Bốn Mươi Tám Đại Nguyện Của Phật A Di Đà

Thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì pháp môn niệm Phật.

Điều hành viên: binh, battinh

Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bốn Mươi Tám Đại Nguyện Của Phật A Di Đà

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chánh Kinh:

Ngã tác Phật thời, thọ mạng vô lượng, quốc trung Thanh văn, Thiên nhân vô số, thọ mạng diệc giai vô lượng, giả linh tam thiên, đại thiên thế giới chúng sanh, tất thành Duyên giác, ư bách thiên kiếp, tất cọng kế giảo, nhược năng tri kỳ lượng số giả, bất thủ Chánh giác.

  • [Thọ mạng vô lượng, đệ thập ngũ nguyện. Thanh văn vô số, đệ thập lục nguyện].
Lúc tôi thành Phật, thọ mạng vô lượng. Trong nước tôi, Thanh văn, Trời, người vô số, thọ mạng cũng đều vô lượng. Giả sử chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới đều thành Duyên giác, trong trăm ngàn kiếp cũng nhau tính toán mà biết nổi số lượng ấy thì chẳng giữ ngôi Chánh giác.
  • [Nguyện thứ mười lăm: Thọ mạng vô lượng. Nguyện thứ mười sáu: Thanh văn vô số].
Giải:

Trong nguyện (15): "Thọ mạng vô lượng", trước tiên kinh bảo vị giáo của cõi ấy thọ mạng vô lượng. Kinh Pháp Hoa nói về thọ mạng của Sơn Hải Huệ Như Lai như sau: "Thọ mạng chẳng hạn lượng vì thương xót chúng sanh". Ấy là vì nếu đức Phật trụ thế trong một thời gian ngắn thì sự giáo hóa cũng ngắn ngủi, chúng sanh khó gặp gỡ được. Giáo chủ ở lâu nơi đời thì hóa duyên vô cùng, lợi lạc chúng sanh vô tận. Vì vậy, ngài Trừng Hiến khen ngợi: "Phật thọ vô lượng là hạnh đức giáo hóa đến tột bực", ai lại chẳng khâm ngưỡng lời nguyện ấy hay sao![/b]".

Tiếp đó kinh văn bảo thọ mạng của nhân dân trong cõi ấy cũng vô lượng. Ngài Trừng Hiến khen: "Nhân dân thọ mạng vô lượng là đức tánh bậc nhất của Tịnh Độ", rồi giải thích như sau: "Tu hành Phật đạo chỉ e sợ tử ma, vì sự gián đoạn giữa sống và chết, chính là căn nguyên tạo duyên thoái thất. Gặp Phật, nghe Pháp, gặp Thánh chúng, cúng dường chư Phật, thân cận bạn lành, khoái lạc tự nhiên chẳng có các khổ...", Nếu thọ mạng ngắn ngủi, di hận khó tính nổi, khác nào chén ngọc không đáy. Lời nguyện này thật là tối quan trọng!".

Đã sanh về Cực Lạc, gặp Phật nghe pháp, trong hết thảy thời hết thảy chỗ đều tăng thượng, chẳng có duyên thoái chuyển, thọ mạng lại vô lượng, nên chẳng luận là căn khí nào đi nữa, hễ sanh về cõi ấy sẽ quyết định thành Phật. Điều này được xưng tụng là đức tánh bậc nhất của Tịnh Độ kể cũng chẳng ngoa.

Nguyện mười sáu là Thanh văn vô số. Kinh chép: "Thanh văn, trời, người trong nước vô số". Ngài Trừng Hiến bảo: "A Di Đà Phật có đệ tử vô lượng, đó là một trong ba thứ vô lượng". Ba thứ vô lượng là Quang Minh, Thọ mang và Quyến thuộc vô lượng. Lời nguyện chỉ nói đến Thanh văn, nhưng ngụ ý kể cả Duyên giác.

Nếu có kẻ ngờ vực, kinh Bi Hoa dạy: "Chẳng có Thanh văn, Bích chi Phật thừa. Tất cả đại chúng thuần là Bồ tát vô lượng vô biên". Sao kinh này lại bảo "Thanh văn vô số?". Hai câu kinh này dường như mâu thuẫn nhau, nhưng nghĩa lý thật sự chẳng trái nghịch nhau. Với ba bậc vãng sanh, kinh này đều bảo :"phát Bồ đề tâm, một bề chuyên niệm". Ba bậc vãng sanh đều đã phát Bồ đề tâm thì hạnh của họ phải thuộc Bồ tát thừa, nên kinh Bi Hoa bảo: "thuần là Bồ tát". Trong cõi Cực Lạc, gọi là Thanh văn, Duyên giác là chỉ căn cứ trên mức độ đoạn được hoặc - chướng mà nói. Tuy đã đoạn được kiến, tư hoặc, nhưng chưa phá nổi trần sa hoặc và vô minh hoặc thì gọi là Thanh văn, chứ nào phải đâu hàng Nhị thừa chỉ cầu tự độ. Nếu chỉ cầu tự độ, chẳng nguyện độ người khác, làm sao phát nổi bồ đề tâm? Chẳng phát Bồ đề tâm, chẳng được vãng sanh!

Xét ra, Thanh văn có hai loại: Định tánh Thanh văn và Bất định tánh Thanh văn. Hàng Định tánh Thanh văn chỉ cầu Tiểu thừa Niết Bàn, các ngài bị Phật quở là "Tiêu nha bại chủng"; còn hạng Bất định tánh thì các ngài phát Bồ đề tâm cầu quả vô thượng Bồ đề. Nhân dân ở cõi Cực Lạc tuy gọi là "Thanh văn" mà lại qua được đến vô số cõi Phật xa xôi, làm vô lượng Phật sự, độ cho vô biên chúng sanh thì đây chính là hành vi của bậc Bồ tát, há dám bảo họ đều là Thanh văn thật sự hay sao? Những vị được gọi là "Thanh văn" ấy đều đã phát đại tâm Bồ tát, hành đại hạnh Bồ tát, hướng đến đại quả, họ thật đúng như kinh Bi Hoa bảo "thuần là Bồ tát" vậy.

"Tam thiên đại thiên thế giới" là cảnh giới hóa độ của một vị Phật. Nếu không gọi tam thiên đại thiên thì gọi là Ta Bà, đại thế giới, Phật sát... Mặt trời, mặt trăng và quả địa cầu của chúng ta là một tiểu thế giới, một ngàn tiểu thế giới như vậy chúng ta có một tiểu thiên thế giới, gom một ngàn tiểu thế giới thì có một trung thiên thế giới, gom một ngàn trung thiên thế giới thì có một đại thiên thế giới, ba lần nhân lên như thế nên một đại thiên được gọi là tam thiên đại thiên thế giới.

Chúng ta ai cũng biết rằng mặt trời và chín hành tinh hợp lại thành một thái dương hệ. Địa cầu chỉ là một ngôi sao quay quanh mặt trời trong thái dương hệ đó. Mặt trời chẳng những tự xoay mà nó còn đi vòng quanh trung tâm của một ngân hà tinh vân (khoa học gọi là Black Hole, hắc đỗng) mất một thời gian ước chừng hai vạn năm. Mặt trời cũng chỉ là một hành tinh trong dãy tinh vân mang tên Ngân Hà. Dãy Ngân Hà có chừng một ngàn ức hành tinh. Trong vũ trụ có vô lượng tinh vân. Bản thân của tinh vân cũng đang xoay vần. Ngân hà cũng chỉ là một thiên thể lớn trong vũ trụ mà thôi. Điều phát hiện mang tính cách sơ khởi của Thiên văn học đã chứng thực điều Phật dạy trong kinh: "Thế giới vô lượng".


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bốn Mươi Tám Đại Nguyện Của Phật A Di Đà

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chánh Kinh:

Ngã tác Phật thời, thập phương thế giới vô lượng sát trung, vô số chư Phật, nhược bất cọng xưng thán ngã danh, thuyết ngã công đức, quốc độ chi thiện giả, bất thủ Chánh giác.

  • [Chư Phật xưng tán, đệ thập thất nguyện].
Lúc tôi thành Phật, vô số chư Phật trong vô lượng cõi nước trong mười phương thế giới nếu chẳng cùng khen ngợi danh hiệu của tôi, thuật sự tốt lành của cõi nước và công đức của tôi thì chẳng giữ ngôi Chánh giác.
  • [Nguyện thứ mười bảy: Chư Phật đều khen ngợi].
Giải:

Xưng là xưng dương, thán là tán thán.

Ngài Vọng Tây bảo: "Trong bốn mươi tám nguyện, nguyện này rất thiết yếu vì nếu không có nguyện này, làm sao mười phương nghe được danh hiệu ngài. Chúng ta nay được gặp gỡ giáo pháp vãng sanh hoàn toàn là nhờ vào nguyện này, khá nên suy nghĩ kỹ".

Dù cho cõi ấy, Phật ấy công đức thắng diệu, thanh tịnh trang nghiêm, nhưng nếu chúng ta chưa từng được nghe thì biết nhờ vào đâu để phát khởi nguyện thù thắng cầu vãng sanh cõi ấy? Đức Bổn sư với lòng đại từ đại bi mẫn nên ngài đã nói cho chúng ta biết công đức của Phật ấy và sự thù thắng vi diệu của cõi Tây phương Cực Lạc.

Ngài Pháp Tạng cầu nguyện danh hiệu mình vang dội thập phương chỉ là để nhiếp thọ hết thảy chúng sanh trong mười phương vãng sanh Cực Lạc, rốt ráo thành Phật, Nếu không có lời nguyện này thì cái nguyện "mười niệm vãng sanh" cũng chỉ vô ích, bởi có nghe được pháp thì mới biết cách trì danh chứ!

Sách Hội Sớ giảng câu: "Xưng thán danh hiệu tôi" có ba nghĩa:
  • a. Chư Phật xưng dương đức hiệu của Phật Di Đà.

    b. Chư Phật khen ngợi người xưng danh hiệu của Phật A Di Đà trong kinh Tiểu Bổn đã nói: "... Chư Phật hộ niệm...".

    c. Chư Phật vừa ngợi khen lại vừa tự mình xưng niệm danh hiệu A Di Đà Phật.
Sách còn nói thêm: "Tam thế chư Phật do niệm Di Đà tam muội mà thành Chánh đẳng Chánh giác".


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bốn Mươi Tám Đại Nguyện Của Phật A Di Đà

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chánh Kinh:

Ngã tác Phật thời, thập phương chúng sanh, văn ngã danh hiệu, chí tâm tín nhạo, sở hữu thiện căn, tâm tâm hồi hướng, nguyện sanh ngã quốc, nãi chí thập niệm, nhược bất sanh giả, bất thủ Chánh giác. Duy trừ ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp.

  • [Thập niệm tất vãng sanh, đệ thập bát nguyện].
Lúc tôi thành Phật, mười phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi rồi chí tâm tin ưa, tất cả thiện căn tâm tâm hồi hướng nguyện sanh cõi tôi, dẫu chỉ mười niệm, nếu chẳng được sanh thì chẳng giữ Chánh giác. Chỉ trừ kẻ ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp.
  • [Nguyện thứ mười tám: Mười niệm ắt vãng sanh].
Giải:

"Chí tâm" là tâm chí thành, tột cùng của nguồn tâm, là nguồn gốc của bổn tâm. "Chí" còn có nghĩa là chơn thành, thành thật. "Tâm" là trân trọng, thành thật. "Tin" là trung tín, thuận theo pháp đã nghe. "Ưa" là ham thích, mong muốn, yêu mến, sung sướng, vui vẻ, mừng rỡ. Như vậy, "chí tâm tin ưa" là tâm lòng chơn thật, trọn vẹn, mong mỏi, yêu thích, tấm lòng hoan hỷ.

"Thiện căn" là sự lành nơi ba nghiệp: Thân, Khẩu, Ý. Do thiện lại có thể sanh ra diệu quả và các điều lành khác nên gọi là thiện căn.

"Tâm tâm" là tấm lòng tịnh niệm liên tục.

Trong chữ "Hồi hướng" thì "hồi" là xoay chuyển, "hướng" là hướng đến; hồi chuyển công đức mình đã tu để hướng đến điều mình mong mỏi thì gọi là hồi hướng. Sách Hoa Nghiêm Đại Sớ Sao, quyển 23 có ghi: "Hồi là chuyển, hướng là hướng đến. Chuyển vạn hạnh của mình để hướng đến ba chỗ nên gọi là hồi hướng... Ba chỗ là chúng sanh, Bồ đề và Thật tế". Vãng Sanh Luận quyển hạ cũng bảo: "Hồi hướng là đem công đức của chính mình thì cho khắp chúng sanh cùng được thấy A Di Đà Như Lai, sanh cõi Cực Lạc". Đây chính là nghĩa của hai chữ hồi hướng trong lời nguyện.

"Nguyện sanh cõi ta" chính là lời hồi hướng: nguyện hết thảy chúng sanh vãng sanh cõi Cực Lạc. "Mười niệm" là như kinh Quán Vô Lượng Thọ dạy: "Đầy đủ mười niệm xưng Nam Mô A Di Đà Phật". Ngài Vọng Tây bảo: "Trong khoảng mười niệm, chuyên xưng danh hiệu Phật thì là mười niệm. Chữ 'niệm' ở đây là xưng Nam Mô A Di Đà Phật. Đọc hết sáu chữ ấy là một niệm".

Ý nghĩa của câu này được các kinh, luận giảng như nhau: "Dầu chỉ mười niệm" ý nói: dầu chỉ xưng niệm danh hiệu mười niệm cũng được vãng sanh. Đây là nói mức độ thấp nhất nên bảo là "dầu chỉ", nếu có thể niệm nhiều hơn, niệm được càng nhiều càng tốt.

Kinh Bát Châu nói: "Lúc bấy giờ, A Di Đà Phật bảo Bồ tát ấy rằng: Muốn sanh về cõi ta nên thường niệm danh ta chẳng ngớt. [Làm] như vậy thì được vãng sanh về cõi ta".

Trong phần Hạ phẩm Hạ sanh, Quán Kinh cũng nói nếu có chúng sanh tạo nghiệp chẳng lành: ngũ nghịch, thập ác, làm đủ các việc chẳng lành. Lúc mạng chung, gặp thiện tri thức giảng cho diệu pháp, dạy cho niệm Phật (quán tưởng niệm Phật). Nếu chẳng niệm nổi thì nên xưng danh hiệu Phật: "Chí tâm như vậy chẳng để dứt tiếng, đầy đủ mười niệm xưng Nam Mô A Di Đà Phật. Do xưng danh Phật nên trong mỗi niệm trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử". Sau khi mạng chung liền được vãng sanh. Do những đoạn kinh trên, ta thấy rõ "mười niệm" được nói trong kinh này chính là Trì Danh Niệm Phật!

Với lời nguyện này, các vị Cổ đức chú giải kinh cũng hiểu khác nhau. Có vị bảo: "nguyện này thuộc về thượng phẩm, nói nguyện này tiếp độ hạ phẩm là sai". Lại có vị bảo: "... mười niệm được nói ở đây là dựa vào mười pháp để khởi niệm, chứ chẳng phải mười niệm xưng danh". Bảo "dựa vào mười pháp để khởi niệm" là ý nói mười niệm được dạy trong Kinh Di Lặc Sở Vấn. Kinh Di Lặc Sở Vấn chép:

"Đầy đủ những niệm như sau liền được vãng sanh An Lạc quốc độ. Có mười niệm, những gì là mười niệm?
  1. Đối với hết thảy chúng sanh thường sanh từ tâm; chẳng hủy hoại hạnh của họ.
  2. Với hết thảy chúng sanh, phát khởi bi tâm sâu xa,trừ bỏ ý tàn hại.
  3. Phát tâm hộ pháp, chẳng tiếc thân mạng. Với hết thảy các pháp, chẳng sanh phỉ báng.
  4. Thân, tâm thanh tịnh, chẳng nhiễm lợi dưỡng.
  5. Phát tâm Nhất thế chủng trí, hằng ngày thường niệm chẳng hề quên mất.
  6. Với hết thảy chúng sanh khởi tâm tôn trọng trừ ý ngã mạn, nói năng khiêm tốn.
  7. Chẳng ham thích những lời đàm luận của thế gian.
  8. Chú trong giác ý, sanh khởi các thứ thiện căn nhân duyên, xa lìa tâm ồn náo, tán loạn.
  9. Chánh niệm quán Phật, trừ khử các căn (nghĩa là không để lục trần làm nhiễm loạn thân tâm)".
Sách Tông Yếu nói: "Mười niệm như vậy phàm phu không làm nổi, phải từ Sơ địa Bồ tát trở lên mới thực hiện đầy đủ nổi mười niệm ấy".

Trong lời nguyện này có nói "chí tâm tin ưa". Quán Kinh cũng dạy: "Chí tâm như thế chẳng cho ngơi tiếng, đầy đủ mười niệm". Thế nào là chí tâm và thế nào là đầy đủ mười niệm? Đây chính là những điểm rất quan yết của lời nguyện này. La Thập đại sư giải thích những điểm trên một cách hết sức khéo léo, ảo diệu như sau:

"Ví như có người ở trong đồng hoang gặp phải ác tặc vung giáo, quơ gươm xông đến toan giết, người ấy rảo chạy, thấy mình phải vượt sông, Nếu chẳng vượt sông, khó giữ nổi đầu cổ, Lúc bấy giờ chỉ nghĩ cách vượt sống, mình chạy đến bờ sông, mặc áo mà lội hay cởi áo mà bơi?. Nếu vẫn mặc áo, sợ không qua sông nổi. Nếu cởi áo ra, sợ không kịp nữa. Chỉ nghĩ như vậy, không nghĩ gì khác. Cái ý nghĩ vượt sông khi ấy chính là nhất niệm. Mười niệm này đây chẳng để niệm khác xen vào. Hành giả cũng giống như thế: nếu niệm danh hiệu Phật hoặc niệm tướng Phật đều niệm Phật không gián đoạn cho đến mười niệm. Chí tâm như vậy thì gọi là mười niệm".

Sách Tông Yếu lại ghi: "Mười niệm nói trong kinh này có cả hai nghĩa ẩn mật và hiển liễu. Mười niệm hiển liễu là như mười niệm đại sư La Thập giảng trong đoạn văn vừa trích ở trên. Mười niệm ẩn mật là như các niệm trong kinh Di Lặc Sở Vấn đã nói.

Ngài Nghĩa Tịch bảo: "Trong mỗi niệm tự nhiên đầy đủ mười niệm: từ tâm v.v... (Kinh Di Lặc Sở Vấn)". Đó là trong nghĩa hiển liễu tự nhiên hàm chứa nghĩa ẩn mật. Lời nhận xét của ngài Nghĩa Tịch thật đã phô trọn lẽ huyền vi của Tịnh Tông. Người đời thường ưa thích sự huyền diệu, nhưng chẳng biết rằng sự huyền diệu tối cực lại chỉ nằm trong cái bình thường, nên Cổ Đức bảo: "Tâm bình thường là đạo". Chỉ cần tâm bình thường, ròng rặc tinh chuyên, miên mật niệm Phật thì tự nhiên thầm hợp diệu đạo, niệm niệm ly niệm. Dùng cái tâm phàm phu mà nhập được thật tướng các pháp thì chỉ có Trì Danh là dễ nhất. Vì sao niệm Phật lại có công đức như thế? Là vì niệm niệm đều thầm ứng với Thật tướng vậy".

"Chỉ trừ ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp". Tội ác trái nghịch với lý đến cùng cực thì gọi là "nghịch". Do ngũ nghịch sẽ cảm lấy ác nghiệp, khổ quả trong Vô Gián địa ngục cho nên gọi là Vô Gián Nghiệp.

Kinh A Xà Thế Vấn Ngũ Nghịch chép: "Có năm thứ tội nghịch; nếu tộc tánh tử, hoặc tộc tánh nữ phạm năm tội chẳng cứu được này, quyết sẽ đọa vào địa ngục, không còn ngờ gì nữa. Những gì là năm? Chính là: giết cha, giết mẹ, hại A xà lê, gây rối loạn chúng Tăng, khởi ác ý đối với Như Lai".

Kinh Hoa Nghiêm nói: "Ngũ nghịch là giết cha, giết mẹ, giết A la hán, phá Tăng, làm thân Phật chảy máu. Hai thứ đầu là bội ân dưỡng dục, ba thứ sau là phá phước điền. Vì vậy gọi là Nghịch".

Phạm các tội nghịch này ắt đọa Vô Gián địa ngục trong một đại kiếp chịu khổ quả không ngừng nghỉ và tưởng nổi.

Chữ "phỉ báng", phỉ có nghĩa giống như báng, báng là chê bai, nhục mạ, nói xấu người khác quá mức sự thật. Phỉ báng chánh pháp là phỉ báng Phật pháp. Đại nguyện "mười niệm ắt được vãng sanh" phổ độ hết thảy, nhưng không độ được kẻ đã phạm tội ngũ nghịch và hủy báng chánh pháp.

Quán Kinh dạy: "Ngũ nghịch, thập ác, lâm chung mười niệm cũng được vãng sanh"; kinh này loại trừ họ ra là vì đã phạm ngũ nghịch lại còn hủy báng chánh pháp, tội càng thêm tội (tội thượng gia bội). Vả lại, tội phỉ báng chánh pháp rất nặng! Kẻ báng pháp gọi là báng Xiển Đề nên chẳng được vãng sanh.

Hỏi: Quán Kinh bảo người phạm tội ngũ nghịch, nhưng chẳng hủy báng chánh pháp cũng được vãng sanh. Vậy thì kẻ chỉ hủy báng chánh pháp nhưng chẳng phạm tội ngũ nghịch có được vãng sanh hay không?

Vãng Sanh Luận Chú đáp: "Nếu chỉ hủy báng chánh pháp, chẳng phạm các tội khác, cũng nhất định chẳng được vãng sanh. Vì sao bảo vậy? Kinh dạy: Tội nhân ngũ nghịch đọa trong A Tỳ địa ngục, chịu đủ hết thảy cực hình (chỉ đến khi kiếp tận mới được ra). Người hủy báng chánh pháp đọa trong A Tỳ địa ngục, nếu kiếp này tận rồi bèn được chuyển sang A Ty địa ngục ở phương khác. Lần lượt trải qua trăm ngàn A Tỳ địa ngục như thế mà Phật chẳng huyền ký lúc nào sẽ thoát khỏi. Như vậy tội hủy báng chánh pháp nặng nề nhất".

Sách còn viết thêm: "Ông chỉ biết năm tội nghịch là trọng mà chẳng biết năm tội nghịch đều do không có chánh pháp mà sanh. Vì vậy, tội người báng chánh pháp rất nặng".

Trong Quán Kinh Sớ, Thiện Đạo đại sư lại có cách giải thích khác biệt: nói ngũ nghịch, báng pháp chẳng được vãng sanh là do Phật muốn ngăn ngừa điều ác nên phương tiện nói thế. Sách viết:

"Với nghĩa này, nên dùng Ức Chỉ Môn để hiểu. Trong bốn mươi tám nguyện loại trừ kẻ ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp là vì hai nghiệp này gây chướng rất nặng. Chúng sanh nếu trót phạm liền chuyển thẳng vào A Tỳ, kinh hoàng bao kiếp, biết nhờ đâu để thoát khỏi. Đức Như Lai sợ chúng sanh tạo hai tội lỗi ấy nên mới thốt lời ngăn ngừa 'chẳng được vãng sanh', nhưng chẳng phải là ngài chẳng nhiếp thủ bọn họ...

Dầu tạo tội vẫn được nhiếp thủ vãng sanh, tuy được vãng sanh nhưng hoa sen trong nhiều kiếp chưa nở. Lúc ở trong hoa, bọn tội nhân ấy có ba thứ chướng: một là chẳng được thấy Phật và các Thánh chúng; hai là chẳng nghe được chánh pháp; ba là chẳng qua được các nơi khác cúng dường. Trừ những điều trên ra không còn các nỗi khổ nào khác
".

Trong phần nói về tông chỉ của kinh, sách Hợp Tán cũng nhận định: "Nói chỉ trừ ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp là đối với căn cơ chưa tạo nghiệp, chỉ là để ngăn ngừa mà thôi. Nếu với căn cơ đã trót tạo nghiệp, đã hồi tâm thì Phật cũng nhiếp thủ chẳng để sót vậy".

Nói "trừ" nhưng thật ra nhằm ngăn ngừa điều ác để kẻ chưa tạo ác chẳng dám tạo. Kẻ đã trót tạo nếu biết hồi tâm, sám hối niệm Phật thì vẫn được nhiếp thủ như cũ chẳng để sót vậy.

Thiện Đại đại sư bảo: "Như Lai sở dĩ xuất hiện trong đời là chỉ để nói biển bổn nguyện của Phật A Di Đà" (Chư Phật sở dĩ hưng xuất thế duy thuyết Di Đà bổn nguyện hải) nhằm cứu vớt chúng sanh. Đại sư lại bảo: "Nay được gặp gỡ di tích của Phật Thích Ca trong đời mạt pháp, pháp môn trọng yếu bổn thệ nguyện Cực Lạc của Phật A Di Đà, hết thảy phàm phu thiện ác được vãng sanh không ai lại chẳng nương vào đại nguyện lực của A Di Đà làm tăng thượng môn vậy".

Thoạt nhìn, thuyết của Vãng Sanh Luận Chú tựa hồ mâu thuẫn với thuyết của Quán Kinh Sớ, nhưng thật ra cả hai thuyết dung thông lẫn nhau. Thuyết của Vãng Sanh Luận Chú thì phù hợp với ý chỉ ngăn ngừa của Như Lai. Khiến người kinh sợ chẳng dám báng pháp. Trung Luận lại có câu: "Kẻ ngu si trong đời này đã sanh lòng phỉ báng thì lẽ nào nguyện sanh?" Vì vậy, kinh dạy ngũ nghịch, báng pháp chẳng được vãng sanh. Quán Kinh Sớ thì hiển thị bi nguyện vô tận của Di Đà Phật: "Tuy ngũ nghịch, báng pháp nhưng lúc lâm chung lại có thể niệm Phật thì chính là Sám Hối Phát Tâm, người như vậy trong ức ức người khó được một hai kẻ, nên Phật vẫn từ mẫn nhiếp thọ".

Thiện Đạo đại sư lại bảo: "Hoằng thệ môn nói đến cả bốn mươi tám nguyện, nhưng chỉ bảo niệm Phật là thiết yếu. Ai niệm Phật thì Phật niệm người ấy. Chuyên tâm tưởng Phật thì Phật biết người ấy", Ngài lại bảo: "Chỉ có niệm Phật được quang minh nhiếp thọ. Ta nên biết rằng bổn nguyện là mạnh mẽ nhất".

Thiện Đạo đại sư viết trong sách Sự Tán như sau: "Mỗi một lời nguyện dẫn về nguyện thứ mười tám".

Sách Bình Giải nói: "Bốn mươi tám nguyện tuy rộng nhưng chỉ quy về nguyện thứ mười tám". Sách còn viết: "Do nơi nguyện này nên chúng sanh được vãng sanh về cõi không có ba đường ác, chẳng đọa đường ác nữa, đủ tướng hảo, hiện thần thông mà được diệt độ (đại Niết Bàn) do nhập vào biển quang minh, thọ lượng. Vì vậy, riêng nguyện này thật tối thắng".
  • Nguyện này thể hiện phương tiện rốt ráo, Nhất Thừa Nguyện Hải, sáu chữ Hồng Danh, công đức chẳng thể nghĩ bàn của Phật A Di Đà. Do danh hiệu chính là Thật Đức nên "thanh, chữ đều là Thật Tướng".

    PHỤ
    :
Hỏi: Nguyện lực của đức A Di Đà thâm diệu, thật không thể nghĩ bàn. Kẻ một đời tạo ác, khi lâm chung chỉ niệm mười niệm là được đới nghiệp vãng sanh; vậy thì, bây giờ tôi tạo tác theo duyên đời, đợi khi sắp chết rồi sẽ niệm Phật có được chăng?

Đáp: Thật khổ thay! Ý nghĩ này rất là mê muội và sai lầm, nguy hiểm còn hơn là thuốc độc, đã hại mình lại làm hại lây đến hàng Tăng Ni, thiện tín trong đời nữa!

Cổ Đức dạy: "Nhất triêu ngọa tật lại sàng, chúng khổ oanh triền bức bách, hiểu tịch thư thổn tâm lý hồi hoàng. Tiền lộ mang mang vị tri hà vãng. Tùng tư thỉ tri hối quá, lâm khát quật tỉnh hề vi? Tự hận tảo bất dự tu, niên vãng da chư quá cựu...".

Theo Luận Quần Nghi, trong đời có mười hạng người khi lâm chung không thể niệm Phật được:
  1. Không gặp bạn lành, nên chẳng ai khuyên niệm.
  2. Nghiệp khổ bức bách, không yên ổn tâm thần để niệm Phật.
  3. Trúng phong cứng họng, không thể xưng hồng danh được.
  4. Cuồng loạn, mất trí, không thể chú tâm tưởng niệm.
  5. Nếu gặp tai nạn nước, lửa, mất sự điềm tĩnh chí thành.
  6. Gặp ác thú làm hại.
  7. Gặp bạo bệnh hôn mê bất tỉnh mà qua đời.
  8. Khi lâm chung bị bạn ác phá hoại lòng tin.
  9. Bị thương chết liền giữa quân trận.
  10. Từ trên cao té xuống mà mạng vong.
Câu chuyện:
  • Ngô hữu danh vi Trương Tổ Lưu
    Khuyên y niệm Phật, thuyết tam điều
    Khước hận Diêm Công vô phân hiểu
    Tam điều vị liễu tiện lai câu
Dịch:
  • Ông bạn tôi tên Trương Tổ Lưu
    Tôi khuyên niệm Phật, hẹn ba điều
    Diêm vương ác hại không thèm hiểu
    Ba điều chưa xong vội bắt liều
    .
Ba điều chưa làm kịp:
  • a. Cha mẹ già chưa phụng dưỡng.
    b. Con cái chưa dựng vợ gã chồng.
    c. Việc nhà chưa thu xếp.
Do vậy, chớ nên:
  • Mạc đãi lão lai phương niệm Phật
    Cô phần đa thị thiếu niên nhân.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bốn Mươi Tám Đại Nguyện Của Phật A Di Đà

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chánh Kinh:

Ngã tác Phật thời, thập phương chúng sanh, văn ngã danh hiệu, phát Bồ đề tâm, tu chư công đức, phụng hành lục Ba la mật, kiên cố bất thoái. Phục dĩ thiện căn hồi hướng, nguyện sanh ngã quốc. Nhất tâm niệm ngã, trú dạ bất loạn. Lâm thọ chung thời, ngã dữ chư Bồ tát Thánh chúng nghinh hiện kỳ tiền, kinh tu du gian, tức sanh ngã sát, tác A Bệ Bạt Trí Bồ tát. Bất đắc thị nguyện, bất thủ Chánh giác.

  • [Văn danh phát nguyện, đệ thập cửu nguyện. Lâm chung tiếp dẫn, đệ nhị thập nguyện].
Lúc tôi thành Phật, mười phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi liền phát Bồ đề tâm, tu các công đức, phụng hành sáu Ba la mật kiên cố bất thoái, lại đem các thiện căn hồi hướng nguyện sanh cõi tôi, nhất tâm niệm tôi, ngày đêm chẳng ngớt. Lúc lâm chung tôi cùng các Bồ tát chúng hiện đến đón trước mặt, trong khoảnh khắc liền sanh cõi nước tôi, thành bậc A bệ bạt trí Bồ tát. Chẳng thỏa nguyện này, chẳng giữ lấy ngôi Chánh giác.
  • [Nguyện thứ mười chín: Nghe tên phát tâm. Nguyện thứ hai mươi: Lâm chung tiếp dẫn].
Giải:

"Danh hiệu" là tên hiệu. Danh để nêu rõ cái thể, hiệu là cái tên được phô ra ngoài để thiên hạ hay biết. Danh hiệu vốn được dùng để chỉ chung những tên hiệu của chư Phật, Bồ tát, nhưng trong kinh này chữ "danh hiệu" chuyên dùng để chỉ vị Giáo chủ cõi Cực Lạc A Di Đà.

"Phát Bồ đề tâm": Bồ đề là tiếng Phạn, cựu dịch là Đạo, tân dịch là Giác. Ngài Tăng Triệu bảo: "Đạo đạt đến chỗ cùng cực gọi là Bồ đề. Tàu không có tiếng nào dịch nổi. Ấy chỉ là chơn trí Chánh giác vô tướng mà thôi". Bồ đề tâm là cái tâm cầu chơn đạo, tâm cầu chánh giác. Bồ đề tâm còn có cái nghĩa là các tâm tự giác giác tha, nói tỉ mỉ thì như Vãng Sanh Luận Yếu Tập bảo có hai thứ Bồ đề tâm:
  • 1. Duyên sự Bồ đề tâm: (Đây chính là hạnh nguyện Bồ đề tâm trong Mật tông). Tâm này dùng Tứ hoằng thệ nguyện làm thể:
    • a. Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ: Đây là Nhân của Ứng thân Bồ đề.
      b. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn Nhân của Pháp thân Bồ đề.
      c. Pháp môn vô lượng thệ nguyện học: Nhân của Báo thân Bồ đề.
      d. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành: Nguyện cầu chứng đắc Phật quả.
Do thành tựu trọn vẹn ba hạnh nguyện trước nên chứng được tam thân Bồ đề viên mãn rồi lại lợi ích khắp chúng sanh.
  • 2. Duyên lý Bồ đề tâm: (Đây chính là tâm Thắng nghĩa Bồ đề trong Mật tông): Hết thảy các pháp vốn không tịch nên an trụ trong Trung đạo thật tướng để viên thành hạnh nguyện "Thượng cầu hạ hóa".

    Tâm Bồ đề nói ở đây là Tâm Bồ đề tối thượng tức là Duyên lý Bồ đề tâm.
Trong sách Tông Yếu, sư Nguyên Hiểu người xứ Tân La luận về Bồ đề tâm như sau: "Một là tùy sự phát tâm, hai là thuận lý phát tâm".
    • a. Tùy sự phát tâm:
Phiền não vô số đều nguyện đoạn cả: làm chánh nhân cho Đoạn đức của Như Lai; thiện pháp vô lượng đều tu: chánh nhân cho Trí đức của Như Lai; chúng sanh vô biên đều nguyện độ: chánh nhân Ân đức. Ba đức này gọi chung là nhân của Vô thượng Bồ đề.

Nhân quả tuy khác nhau nhưng rất rộng lớn, bình đẳng không sót, không gì mà nó chẳng bao gồm, như kinh nói: "Cả hai thứ phát tâm và rốt ráo. Trong hai thứ tâm như thế, tâm trước là khó: chưa tự đắc độ đã độ người khác. Vì vậy tôi lễ bậc sơ phát tâm". Quả báo của tâm này tuy là Bồ đề (thành Phật), nhưng Hoa báo lại là Tịnh Độ (vãng sanh). Vì sao thế? Bồ đề tâm lượng rộng lớn vô biên, dài lâu vô hạn nên cảm được y báo Tịnh Độ rộng lớn vô tận, chánh báo thọ mạng dài lâu vô lượng. Ngoại trừ Bồ đề tâm không thứ gì khác có khả năng làm được như thế. Vì vậy bảo tâm này là chánh nhân cho Bồ đề.
    • b. Thuận lý phát tâm:
Là tin hiểu các pháp đều như huyễn mộng, chẳng có, chẳng không, dứt nói năng, bặt suy lường. Dùng lòng tin hiểu đó để phát tâm rộng lớn, tuy chẳng thấy có phiền não hay thiện pháp, nhưng chẳng bác rằng không có gì để tu, để đoạn. Vì vậy, tuy nguyện đoạn tất cả, tu tất cả, nhưng chẳng trái nguyện với Vô nguyện Tam muội (Không, Vô tướng, Vô nguyện). Tuy nguyện đều độ vô lượng hữu tình, nhưng chẳng có quan niệm người độ và kẻ được độ, nên có thể tùy thuận Không, Vô tướng như kinh dạy: "Diệt độ vô lượng chúng sanh như vậy, nhưng thật không có chúng sanh nào được diệt độ" v.v... Phát tâm như thế chẳng nghĩ bàn. Đây là nói về Thuận lý phát tâm. Tùy sự phát tâm còn có thể bị thoái chuyển, kẻ bất định tánh (Bất định tánh Thanh văn) cũng có thể phát được tâm này. Thuận lý phát tâm thì chẳng bị thoái chuyển, chỉ căn tánh Bồ tát mới phát nổi. Phát tâm như thế công đức vô biên. Giả sử chư Phật trong suốt kiếp nói các công đức ấy còn chẳng thuật đủ được].

Trong đoạn văn trên của ngài Nguyên Hiểu, "Tùy sự phát tâm" chính là Duyên sự Bồ đề tâm; "Thuận lý phát tâm" là Duyên lý Bồ đề tâm.

Bài Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn cũng viết: "Phát Bồ đề tâm là vua trong các điều lành". Sách Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận lại nói: Nên biết rằng Bồ đề tâm là nguồn cội của chư Phật, là huệ mạng của chúng sanh. Vừa phát tâm này đã thành Phật đạo vì đã tương ứng với Phật trí, bất tư nghị trí, bất khả xứng trí, trí Đại thừa rộng lớn, trí tối thượng không gì sánh tày như vậy". Hơn nữa ba bậc vãng sanh trong kinh này đều đo "Phát Bồ đề tâm, Một lòng chuyên niệm", đủ thấy phát Bồ đề tâm thật là điều quan trọng hàng đầu.

Xét ra, vì nguyện thứ hai mươi sáu "Nghe Hồng danh được phước" và nguyện thứ bốn mươi bảy "Nghe Hồng danh đắc Nhẫn", thì nguyện thứ mười chín "Nghe hồng danh phát tâm" này phải nên được hiểu là: Do nghe Danh hiệu của Phật, được Phật gia bị nên phát Bồ đề tâm. Hiểu như vậy liền thấy rõ công đức của danh hiệu Phật A Di Đà chẳng thể nghĩ bàn, sức hoằng thệ nguyện của đấng Nguyện vương chẳng thể nghĩ bàn.

"Tu các công đức... ngày đêm chẳng ngớt" là đại hạnh sẽ làm sau khi phát tâm. Câu này và câu trước đó hợp lại thành toàn văn của nguyện thứ mười chín: do nghe danh hiệu Phật A Di Đà nên phát tâm và tu các đại hạnh.

Trong lời nguyện, chữ "sáu Ba la mật" chỉ cho lục độ. "Độ" là vượt qua được biển sanh tử đạt đến bờ Niết Bàn. Sáu độ là:
  • - Bố thí.
    - Trì giới.
    - Nhẫn nhục.
    - Tinh tấn.
    - Thiền định.
    - Bát nhã.
Lục độ bao trùm vạn hạnh.

"Kiên cố bất thoái", nghĩa là các đại nguyện, đại hạnh trên quyết định chẳng lay động, vĩnh viễn chẳng lùi. Như phần kệ tụng nói: "Hạnh tôi sức kiên cố quyết định, chỉ Phật thánh trí chứng biết nổi, dẫu thân ở các chốn khổ, nguyện tâm như vậy trọn bất thối".

Trong câu "nhất tâm niệm tôi", chữ "nhất tâm" là tín tâm kiên định, chẳng bị các tâm khác não loạn. Sách Giáo Hạnh Tín Chứng Văn Loại nói: "Tín tâm chính là nhất tâm. Nhất tâm chính là lòng tin chân thật". Sách Thám Huyền Ký, quyển 3 cũng nói: "Nhất tâm là tâm không dị niệm". Sách Chỉ Quán, quyển 4 lại viết: "Nhất tâm là tu pháp này, một dạ chuyên chí, tâm chẳng duyên theo điều gì khác".

Hơn nữa nhất tâm có hai thứ: Sự và Lý nhất tâm. Không xen lẫn niệm nào khác là Sự nhất tâm, nhập Thật tướng là Lý nhất tâm.

Theo kinh Di Đà Sớ Sao của ngài Liên Trì đại sư thì: (trang 342-348):

- Sự nhất tâm: "Nhớ niệm danh hiệu Phật, mỗi niệm mỗi niệm nối nhau, không có niệm thứ hai; Tín lực thành tựu thì là Sự nhất tâm; nhiếp thuộc về môn Định, vì chưa có Huệ vậy".

Nhớ niệm là nghe danh hiệu Phật, thường nhớ thường niệm, mỗi chữ mỗi câu rõ ràng, câu trước câu sau nối nhau không dứt; đi, đứng, nằm, ngồi chỉ một niệm Phật này, không có một niệm thứ hai, không bị các niệm: tham, sân, phiền não làm rối loạn. Như trong kinh Thành Cụ Quang Minh Đinh Ý nói: "lúc ở chỗ vắng lặng mà vẫn nhất tâm, dù khi ở chỗ đông đảo rộn ràng cũng nhất tâm, cho đến các chỗ khen, chê, đắc lợi, thất bại, thiện, ác cũng vẫn đều được nhất tâm. Thế nên trên Sự thì đặng, còn trên Lý chưa xong; chỉ mới đặng Tín lực, vì chưa thấy Đạo nên gọi là Sự nhất tâm.

Sở dĩ nói thuộc về môn Định là vì đã dẹp được vọng niệm; nói chưa có Huệ là vị chưa phá được vọng niệm.

- Lý nhất tâm: Thể cứu niệm Phật, tự thấy đặng Phật tánh trong bổn tâm mình cho nên gọi là Lý nhất tâm. Ở đây có hai nghĩa:
  • 1. Rõ biết tâm năng niệm và vị Phật sở niệm không là hai, chỉ là nhất tâm.
    2. Chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải cũng có cũng không, chẳng phải không có không không. Lìa cả bốn câu, chỉ là nhất tâm.
Nói thể cứu có nghĩa là nghe danh hiệu Phật, chẳng những nhớ niệm mà thôi, còn là vừa niệm vừa quán tưởng thể xét tìm tòi, cùng tột nguồn gốc của nó. Thể xét cùng tột, tự nhiên trong bản tâm của mình, thoạt vậy khế hợp.

Đối với nghĩa thứ nhất: tức là Như và Trí không hai, nghĩa là ngoài tâm năng niệm của ta, không có vị Phật bị niệm đối với ta, thế là ngoài Trí không có Như. Ngoài vị Phật bị niệm không có cái tâm nào là tâm năng niệm đối với Phật, thế là ngoài Như không có Trí, cho nên chỉ là nhất tâm.

Về nghĩa thứ hai: tức là Tịch và Chiếu khó nghĩ, khó bàn.

Nếu nói rằng là có, thì cái tâm năng niệm bản thể nó tự không, với vị Phật bị niệm hoàn toàn không thể có.

Nếu nói rằng là không, thì cái tâm năng niệm làu làu không muội, vị Phật bị niệm cũng rành rành rõ ràng.

Nếu nói rằng cũng có cũng không, thì cái có niệm, cái không niệm đều mất.

Nếu nói rằng không phải có không phải không, thì cái Có niệm và cái Không niệm đều còn.

  • - Chẳng phái Có: Thời thường vắng lặng.
    - Chẳng phái Không: Thời thường chiếu soi.
    - Chẳng phải cả hai cũng Có, chẳng phải cả hai cũng Không: Thời không Tịch, không Chiếu, mà Chiếu mà Tịch, bặt đường nói, nghĩ, không hình dáng, kêu gọi, diễn tả được (Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt), vì chỉ là nhất tâm. Thế thì tính Năng, Sở tiêu; cái chấp Hữu, Vô hết, vẫn chỉ là cái bản thể - nhiên thanh tịnh, còn có vật gì mà làm cho tạp loạn. Do vì chỗ thấy Đạo chắc chắn, nên gọi là Lý nhất tâm vậy
    .
Sớ còn viết: "Lại trong kinh giáo phân bốn pháp niệm Phật, từ thấp đến cao, mà pháp xưng danh đây lại ở trước hết. Tuy hai pháp sau cao hơn hai pháp trước; thật thời hai pháp trước thấu đến hai pháp sau, do vì Lý nhất tâm tức là vị Phật Thật tướng".

Bốn pháp niệm Phật: Xưng danh, Quán tượng, Quán tưởng và Thật tướng.

- Xưng danh: tức là pháp Trì danh ở kinh đây nói.

- Quán tượng: tức là thiết lập một hình, tượng Phật rồi chăm chú ngắm nhìn. Như trong kinh Pháp Hoa nói: "Đứng dậy chắp tay, nhất tâm xem Phật, tức là quán tưởng tướng hảo quang minh của Phật hiện tại vậy. Như vua Ưu Điền, dùng gỗ chiên đàn chạm hình tượng đức Thế Tôn để lễ bái và chiêm ngưỡng hằng ngày.

- Quán tưởng: dùng tâm của ta quán tưởng đức Như Lai kia, như kinh Quán Phật Tam Muội và Thập Lục Quán đều nói.

- Thật tướng niệm Phật: tức là niệm vị Phật thiên chơn trong tánh của ta, không sanh không diệt, chẳng có chẳng không, không năng không sở. Với các tướng cũng đều lìa tướng, ngôn thuyết, ly tướng danh tự, ly tướng tâm duyên, thế gọi là vị Phật Thật tướng. Nên có câu: "Ta muốn thấy Cực Lạc thế giới, tùy ý liền thấy, thật vậy".

Bốn pháp trên đây tuy đồng tên là pháp niệm Phật, trước thấp sau cao, pháp Trì Danh tuy ở về pháp ban đầu, kỳ thật ý trùm vô tận. Vì sao? Vì Sự nhất tâm thời thấp, Lý nhất tâm thời cao, tức Sự tức Lý, thời tức Thấp tức Cao, nên nói thấu trước thấu sau.

Lý nhất tâm ấy tức là Lý Thật tướng, thời trước hết tức là sau hết.

Nói thật tướng đây, chẳng phải là diệt hết các tướng, số là chính nơi các tướng và vô tướng vậy. Trong kinh nói: "Lời nói trị đời, đều cùng Lý Thật tướng, không trái nghịch nhau". Thế thì Vạn đức Hồng danh của Phật mà chẳng bằng một lời nói trị thế hay sao? Kinh Pháp Hoa nói: "Một tiếng xưng niệm Nam Mô Phật, đều đã thành Phật đạo" (Nhược nhơn tán loạn tâm, nhập ư tháp miếu trung, nhất niệm Nam Mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo). Huống chi kinh đây nói Trì danh niệm Phật đặng Lý nhất tâm.
  • Vả lại Lý nhất tâm đây chính là pháp Nhất Hạnh Tam Muội trong kinh Văn Thù và là pháp Nhất Hạnh Niệm Phật trong kinh Hoa Nghiêm.
Câu "nhất tâm niệm tôi" trong kinh này gồm cả Sự và Lý; người tu học Tịnh nghiệp hiện tại chỉ cần Tin Sâu, Nguyện Thiết, xứng niệm danh hiệu thì đã là "Nhất Tâm Niệm Tôi".

Hành được như Thiện Đạo đại sư dạy: "Nhất tâm chuyên niệm danh hiệu A Di Đà Phật, đi, đứng, nằm, ngồi, chẳng luận thời tiết, xa gần, niệm niệm chẳng bỏ thì chính là nhất tâm niệm Phật". Từ Sự nhập Lý, nhưng toàn thể của Sự lại chính là Lý vậy.

Nguyện thứ mười chín là Nhân, nguyện thứ hai mươi là Quả. Nếu ai phát tâm niệm Phật đúng như nguyện thứ mười chín dạy thì khi lâm chung, Phật Di Đà cùng Thánh chúng ở Liên trì Hải hội sẽ hiện trước mặt tiếp dẫn; trong khoảnh khắc người ấy liền sang Tịnh Độ làm bậc A Bệ Bạt Trí Bồ tát.

Nguyện thứ hai mươi thể hiện sâu xa diệu dụng chẳng thể nghĩ bàn của phương tiện Tha lực trong Quả Giáo. Kẻ phàm phu nghiệp chướng chất chồng lại có thể mang nghiệp đi vãng sanh; đấy toàn bộ là do nguyện này của Phật A Di Đà; do sức từ bi đại lực nhiếp thọ của Thánh chúng hiện diện trong lúc lâm chung.

Ngài Linh Chi (Nguyên Chiếu) đời Tống nói: "Phàm người lâm chung thức thần vô chủ, không một thứ nghiệp chủng thiện hay ác nào lại không phát hiện hoặc khởi ác niệm, hoặc khởi tà kiến, hoặc sanh quyến luyến, hoặc phát điên rồ, chẳng phải chỉ một thứ ác tướng..., đều là điên đảo cả". Rõ ràng là phàm phu nghiệp nặng, lúc lâm chung lắm nỗi điên đảo, lại bị tứ đại bức bách khổ sở, đau đớn khó tả nổi, làm sao mà chánh niệm trì danh được! Chẳng thể trì danh làm sao vãng sanh nổi.

Vì vậy, phàm phu vãng sanh chẳng phải do tự lực mà toàn là cậy vào sức gia bị của đại nguyện của Phật Di Đà giữ cho chẳng điên đảo, nên mới được vãng sanh như sách Viên Trung Sao nói: "Chúng sanh cõi Ta Bà tuy có thể niệm Phật nhưng kiến hoặc còn rối bời chưa thể đoạn trừ được. Khi lâm chung chẳng bị điên đảo thì vốn nào phải do sức mình chủ trì nổi, mà toàn là cậy vào Di Đà đến cứu vớt thôi. Tuy không có chánh niệm mà giữ nổi chánh niệm nên tâm chẳng điên đảo liền được vãng sanh".

Ý tưởng trên càng được diễn tả rõ hơn trong hai kinh Tiểu Bổn và kinh Bi Hoa.

Kinh Tiểu Bổn bản Đường dịch còn mang tên là Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh, có nói: "Kỳ nhơn lâm mạng chung thời A Di Đà Phật dữ chư Thánh chúng hiện tại kỳ tiền. Thị nhơn chung thời tâm bất điên đảo tức đắc vãng sanh A Di Đà Phật Cực Lạc quốc độ".

Kinh Bi Hoa cũng chép: Lúc lâm chung, ta cùng các đại chúng vây quanh hiện trước mặt người ấy. Người ấy thấy ta liền đối trước mặt ta sanh lòng hoan hỷ. Do thấy ta nên lìa các chướng ngại, liền xả thân sanh về cõi ta".

"A Bệ Bạt Trí" Tàu dịch là "bất thoái". Bất thoái có ba thứ:
  • 1. Vị bất thoái: vào dòng Thánh, chẳng đọa địa vị phàm phu.
    2. Hạnh bất thoái: luôn luôn độ sanh, chẳng đọa địa vị Nhị thừa.
    3. Niệm bất thoái: tâm tâm lưu nhập biển Tát Bà Nhã (Nhất thế chủng trí).
Trong cõi Ta Bà này:

- Bậc Sơ Quả của Tạng giáo, Kiến Địa của Thông giáo, Sơ Trụ của Biệt giáo, Tín Địa của của Viên giáo gọi là Vị bất thoái.

- Bồ tát của Thông giáo, Thập Hướng của Biệt giáo, Thập Tín của Viên giáo gọi là Hạnh bất thoái.

- Sơ Địa của Biệt giáo, Sơ Trụ của Viên giáo mới gọi là Niệm bất thoái.

Như vậy, chúng ta thấy nếu tu thông thường theo Tạng, Thông, Biệt và Viên giáo không dễ gì chứng được A Bệ Bạt Trí. Nhưng trong nguyện này Phật lại nói: mười phương chúng sanh nghe danh phát tâm, nhất niệm ta, liền sanh trong cõi ta, thành bậc A Duy Việt Trí Bồ tát. Kinh Tiểu Bổn cũng dạy: "Hựu Xá Lợi Phất! Cực Lạc quốc độ, chúng sanh sanh giả, giai thị A Bệ Bạt Trí...".


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bốn Mươi Tám Đại Nguyện Của Phật A Di Đà

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chánh Kinh:

Ngã tác Phật thời, thập phương chúng sanh, văn ngã danh hiệu, hệ niệm ngã quốc, phát Bồ đề tâm, kiên cố bất thoái, thực chúng đức bổn, chí tâm hồi hướng, dục sanh Cực Lạc, vô bất toại giả. Nhược hữu túc ác, văn ngã danh tự, tức tự hối quá, vị đạo tác thiện, tiện trì kinh giới, nguyện sanh ngã sát, mạng chung bất phục cánh tam ác đạo, tức sanh ngã quốc. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh giác.

  • [Hối quá đắc sanh, nhị thập nhất nguyện].
Lúc tôi thành Phật, mười phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi, hệ niệm cõi tôi, phát Bồ đề tâm kiên cố bất thoái, gieo các cội đức, chí tâm hồi hướng muốn sanh về Cực Lạc thì không ai chẳng được toại nguyện. Nếu có nghiệp ác đời trước, nghe danh hiệu tôi liền tự hối lỗi, tu đạo làm lành, liền trì kinh giới, nguyện sanh cõi tôi, chết đi chẳng đọa vào tam ác đạo nữa, liền sanh trong cõi tôi. Nếu chẳng
được vậy thì chẳng giữ lấy ngôi Chánh giác.
  • [Nguyện thứ hai mươi mốt: Sám hối được vãng sanh].
Giải:

Khác với nguyện mươi tám và hai mươi, nguyện này chú trọng kẻ tạo ác nghiệp trong đời trước: tội nghiệp sâu nặng phải chịu quả báo trong tam đồ. Đời này được nghe danh hiệu liền phát tâm, chí tâm hồi hướng, vun bồi công đức cầu vãng sanh. Lúc lâm chung được Phật nguyện gia bị, chẳng đọa ba ác đạo, vãng sanh cõi kia. Nguyện này có thể thực hiện từ đức thù thắng của Phật nguyện, nên Cổ đức bảo: "Bốn mươi tám nguyện, nguyện nào cũng vì cứu độ chúng sanh". Đại Bi Từ phụ ân đức vô cực, chúng ta học Phật lẽ nào chẳng báo đền?

"Hệ niệm": nghĩa là tâm niệm chuyên chú một chỗ, chẳng nghĩ đến những điều gì khác, như Quán Kinh dạy: "Phải nên chuyên tâm, hệ niệm một chỗ tưởng đến Tây phương".

Chữ "thực" trong "thực chứng đức bổn" (trồng vào cội đức) có nghĩa là trồng trọt, gieo trồng. "Đức bổn" là thiện căn. Đức là thiện, Bổn là cội rễ. Đức bổn còn có nghĩa là căn bản của các công đức. Hiểu theo nghĩa này, danh hiệu Phật A Di Đà chính là cội đức.

Sách Giáo Hạnh Chứng Tín giảng: "Đức bổn là đức hiệu của Như Lai. Xưng niệm danh hiệu ấy một tiếng thì chí đức được thành tựu trọn vẹn, chuyển được các họa. Do đức hiệu của A Di Đà là gốc của mười phương tam thế đức hiệu nên gọi là đức bổn".

Hối là sửa đổi, sửa đổi quá khứ, tu tập tương lai. "Hối lỗi" là hướng về Tam Bảo, Phật, Pháp, Tăng mà sám hối tội lỗi, thề chẳng tái phạm. Do nguyện này mang tên "Hối lỗi được vãng sanh", nên ta biết: Sám hối là chìa khóa để vãng sanh, vì do sám hối sẽ diệt được hết tội.

"Chết đi chẳng đọa vào tam ác đạo nữa, liền sanh trong cõi tôi", chính là yếu chỉ của lời nguyện này. Nếu đời trước trót làm ác, có nghiệp thì quyết định sau khi mạng chung ắt phải ở cõi này hoặc trong thế giới phương khác đọa vào trong ba ác đạo. Do đời này hối lỗi tu đạo, hành thiện, chuyên niệm Di Đà, chí tâm hồi hướng cầu sanh Tịnh Độ. Nhờ vào công đức của lời nguyện này của Phật để ngăn chận túc nghiệp, được Phật tiếp dẫn chẳng đọa tam đồ, nhanh chóng sanh về Cực Lạc. Vì vậy, kinh chép: "không ai chẳng được toại nguyện". Chữ "toại nguyện" nghĩa là ý nguyện cầu sanh Cực Lạc được thỏa mãn trọn vẹn.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bốn Mươi Tám Đại Nguyện Của Phật A Di Đà

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chánh Kinh:

Ngã tác Phật thời, quốc vô phụ nữ. Nhược hữu nữ nhân, văn ngã danh tự, đắc thanh tịnh tín, phát Bồ đề tâm, yểm hoạn nữ nhân, nguyện sanh ngã quốc. Mạng chung tức hóa nam tử, lai ngã sát độ. Thập phương thế giới chư chúng sanh loại, sanh ngã quốc giả, giai ư thất bảo trì liên hoa trung hóa sanh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh giác.

  • [Quốc vô nữ nhân, nhị thập nhị nguyện. Yểm nữ chuyển nam thân, nhị thập tam nguyện. Liên hoa hóa sanh, nhị thập tứ nguyện].
Lúc tôi thành Phật, nước không nữ nhân. Nếu có nữ nhân nghe danh hiệu tôi sanh lòng tin thanh tịnh, phát Bồ đề tâm, chán ngán thân nữ, nguyện sanh cõi nước tôi, chết đi liền hóa thành nam tử sanh về cõi tôi. Các loài chúng sanh trong mười phương thế giới sanh về cõi tôi đều hóa sanh trong hoa sen nơi ao bảy báu. Nếu chẳng được vậy chẳng giữ lấy ngôi Chánh giác.
  • [Nguyện thứ hai mươi hai: Nước không nữ nhân. Nguyện thứ hai mươi ba: Chán thân nữ chuyển thân nam, Nguyện thứ hai mươi bốn: Liên hoa hóa sanh].
Giải:

Ngài Đạo Tuyên Luật sư đời Đường, dẫn kinh nói như sau: "Mười phương thế giới chỗ nào có nữ nhân, chỗ đó có địa ngục". Cõi Cực Lạc không có ba ác đạo, ắt hẳn không có phụ nữ, thuần là người đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu. Đó là vì giữa nam nữ dễ sanh tình ái, thành duyên thoái chuyển. Vì vậy, cõi Đồng Cư Tịnh Độ thù thắng hơn Ta Bà nhiều.

Trong Quán Niệm Pháp Môn, Thiện Đạo đại sư giải thích về nguyện thứ hai mươi ba như sau: "Nhàm chán thân nữ, chuyển thành thân nam, ấy là do sức bổn nguyện của Phật Di Đà nên nếu nữ nhân xưng danh hiệu Phật thì ngay lúc lâm chung liền chuyển thân nữ trở thành nam tử. Di Đà dắt tay, Bồ tát nâng thân, đặt ngồi trên hoa sen báu theo Phật vãng sanh", và "Hết thảy nữ nhân nếu chẳng nhờ sức danh hiệu của Phật thì trong ngàn vạn kiếp, kiếp số như cát sông Hằng, trọn chẳng thể đổi được thân nữ".

Ngay như chính đức Bổn Sư lúc còn tu nhân phải mất cả một đại kiếp tu hành siêng năng mới dần dần thoát khỏi thân nữ, đủ thấy nữ chuyển thành thân nam thật chẳng dễ dàng.
  • [Nhân ly ác đạo đắc vi nhân nan.
    Kỳ đắc vi nhân khử nữ đắc nam nan.
    Kỳ đắc vi nam lục căn hoàn cụ nan.
    Lục căn ký cụ sanh trung quốc nan.
    Ký sanh trung quốc trị Phật thế nan.
    Ký trị Phật thế ngộ đạo nan.
    Ký đắc ngộ đạo hưng tín tâm nan.
    Ký hưng tín tâm phát Bồ đề tâm nan.
    Ký phát Bồ đề vô tu vô chứng nan].
Năm việc mà người nữ không làm được:
  • 1. Làm trời Đế Thích.
    2. Làm Đại Phạm Thiên.
    3. Làm Chuyển Luân Thánh Vương.
    4. Làm Ma vương.
    5. Làm Phật.
Muốn làm thì phải tu hành đển chuyển nữ vi nam.

Nguyên thứ hai mươi bốn là Liên hoa hóa sanh: "Sanh trong cõi ta đều hóa sanh trong hoa sen nơi ao bảy báu". Phẩm mươi bốn trong kinh đây chép: "Nếu có chúng sanh tin rõ Phật trí cho đến thắng trí, đoạn trừ nghi hoặc, tin vào thiện căn của mình, tạo các công đức, chí tâm hồi hướng thì tự nhiên hóa sanh, ngồi xếp bằng trong hoa bảy báu. Trong khoảnh khắc, được thành tựu đầy đủ thân tướng, quang minh, trí tuệ, công đức như Bồ tát".

Liên Trì đại sư viết trong Di Đà Sớ Sao: "Lục đạo chúng sanh nơi thân trung ấm tự cầu cha mẹ. Vãng sanh cõi lành thì như trong khoảng búng ngón tay liền hóa sanh trong hoa sen. Hoa sen ấy là cung huyền diệu để thoát thân phàm, là nhà thần diệu để an huệ mạng.

Nghĩa là hết thảy chúng sanh trong sáu nẻo, sau khi mạng chung, hiện thành thân trung ấm. Nơi thân trung ấm ấy, do túc nghiệp nhân duyên của tự thân mà đi tìm cha mẹ để đầu thai, gieo thân vào bụng mẹ đầy nhơ nhớp, chịu khổ trong đen tối chín tháng mười ngày để rồi sanh ra với tấm thân đầy trược nhiêm tội nghiệp; sao bằng vãng sanh cõi lành. Từ hoa sen ấy hóa sanh, gần thiện tri thức, Phật giáo hóa, huệ mạng tăng trưởng...


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bốn Mươi Tám Đại Nguyện Của Phật A Di Đà

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chánh Kinh:

Ngã tác Phật thời, thập phương chúng sanh. văn ngã danh tự, hoan hỷ tín nhạo, lễ bái quy mạng. Dĩ thanh tịnh tâm, tu Bồ tát hạnh. Chư thiên thế nhân, mạc bất tri kính. Nhược văn ngã danh, thọ chung chi hậu, sanh tôn quý gia, chư căn vô khuyết, thường tu thù thắng phước hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh giác.

  • [Thiên nhân lễ kính, nhị thập ngũ nguyện. Văn danh đắc phước, nhị thập lục nguyện. Tu thù thắng hạnh, nhị thập thất nguyện].
Lúc tôi thành Phật, mười phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi hoan hỷ tin ưa, lễ bái, quy mạng, dùng tâm thanh tịnh tu Bồ tát hạnh. Chư Thiên, người đời đều cũng kính. Nếu nghe tên tôi, sau khi hết tuổi thọ sẽ sanh nhà tôn quý, các căn chẳng khuyết, thường tu phạm hành thù thắng. Nếu chẳng được thế chẳng giữ lấy ngôi Chánh giác.
  • [Nguyện thứ hai mươi lăm: Trời, người lễ kính. Nguyện thứ hai mươi sáu: Nghe hồng danh được phước. Nguyện thứ hai mươi bảy: Tu hạnh nguyện thù thắng].
Giải:

Đoạn kinh văn này có ba nguyện: từ chữ "nghe danh hiệu tôi" đến "không ai chẳng cung kính" là nguyện thứ hai mươi lăm: "Trời người lễ kính"; từ chữ "nếu nghe tên tôi" đến "các căn chẳng khuyết" là nguyện thứ hai mươi sáu: "Nghe tên được phước"; phần còn lại là nguyện thứ hai mươi bảy: "Tu hạnh thù thắng".

Nguyện thứ mười tám "mười niệm vãng sanh" ở phần trước là chánh nhân vãng sanh, cốt lõi của bốn mươi tám nguyện. Hai thứ nguyện mười chín, hai mươi triển khai nguyện thứ mười tám. Nguyện hai mươi mốt đặc biệt chú trọng những chúng sanh có nhiều túc nghiệp: nếu biết hối lỗi phát tâm Bồ đề, nhất tâm chuyện niệm cũng đều được vãng sanh chẳng đọa ác đạo nữa. Nguyện thứ hai mươi ba chuyên vì phụ nữ, nghe danh phát lòng tin trong sạch, phát tâm Bồ đề cầu sanh Tịnh Độ, khi tuổi thọ hết chuyển thành thân nam, vãng sanh Cực Lạc. Những nguyện trên đều là nghe danh phát tâm, được vãng sanh, toàn là những sự lợi ích bậc thượng; đoạn kinh văn này nói về sự lợi ích bậc ba. Đó là vì căn khí của chúng sanh chẳng đồng nên khi nghe danh phát tâm tin ưa khác nhau, hoặc là do đại tâm chẳng vững vàng, hoặc do tín nguyện chẳng sâu, trì niệm chẳng chuyên đến nỗi chẳng thể hoàn toàn khế hợp các đại nguyện của Phật. Vì vậy, đời sau họ chưa thể thoát khỏi sanh tử, chỉ có thể đạt được phước báo trong hiện tại và vị lai, nên phước được hưởng thua kém các nguyện trước.

Chữ "Tu hạnh Bồ tát" trong nguyện thứ hai mươi lăm chỉ lục độ vạn hạnh, đây là sự tu rộng rãi nhiều thứ điều lành. Kinh này dạy ba bậc vãng sanh đều do phát Bồ đề tâm nhất hướng chuyện niệm. Vì Phát tâm là vua trong các điều lành, của các nguyện, trì danh là hạnh hạng nhất trong các hạnh, nên nếu khuyết những chánh nhân vãng sanh đó thì dẫu có làm các điều thiện một cách rộng lớn nhưng lại chẳng có chuyên, nhiều nhưng không tinh thuần nên chẳng khế hợp với bổn nguyện của Phật, khó bề chứng đạo ngay trong đời này. Do đó, chỉ được trời, người cung kính mà thôi.

Sách Đại Luận giảng câu: Sanh nhà tôn quý" trong nguyện thứ hai mươi sáu như sau "Sanh vào dòng Sát đế lợi thì có thế lực, sanh vào nhà Bà la môn thì có trí huệ, sanh vào nhà cư sĩ thì giàu có lớn nên có thể làm lợi ích chúng sanh". Sách Hội Sớ giảng: "Sanh vào nhà hạ tiện bị đời khinh rẽ chẳng thể tạo lợi ích rộng rãi". Vì vậy "nghe danh được phước" là đời sau sanh vào nhà tôn quý.

"Các căn chẳng khuyết", mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều hoàn cụ, đầy đủ và tốt đẹp, nên nhớ rằng: "Ký đắc vi nam lục căn hoàn cụ nan".

Tiếp theo là thứ nguyện hai mươi bảy "tu phạm hạnh thù thắng": phạm hạnh nghĩa là thanh tịnh, hạnh thanh tịnh vô dục. Chư thiên đoạn trừ dâm dục nên được gọi là Phạm thiên. Sách Pháp Hoa Sớ của ngài Gia Tường giảng: "Có người bảo hết thảy các giới là phạm hạnh hoặc bảo chỉ thực hành giới đoạn trừ dâm dục là phạm hạnh. Vì vậy kinh Đại Phẩm dạy: Dâm dục còn chướng ngại sanh làm Phạm thiên, huống hồ là Bồ đề".

Các ý kiến trên đây đều cho rằng ly dục là phạm hạnh; nhưng nếu hiểu sâu xa hơn, muôn hạnh để chứng Niết Bàn đều là phạm hạnh.

Ngài Gia Tường còn bảo: "Tướng của phạm hạnh tiếng Phạn gọi là Niết Bàn, chính là căn bản pháp luân đại Niết Bàn. Thực hành pháp ấy thì là phạm hạnh vì đạt đến Niết Bàn vậy". Đại Nhật Kinh Sớ cũng giảng: "Phạm là Niết Bàn. Phạm hạnh nghĩa là tu đạt trọn vẹn đại Niết Bàn". Cả hai bộ sớ kinh trên đều cho rằng hạnh đạt đến Niết Bàn là phạm hạnh. Đó mới là ý nghĩa sâu xa của chữ phạm hạnh, chứ chẳng hạn cuộc trong trì giới hay đoạn dục mới là phạm hạnh.

Do đoạn trừ dâm dục, lễ Phật, niệm Phật, phát Bồ đề tâm, một bề chuyên niệm, hướng đến diệu hạnh đại Niết Bàn căn bổn pháp luân. Một phen nghe danh hiệu Phật liền được đầy đủ công đức như vậy. Điều này chứng tỏ Phật hiệu đầy đủ vạn đức. Hơn nữa, công đức nghe danh hiệu vi diệu khó lường như kinh Tôn Thắng Đà La Ni dạy: "Các loài chim bay, súc sanh, hàm linh một phen nghe Đà La Ni này thoảng qua tai, hết một thân ấy liền chẳng thọ lại nữa" Kinh Niết Bàn cũng nói: "Đại Niết Bàn này cũng giống như thế. Nếu có chúng sanh một phen nghe được, trong bảy kiếp sau chẳng đọa đường ác". Một phen nghe được đã đạt công đức như thế, huống chi nghe xong lại tin nhận, trì danh thì công đức càng lớn hơn nữa. Một chữ "nghe" trong kinh này chẳng chỉ có nghĩa là "nghe" suông, mà còn có nghĩa là "tin nhận". Vì vậy người nghe danh hiệu Phật dẫu đời này chẳng được vãng sanh thì đời sau cũng sẽ thường tu phạm hạnh thù thắng.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bốn Mươi Tám Đại Nguyện Của Phật A Di Đà

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chánh Kinh:

Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư định tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương, sở thọ khoái lạc, du như lậu tận Tỳ Khưu. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh giác.

  • [Quốc vô bất thiện, nhị thập bát nguyện. Trụ Chánh định tụ, nhị thập cửu nguyện. Lạc như lậu tận, tam thập nguyện. Bất tham kế thân, tam thập nhất nguyện].
Lúc tôi thành Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Định tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như Lậu tận Tỷ khưu. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng giữ ngôi Chánh giác.
  • [Nguyện thứ hai mươi tám: Nước không có sự bất thiện. Nguyện thứ hai mươi chín: Trụ Chánh định tụ. Nguyện thứ ba mươi: Vui như lậu tận. Nguyện thứ ba mươi mốt: Chẳng tham chấp thân].
Giải:

Nguyện thứ hai mươi tám đến nguyện thứ ba mươi mốt ở đoạn kinh văn đây là dành cho chúng sanh ở Cực Lạc, thể hiện Công Đức Thọ Dụng của họ.

Nguyện thứ hai mươi tám "nước không có danh từ bất thiện", ý nói: Cõi Cực Lạc không có danh từ bất thiện huống chi là có sự bất thiện. Ngài Long Thọ dạy: "Cõi đức Phật ấy không có danh từ ác, cũng không có nỗi sợ ác đạo, nữ nhân, cho đến chẳng có ác tri thức và các đường ác". Vãng Sanh Luận nói: "Nên biết rằng quả báo Tịnh Độ lìa khỏi hai thứ tị hiềm: một là thể, hai là danh. Thể có ba thứ:
  • 1. Là người Nhị Thừa.
    2. Là nữ nhân.
    3. Là người chẳng có đủ các căn.
Do không có ba lỗi đó nên gọi là lìa được cái thể tị hiềm. Danh cũng có ba thứ, chẳng những không có ba thể mà còn chẳng nghe ba thứ danh Nhị thừa, nữ nhân và các căn chẳng đủ, nên lìa được cái danh của tị hiềm[/i][/b]. Câu "cái danh tị hiềm" được dùng trong Vãng Sanh Luận ám chỉ câu "chẳng có danh từ bất thiện" trong lời nguyện ở đây.

Hơn nữa Kinh A Di Đà dạy: "Xá Lợi Phất! Kỳ Phật quốc độ, thượng vô ác đạo chi danh, hà huống hữu thiệt. Thị chư chúng điểu, giai thị A Di Đà Phật, dục linh pháp âm tuyên lưu, biến hóa sở tác" (Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật ấy còn không có cái tên ác đạo, huống là thật có! Các loài chim ấy đều do A Di Đà Phật vì muốn khiến cho pháp âm được tuyên lưu nên hiển hiện ra). Như vậy, chúng ta phải hiểu rằng tất cả y báo và chánh báo ở cõi Cực Lạc đều được trang nghiêm bởi Quả Giác của Như Lai. Cõi ấy mỗi sắc, mỗi tướng, mỗi hạt bụi, mỗi danh từ không thứ nào chẳng là Trung Đạo, đều là toàn thể đại dụng của pháp giới chẳng thể nghĩ bàn.

Nguyện thứ hai mươi chín: "tất cả chúng sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ trong Định Tụ" là kết quả của nguyện thứ năm: "không sai biệt". Sanh trong cõi ấy, hình mạo không khác nhau, tâm cũng không khác biệt. Tâm đã đồng nhất nên cùng trụ một Định Tụ. Định Tụ nghĩa là Chánh định tụ. "Tụ" nghĩa là những gì giống nhau được gom lại. Chánh Định Tụ là một trong tam tụ. Tam tụ bao gồm hết thảy chúng sanh. Chúng sanh được phân chia là ba loại nên gọi là Tam Tụ. Cả Đại thừa lẫn Tiểu thừa đều nói đến Tam Tụ, nhưng có nhiều thuyết:

1. Thuyết thứ nhất Tam Tụ:
  • a. Chánh Định Tụ: Những chúng sanh nhất định chứng ngộ.
    b. Tà Định Tụ: Chúng sanh hoàn toàn chẳng chứng ngộ.
    c. Bất Định Tụ: Chúng sanh ở giữa hai hạng trên; hữu duyên thì chứng ngộ, vô duyên ắt chẳng chứng ngộ.
2. Thuyết thứ hai như sách Hội Sớ nói: "Định Tụ nói đầy đủ là Chánh Định Tụ, cũng gọi là Bất Thoái Chuyển, tức là Bồ tát A Bệ Bạt Trí. Vì sao gọi là Chánh định? Phàm hết thảy chúng sanh tuy căn tánh muôn phần sai khác, nhưng nếu phân loại thì không ngoài ba thứ:
  • a. Ắt đọa trong sáu đường Tà Định.
    b. b. Nếu thăng trầm tùy duyên thì là Bất Định.
    c. Quyết định đạt đến Bồ đề thì gọi là Chánh Định.
3. Thuyết thứ ba là của Khởi Tín Luận: "Từ hạng phàm phu đến hạng chưa đạt bậc Thập Tín, chẳng tin nhân quả là Tà Định. Hạng Thập Tín là Bất Chánh Định. Từ Thập Trụ trở lên là Chánh Định.

Phẩm 22 của kinh Đại Bổn nói: "Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn hoặc dã sanh, hoặc sẽ sanh thảy đều tụ trong Chánh Định Tụ, quyết định chứng quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề". Như vậy, được sanh về cõi kia liền thuộc vào chánh định tụ, ắt chứng quả đại Niết Bàn.

Do đó, ngài Thiện Đạo nói: "Chẳng đoạn phiền não mà đắc Niết Bàn, điều này thể hiện đức tánh tự nhiên của cõi An Lạc vậy".

Ngài Long Thọ cũng nói: "Dùng nhân duyên tin Phật nguyện sanh Tịnh Độ, khởi tâm lập đức, tu các hạnh nghiệp. Do Phật nguyện lực nên liền vãng sanh. Do Phật lực gìn giữ nên liền nhập Đại thừa chánh định tụ (Chánh định tụ chính là A Bệ Bạt Trí bất thoái chuyển)".

Nguyện này còn ẩn tàng mật nghĩa: ngay hiện đời chứng được bất thoái. Kinh nói "hoặc sẽ sanh" là chỉ hạng người đang cầu vãng sanh cũng được nhập Chánh định tụ.

Câu "xa lìa nhiệt não, tâm được thanh lương, thọ khoái lạc như là lậu tận Tỳ khưu", chính là nguyện ba mươi: "vui như lậu tận".

"Nhiệt não" nghĩa là bị sự khổ bức bách khiến thân tâm bức rức, buồn phiền. Phẩm Tín Giải của kinh Pháp Hoa nói: "Do vì ba khổ nên trong sanh tự chịu các nhiệt não". Nay trong cõi Cực Lạc không có các khổ, chỉ hưởng các điều vui. "... Kỳ quốc chúng sanh, vô hữu chúng khổ, đản thọ chư lạc, cố danh Cực Lạc", nên vĩnh viễn xa lìa các nhiệt não.

"Thanh lương" là thanh tịnh, mát mẻ trái nghĩa với nhiệt não. Quyển 22 Luận Đại Trí Độ nói: "người bị cơn nóng dữ làm khổ, nếu được vào ao trong mát thì mát dịu, thư thái, không bị nhiệt não nữa", ao trong mát (thanh lương trì) là ví cho Niết Bàn. Nay người vãng sanh được vào trong ao mát lớn của cõi kia, nên đều được "tâm thanh lương:.

Chữ "lậu" có nghĩa là rò rĩ, rịn chảy. Lậu còn là tên khác của phiền não. Phiền não hiện hành khiến tâm luôn bị rò rĩ, rịn chảy, lưu tán chẳng ngớt. Lại do sáu cửa: mắt, tai, mũi... ngày đêm thường tuôn tràn phiền não nên gọi là "lậu". Dùng thánh trí để đoạn diệt các phiền não thì gọi là "lậu tận". Năm thứ đầu của Lục thông là hữu lậu thông, riêng mình lậu tận thông là vô lậu thông. Tỳ khưu đoạn sạch được phiền não thì gọi là lậu tận Tỳ khưu, tức là A la hán.

Nguyện thứ ba mươi mốt: "Chẳng tham chấp thân": không khởi tưởng niệm tham chấp thân. Phần nhiều phàm phu tu hành hay bị mắc vào Thân kiến. Thân kiến là kiến chấp lớn nhất trong kiến hoặc. Kiến hoặc chẳng đoạn, chẳng thể vào dòng Thánh, tất nhiên thường lưu chuyển trong sanh tử, không mong ngày ra. Tham chấp thân là chấp có thân ta nên tham đắm, so đo. Sách Hội Sớ giảng: "Vọng chấp tự thân, so đo yêu, ghét, thuận, nghịch thì gọi là tham chấp. Đấy gọi là ngã chấp". Phàm phụ vọng tưởng thân mình chính là ngã rồi tham chấp, ham thích, giữ gìn, bồi bổ, thuận với mình thì sanh lòng yêu thích, nghịch thì sanh giận dữ. Toàn thể các thứ phân biệt, tham đắm ấy đều là phiền não. Sách Vãng Sanh Luận bảo:
  • 1. "Xa lìa ngã tâm, tham trước thân mình.
    2. Xa lìa tâm chẳng an chúng sanh.
    3. Xa lìa tâm cúng dường cung kính thân mình.
Cần biết rằng: Ba pháp ấy đều chướng ngại Bồ đề tâm nên phải xa lìa".

Kinh này lấy "Phát tâm Bồ đề, nhất hướng chuyên niệm" là tông chỉ; nếu tâm Bồ đề bị chướng ngại ắt chẳng được vãng sanh, nên Phật nguyện rằng: "nếu khởi niệm tham chấp thân mình thì chẳng lấy Chánh giác".


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bốn Mươi Tám Đại Nguyện Của Phật A Di Đà

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chánh Kinh:

Ngã tác Phật thời, sanh ngã quốc giả, thiện căn vô lượng, giai đắc Kim Cang Na la diên thân, kiên cố chi lực, thân đảnh giai hữu quang minh chiếu diệu, thành tựu nhất thế trí huệ, hoạch đắc vô biên biện tài, thiện đàm chư pháp bí yếu, thuyết kinh hành đạo, ngữ như chung thinh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh giác.

  • [Na la diên thân, tam thập nhị nguyện. Quang minh huệ biện, tam thập tam nguyện. Thiện đàm pháp yếu, tam thập tứ nguyện].
Lúc tôi thành Phật, người sanh trong nước tôi thiện căn vô lượng, đều được thân Kim Cang Na La Diên, sức kiên cố, thân và đảnh đều có quang minh chiếu rực, thành tựu hết thảy trí huệ, đạt được vô biên biện tài, khéo bày các pháp bí yếu, thuyết kinh, hành đạo tiếng vang như chuông. Nếu chẳng được vậy chẳng giữ ngôi Chánh giác.
  • [Nguyện thứ ba mươi hai: Được thân Na La Diên. Nguyện thứ ba mươi ba: Quang minh, trí huệ, biện tài. Nguyện thứ ba mươi bốn: Khéo bàn pháp yếu].
Giải:

Câu "đều có thân kim cang Na la diên, sức kiên cố" là nguyện ba mươi hai.

Ngài Cảnh Hưng gọi là: "nguyện được thân kiên cố". Kim cang, tiếng Phạn là Bạt triết ra (vajra) hoặc phiên là Phạt triết ra. Sách Tam Tạng Pháp Số, quyển 5 giảng: "chất cứng rắn nhất trong các loại vàng thì gọi là kim cang". Sách Đại Tạng Pháp Số, quyển 41 giảng: "Tiếng Phạn là Bạt triết ra, Tàu dịch là kim cang. Thứ vật báu này từ vàng sanh ra, màu như tử anh, đem nung trăm lần cũng chẳng tiêu hủy, cứng nhất, bén nhất, cắt được cả ngọc, rất hiếm trong đời, nên được coi là quý".

"Na la diên" (Narayana) dịch là Thắng lực, hoặc Kiên lao, có bốn nghĩa:
  • 1. Là tên khác của Phạm thiên.
    2. Như ngài La Thập đại sư bảo: "Lực sĩ cõi trời gọi là Na la diên, đoan chánh, hùng mạnh".
    3. Đại Nhật Kinh Sớ, quyển 10 giảng: "Na la diên là một trong mười biệt danh của Tỳ Nữu thiên (Vishnu), vị trời này do Phật hóa ra". Sách Bí Tạng Ký lại bảo: "Na la diên thiên có ba mặt, thân sắc xanh pha vàng, tay phải cầm bánh xe, cỡi chim Ca Lâu la".
    4. Niết Bàn kinh Sớ quyển 7 nói: "Na là diên, Tàu dịch là Kim cang" là một trong mười chín vị Chấp Kim Cang; kinh Duy Ma Cật ghi là Na La Diên Bồ tát.
Cổ Đức cho rằng thân và tâm chúng sanh ảnh hưởng lẫn nhau: hễ thân có sự sướng, khổ, tâm ắt cũng vui buồn theo. Ngài Pháp Cứu nói: "Như Lai thân lực vô biên như tâm lực vậy[i/]". Kinh Bí Mật Lực Sĩ cũng chép: "Thân của Như Lai chắc chắn như kim cang, cứng chắc vô cùng chẳng thể phá hoại được". Vì vậy, Phật nguyện chúng sanh trong nước ba nghiệp trang nghiêm, thân cứng chắc như kim cang, sức mạnh mẽ như Na la diên, đều cùng được thân nghiệp thù thắng.

Trong Mật giáo, Chấp Kim Cang, Kim Cang Thủ, Kim Cang Tát Đỏa v.v... chỉ là những cách dịch khác nhau của cùng một tên.

Nhân Vương Kinh Niệm Tụng Nghi Quỹ, quyển thượng chép rằng: "Vị Kim Cang Thủ ấy chính là Phổ Hiền Bồ tát, tay cầm Kim cang xử tiêu biểu phát khởi chánh trí giống như kim cang đoạn được chướng ngã chấp".

Kinh Thánh Vô Động Tôn Đại Uy Nộ Vương Bí Mật Đà La Ni cũng chép: "Vị Kim Cang Thủ này là Pháp thân đại sĩ có tên là Phổ Hiền, liền từ đức Như Lai mà được Kim cang xử. Kim cang xử ấy do ngũ trí hiệp thành, nên ngaficos tên là Kim Cang Thủ".

Câu "thân đảnh đều có quang minh chói rực, thành tựu hết thảy trí huệ, đạt được vô biên biện tài". Là nguyện thứ ba mươi mốt: "Quang minh, trí huệ biện tài".

Đức Phật ấy thọ mạng vô lượng, trời người trong nước cũng thọ mạng vô lượng. Đức Phật ấy quang minh vô lượng nên nhân dân cõi ấy thân và đảnh đều có quang minh chiếu rực. Chủ (Phật) và bạn (hết thảy hiền thánh, nhân dân trong nước) đều như một.

Thêm nữa, tự chiếu sáng gọi là Quang, chiếu sáng vật khác gọi là Minh. Quang minh có hai công dụng: một là trừ tối, hai là hiện pháp.

Kinh Niết Bàn nói: "Quang minh là trí huệ".

Thân và đảnh của trời, người cõi kia đều có thường quang chính là do trí huệ thành tựu. Do được Phật lực gia hộ, nên trí huệ thù thắng. Với những trí: Phật trí, bất khả tư nghị trí, bất khả xưng trí, Đại thừa quảng trí, trí thù thắng tối thượng không ai bằng, không ai sánh nổi, đều hiểu rõ cả, nên bảo "thành tựu hết thảy trí huệ" và "đạt được vô biên biện tài". "Biện tài" là khả năng diễn thuyết một cách khéo léo. Tịnh Ảnh Sớ giảng chữ "biện tài" như sau: "Nói năng biện luận rành rẽ, chữ dùng tài tình nên gọi là biện tài".

Ngoài ra, các trí biện tài thuyết pháp của Bồ tát được gọi chung là Tứ Vô Ngại Trí, Tứ Vô Ngại Giải hoặc Tứ Vô Ngại Biện. Tứ Vô Ngại:

  • 1. Pháp Vô Ngại: Giáo pháp được giảng ra luôn gồm: danh (tên gọi của sự vật), cú (câu nói, câu văn), văn (đoạn văn). Giáo pháp không bị úng trệ thì gọi là Pháp Vô Ngại.

    2. Nghĩa Vô Ngại: Hiểu biết nghĩa lý của giáo pháp được giảng nhưng không vướng mắc vào đó.

    3. Từ Vô Ngại: Thông đạt rành rẽ các ngôn ngữ của từng địa phương.

    4. Nhạo Thuyết Vô Ngại: Dùng ba thứ trí trên để giảng nói theo ý muốn của chúng sanh một cách tự tại. Nhạo thuyết vô ngại còn gọi là Biện vô ngại: thuận theo chánh lý mà nói vô ngại.
Nhân dân trong cõi ấy do thành tựu hết thảy trí huệ nên đắc vô ngại biện tài, dùng tứ vô ngại biện tài để hoằng dương pháp yếu.

Câu "khéo bày các pháp bí yếu" là nguyện thứ ba mươi bốn.

"Bí" là bí áo, tức là điểm sâu xa, huyền diệu của pháp môn. Bí cũng có nghĩa là bí mật, tức là những điểm ẩn mật của pháp môn, chẳng thể chỉ bày cho người khác. Sách Pháp Hoa Văn Cú, quyển 5 giảng chữ "bí yếu" như sau: "Điều Phật canh cánh trong bốn mươi lăm năm, người khác chẳng hề biết là Bí. Đạo dẫn thẳng đến Nhất thừa nhiếp trọn các pháp môn khác gọi là Yếu" (Điều Phật canh cánh trong bốn mươi lăm năm đó: Khai, Thị, Ngộ, Nhập Tri Kiến Phật. Đạo dẫn đến Nhất thừa vắn tắt và dễ hành thâu trọn cả ba căn đó là pháp môn Trì Danh: Nam Mô A Di Đà Phật).

Trong Pháp Hoa Sớ, quyển 9, ngài Gia Tường lại giảng: "Do ngôn ngữ giản dị, tinh yếu nhưng chứa đựng trọn vẹn nghĩa lý nên bảo là Yếu. Trước đây vốn đã dấu kính chẳng truyền ra nên gọi là Bí".

Phẩm Pháp Sư, kinh Pháp Hoa có câu: "Kinh này là tạng bí yếu của chư Phật, chẳng thể lưu truyền, dạy bừa bải cho người khác".

Ngoài ra, Mật Tông còn được coi là Bí Mật Tông vì Mật pháp chính là tạng bí yếu của chư Phật, chẳng thể đem dạy cho người khác một cách khinh suất. Nay các vị Bồ tát cõi Cực Lạc "Khéo bày các pháp bí yếu" nghĩa là các vị khéo khai diễn hết thảy pháp bí yếu rất sâu dù hiển hay mật.

[Theo ngu ý của kẻ cẩn ghi đây thì câu Nam Mô A Di Đà Phật chính là pháp bí yếu, vì đó là Chân ngôn của Mật tông; là giáo ngoại biệt truyền của Thiền tông, là bí mật tạng của ba đời chư Phật. Chư Phật nhờ niệm Phật mà thành Phật. Chúng ta nay nhờ túc duyên thù thắng nên được nghe Vạn đức Hồng danh và nhờ tha lực của đức Bổn Sư cùng Từ phụ A Di Đà mà "tin ưa, phát tâm và nhất hướng chuyên niệm" với sự tận lực giáo hóa của chư Phật, Bồ tát, lịch đại Tổ sư, cũng các vị thạc đức của Liên tông dịch giảng cho chúng ta thấu tận nguồn cơn của Diệu pháp này].

"Hành đạo" là kinh hành. Vừa đi kinh hành vừa tụng kinh là pháp Thường Hành Tam Muội của Tông Thiên Thai.

"Chuông" là một trong những loại được gọi là "kiền chùy" trong tiếng Phạn. Chuông là pháp khí để nhóm chúng. Tiếng chuông lại có công đức thù thắng như kinh Tăng Nhất A Hàm dạy: "khi đánh chuông, hết thảy nỗi khổ trong ác đạo được ngừng nghỉ" (Nhược đả chung thời, nguyện nhất thế ác đạo, chư khổ giai đình chỉ). [Nhược đả chung thời ưng tiên niệm: Nguyện thử chung thinh siêu pháp giới. Thiết vi u ám tất giai văn. Văn trần thanh tịnh chứng viên thông. Nhất thế chúng sanh thành chánh giác]. Ngài Bách Trượng dạy: [Tòng lâm kích chung - Tảo kích phá trường dạ chí hôn trầm - Mộ kích bạt u minh chi khổ ám - Cố khằn khấu chung tu hoãn đãn - Linh thanh trường cữu - Tiên âm tương tận - Phương tục hậu âm.

Sách Phật Tổ Thống Kỷ cũng có chép: "Người lúc sắp chết nghe tiếng chuông, tiếng khánh thì chánh niệm được tăng thêm".

Câu "tiếng vang như chuông" ý nói thanh âm của người thuyết pháp như tiếng hồng chung trong trẻo, thánh thót, hùng hồn, liên tục vang xa, khua tan đêm dài tăm tối, đánh thức những kẻ đang mê mệt trong ngũ dục lạc, khiến họ tỉnh thức, phát sanh thiện tâm, ngừng tạo các ác nghiệp. Âm thanh thuyết pháp có công đức như tiếng chuông. Ngoài ra trên thân chuông còn khắc những chơn ngôn, kinh kệ Đại thừa. Gióng một tiếng chuông khác nào đọc lên hết thảy kinh pháp Hiển, Mật được ghi trên thân chuông. Dùng những điều đó để sánh với người thuyết pháp, trong mỗi một âm thanh đều hàm chứa vô biên diệu nghĩa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bốn Mươi Tám Đại Nguyện Của Phật A Di Đà

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chánh Kinh:

Ngã tác Phật thời, nhược hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, cứu cánh tất chí nhất sanh bổ xứ. Trừ kỳ bổn nguyện, vị chúng sanh cố, bị hoàng thệ khải, giáo hóa nhất thế hữu tình, giai phát tín tâm, tu Bồ đề hạnh, hành Phổ Hiền đạo. Tuy sanh tha phương thế giới, vĩnh ly ác thú, hoặc nhạo thuyết pháp, hoặc nhạo thính pháp, hoặc hiện thần túc, tùy ý tu tập, vô bất viên mãn. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh giác.

  • [Nhất sanh bổ xứ, tam thập ngũ nguyện. Giáo hóa tùy ý, tam thập lục nguyện].
Lúc tôi thành Phật, tất cả chúng sanh, sanh trong nước tôi rốt ráo ắt đạt bậc Nhất sanh bổ xứ, ngoại trừ (những người có) bổn nguyện vì chúng sanh mà mặc giáp hoằng thệ, hóa đạo hết thảy hữu tình khiến chúng đều phát tín tâm, tu Bồ đề hạnh, hành Phổ Hiền đạo. Tuy sanh trong thế giới phương khác, nhưng vĩnh viễn thoát khỏi đường ác, hoặc thích thuyết pháp, hoặc thích nghe pháp, hoặc hiện thần túc, tùy ý tu tập không gì chẳng viên mãn. Nếu chẳng được vậy chẳng giữ ngôi Chánh giác.
  • [Nguyện thứ ba mươi lăm: Nhất sanh bổ xứ. Nguyện thứ ba mươi sáu: Giáo hóa tùy ý].
Giải:

"Nhất sanh bổ xứ" tức là chỉ còn một đời nữa sẽ thành Phật, như hiện tại là ngài Di Lặc Đại sĩ đang ở một viện của cung trời Đâu Suất. Như kinh Pháp Hoa nói: "chỉ còn một đời nữa, sẽ đắc Nhất Thế Trí".

Sách Hội Sớ lại bảo: "Nhất sanh bổ xứ là một địa vị Đẳng giác. Do vẫn còn một phần vô minh (nói đủ là một phần Sanh tưởng Vô minh) chưa phá nên bảo là Nhất sanh. Thế lực của phẩm vô minh ấy lớn nhất. Dùng kim cang trí phá được cái tâm duy nhất còn lại sau cùng ấy thì liền đạt địa vị Diệu giác, nên gọi là Bổ xứ".

Nếu xét theo Mật giáo, thì "nhất" là lý Nhất Thật. Trong Mật tông, Sơ địa Bồ tát trước hết chứng đắc tịnh Bồ đề tâm, rồi từ cái lý Nhất Thật ấy xuất sanh vô tướng Tam muội tổng trì môn, dần dần đạt đến địa vị Thập Địa (Thập địa trong Mật giáo khác với Thập địa trong Hiển giáo). Lại có địa vị thứ mười một là Phật địa. Do trong đời kế tiếp sẽ thành Phật nên gọi là Nhất sanh Bổ xứ.

Đàm Loan đại sư lại nghĩ rất có thể là Bồ tát cõi Cực Lạc chẳng lần lượt đạt từng địa vị mà chứng ngay địa vị Nhất sanh Bổ xứ: "Cứ theo kinh này mà suy thì rất có thể Bồ tát cõi ấy chẳng từ địa vị này, đạt đến địa vị kia. Thứ tự Thập địa của Bồ tát chỉ là do Thích Ca Như Lai ứng theo căn cơ cõi Diêm Phù Đề mà dạy thế vậy thôi. Tịnh Độ phương khác không bắt buộc phải giống vậy". Thuyết của ngài Đàm Loan đã thể hiện sâu xa sự viên giải tu của Bồ tát cõi Cực Lạc. Một địa vị chính là hết thảy địa vị. Do đó, người sanh về cõi Cực Lạc đều được bất thoái chuyển nhanh chóng vượt khỏi các địa vị, chứng trọn vẹn địa vị Bổ xứ. Điều này thể hiện Phật Di Đà đại nguyện sâu xa, diệu đức khó lường.

Kế đó là nguyện thứ ba mươi sáu: "giáo hóa tùy ý".

Mỗi một vị Bồ tát trên đường tu chứng Phật quả, đều có những lời thệ nguyện, chẳng hạn như có thệ nguyện mặc giáo hoằng thệ, trở vào uế độ phổ lợi quần sanh, giáo hóa hữu tình thì họ sẽ được nguyện lực của Phật Di Đà gia trì để tùy ý giáo hóa, không điều gì chẳng được viên mãn. Đây chính là ý nghĩa của nguyện ba mươi sáu.

Bồ tát vào trong sanh tử hàng phục ma quân thì lấy thệ nguyện sâu rộng của mình làm giáp trụ. Do cái tâm hoằng thệ cứng rắn hơn sắt đá nên có thể dùng tâm ấy xông vào trận sanh tử. Với những kẻ được giáo hóa, kinh nói: "đều khiến họ phát tín tâm", vì tín tâm là nguồn đạo, là mẹ của công đức vậy.

Kinh A Di Đà Tiểu Bổn nói: "Vì các chúng sanh nói pháp hết thảy thế gian khó tin nổi nầy". Đó là vì pháp môn Tịnh Độ là pháp môn mà chúng sanh cõi Ta Bà khó tin tưởng được nổi. Kinh Tiểu Bổn còn chép: "Chúng sanh nên tin kinh khen ngợi công đức thù thắng chẳng thể nghĩ bàn, được hết thảy chư Phật hộ niệm này". Và, "Các ông đều nên tin nhận lời ta và lời chư Phật nói". Do đó, các bậc đại sĩ ở cõi Cực Lạc khi hoằng hóa trong thập phương đều lấy việc phát khởi lòng tin làm đầu.

Câu "tu Bồ đề hạnh, gồm hai ý trọng yếu: phát Bồ đề tâm và chuyên niệm. Tu Bồ đề đại hạnh ắt phải do phát khởi Bồ đề đại tâm, mà trong Bồ đề hạnh thì nhất hướng chuyên niệm là quan trọng nhất. Các vị Bồ tát ở trong Thập địa dù ở địa vị nào vẫn chẳng hề rời bỏ việc niệm Phật.

Phổ Hiền Bồ tát là bậc nhất trong các vị đại hạnh Bồ tát, nên phải giáo hóa hết thảy chúng sanh hữu tình tu Phổ Hiền đạo.

Khuê Phong đại sư giảng chữ Phổ Hiền như sau: "Một là xét trên sự thể: thể tánh trọn khắp là Phổ, tùy duyên thành đức là Hiền. Hai là xét trong các địa vị thì khắp trọn cả không bỏ sót là Phổ, gần bằng với bậc Đại Thánh (Phật) là Hiền. Ba là xét về đương vị: đức không gì chẳng trọn là Phổ, điều phục, hòa nhã, thiện thuận là Hiền". Vì vậy, trong kinh này, các vị đại Bồ tát cùng đến tham dự Pháp hội đều tuân tu đức hạnh của Phổ Hiền đại sĩ. Phổ Hiền Đức chính là mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc, là đức tự lợi, lợi tha chẳng có cùng tận. Đại sĩ cõi Cực Lạc chính mình đã tu hành Phổ Hiền hạnh đức lại còn dạy chúng sanh cõi khác cùng thực hành Phổ Hiền đạo.

Các vị Đại sĩ của cõi Cực Lạc mặc giáp hoằng thệ vào biển sanh tử, hiện thân trong uế độ để giáo hóa chúng sanh: "tuy sanh trong mười phương thế giới" nhưng được nguyện lực của Phật Di Đà gia trì nên "vĩnh viễn thoát khỏi ác đạo". Chúng sanh được họ giáo hóa cũng đều chí tâm tin ưa, cầu sanh Tịnh Độ, phát Bồ đề tâm, một hướng chuyên niệm.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bốn Mươi Tám Đại Nguyện Của Phật A Di Đà

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chánh Kinh:

Ngã tác Phật thời, sanh ngã quốc giả sở tu ẩm thực, y phục, chúng chúng cúng cụ, tùy ý tức chí, vô bất mãn nguyện. Thập phương chư Phật ứng niệm thọ kỳ cúng dường. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh giác.

  • [Y thực tự chí, tam thập thất nguyện. Ứng niệm thọ cúng, tam thập bát nguyện].
Lúc tôi thành Phật, người sanh trong nước tôi, tất cả thức ăn, y phục, các thứ vật cúng, nghĩ tới liền có, không điều gì chẳng được mãn nguyện. Mười phương chư Phật ứng niệm nhận lấy sự cũng dường của người ấy. Nếu chẳng được vậy chẳng giữ Chánh giác.
  • [Nguyện thứ ba mươi bảy: Y thực tự đến. Nguyện thứ ba mươi tám: Ứng niệm thọ cúng].
Giải:

Nguyện thứ ba mươi bảy: "Y thực tự đến". Vì sao Phật lại phát ra lời nguyện này? Vì ngài thấy trong các cõi, con người khổ sở muôn bề vì cái ăn, cái mặc, bốn mùa chẳng được yên ổn, cả một đời nhọc nhằn tham cầu. Cấy một cây lúa xuống là vùi chết biết bao chúng sanh, trong vạc đun vô lượng kén tằm, cứ thế mà chìm đắm mãi không biết đâu là bến bờ, chịu khổ vô cùng. Vì vậy, Phật nguyện rằng Thánh chúng trong cõi của ngài, cơm, áo, nhà cửa tùy ý hiện ra trước mặt. Áo mặc, cơm ăn đều là pháp để trợ đạo.

"Các thứ vật cúng" là hoa hương, tràng phan, lọng báu, chuỗi ngọc, thiên nhạc v.v... hết thảy vô lượng vô biên các thứ vật dụng thù thắng dùng để cúng dường chư Phật đều tùy ý hiện đến.

Nguyện thứ ba mươi tám: "Ứng niệm thọ cúng".

Bản Tống dịch ghi nguyện này như sau: "Tất cả Bồ tát phát đại đạo tâm muốn dùng chơn châu, anh lạc, lọng báu, tràng phan, y phục, ngọa cụ, thức ăn, thuốc men, hương hoa kỷ nhạc... để thừa sự, cúng dường vô lượng vô biên chư Phật trong thế giới phương khác mà chẳng qua được chỗ các ngài thì ta ngay trong khi ấy khiến cho các đức Phật đó đều duỗi cánh tay đến tận cõi ta, nhận lấy sự cúng dường ấy, khiến cho các vị Bồ tát ấy mau chứng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề". Lời nguyện trong bản Tống dịch này đã thể hiện sâu xa thần lực của Phật. Còn bản Ngụy dịch ghi rằng: "Trong khoảng khởi lên một niệm, cúng dường vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn chư Phật mà chẳng mất định ý". Đây là nói về tự lực của các vị Bồ tát ở cõi Cực Lạc. Như vậy, nhân dân cõi Cực Lạc hoặc do Phật lực gia trì, hoặc do tự lực viên mãn đều có thể tùy lòng nghĩ tưởng cúng dường chư Phật trong mười phương.

Câu "Thập phương chư Phật ứng niệm nhận lấy sự cúng dường của người ấy", đã hiển thị sâu xa ý nghĩa Phật và chúng sanh bất nhị, cảm ứng đạo giao, ý niệm cúng Phật vừa khởi lên, chư Phật đã nhận lấy rồi. Đốn tu, đốn chứng, nhân quả đồng thời.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bốn Mươi Tám Đại Nguyện Của Phật A Di Đà

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chánh Kinh:

Ngã tác Phật thời, quốc trung vạn vật, nghiêm tịnh, quang lệ, hình sắc thù đặc, cùng vi cực diệu, vô năng xứng lượng, kỳ chư chúng sanh, tuy cụ thiên nhãn, hữu năng hiện kỳ hình sắc, quang tướng, danh số, cập tổng tuyên thuyết giả, bất thủ Chánh giác.

  • [Trang nghiêm vô tận, tam thập cửu nguyện].
Lúc tôi thành Phật, vạn vật trong nước nghiêm tịnh, quang lệ, hình sắc thù đặc, cùng vi cực diệu, chẳng thể tính kể. Các chúng sanh tuy có thiên nhãn mà có thể phân biệt được hình sắc, quang tướng, danh số và nói tổng quát được (những sự trang nghiêm ấy), thì chẳng giữ Chánh giác.
  • [Nguyện ba mươi chín: Trang nghiêm vô lượng].
Giải:

Từ nguyện thứ ba mươi chín đến bốn mươi ba là những nguyện nói về công đức của cõi Phật.

Nguyện thứ ba mươi chín là nguyện: "Trang nghiêm vô lượng".

Sách Hội Sớ giảng nguyện này như sau: "Nghiêm là trang nghiêm, tịnh là thanh tịnh. Quang là quang minh, lệ là hoa lệ. Nghiêm tịnh là thể không nhơ, quang lệ là hình tướng đặc biệt lạ lùng. Dài, ngắn, vuông, tròn, lớn, nhỏ v.v... là Hình. Xanh, đỏ, trắng, đen, đậm, nhạt là Sắc. Chẳng phải là thứ thế gian có được, nên bảo là thù đặc". Nghĩa là thể của vạn vật chẳng cấu nhiễm nên bảo là nghiêm tịnh. Hình tướng quang minh lỳ lạ, đẹp rực rỡ nên bảo là quang lệ. Những thể hình sắc đó chẳng phải là thứ thế gian có nên bảo là hình sắc thù đặc.

Vả lại, hết thảy hình tướng là do tâm thanh tịnh hiện ra, do công đức vô lậu của Phật biến hiện, nên tướng của chúng là vô lậu. Mỗi hình tướng đều viên minh cụ đức, mỗi thứ đều viên viên quá hải (chữ "viên viên quá hải" là lấy từ sách Hiển Mật Viên Thông, có nghĩa là biển vô thượng viên mãn thánh giác quả đức), thể của chúng là Thật tướng: có tướng nhưng vô tướng, vô tướng nhưng là tướng. Vì vậy, bảo là "cực diệu".

Sách Hội Sớ giảng tiếp rằng: "Rộng hẹp dung nhập lẫn nhau nên bảo là chẳng thể tính kể". Ý nói: Cực Lạc thế giới hiển thị trọn vẹn sự sự vô ngại pháp giới, một tức là nhiều, nhiều tức là một, lớn nhỏ chứa đựng lẫn nhau, rộng vào trong hẹp, hẹp vào trong rộng, trùng trùng vô tận, vượt khỏi khả năng nhận thức của tâm tưởng, kiến giải và khả năng diễn tả của ngôn ngữ. Vì vậy bảo là "chẳng tính kể nổi". Chỉ có Phật với Phật mới hiểu thấu suốt Cực Lạc Tịnh Độ.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Google [Bot]36 khách