Tỳ Kheo Thích Duy Lực
Dịch và Lược Giải
--- o0o ---
Phẩm Hộ Pháp Thứ Chín
1) Ðạo do tâm ngộ chẳng tại tọa. Kinh nói Nếu nói Như Lai có nằm có ngồi, ấy là kẻ hành tà đạo.Ngày rằm tháng giêng niên hiệu Thần Long nguyên niên, vua Trung Tôn và Võ Tắc Thiên ban chiếu rằng: Trẫm mời An Quốc Sư và Thần Tú Thiền Sư hai vị vào cung cúng dường, thừa lúc muôn việc nhàn rảnh để nghiên cứu đạo nhất thừa.
Hai Sư khiêm nhượng rằng: Ở miền Nam có Huệ Năng Thiền Sư được Ngũ Tổ mật phó y pháp, truyền Phật tâm ấn, xin mời Sư đến để hỏi.
Nay sai nội thị Tiết Giản lãnh chiếu đến rước thỉnh, nguyện Sư từ bi thương xót, mau đến kinh thành.
Sư dâng biểu cáo bệnh khước từ và xin được trọn đời ở trong núi rừng.
Tiết Giản hỏi: Các thiền đức nơi kinh thành đều nói là muốn được ngộ đạo phải ngồi thiền tập định, nếu không nhờ thiền định mà mong được giải thoát thì chưa hề có vậy. Chưa biết cách dạy bảo của sư như thế nào?
Sư nói:1) Ðạo do tâm ngộ chẳng tại tọa. Kinh nói Nếu nói Như Lai có nằm có ngồi, ấy là kẻ hành tà đạo. Tại sao vậy? 2) Vì tự tánh chẳng có chỗ đến, cũng chẳng có chỗ đi,3) chẳng sanh chẳng diệt, gọi là Như Lai Thanh Tịnh Thiền.4) Chư pháp không-tịch là Như Lai Thanh Tịnh Tọa,5) cứu cánh chẳng có một pháp để chứng đắc, huống chi là ngồi!
Tiết Giản nói: Ðệ tử về Kinh, Hoàng Ðế ắt hỏi, xin Sư từ bi chỉ thị tâm yếu, để về triều đình tâu lại hai vua và người học đạo ở kinh thành, thí như một ngọn đèn mồi cho trăm ngàn ngọn, khiến kẻ tối đều sáng, dùng sáng truyền sáng, sáng mãi chẳng hết.
Sư nói: Ðạo chẳng sáng tối, 6) sáng tối là nghiã sanh diệt. Sáng mãi chẳng hết, cũng phải có lúc hết, vì sáng tối là đối đãi lập danh, nên Kinh Duy Ma Cật nói: Pháp chẳng thể so sánh, vì chẳng đối đãi vậy.
Tiết Giản nói: Sáng dụ cho trí huệ, tối dụ cho phiền não,7) người tu đạo nếu không lấy trí huệ để chiếu phá phiền não thì cái sanh tử đã từ vô thỉ, dựa vào đâu để ra khỏi?
Sư nói: Phiền não tức Bồ đề, chẳng hai chẳng khác. Nếu nói lấy trí huệ để chiếu phá phiền não, ấy là kiến giải của kẻ nhị thừa, người đại căn thượng trí thì chẳng như vậy.
Hỏi: Thế nào là kiến giải của người đại thừa?
Sư nói:8) Sáng với chẳng sáng, phàm phu thấy có nhị, người trí liễu đạt tánh ấy bất nhị, tánh bất nhị tức là thật tánh vậy. Thật tánh ở nơi phàm ngu mà chẳng bớt, nơi thánh hiền mà chẳng thêm; trụ nơi phiền não mà chẳng loạn, ngay nơi thiền định mà chẳng tịch, chẳng đoạn chẳng thường, chẳng đi chẳng đến, chẳng phải ở giữa, cũng chẳng bên trong bên ngoài, chẳng sanh chẳng diệt, tánh tướng như như, thường trụ chẳng biến đổi, ấy gọi là đạo.
Hỏi: Sư nói chẳng sanh chẳng diệt, vậy đâu khác với ngoại đạo!
Ðáp: Ngoại đạo nói chẳng sanh chẳng diệt, là dùng diệt để dẹp sanh, dùng sanh để tỏ diệt, sanh nơi chẳng sanh, diệt nơi chẳng diệt. Ta thuyết chẳng sanh chẳng diệt là: tự vốn chẳng sanh, nay cũng chẳng diệt, cho nên khác với ngoại đạo. Nếu ngươi muốn biết tâm yếu, nên đối với các pháp thiện ác đều chớ suy lường, tự nhiên được tâm thể thanh tịnh, trạm nhiên thường tịch, diệu dụng hằng sa.
Tiết Giản được chỉ dạy, hoát nhiên đại ngộ, lễ bái từ giã về kinh, dâng biểu tâu thuật lại lời nói của Sư.
Bỡi vì ỡ trong công tâm của chúng ta chính là đạo, công tâm tâm tức là tâm bình đẳng, từ mặt tư tưởng cho đến hành vi, đời sống hàng ngày đều ỡ trong ý nghĩa của đạo.
Ví dụ: như cơ thể con người ta đến lúc bệnh, hoạc quá mệt mổi cũng đều nằm trong ý nghĩa của đạo.
Ví dụ: một cuộc sống thiếu quân bình sanh ra bệnh trong cơ thể, ấy là do chưa hành đủ ý nghĩa của bình đẳng, hoạc quân bình, do ăn chơi, hoạc ham muốn, thù hận, v,v,v, dù là ỡ kiếp nào cũng vậy, không ngoại đệ trong quá khứ, hiện tại dị lại.
Ví dụ: ngay cả nhưng bật tu hành thuyết pháp, nếu pháp thuyết ra thiếu bình đẳng cũng là một thứ bệnh, bỡi vì pháp là do tư tưỡng con người mà thuyết ra, khi tư tưởng sanh ra thiếu bình đẳng, thì ngay cả cơ thể của họ cũng phải mắc một cái bệnh gì sễ phát ra, khi nó chưa thấy là do chưa đủ tích tụ đến lúc phát bọc ra mà thôi, nhưng khi nhân, duyên, đến hội đủ rồi thì sẽ hiện ra trên cơ thể thôi, ấy gọi là bệnh. Bỡi vì thần kinh điều khiễn cơ thể, nhưng tư tưởng điều khiễn thân kinh, nhưng khi tư tưởng xấu, thì thần kinh sễ xấu theo, chính vì vậy sễ khiến cho thần kinh chỉ huy cơ thể không được đều đặng ấy là sễ phất ra bệnh.
2) Vì tự tánh chẳng có chỗ đến, cũng chẳng có chỗ đi. tức là khi tự tánh mình chẳng có sanh ra việc gì thì làm sao có chổ đến và có chổ đi? nếu nói có là do tâm sanh.
3) chẳng sanh chẳng diệt, gọi là Như Lai Thanh Tịnh Thiền, tức là khi biết mội sự việc, mà tự tánh chẳng có sanh, cho nên cũng chăng có diệt. cũng chỉ là cái biết thôi.
4) Chư pháp không-tịch là Như Lai Thanh Tịnh Tọa,tức là biết rồi mà chẳng lấy chẳng bỏ, nếu có lấy thì chẳng được thanh tịnh, nếu có bỏ thì cũng thanh tịnh.
Thưa quý vị câu số 4 cần phải bổ sung thêm, vì nó rất dể khiến cho người ta hiểu sai ý trong kinh và lời giải.
Bỡi vì chư pháp không-tịch ý nghĩa rất rọng.
A) chư pháp không-tịch, A1) tức là pháp vốn là vô biên, A2) và cũng là pháp vốn là hư không, A3) và cũng là pháp vốn là thanh tịnh.
A1) Chư pháp không-tịch,tức là pháp vốn lvô biên, bỡi vì chư pháp là do con người mà tạo ra, nếu chẳng có trí Bát Nhã, thì chẳng có chư pháp.
A2) Chư pháp không-tịch, cũng là pháp vốn thanh tịnh.,và cũng là pháp vốn là hư không, bỡi vì khi chư pháp sẳng đã có mà chẳng có ai sữ dụng đến, thì đồng như hư không vậy.
A3) Chư pháp không-tịch, cũng là pháp vốn thanh tịnh. chư pháp nó cũng như là các luật Vũ Trụ vậy, nhưng nó ỡ trong không gian, không ai lấy được và cũng không ai bỏ được.
Nhưng tại sao người ta không gọi nó là pháp tướng, mà phải gọi là chư pháp? bỡi vì pháp tướng khác với chổ chư pháp là do pháp tướng có hai mặt, nó có mặt đúng và mặt sai.
Nhưng ý nghĩa pháp tướng tức là các sự vật trong thời gian và không gian bao gòm tất cả. Nhưng ý nghĩa trong pháp tướng không có cố định đúng hoạc sai, vì nó chỉ đại diện cho các sự vật thôi.
Nhưng chư pháp thì có sự cố định, vì nó là định luật bình đẳng như Phật nói vậy., mà cũng chẳng có kể thọ dụng, nhưng cũng chẳng có kể không thọ dụng, dây là pháp trong Nét Bàn.
Thật ra Chư pháp không-tịch ngay trong con người cũng có, nhưng nó chỉ ỡ trong lòng cũng nhưng các bật đã kiến tánh thành Phật mới có sự cố định này, nếu nói có cố định ỡ trong lòng con người nó cũng chỉ là tạm lập thôi, bỡi vì khi các bật đã kiến tánh rồi khi sự dụng chư pháp cũng còn tùy thuộc người sữ dụng ấy nữa.
Ví dụ:Một bật kiến tánh như Phật Tổ trong câu chuyện Tây Du Ký, khi Phật Tổ sự dụng chư pháp để hàng phục tôn ngộ không trong ngũ tữ sơn, nếu nói về luật nhân quả, thì Phật Tổ không thể khóa Tôn Ngộ Không trong nuối, thay vì cứ để cho Ngộ không tự lảnh cái luật nhân quả, vậy khi người đời thấy như vậy và dựa vào cái pháp nhân quả của nhà Phật mà nói, thì người ta cho là Phật Tổ không sự dụng đúng trong ý nghĩa Chư Pháp, nhưng nó là nhình mặt bề ngoài của Phật Tổ thôi, nhưng nếu nói đến trong lòng của Phật Tổ thì có ai biết đâu, chỉ có các Bật Tổ mật truyền Mật mới biết thôi, vậy thì người đời thấy cho là sai, lý do cho là không hành đúng như luật nhân quả, vì vậy Lục Tổ mới nói đạo cần phải đinh động, cho nên cuối cùng Ngộ không sễ gập Phật Tổ, nó chính là Phật Tổ đang sữ dụng chư pháp một cách đúng.
Nhưng thật ra ngay trong con người phàm cũng có chư pháp, chư pháp chính là cái công tâm bình đẳng, nhưng cái chư pháp ấy không được cố định, bời vì người phàm có lúc con mê muội, cho nên không thể nói một cách chắt chắn con người ai cũng có chư pháp là vậy.
5) cứu cánh chẳng có một pháp để chứng đắc, huống chi là ngồi, vậy thì vốn như hư không thì làm sao có một pháp để chứng đắc, huống chi là ngồi.
6) sáng tối là nghiã sanh diệt, tại sao vậy, bỡi vì nếu thí như một ngọn đèn mồi cho trăm ngàn ngọn, khiến kẻ tối đều sáng, dùng sáng truyền sáng, sáng mãi chẳng hết.
Bỡi vì sai là do ỡ chính mình trong lòng có sanh, khi lòng mình sanh ra sự ham muốn, muốn người ta được sáng, nó chính là do mình có tâm sanh, khiến cho lục căn không được thanh tịnh, và người khác cũng không được thanh tịnh luôn, nhưng khi tâm ta được giác ngộ, thì cái ý niệm sáng ấy sễ không còn nữa, ấy là pháp tánh tự sanh tự diệt, ấy là do liểu ngộ được cái pháp tánh sáng ấy chính là cái sanh diệt, cho nên tự tiêu là vậy. nó cũng nằm trong các vấn đề phóng sanh ngày nay, và các người kiêu người ta niệm Phật lớn tiếng, và lạy Phật, v,v,v, cho là mười phương công đức, ấy chính là sanh diệt mê chấp vọng tưởng.
7) người tu đạo nếu không lấy trí huệ để chiếu phá phiền não thì cái sanh tử đã từ vô thỉ, dựa vào đâu để ra khỏi? đây là Lục Tổ muốn nói đến tìm cái đều mối sanh tữ, nó chính là tìm ỡ trong lòng ta đó. Ấy là tâm sanh mội pháp sanh, tâm diệt mội pháp diệt.
8) Sáng với chẳng sáng, phàm phu thấy có nhị, người trí liễu đạt tánh ấy bất nhị, tánh bất nhị tức là thật tánh vậy. Thật tánh ở nơi phàm ngu mà chẳng bớt, nơi thánh hiền mà chẳng thêm; trụ nơi phiền não mà chẳng loạn, ngay nơi thiền định mà chẳng tịch, chẳng đoạn chẳng thường, chẳng đi chẳng đến, chẳng phải ở giữa, cũng chẳng bên trong bên ngoài, chẳng sanh chẳng diệt, tánh tướng như như, thường trụ chẳng biến đổi, ấy gọi là đạo.
Quý vị lời giải trong câu số 8 này, 7 câu giải đáp như trên đã có nói rất rõ rồi, nhưng phải chú ý nên câu này nhé (thường trụ chẳng biến đổi, ấy gọi là đạo.) thường này đang nói, là nói về cái sự hiện hữu của mình, chứ không phải thường trụ pháp nhé, kẻo hiểu lầm nhé, cái thường trụ này chính là đang nói đến sự hiện hữu tánh tướng như như.
Lời chia sễ của Cường trong Phẩm Hộ Pháp Thứ Chín còn tiếp theo phần 2.
Cường Nam AO SEN.