trang nghiêm sau này, chẳng phải bắt đầu từ buổi phát tâm lập nguyện hôm nay! Nguyện cùng đại chúng cùng nhau gắng sức!

Rất mong lắm thay! Rất mong lắm thay!
  • CHÚ THÍCH:
(25) Ta Bà: Chỉ cho thế giới Ta Bà, tức là thế giới hiện thực do đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo hóa. Chúng sinh trong thế giới này làm mười điều ác, chịu đựng các phiền não mà không muốn lìa bỏ, vì thế gọi là nhẫn. Lại khi chư Phật, Bồ tát làm việc lợi lạc ở thế gian này, các ngài phải chịu mọi thứ phiền não, để biểu thị lòng vô úy và từ bi của các ngài, cũng gọi là nhẫn. Ta Bà còn được dịch là tạp ác, tạp hội, nghĩa là cõi Ta Bà là chỗ Tam ác, Ngũ thú tụ hội phức tạp.

Ngoài ra danh từ Ta Bà chỉ cho cõi Diêm Phù Đề, nơi cư trú của chúng sinh. Đời sau, Ta Bà trở thành một thế giới Tam thiên đại thiên do đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo hóa, cho nên gọi chung thế giới có trăm ức núi Tu Di là Ta Bà.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 8. Tin sâu nhân quả
Đã quyết định bước đi trên con đường huyền diệu, phải nên tẩy rửa tâm tư nơi đạo lớn, tin sâu nhân quả thế gian, xét rõ cội nguồn xuất thế. Muốn xét tận cùng nguồn cội, thì phải xét ở chỗ chính yếu; mà chỗ chính yếu phải từ nơi dụng, dụng ấy có lẽ lại từ nơi tâm chăng? Tâm bao gồm cả vạn hạnh, hội thông nơi muôn loài. Bởi lẽ, tâm không phải là pháp thường hằng, nên nương nơi thiện và ác mà thay đổi tác dụng. Vì tội và phước như bóng với hình nên nhân quả không trái nhau. Thế nên biết, đi vào cảnh mà động gọi đó là nhân; động mà sinh khởi ý thức gọi đó là duyên, duyên khởi thì nghiệp theo nhau, có nghiệp thì nhất định có quả báo. Do đó, những hành vi thiện ác là nhân của thế gian; còn Tam giới(26), Lục đạo(27), Cửu hữu (28), Tứ sinh(29) là quả của thế gian. Pháp môn niệm Phật là nhân xuất thế gian; cửu phẩm hóa sinh thành Phật nơi Tịnh Độ là quả của xuất thế gian.

Trong lòng hiểu rõ nhân quả như ở trên, do đó không ưa thích pháp thế gian. Đối với pháp xuất thế thì tâm hạnh không trái ngược, niệm niệm không quên Tịnh Độ, tâm tâm chẳng rời Di Đà. Làm sao biết được như thế? Vì hiện nay là nhân, lúc lâm chung là quả. Nên biết, nhân chân thật thì quả không hư dối.

Hai con đường thiện ác, hai quả báo khổ vui đều từ nơi ba nghiệp(30) tạo nên, bốn duyên(31) sinh ra, sáu nhân(32) làm thành, năm quả(33) thâu nhiếp. Nếu một tâm niệm sân hận hoặc tà dâm là nghiệp Địa ngục, xan tham không chân thật là nghiệp Ngạ quỷ; ngu si tăm tối là nghiệp Súc sinh; ngã mạn cống cao tức là nghiệp A tu la; giữ vững năm giới là nghiệp Người; tinh chuyên tu mười điều lành là nghiệp Trời; chứng ngộ nhân không là nghiệp Thanh văn; rõ lý duyên khởi là nghiệp Duyên giác; tu hành Lục độ(34) là nghiệp Bồ tát; chân thật, từ bi, bình đẳng là nghiệp Phật.

Nếu tâm thanh tịnh thì hóa sinh nơi cõi Tịnh, đài hương cây báu; tâm cấu uế thì thọ thân nơi thế giới nhơ xấu, gò nổng, hầm hố. Đó đều là quả báo ngang nhau, vì hay đồng cảm nên nhân duyên tăng trưởng mãi. Vì vậy, rời tự tâm, không có thể tánh nào khác. Kinh Duy Ma nói: "Muốn được Tịnh Độ, chỉ cần thanh tịnh tâm mình". Thế nên biết, tất cả đều trở về tâm, muôn pháp đều do nơi mình. Muốn thành tựu quả thanh tịnh, chỉ cần thực hành nhân thanh tịnh.

Hơn nữa, hạng Xiển Đề(35) do tà kiến sâu dày, nên nhất định phải rơi vào Địa ngục ngàn kiếp; vì chê bai bài bác rằng không có nhân quả, đó chính là quyến thuộc của ma. Nếu quán xét sự báo ứng giống như hình với bóng, tin có nhân quả rõ ràng, thì mới thấy thật là đáng kinh sợ!
  • Khổ qua đắng tới gốc
    Dưa ngọt, ngọt tận rễ.


    CHÚ THÍCH:
(26) Tam giới: Chỉ cho Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới.
  • a. Dục giới: Thế giới của loài hữu tình có tính dâm dục, sắc dục và thực dục cư trú. Trên từ cõi trời Tha Hóa Tự Tại thứ sáu, giữa gồm bốn đại châu cõi người, dưới đến địa ngục Vô gián. Vì nam, nữ ở lẫn lộn, nhiềuthứ dục nhiễm nên gọi Dục giới.

    b. Sắc giới: Sắc có nghĩa là biến ngại hoặc thị hiện, là thế giới cư trú của loài hữu tình đã xa lìa dâm dục của cõi Dục, nhưng vẫn còn có sắc chất thanh tịnh. Cõi này ở phía trên cõi Dục, không có các htứ dục nhiễm, cũng không có thân nữ. Chúng sinh ở cõi này đều do hóa sinh, cung điện cao lớn, là do sự hóa sinh của sắc, tất cả đều thù thắng đẹp đẽ. Vì cõi vẫn còn sắc chất, nên gọi là Sắc giới. Cõi này tùy theo thiền định sâu cạn, thô diệu mà được chia làm bốn bực, từ Sơ thiền Phạm Thiên cho đến A Ca Nị Tra Thiên, tất cả có mười tám tầng trời.

    c. Vô sắc giới: Thế giới cư trú của loài hữu tình chỉ có thọ, tưởng, hành, thức, không có một vật gì là vật chất, cũng không có thân thể, cung điện, quốc độ, chỉ có tâm thức trụ trong thiền định sâu xa mầu nhiệm, nên gọi là Vô sắc giới. Thế giới này ở phía trên cõi Sắc, có tất cả bốn tầng trời (Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ và Phi Phi Tưởng Xứ) cũng gọi là Tứ vô sắc, Tứ Không xứ.
(27) Lục đạo: Chỉ cho sáu đường thọ sinh thùy theo nghiệp lực của chúng sanh:
  • a. Địa ngục.
    b. Ngạ quỷ.
    c. Súc sinh.
    d. Tu la.
    e. Người.
    f. Trời.
Trong đó, ba đường trước gọi là ba ác đạo, ba đường sau gọi là ba thiện đạo.

(28) Cửu hữu: Chín chỗ cư trú của chúng hữu tình, tức trời, người nơi cõi Dục, trời Phạm Chúng, trời Cực quang Tịnh, trời Biến Tịnh, Trời Vô Tưởng, trời Không Vô Biên, trời Thức Vô Biên, trời Vô Sở hữu, trời Phi Tưởng Phi Phi tưởng.

(29) Tứ sinh: Chỉ cho bốn loài hữu tình trong sáu đường thuộc ba cõi, gồm:
  • a. Noãn sinh: (Andajayoni) loài sinh ra từ trứng như: ngỗng, khổng tước, gà, rắn, cá, kiến.

    b. Thai sinh (Jalabuja, còn gọi là Phúc sinh): Loài sinh ra từ thai mẹ, như người, ngựa, voi, trâu, bò, heo, dê, lừa...

    c. Thấp sinh (Samsedaja, còn gọi là Nhân duyên, Hàn nhiệt hòa hợp sinh): Loài sinh ra từ khí ẩm ướt ở những nơi ẩm thấp như các loài thiêu thân, muỗi, sâu, mối mòng, sâu mè...

    d. Hóa sinh (Opapatika): Loài không chỗ nương tựa bỗng nhiên sinh ra gọi là Hóa sinh như các loài hữu tình: chư thiên, địa ngục, trung hữu, đều do nghiệp lực đời quá khứ mà hóa sinh.
(30) Ba nghiệp: Thân, miệng, ý.

(31) Bốn duyên:
  • a. Nhân duyên: Tự thể sinh tự quả là nhân, lấy nhân làm duyên.
    b. Đẳng vô gián duyên: Tâm và tâm sở lần lượt không gián đoạn tiếp nối sinh khởi.
    c. Sở duyên duyên: Tâm và tâm sở theo duyên mà sinh, hay là chỗ mà tự tâm duyện lự (nghĩ ngợi).
    d. Tăng thượng duyên: Sáu căn soi cảnh vật phát khởi thức, có lực dụng tăng thượng, khi các pháp sinh, chẳng sanh chướng ngại.
(32) Sáu nhân: Luận về thể của nhân, có sáu thứ: năng tác nhân, câu hữu nhân, đồng loại nhân, tương ưng nhân, biến hành nhân và dị thục nhân.

(33) Năm quả: Là quả hữu vi, vô vi do sáu nhân sinh ra và từ đạo lực mà chứng được:
  • a. Đẳng lưu quả, còn gọi là Tập quả.
    b. Dị thục quả, còn gọi là Báo quả.
    c. Ly hệ quả, còn gọi là Giải thoát quả.
    d. Sĩ phu quả, còn gọi là Công dụng quả.
    e. Tăng thượng quả.
Trong đó, Ly hệ quả thuộc về quả vô vi, bốn quả còn lại đều thuộc về hữu vi.

(34) Lục độ: Sáu hạnh rốt ráo mà Bồ tát Đại thừa cần phải thực hiện để đạt đến Phật quả. Sáu hạnh là:
  • a. Bố thí Ba la mật (Thi Ba la mật, Đàn na Ba la mật, Bố thí độ vô cực): Nghĩa là bố thí một cách rốt ráo viên mãn, gồm tài thí, pháp thí và vô úy thí. Hạnh này dùng để đối trị với tham lam bỏn xẻn, tiêu trừ được bần cùng.

    b. Trì giới Ba la mật (Giới Ba la mật, Thi La Ba la mật, Giới độ vô cực): Giữ gìn giới luật một cách trọn vẹn để đối trị với nghiệp ác, khiến cho thân tâm được an lạc.

    c. Nhẫn nhục Ba la mật (Nhẫn Ba la mật, Sằn đề Ba la mật, Nhẫn nhục độ vô cực): Nhẫn nhục mà không trụ tướng để đối trị với sân hận, khiến cho tâm được an trụ.

    d. Tinh tấn Ba la mật (Tấn Ba la mật, Tì lê da Ba la mật, Tinh tấn độ vô cực): Tự khuyến thân tâm thực hành không gián đoạn năm Ba la mật kia, để đối trị với lười biếng, làm tăng trưởng pháp lành.

    e. Thiền định Ba la mật (Thiền Ba la mật, Thiền na Ba la mật, Thiền độ vô cực): Thiền định thù thắng nhất. Bồ tát tu thiền định này có thể đến cảnh giới cứu cánh.

    f. Trí huệ Ba la mật (Huệ Ba la mật, Bát nhã Ba la mật, Minh độ vô cực): Trí huệ vô phân biệt. Nương vào trí huệ này có thể thành tựu năm Ba la mật kia.
Nếu phối hợp sáu Ba la mật này với tam học là giới, định, tuệ, thì thí giới, nhẫn thuộc về Tăng thượng giới học; Thiền Ba la mật về Tăng thượng tâm học; Bát nhã Ba la mật thuộc về Tăng thượng huệ học, còn Tinh tấn Ba la mật thì thông cả tam học.

Tông Pháp tướng lại chia trí huệ Ba la mật thành bốn loại: phương tiện, nguyện, lực, trí cùng với sáu Ba la mật thành mười Ba la mật cũng là thắng hạnh của Bồ tát.

(35) Xiển đề: Chỉ những chúng sinh ưa thích sanh tử, không mong cầu xuất ly. Cho nên, các kinh chú Lăng Già, phần nhiều cho rằng Xiển đề rốt cuộc không thể thành Phật.. Xiển đề thành Phật là thuyết của kinh Đại Bát Niết Bàn. Tư tưởng căn bản của kinh này là chủ trương tánh Phật thường trụ và hết thảy đều có, do đó cho rằng Nhất Xiển đề cũng có tánh Phật, cho dù có dứt mất căn lành thì tánh Phật vẫn thường trụ không thay đổi, cuối cùng cũng có thể thành Phật.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 9. Đọc tụng kinh điển Đại thừa:
Đã có lòng hâm mộ cõi Tây Phương, thì phải nên tìm cầu nghĩa lý rốt ráo để tu hành. Tuy trong chỗ tối tăm có báu vật, nhưng nếu không có đèn soi rốt cuộc cũng không thể tìm thấy được. Gương xưa chôn vùi trong cát bụi, nếu chẳng chùi lau thì làm sao ánh sáng hiển bày. Thế nên, cần phải điều phục ba nghiệp, cứu xét một tâm; chân thật tôn kính văn kinh, nghiền ngẫm ý nghĩa huyền diệu của bậc Thánh; vào sâu cội nguồn giáo pháp, thấu rõ cơ dụng của chư Phật. Đường nghĩa lý đã thông suốt, thì tự nhiên thấy rõ hoa tâm. Đâu chẳng nghe nói: "Dây leo nương nơi tùng bách mà bò lên cao ngàn trượng, nương nhờ nhân thù thắng mới có được lợi ích rộng lớn". Như cây quế mọc ở non cao, nhờ mây sương mới được trổ hoa tươi thắm; sen mọc trên sóng biếc, bụi bay chẳng thể ô nhiễm lá xanh. Tuy tính chất của sen tự thanh khiết, quế vốn kiên trinh, nhưng bởi vì nương tựa chỗ cao thì vật nhỏ không thể làm lụy, nương dựa vào nơi thanh tịnh thì vật uế trược chẳng thể làm nhiễm ô. Cây cối vô tri còn nhờ chỗ tốt mà trở thành tốt đẹp vẹn toàn như thế, thì con người có tâm thức, đâu thể không nhân nơi tâm mình mà chứng ngộ tâm Phật. Há chẳng nghe Đại sư Trí Giả tụng Pháp Hoa thấy Linh Sơn chưa tan pháp hội. Thiền sư Khuê Phong đọc Viên Giác bỗng nhiên tâm địa khai thông. Phổ Am khế hội ý chỉ kinh Hoa Nghiêm, đạt đến cội gốc quên hết tình chấp. Lục Tổ nhân câu kinh: "Nên không trụ vào đâu" (ưng vô sở trụ), mà tỏ ngộ tông chỉ Bát nhã. Xét thấy các bậc Cao đức thuở xưa còn tuân theo như vậy, lẽ nào người đời nay lại không lấy đó để học tập?

Như thế, thật đáng gọi là:
  • Qua sông phải dùng thuyền
    Đến bờ thuyền bỏ lại.
10. Khuyên bảo mọi người tiến tu:

Từ bi rộng lớn là môn học Phật đầu tiên, là con đường chính của Bồ tát. Khuyên bảo tiến tu là hạnh chủ yếu làm lợi ích mọi người, là nhân thù thắng của Tịnh nghiệp.

Các bậc Hiền trong Liên Xã thời Tấn, đều nguyện sinh về An Dưỡng. Hải chúng khắp mười phương, đều ưa thích ra khỏi Ta bà. Than ôi! Sinh tử khó thoát ra, vô thường thật mau chóng. Như thế, có thể không noi theo các bậc Hiền triết, vui thích thực hành và dẫn dắt lớp người đi sau chăng?

Khuyên một người, hai người, cho đến nhiều người, đó là sự bố thí pháp trong nhà Phật. Niệm một đức Phật, hai đức Phật, cho đến muôn đức Phật, nhằm để tiến đến đạo diệu huyền Cực Lạc. Định khóa mỗi ngày niệm ngàn câu Phật, tích lũy từ tháng đến năm thì có ba mươi sáu vạn câu Phật. Tích lũy không lười biếng, thì cũng gần với địa vị Phật. Mỗi ngày làm một việc thiện nhỏ, tích lũy từ tháng đến năm thì có ba trăm sáu mươi việc lành. Siêng năng tích lũy, thì cũng gần với bậc quân tử.

Là kẻ ngu, là tiểu nhân mà không biết sám hối ắt đồng với cầm thú, bởi vì họ không học, cũng không có người khuyên bảo. Kinh nói: "Nếu người đem bảy loại báu khắp bốn thiên hạ để cúng dường Phật, Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn được phước rất nhiều, nhưng chẳng bằng khuyên người niệm Phật một câu, phước đức này còn hơn phước đức của người kia". Đó là lời khuyên bảo của đức Thế Tôn. Luận ngữ nói: "Mình muốn thành lập nên giúp người thành lập; mình muốn thành đạt nên giúp người thành đạt". Đó là lời khuyên bảo của Khổng Tử(36).

Thế nên, cần phải khuyến khích đồng bạn tu tập Tịnh hạnh. Hoặc tháng giêng, tháng năm, tháng chín cùng nhau họp mặt một lần; hoặc lấy thời gian nửa năm, một năm, ba năm làm một kỳ hạn để gặp nhau, trồng sâu căn lành đều hồi hướng khắp tất cả chúng sinh. Thường vì bạn đạo giúp đỡ lẫn nhau, một người thối lui biếng nhác thì chung sức nắm tay dẫn dắt tiến lên. Một người bỏ tu tập theo phàm tục, thì bạn bè lần lượt quan tâm, giúp đỡ. Tuy không thể truyền bá giáo pháp lợi ích rộng khắp mọi loài, nhưng cũng có thể ôn cũ để biết mới. Đâu chẳng thấy cho người một đồng tiền, mà người còn gọi là nhận ân huệ; giúp người một lời có ích, lẽ nào họ lại không hay biết? Bố thí tiền của chỉ cứu giúp nghèo khó trong một đời, bố thí thức ăn chỉ cứu giúp sinh mạng trong một ngày, nhưng bố thí giáo pháp có thể khiến người ra khỏi thế gian, công đức này đâu thể so sánh được! Bố thí tiền của như ngọn đèn chỉ soi sáng một căn nhà, bố thí pháp như mặt trời soi khắp cả đại thiên thế giới. Lẫn tiếc giáo pháp không khuyên người tu tập, thì nhiều kiếp chìm trong Địa ngục tối tăm. Suy xét nơi tâm mình mà thực hành hóa đạo, thì ngay hiện đời tức là A Di Đà.

Dám mong mọi người vận dụng lòng từ của mình mà khuyến khích lẫn nhau, dùng bi nguyện kết duyên thanh tịnh, cứu vớt những kẻ đắm chìm trong vòng sinh tử. Đây là lối tắt thoát khỏi nẻo luân hồi, cùng nhau lên Tịnh độ, để mong báo đáp ân đức Phật.

Như thế, đáng gọi là: "Người chưa hóa độ, nay được độ".
  • CHÚ THÍCH:
(36) Khổng Tử: Tên là Khâu, tự Trọng Ni, sinh ngày 27 tháng 8 năm 551 trước Công nguyên, vào thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc, tại ấp Trâu, làng Xương Bình, nước Lỗ (nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc). Nhiều sử sách ghi rằng ông sinh trong một gia cảnh nghèo, nhưng thực tế gia đình ông có ông tổ ba đời vốn thuộc dòng quý tộc sa sút từ nước Tống dời đến nước Lỗ. Cha của Khổng Khâu, Thúc Lương Ngột (cháu 13 đời của Vi Tử Diễn, anh của vua Trụ nhà Thương), là quan võ thuộc ấp Trâu, đến 70 tuổi mới lấy Nhan Thị mà sinh ra ông.

Năm lên ba, Khâu mồ côi cha, lớn lên phải làm lụng vất vả để nuôi mẹ, nhưng rất ham học. Năm 19 tuổi, ông lấy vợ và làm một chức quan nhỏ coi kho. Năm 22 tuổi, ông mở lớp dạy học. Học trò gọi ông là Khổng Phu Tử, hay gọi gọn hơn là Khổng Tử. "Tử" ngoài ý nghĩa là con ra, còn có ý nghĩa là thầy. Do vậy Khổng Phu Tử là thầy Khổng.

Trong suốt gần 20 năm, từ năm 34 tuổi, Khổng Tử dẫn học trò đi khắp các nước trong vùng để truyền bá các tư tưởng và tìm người dùng các tư tưởng đó. Có nơi ông được trọng dụng nhưng cũng có nơi ông bị coi thường. Năm 51 tuổi, ông quay lại nước Lỗ và được giao coi thành Trung Đô, năm sau được thăng chức Đại Tư Khấu (coi việc hình pháp) kiêm quyển Tể Tướng. Sau ba tháng, nước Lỗ trở nên thịnh trị. Nhưng rồi bị ly gián, dèm pha, ông bèn từ chức và lại ra đi một lần nữa.

Năm 68 tuổi, Khổng Tử trở về nước Lỗ, tiếp tục dạy học và bắt tay vào sọan sách. Trong những năm cuối cùng này, ông đã soạn ra bộ Ngũ Kinh. Ông mất tháng 4 năm 479 trước Công nguyên, thọ 73 tuổi.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

LIÊN TÔNG BẢO GIÁM
QUYỂN HAI

THIÊN THỨ HAI
CHÁNH GIÁO NIỆM PHẬT
Pháp giới vốn không có chúng sinh, thấy có chúng sinh là do có vọng kiến (cái nhìn phân biệt, chấp trước). Như Lai vốn không lời dạy, có lời dạy là vì muốn độ thoát loài hữu tình. Vọng kiến là bệnh của chúng sinh, lời dạy là thuốc của chúng sinh. Lấy thuốc trị bệnh thì bệnh đều được lành, lấy lời nói để thức tỉnh sự mê vọng thì mê vọng đều trở thành giác ngộ. Tất cả đều ở trong sinh hoạt hàng ngày của phàm phu mà họ chẳng hay biết, nên đạo của Như Lai hiếm người nhận được. Do đó, bậc Đại Giác Năng Nhân thương xót mọi loài chưa tỏ ngộ, nên phát khởi lòng từ bi rộng lớn chỉ dạy khuôn phép khéo léo. Thời Hoa Nghiêm khai thị một cách viên đốn, hàng Thanh văn còn như kẻ điếc, người mù; thời A Hàm thì phương tiện tùy thuận căn cơ, nên Bồ tát chưa được lợi ích; thời Phương Đẳng thì tán thán Đại thừa; thời Bát Nhã lại quét sạch không còn; đến thời Niết Bàn thì mọi đường khác nhau cùng trở về một lối, và thời Pháp Hoa thì đều thọ ký cho tất cả. Thế nên, bao nhiêu kinh điển đều khen ngợi Tây Phương, bởi lẽ Phật A Di Đà có nguyện rộng lớn, duyên sâu dày. Giáo pháp tôn quý, nghĩa lý đầy đủ nên được như thế. Giáo thì chỉ cho cõi Phật, là chỗ trở về. Ao hoa, đất báu trang nghiêm thắng diệu, khiến người ưa thích cõi ấy mà chán nản thế giới này. Lý thì chỉ rõ Di Đà là tánh thật của chính mình, mỗi niệm tròn sáng, tâm tâm đều là thật tướng, như biển cả dung nạp trăm dòng. Hạnh thì mở ra mười sáu pháp quán(37), thu nhiếp tâm nơi cảnh mầu nhiệm, thấu rõ tánh tướng đều rỗng không, như gương sáng thấy rõ mặt mình. Quả thì chín phẩm hóa sinh theo thứ bậc, thu nhiếp cả căn cơ lợi độn, đồng lên bậc Bất thối, tiến đến đạo giác ngộ tột cùng.

Thế nên, chúng sinh trong chín pháp giới(38), dùng tâm thấu rõ đạo lý không có được gì cả để tu hạnh vi diệu Tịnh độ. Việc ấy chẳng phải là điều nên làm hay sao? Hoài bão xuất thế của Như Lai ở trọn nơi đây. Những lời nói nghiêng về tán dương Tịnh độ đích thực có ý chỉ.

Pháp môn này thật là cửa chính yếu của trăm ngàn Tam muội, là con đường thẳng đạt đến cảnh giới chân thật. Luận về sự nghi thì sám hối sáu căn sạch trong ba nghiệp; cứu xét tông chỉ thì vạn pháp rỗng không, thấu rõ nhất tâm. Đó gọi là chiếc thuyền kiên cố vượt qua biển khổ, là thuốc hay cứu chữa bệnh cấp bách. Người tin đạo này thì khai mở tâm sáng suốt vốn sẵn có, thoát khỏi nỗi khổ trong cõi đời Ngũ trược, đạt được Tịnh độ chân thật, tỏ ngộ bản tánh Di Đà. Giống như trăng sáng giữa trời không, ví tợ hoa sen ra khỏi nước, cho nên giáo pháp này được gọi tên là Liên tông.

Dương Vô Vi nói: "Liên là ra khỏi bùn lầy mà chẳng bỏ thế giới chúng sinh. Hoa sen ở trong hư không vô nhiễm hiển lộ thể tánh thanh tịnh. Hoa có hạt, chẳng phải là cảnh giới ma. Hoa, hạt đồng thời, nhân quả như một. Hoa nở hạt sen hiện là bày tỏ quyền biến và chân thật. Hoa rụng, hiển lộ hạt sen là phế bỏ quyền biến lập chân thật. Một hạt sen sinh ra vô lượng hoa là dựng lập tất cả pháp. Mười phương đồng một hoa tạng là biểu thị cảnh Phật không khác biệt. Ý nghĩa của giáo pháp Liên tông đâu chẳng phải như thế sao?"

Thế nên, vận dụng lòng từ bi, dạo chơi nơi cõi Thường Tịch Quang(39); giới hạnh trong sáng thấu suốt giáo nghĩa rộng lớn sâu xa, bơi lội trong bể cả giải thoát. Do đó, được Thiên Long hộ trì, vua quan tôn kính. Xưa nay, sự giáo hóa này chẳng suy vi, sĩ dân đồng ngưỡng mộ đạo phong. Nếu chẳng phải do sức mạnh của tâm từ bi rộng lớn, thương xót an ủi chúng sinh tu tập trong thời mạt pháp, thì ai có thể làm được như thế? Vì vậy, Bồ-tát Long Thọ dùng luận để chứng minh; các bậc Hiền ở Liên Xã thời Đông Tấn cùng nhau tu hành; ngài Thiên Thai phân định giáo pháp và giải thích; ngài Từ Ân soạn Thông Tán, ngài Từ Chiếu biên tập Sám Nghi; ngài Tông Đản làm sớ giải. Cao tăng, danh Nho phụng trì tôn kính như nhóm họp châu báu; cao Hiền, đạt sĩ tu tập, sử sách còn ghi.

Than ôi! Phật pháp dần suy, cách Thánh càng xa. Kẻ thờ Phật thì nhiều, người vì đạo lại ít, chỉ lấy việc cạnh tranh tiếng tăm, lợi dưỡng làm tài năng của mình, xem sự truyền bá chánh pháp là trò của trẻ con. Vì thế, khiến cho pháp môn suy tàn, cương lĩnh giáo pháp bị nghiêng đổ. Thật phải nhờ người Hiền đời sau khắc phục gánh vác đạo này. Mong khắp tất cả mọi người hãy quên thân vì pháp, suy xét lại chính mình để nương tựa theo bậc thầy sáng suốt.

Muốn đạt được Chân thừa, trước hết cần phải nghiên cứu giáo điển; tiếp thu giáo pháp mới có thể hiểu rõ nghĩa lý, hiểu rõ nghĩa lý sau đó mới tu hành. Hạnh nguyện không thiếu thì có thể chứng đắc đạo quả. Thế nên biết, khi tai nghe mắt thấy phải y theo bốn pháp để suy tư tu tập. Miệng tụng mà tâm trái ngược, dù hiểu biết ngàn chương nào có ích gì. Đó chính là: đối với tâm thì lấy giáo pháp để soi sáng, đối với Phật thì lấy việc xưng niệm để giữ gìn; đối với sai quấy thì lấy giới luật để ngăn ngừa; đối với tội lỗi thì lấy sám hối làm cho trong sạch. Đối với người tu đạo cần phải thực hành chân thật, việc làm nên phù hợp với lễ nghi; gần thì mong lập thân vang danh, xa thì mong chuyển phàm thành Thánh. Phát huy đạo của Phật Tổ, ngoài chúng ta ra thì còn ai thực hiện điều đó?

Nắm chặt thanh gươm trí tuệ, chém nát mạng lưới ma quân; uống cam lồ chánh pháp, phá tan rừng rậm tà kiến. Tránh bạn ác như tránh hổ lang, thờ bạn lành như thờ cha mẹ. Cẩn thận giữ gìn ý chí, chớ nên thối thất đại tâm. Noi theo bậc Chánh Giác, chớ làm các việc trái với đạo; có lỗi cần phải mau sửa đổi, có điều hay chớ nên khoe khoang. Nếu làm được như vậy thì tự nhiên tai họa tiêu trừ, phước lành hội tụ, tuy hiện đang ở trần thế mà mọi người kính trọng, chư Thiên trợ giúp. Ngày sau ở nơi cõi Tịnh có thể thành tựu quả Thánh, đạt đến đại đạo. Lẽ nào lại ở nơi việc xem đoán số mạng trên hình tướng, hoặc nịnh hót để mong cầu vinh hiển thành đạt? Đâu cần nhìn xem hình dáng để xét đoán ngày lâm chung? Những điều đó chẳng phải sự thấy biết của người tu chân chính, chỉ là vọng tình của kẻ phàm tục.

Chớ theo kẻ khác để tìm cầu, chỉ nên y nơi bổn phận của mình. Gặp việc nhân từ chớ bỏ qua, thấy người hiền nên suy nghĩ làm sao để được bằng họ. Danh lợi không làm dao động tinh thần, sinh tử chẳng thể làm nhọc nhằn lo lắng. Muốn công thành chí toại, phải từ chỗ gần mà đến nơi xa; nên xét kỹ quả để biết được nhân, tin có làm thì có quả báo.

Trí tuệ đủ để chiếu phá mê lầm, sáng suốt đủ để soi tỏ chỗ tối tăm. Lời nói thì có thể làm khuôn phép, việc làm thì có thể an vui. Đạo đức, nhân nghĩa đáng để noi theo, tiến thoái có thể đo lường; phân biệt giả dối thấu rõ chân thật, rõ chân như đá đẹp thử vàng, xua tối tăm soi sáng vạn vật, giống như ngọn đèn chân thật chiếu sáng thế gian. Nếu được như thế, đó là bậc Đại Đạo sư, là người bạn không cần đợi mời mới đến. Lấy ra Bảo tạng ở Long cung, bố thí rộng rãi cho mọi loài; mở toan quan ải của Tổ sư, đón tất cả mọi người đến học tập. Dẹp trừ bệnh tà, chỉ dẫn chúng sinh trở về nguồn cội nhiệm mầu, khiến cho gương mờ được lau chùi sáng lại, như áo nhơ nhờ giặt giũ mà được sạch trắng sạch. Tông phong chân thật chấn hưng trở lại, phước đức phổ cập thế giới đại thiên, mặt trời trí tuệ thêm sáng tỏ, ánh sáng chói chang muôn thuở. Như thế, thật đáng gọi là người con chân thật của đấng Pháp Vương, đáng gọi là bậc Đại trượng phu. Đem những điều ấy mà phụng sự giáo pháp cho đức Phật ở Tây Phương, nào có hổ thẹn gì?
  • CHÚ THÍCH:
(37) Mười sáu pháp quán: Mười sáu pháp quán ghi trong kinh Quán Vô Lượng Thọ giúp cho hành giả niệm Phật được vãng sinh Tây Phương, đó là:
  1. Nhật tưởng quán: ngồi xoay mặt về hướng Tây, quán kỹ mặt trời sắp lặn, hình dáng như cái trống treo, tâm an trụ vững chắc, chuyên tưởng không dời. Đã thấy mặt trời rồi thì mở mắt, nhắm mắt đều thấy rõ ràng.
  2. Thủy tưởng quán: ban đầu thấy Tây Phương đều là nước, lại khởi tưởng là băng, thấy băng trong suốt, tưởng như lưu ly.
  3. Địa quán tưởng: quán tưởng phía dưới có kim tràng bảy báu, nâng mặt đất lưu ly, trên đất lưu ly có dây vàng ròng đan khít nhau, mỗi thứ báu đều có năm trăm tia sáng nhiều màu sắc.
  4. Bảo thụ quán: quán cõi nước Cực Lạc có bảy lớp hàng cây, hoa lá bảy báu đều đầy đủ, mỗi hoa mỗi lá đều có bảy báu khác nhau, phía trên các cây có giăng bảy lớp lưới.
  5. Bảo trì quán: quán tưởng cõi nước Cực Lạc có ao nước tám công đức, trong mỗi ao nước có sáu mươi ức hoa sen bảy báu, nước ma ni trôi chảy trong ấy diễn nói diệu pháp, lại có chim màu sắc trăm báu, thường khen ngợi niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
  6. Bảo lâu quán: quán lầu gác báu. Thực hành quán tưởng này thì tức khắc thành tựu năm pháp quán ở trên, nên còn gọi là tổng quán. Tổng quán tưởng, tổng tưởng quán. Quán tưởng trên mỗi mỗi cõi có năm trăm lầu báu, trong lầu báu có vô lượng chư thiên đang trỗi kĩ nhạc.
  7. Hoa tọa quán: quán tòa sen mà Phật và hai vị Bồ tát ngồi.
  8. Tượng quán: quán tưởng tượng Phật sắc vàng Diêm phù đàn ngồi trên hoa sen, lại quán tượng hai Bồ tát Quán Âm, Thế Chí đứng hầu hai bên, cả ba vị đều phóng kim quan.
  9. Chân thân quán: quán tưởng chân thân Phật Vô Lượng Thọ. Thực hành pháp quán tưởng này sẽ thấy được tất cả các chư Phật.
  10. Quán Âm quán: tức quán tưởng Bồ tát Quán Thế Âm đang đứng hầu Phật A Di Đà.
  11. Thế Chí quán: tức quán tưởng Bồ tát Đại Thế Chí đang đứng hầu Phật A Di Đà.
  12. Phổ quán: quán tự thân về thế giới Cực Lạc, ngồi kiết già trong hoa sen. Khi hoa sen nở có năm trăm tia sáng màu sắc đến chiếu khắp thân, cho đến Phật, Bồ tát đầy khắp hư không.
  13. Tạp tưởng quán: quán tưởng thân Phật cao trượng sáu đứng trên ao sen hoặc hiện thân lớn đầy khắp hư không, tức tạp quán chân Phật, hóa Phật thân lớn, thân nhỏ.
  14. Thượng bối quán: người vãng sinh Tịnh độ tùy theo nhân tu mà có ba bậc vãng sinh thượng, trung, hạ; ba bậc này lại chia làm ba phẩm thượng, trung, hạ, cộng chung thành chín phẩm. Thượng bối quán là quán bậc chúng bậc thượng, tự phát tam tâm, tu từ tâm, không sát sinh... lâm chung được Thánh chúng đón rước, sau khi vãng sinh được các tướng lợi ích thù thắng.
  15. Trung bối quán: tức quán đồ chúng bậc trung, thọ trì ngũ giới, bát giới, tu hạnh hiếu dưỡng cha mẹ... và cảm dược tướng Thánh chúng đón rước vãng sinh.
  16. Hạ bối quán: tức quán đồ chúng bậc hạ, tuy tạo tác ác nghiệp nhưng khi sắp lâm chung, nhờ gặp được thiện tri thức chỉ dạy, nên biết niệm danh hiệu A Di Đà, nhân đó được vãng sinh, được các tướng lợi ích thù thắng.
Theo Quán Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ, phần đầu, ngài Huệ Viễn chia mười sáu pháp quán này thành hai loại, bảy môn trước là quán y báo, chín môn sau là quán chánh báo. Trong mười pháp quán sau thì năm môn trước nói về quán Phật, Bồ tát, môn thứ sáu nói về tự vãng sinh quán, môn thứ bảy nói về quán Phật, Bồ tát; ba môn cuối nói về vãng sinh quán. Quán Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ, hạ của ngài Trí Khải chia mười sáu quán thành ba loại: sáu pháp quán đầu là quán y quả, bảy quán kế là quán chánh báo, ba pháp quán cuối nói về việc vãng sinh cửu phẩm của ba hạng chúng sinh. Các vị như Huệ Viễn... đều cho rằng mười sáu pháp quán này là pháp quán Định Thiện, ngài Thiện Đạo thì cho rằng chỉ có mười ba pháp quán trước là Định Thiện, ba pháp quán sau là Tán Thiện. Trong Định Thiện thì bảy pháp quán trước là y báo quán, sáu pháp kế là chánh báo quán.

(38) Chín pháp giới: chín cõi của loài hữu tình cư trú.
  • a. Dục giới ngũ địa: còn gọi là ngũ thú tạp cư địa (hoặc tạp trụ địa), cõi của năm loài hữu tình ở chung lẫn nhau: Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh, Người, Trời.

    b. Ly sinh hỷ lạc địa: thuộc trời sơ thiền của cõi Sắc. Sự hỷ lạc có được do lìa các pháp dục, ác ở cõi Dục.

    c. Định sinh hỷ lạc địa: thuộc trời đệ nhị thiền của cõi Sắc. Cảnh giới do định mà phát sinh hỷ lạc thù thắng.

    d. Ly hỷ diệu lạc địa: thuộc trời đệ tam thiền của cõi Sắc. Cảnh giới an lạc thù thắng vi diệu do lìa trạng thái hỷ thô trọng ở nhị thiền của cõi Sắc mà được diệu lạc ở tam thiền.

    e. Xả niệm thanh tịnh địa: thuộc trời đệ tứ thiền của cõi Sắc. Cảnh giới thanh tịnh do lìa bỏ trạng thái hỷ lạc của các địa trên.

    f. Không vô biên xứ địa: thuộc tầng trời thứ nhất của cõi Vô sắc. Cảnh giới chứng đắc tính hư không vô biên tự tại, do lìa tính vật chất của cõi sắc.

    g. Thức vô biên xứ: thuộc tầng trời thứ hai của cõi Vô sắc, cảnh giới mà thức đạt được rộng rãi không ngằn mé.

    h. Vô sở hữu xứ địa: thuộc tầng trời thứ ba của cõi Vô sắc. Cảnh giới tư tưởng dứt bặt do lài tính động của không vô biên xứ địa và thức vô biên xứ địa.

    i. Phi tưởng phi phi tưởng xứ địa: thuộc tầng trời thứ tư (tức trời hữu đảnh) của cõi Vô sắc. Cảnh giới vắng lặng do lìa tưởng và vô tưởng, lìa cả chấp có lẫn không.
(39) Thường Tịch Quang: Tịnh độ mà pháp thân của chư Phật, Như Lai an trú; một trong bốn độ do tông Thiên Thai chủ trương. Thế giới mà Phật an trụ thuộc về chân như bản tánh, không có sự sinh diệt biến hóa (Thường) và sự nhiễu loạn của phiền não (Tịch), đồng thời có ánh sáng trí huệ (Quang) nên gọi là Thường Tịch Quang độ. Quốc độ này là cõi nước tối cực bí tạng do Phật tự chứng, lấy pháp thân, giải thoát, Bát Nhã làm Thể, đầy đủ bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh.

Kinh Quán Phổ Hiền Bồ tát Hành Pháp (Đại 9, 392 hạ) ghi: "Phật Thích Ca Mâu Ni được gọi là Tỳ Lô Giá Na biến nhất thiết xứ, trụ xứ của đức Phật này gọi là Thường Tịch Quang, Thường Ba la mật Sơ Nhiếp Thành Xứ, Ngã Ba la mật Sở An Lập Xứ, Tịnh Ba la mật Diệt Hữu Tướng Xứ, Lạc Ba la mật Bất Trụ Thân Tâm Tướng Xứ".

Quốc độ này có chia ra phần chứng và cứu cánh khác nhau, chia làm ba phẩm: thượng, trung, hạ. Theo thuyết của Duy Ma Kinh Lược Sớ 1 thì quốc độ mà pháp thân bậc Diệu giác an trụ là Thượng phẩm Tịch Quang độ, quốc độ mà bậc một đời nữa là bước lên địa vị Đẳng Giác an trụ là Trung phẩm Tịch Quang độ, còn quốc độ mà bậc sơ trụ trở lên của viên giáo an trụ là Hạ phẩm Tịch Quang độ. Vị tăng đời Bắc Tống là ngài Tứ Minh Tri Lễ lại phối hợp Thật Báo độ và Tịch Quang độ với thỉ giác và bản giác, đề xướng thuyết Tịch Quang Hữu Tướng, còn vị tăng đời Bắc Tống là ngài Tịnh Giác thì đề xướng thuyết Tịch Quang Vô Tướng.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chương 1
ĐỨC PHẬT NÓI PHÁP NIỆM PHẬT CHO PHỤ VƯƠNG
Kinh Bảo Tích nói: "Phụ vương Tịnh Phạn đảnh lễ dưới chân Phật, một lòng chắp tay bạch Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn, làm sao tu hành để được đạo của chư Phật?

Đức Phật đáp:

- Tất cả chúng sinh đều là Phật. Nay Phụ vương nên niệm Phật A Di Đà ở thế giới Tây Phương, thường siêng năng tinh tấn thì sẽ được đạo của chư Phật.

Phụ vương hỏi:

- Bạch Thế Tôn, tại sao tất cả chúng sinh đều là Phật?

Đức Phật đáp:

- Tất cả pháp không sinh, không dao động, không lấy bỏ, không tướng mạo, không tự tánh. Phụ vương nên ở trong pháp Phật ấy mà an trụ tâm mình, đừng tin nơi người khác!

Khi ấy, vua Tịnh Phạn và bảy vạn người dòng họ Thích nghe nói về pháp này, ai nấy đều tin hiểu hoan hỷ, tỏ ngộ Vô sinh nhẫn
".

Đức Phật mỉm cười nói bài kệ rằng:
  • Dòng Thích trí quyết định
    Thế nên trong Phật pháp
    Tâm quyết tin an trụ
    Sau khi mạng chung rồi
    Được sinh cõi An Lạc
    Gặp Phật A Di Đà
    Vô úy thành Bồ đề.
Chương 2
THIỆN TÀI THAM VẤN 53 VỊ THIỆN TRI THỨC,
BAN ĐẦU GẶP TỶ KHEO ĐỨC VÂN
NÓI VỀ MÔN NIỆM PHẬT
Phẩm Nhập Pháp Giới trong kinh Hoa Nghiêm nói: Tỷ kheo Đức Vân bảo Thiện Tài rằng:

- Thiện nam tử! Tôi được sức mạnh hiểu biết, quyết định tự tại, lòng tin thanh tịnh, ánh sáng trí tuệ tỏ rạng, quán xét khắp cả cảnh giới, rời tất cả chướng ngại, đầy đủ hạnh thanh tịnh, đi khắp mười phương cúng dường chư Phật. Thường niệm tất cả chư Phật Như Lai, giữ gìn chánh pháp của tất cả chư Phật và thường thấy tất cả chư Phật, tùy theo nơi các thứ tâm ưa thích của chúng sinh, thị hiện đủ mọi môn thành tựu Chánh Giác. Ở trong đại chúng, gầm lên tiếng Sư tử.

- Thiện nam tử! Tôi chỉ được pháp môn: "Nghĩ nhớ tất cả cảnh giới chư Phật. Trí tuệ sáng suốt thấy khắp cả" này. Gọi là môn niệm Phật trí sáng soi khắp, môn niệm Phật khiến cho tất cả chúng sinh niệm Phật, môn niệm Phật khiến cho an trụ lực, môn niệm Phật khiến cho an trụ pháp, môn niệm Phật chiếu soi các phương, môn niệm Phật vào chỗ không thể thấy, môn niệm Phật trụ nơi các kiếp, môn niệm Phật an trụ trong tất cả thời, môn niệm Phật an trụ trong tất cả cõi, môn an trụ tất cả đời niệm Phật, môn an trụ tất cả cảnh niệm Phật, môn an trụ nơi lặng lẽ niệm Phật, môn an trụ nơi xa lìa niệm Phật, môn an trụ nơi rộng lớn niệm Phật, môn an trụ vi tế niệm Phật, môn niệm Phật an trụ trang nghiêm, môn an trụ nơi làm được mọi việc niệm Phật, môn an trụ nơi tâm tự tại niệm Phật, môn an trụ nơi làm việc của chính mình niệm Phật, môn an trụ nơi thần thông biến hóa niệm Phật, môn an trụ nơi hư không niệm Phật
.
Chương 3
BỒ TÁT TRÍ THỦ NÓI VỀ NIỆM PHẬT

Kinh Hoa Nghiêm nói:
  • Trong tất cả oai nghi
    Thường niệm công đức Phật
    Ngày đêm không tạm ngừng
    Việc như thế nên làm.
Chương 4
ĐẠI SĨ LONG THỌ KHUYÊN NIỆM PHẬT

Luận Đại Trí Độ(40) nói: "Đức Phật là bậc Pháp vương Vô thượng, chư đại Bồ tát là đại thần trong chánh pháp. Các vị đại thần trong chánh pháp chỉ tôn trọng bậc Pháp Vương, do đó Bồ tát phải nên niệm Phật". Lại bảo rằng: "Có các vị Bồ tát, tự nghĩ nhớ về thuở xưa, phỉ báng pháp Bát nhã, đọa vào đường ác. Dù trải qua vô lượng kiếp tu các hạnh lành khác, nhưng chưa được thoát khỏi. Về sau, gặp thiện tri thức chỉ dạy thực hành Niệm Phật Tam muội, liền diệt trừ tội chướng, mới được giải thoát".

Bài kệ còn nói:
  • Nếu người nguyện thành Phật
    Tâm niệm A Di Đà
    Tức thời Ngài hiện thân
    Nên con quy mạng lễ.


    CHÚ THÍCH:
(40) Luận Đại Trí Độ: gồm 100 quyển, do Bồ tát Long Thọ soạn, ngài Cưu Ma La Thập dịch vào đời Hậu Tần, thâu vào Đại chánh tạng tập 25, cũng gọi Đại Trí Độ Kinh Luận, Ma ha Bát nhã Thích Luận, Đại Trí Thích Luận, Thích Luận, Trí Độ Luận, Trí Luận, Đại Luận.

Nội dung luận này là giải thích kinh Đại Phẩm Bát nhã. Đại Trí Độ là dịch ý của từ Ma ha Bát nhã Ba la mật (trí tuệ lớn vượt qua đến bờ bên kia).

Tương truyền, nguyên văn của bộ luận này có hơn mười vạn bài tụng. Như vậy, bản 100 quyển hiện nay là ngài Cưu Ma La Thập đã dịch rút gọn lại, nếu dịch toàn bộ thì số quyển sẽ tới hơn 1000. Bài tựa đầu sách là do sư Tăng Tuệ soạn. Luận này viện dẫn rất nhiều kinh điển, là bộ luận rất quan trọng để lý giải Phật giáo Đại thừa.

Luận này giảng giải rõ ràng về học thuyết, tư tưởng, dụng lệ, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, quy định thực tiễn và tăng già. Những kinh luận được dẫn dụng bao gồm Thánh điển nguyên thủy, các bộ luận của Phật giáo bộ phái và các kinh điển của Phật giáo Đại thừa của thời kỳ đầu, như: Pháp Hoa, Hoa Nghiêm... Luận cũng đề cập đến học phái Thắng luận và các hệ tư tưởng khác của Ấn Độ thời bấy giờ, có thể nói đây là bộ bách khoa toàn thư của Phật giáo thời bấy giờ.
Chương 5
CÔNG ĐỨC NIỆM PHẬT CÓ BẢY ĐIỀU THÙ THẮNG

Trong Cam Lồ Sớ nói:

1. Từ ngữ ít nên dễ thực hành: vì chỉ xưng một câu A Di Đà Phật nên tất cả mọi người đều có thể niệm.

2. Niệm duyên theo cảnh Phật: vì nhất tâm niệm duyên nơi tướng hảo của thân Phật, lấy cõi thanh tịnh làm cảnh giới.

3. Lìa tai nạn được an vui: vì được chư Phật và Bồ tát gia hộ nên người niệm Phật không có các hoạn nạn, vui vẻ tốt lành.

4. Xưng danh diệt tội: vì niệm Phật một tiếng, diệt trừ được tội nặng của sự sinh tử trong tám mươi ức kiếp.

5. Trì niệm được phước: vì xưng một câu Phật hiệu được phước hơn đem bảy loại báu trong tứ thiên hạ cúng dường Phật và La hán.

6. Quả báo cảm được thấy Phật: vì chúng sinh niệm Phật, nên nhất định thấy Phật.

7. Đích thân Phật đón rước vãng sinh: Hóa Phật và Bồ tát phóng quang tiếp đón hành giả vãng sinh cõi Phật.
Chương 6
PHÁP MÔN TU TRÌ

Cảnh giới vô vi vượt khỏi ngữ ngôn, sắc tâm hữu lậu phải nhờ tu chứng. Chân như gồm đủ mọi đức, vì lập phương tiện nên có nhiều môn. Trên từ lìa tướng bình đẳng, dưới đến xưng danh mười niệm. Nói chung, chẳng rời ba thừa(41), vãng sinh thầm hợp chín phẩm; hữu niệm rốt cuộc trở về vô niệm, có sinh tiến thẳng đến chỗ không sinh. Thật đáng gọi là:
  • Một câu A Di Đà
    Muôn cơ đều thích ứng.


    CHÚ THÍCH:
(41) Ba thừa:
  • a. Thanh Văn thừa;
    b. Duyên Giác thừa;
    c. Bồ Tát thừa.
Ba xe dụ cho ba pháp môn chuyên chở chúng sinh vượt qua sinh tử đến bờ Niết bàn. Ba thừa là y cứ vào căn cơ chúng sinh có độn căn, trung căn và lợi căn khác nhau nên đức Phật nói.
Chương 7
PHÁP MÔN VÔ TRỤ LÌA TƯỚNG NIỆM PHẬT TAM MUỘI

Tông chủ Từ Chiếu nói: "Lìa Tướng Niệm Phật Tam muội là người trí căn cơ bậc thượng". Tỏ ngộ lý thâm sâu này, thường vận dụng tâm bình đẳng như hư không, không có tướng ngã nhân, chúng sinh, thọ giả. Kinh Kim Cang nói: "Lìa tất cả tướng gọi là chư Phật".

Luận rằng: "Ngã là do chấp bên trong, nhân là do chấp bên ngoài, chúng sinh là do chấp vào sự hòa hợp của năm uẩn(42) thuở trước, thọ giả là chấp vào thời gian của mạng sống về sau. Đã không có tâm chấp trong ngoài, trước sau, thì tất cả các tướng thảy đều rỗng lặng". Thế nên, kinh Viên Giác nói: "Biết không có ngã nhân, thì ai chịu luân chuyển? Cũng không có thân tâm để nhận sự sinh tử". Đó gọi là Lìa Tướng Niệm Phật Tam muội.

Như thế, thì thấy bản tánh của tất cả chúng sinh đều đồng với Phật Di Đà. Đã không chấp hai bên hữu tướng, vô tướng, cũng không chấp vào cái thấy có, không đoạn diệt và thường hằng, mỗi niệm A Di Đà xuất thế, nơi nơi Cực Lạc hiện bày. Niệm như thế là "niệm mà không có gì để niệm là niệm chân như; sinh mà không có gì để sinh thì sinh thật tướng". Thế nên biết, không niệm tức là lìa niệm, thật tướng là vô tướng. Không tướng thì không trụ, vô trụ thì vào cảnh giới Phật. Đó chính là đạo giác ngộ rộng lớn chân chánh vô thượng.

Nếu đến chỗ đó thì không tu không chứng, không có sinh tử để thoát ra, không có Niết bàn để mong cầu. Tánh tướng đều rỗng không, Thánh phàm bằng nhau. Không có Phật đạo để thành, không có chúng sinh để độ, không có tánh linh của chính mình để được. Một niệm vô vi, mười phương dứt bặt; không một pháp sẵn có, không có một pháp mới thành. Đây và kia thâu nhiếp lẫn nhau, Sự Lý không ngăn ngại, mỗi hạt bụi đều đầy đủ, tất cả cõi nước hiện rành rõ. Pháp vốn như thế nghĩ bàn chẳng tới.

Như thế, thật đáng gọi là:

  • Các đức Phật mười phương
    Cùng một đường Niết bàn.


    CHÚ THÍCH:
(42) Ngũ uẩn: năm nhóm tích trụ tất cả pháp hữu vi theo từng loại khác nhau. Một trong ba khoa (Uẩn, Xứ, Giới).
  • a. Sắc uẩn: nhóm gồm tất cả sắc pháp.
    b. Thọ uẩn: các cảm thọ do khổ, vui, không khổ không vui... sinh ra.
    c. Tưởng uẩn: các thứ tưởng do nhãn xúc sinh ra.
    d. Hành uẩn: chỉ cho tất cả pháp hữu vi, ngoại trừ sắc, thọ, tưởng, thức, cũng tức là tác dụng của ý chí và tâm.
    e. Thức uẩn: nhóm gồm các loại thức như thức mắt, thức tai v.v...


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.20 khách